Quản lý rủi ro các dự án đầu tư tại Ngân hàng Công thương Chi nhánh Thanh Xuân Hà Nội

LỜI MỞ ĐẦU Trong bối cảnh Việt Nam đang thực sự hòa nhập vào nền kinh tế thế giới bằng việc trở thành thành viên chính thức thứ 150 của tổ chức thương mại thế giới WTO, vị thế của nước ta tiếp tục được khẳng định, nâng cao trên trường quốc tế. Điều này đem lại nhiều cơ hội thuận lợi cho nền kinh tế Việt Nam. Bên cạnh đó là những thách thức không nhỏ buộc chúng ta phải nỗ lực hết mình để có thể vượt qua những khó khăn trong bước đầu hội nhập. Chính trong thời điểm này, thời kỳ khủng hoảng trầm t

doc111 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1388 | Lượt tải: 2download
Tóm tắt tài liệu Quản lý rủi ro các dự án đầu tư tại Ngân hàng Công thương Chi nhánh Thanh Xuân Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
rọng của nền kinh tế toàn cầu nói chung và của nền kinh tế Việt Nam nói riêng đòi hỏi tất cả các doanh nghiệp, các thành phần kinh tế đều phải có những kế hoạch, định hướng phát triển phù hợp với yêu cầu của thời đại mới. Cùng với sự phát triển của nền kinh tế, hoạt động đầu tư đặc biệt được quan tâm. Hiện nay, để phát triển các doanh nghiệp đã và đang tiến hành rất nhiều dự án đầu tư. Tuy nhiên, các dự án đầu tư thường đòi hỏi vốn lớn và thời gian thực hiện lâu dài nên hầu hết các doanh nghiệp khi tiến hành đầu tư thực hiện các dự án đều không thể tự tài trợ toàn bộ vốn cho một dự án. Một trong những biện pháp quan trọng là đi vay vốn tại các ngân hàng. Khi nền kinh tế phát triển thì vai trò của các ngân hàng thương mại là rất quan trọng trong việc việc đảm bảo cho hoạt động lưu thông tiền tệ được thông suốt, đáp ứng kịp thời yêu cầu về vốn cho nền kinh tế nói chung và cho hoạt động đầu tư nói riêng. Đối với ngân hàng thương mại, nghiệp vụ mang lại lợi nhuận chủ yếu là hoạt động cho vay. Phương châm hoạt động của các ngân hàng là an toàn – chất lượng – hiệu quả và tăng trưởng bền vững. Nhưng một đặc trưng của các dự án đầu tư là luôn chứa đựng các yếu tố rủi ro. Khi rủi ro xảy ra, không chỉ dự án bị ảnh hưởng mà ngân hàng và xã hội cũng sẽ gặp nhiều tổn thất. Trước thực tế đó, để nâng cao chất lượng hoạt động tín dụng và đảm bảo an toàn về vốn cho mình, công tác quản lý rủi ro các dự án đầu tư được cho vay vốn là vô cùng quan trọng đối với các ngân hàng. Nhận thấy tầm quan trọng của công tác quản lý rủi ro các dự án đầu tư được cho vay vốn đối với ngân hàng thương mại, trong quá trình thực tập tại Ngân hàng công thương Chi nhánh Thanh Xuân – Hà Nội, em đã nghiên cứu đề tài: “ Quản lý rủi ro các dự án đầu tư tại Ngân hàng Công thương Chi nhánh Thanh Xuân Hà Nội.” Chuyên đề gồm 3 chương: Chương I: Một số vấn đề lý luận cơ bản về rủi ro và quản lý rủi ro. Chương II: Thực trạng hoạt động quản lý rủi ro các dự án đầu tư tại Ngân hàng công thương Chi nhánh Thanh Xuân Hà Nội. Chương III: Một số kiến nghị và giải pháp nhằm nâng cao khả năng quản lý rủi ro các dự án đầu tư với Ngân hàng công thương chi nhánh Thanh Xuân Hà Nội. Do hạn chế về mặt thời gian cũng như kinh nghiệm và trình độ nên bài viết còn nhiều thiếu sót. Vì vậy, em rất mong được sự góp ý chân thành của các thầy cô giáo, các cô chú, anh chị trong Khách hàng doanh nghiệp và phòng Quản lý rủi ro và nợ có vấn đề – Ngân hàng công thương Chi nhánh Thanh Xuân Hà Nội để bài viết hoàn chỉnh hơn. Em xin chân thành cảm ơn Thạc sỹ Nguyễn Thị Thu Hà, các cô chú và anh chị trong phòng Khách hàng doanh nghiệp và phòng Quản lý rủi ro và nợ có vấn đề – Ngân hàng công thương Chi nhánh Thanh Xuân Hà Nội đã tận tình giúp đỡ, hướng dẫn em trong thời gian qua để em hoàn thành bài viết này. Sinh viên thực hiện Nguyễn Thị Ngọc Yến CHƯƠNG I MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ RỦI RO VÀ QUẢN LÝ RỦI RO Rủi ro đối với các dự án đầu tư. Dự án đầu tư có đặc trưng là: Có sự tham gia của nhiều bên như: Chủ đầu tư, nhà thầu, cơ quan cung cấp dịch vụ trong đầu tư, cơ quan quản lý nhà nước. Môi trường hoạt động của dự án là: “va chạm”, có sự tương tác phức tạp giữa dự án này với dự án khác, giữa bộ phận quản lý này với bộ phận quản lý khác. Dự án có tính chất bất định và rủi ro cao, do đặc điểm mang tính chất dài hạn của hoạt động đầu tư phát triển. Những đặc trưng trên cho thấy hoạt động đầu tư vào các dự án luôn chứa đựng rất nhiều rủi ro ở tất cả các giai đoạn của dự án là pha lập dự án (rủi ro bên trong và rủi ro bên ngoài), pha thực hiện đầu tư, pha vạn hành khai thác dự án. Một dự án đầu tư có thể gặp những rủi ro sau: Một dự án đầu tư có thể gặp rất nhiều rủi ro khác nhau. Nhưng nhìn chung, có thể liệt kê một số vấn đề sau : Thời gian thực hiện dự án lâu hơn dự kiến ( do chậm giải phóng mặt bằng, do không huy động đủ vốn, do mua thiết bị không đúng chủng loại, tiến độ đấu thầu bị kéo dài…) Xảy ra khó khăn không lường trước ( Ví dụ: Dịch cúm vi rút H5N1 xảy ra làm khách du lịch đến Việt Nam giảm đáng kể. Rất nhiều chương trình làm việc của các doanh nghiệp bị phá vỡ do đối tác nước ngoài không đến, các dự án hoạt động khó khăn). Xảy ra các sự kiện bất ngờ ( Một trận hỏa hoạn đã xảy ra và làm cháy một thiết bị quan trọng và khó kiếm. Do đó tất cả các hoạt động của dự án liên quan đến thiết bị này đều phải hủy bỏ). Xảy ra những biến động ngắn hạn và áp lực cạnh tranh sẽ gây biến động hoạt động chung ( Dự án sản xuất sữa đang chuẩn bị và được đưa vào sản suất thì có tin đồn là trong sữa có chứa hàm lượng chất gây hại melalin. Mặc dù tin đồn này đã được đính chính lại nhưng cũng gây tâm lý hoang mang cho người tiêu dùng một thời gian. Điều này đã làm ảnh hưởng tới kế hoạch của dự án.) Sự phối hợp giữa các bộ phận liên quan rất lỏng lẻo.( thị trường đã xác định, sản xuất đã tăng công suất, trong khi mạng lưới phân phối vẫn chưa hình thành). Rủi ro tín dụng. Khái niệm rủi ro tín dụng. Ngân hàng thương mại là loại doanh nghiệp kinh doanh hàng hóa đặc biệt – hàng hóa tiền tệ. Hoạt động của ngân hàng luôn tiềm ẩn những yếu tố rủi ro. Rủi ro là yếu tố không thể tránh khỏi, là bạn đường trong kinh doanh, có thể đề phòng, hạn chế, chứ không thể loại trừ. Đặc biệt là đối với hoạt động cho vay các dự án đầu tư càng chứa đựng nhiều rủi ro hơn, bởi bản thân các dự án đầu tư như trên đã nói vốn đã chứa đựng rất nhiều rủi ro. Đối với loại rủi ro khi cho các dự án đầu tư vay vốn ngân hàng đã giành riêng cho một tên gọi là “rủi ro tín dụng”. Theo Quyết định 493/2005/QĐ-NHNN của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước ngày 22/4/2005: “ Rủi ro tín dụng trong hoạt động ngân hàng của tổ chức tín dụng là khả năng xảy ra tổn thất trong hoạt động ngân hàng của tổ chức tín dụng do khách hàng không thực hiện hoặc không có khả năng thực hiện nghĩa vụ của mình theo cam kết.” Theo giáo trình Ngân hàng thương mại của PGS.TS. Phan Thị Thu Hà: “ Rủi ro tín dụng là khả năng xảy ra những tổn thất ngoài dự kiến cho ngân hàng do khách hàng vay không trả đúng hạn, không trả hoặc không trả đầy đủ vốn và lãi.” Rủi ro tín dụng gắn với hoạt động quan trọng nhất của ngân hàng, có quy mô lớn nhất của ngân hàng thương mại đó là hoạt động tín dụng. Khi thực hiện một hoạt động tài trợ cho các dự án đầu tư, ngân hàng luôn cố gắng phân tích các yếu tố của người vay, của dự án sao cho độ an toàn cao nhất. Và nhìn chung ngân hàng chỉ quyết định cho vay khi thấy an toàn. Tuy nhiên, không một nhà kinh doanh ngân hàng tài ba nào có thể dự đoán chính xác tất cả các vấn đề có thể xảy ra. Khả năng hoàn trả tiền vay của khách hàng có thể bị thay đổi do nhiều nguyên nhân. Một số nhóm nguyên nhân có thể đưa ra ở đây là : Các nguyên nhân rủi ro tín dụng: Những nguyên nhân từ các nhân tố vĩ mô: Môi trường chính trị: rủi ro này bao gồm các bất ổn tài chính và bất ổn chính trị. Có thể liệt kê một số rủi ro chính trị chính sau đây: Rủi ro thuế: Sự thay đổi về thuế đã làm cho dòng tiền hàng năm của dự án bị thay đổi từ đó NPV và IRR của các dự án bị thay đổi theo, nguồn trả nợ của dự án từ đó cũng bị ảnh hưởng. Hạn ngạch, thuế quan hoặc các giới hạn thương mại khác làm giảm sản lượng hoặc tăng chi phí của các dự án. Ví dụ: thuế nhập khẩu thép tăng lên làm tăng chi phí nguyên vật liệu cho việc xây dựng cơ sở hạ tầng của dự án. Chính sách tuyển dụng lao động: những thay đổi về quản lý và tuyển dụng lao động như thay đổi quy định về mức lương tối thiểu, chính sách với lao động nữ, hạn chế lao động nước ngoài … đều ảnh hưởng tới hiệu quả của dự án đầu tư cũng như năng trả nợ của dự án. Kiểm soát ngoại hối: hạn chế chuyển tiền ra nước ngoài ảnh hưởng tới hoạt động cung ứng hoặc tiêu thụ sản phẩm của dự án cũng như quyền lợi của các nhà đầu tư. Lãi suất: Khi chính phủ đưa ra chính sách lãi suất để kiểm soát lạm phát có thể làm cho hoạt động đầu tư tăng lên hoặc giảm đi. Độc quyền: Sự độc quyền kinh doanh của Nhà nước ở một số lĩnh vực có thể làm hạn chế đầu tư vào các bộ phận khác trong xã hội và thường dẫn đến sự kém hiệu quả trong đầu tư. Môi trường, sức khỏe và an toàn: những quy định liên quan đến kiểm soát chất thải, quy trình sản xuất để bảo vệ sức khỏe cộng đồng có thể làm hạn chế nhiều dự án cũng như làm tăng chi phí của các dự án. Quốc hữu hóa. VD năm 2007 ở Cuba đã đưa ra việc quốc hữu hóa các tổ chức kinh tế. Môi trường kinh tế: Bất kỳ một hoạt động sản xuất kinh doanh nào cũng đều chịu ảnh hưởng trực tiếp của môi trường kinh tế xã hội. Môi trường kinh tế không thuận lợi sẽ làm cho các doanh nghiệp hoạt động kém hiệu quả, mỗi đồng vốn không phát huy được hết hiệu quả của nó, làm cho khả năng trả nợ vay cuả dự án bị hạn chế, dẫn đến rủi ro cho các khoản cho vay của ngân hàng. Trong một nền kinh tế tăng trưởng mạnh, tiềm năng sản xuất, tiêu dùng của xã hội còn lớn thì hoạt động sản xuất còn có nhiều điều kiện tốt để phát triển. Nhưng một nền kinh tế bị khủng hoảng, tỷ lệ lạm phát cao, sản xuất bị đình trệ, đầu tư bị giảm sút, tất cả tác động đến khả năng thu hồi vốn tín dụng của ngân hàng . Không chỉ giới hạn trong môi trường kinh tế của một nước mà các tác động tới hoạt động tín dụng của ngân hàng, nhất là khi quan hệ kinh tế quốc tế được mở rộng. Môi trường và xã hội: Môi trường và xã hội là nhân tố lớn ảnh hưởng tới rủi ro tín dụng. Môi trường bao gồm những nhân tố ảnh hưởng tới kết quả nhưng không bị chi phối bởi người ra quyết định. Những rủi ro do môi trường và xã hội gây ra như: Rủi ro về những tác động tiêu cực của dự án đối với môi trường và người dân xung quanh, dẫn đến dự án phải tốn nhiều chi phí hơn cho việc xử lý chất thải, thậm chí dự án có thể bị dừng hoạt động. Rủi ro có thể xảy ra khi thị hiếu của xã hội thay đổi. Ví dụ như: do dân trí nâng cao, người dân nhận thấy rằng các thức ăn công nghiệp thực sự không tốt cho sức khỏe, họ chuyển sang dùng những thực phẩm có nguồn gốc từ tự nhiên. Do vậy, những thực phẩm đóng hộp và những thực phẩm như gà công nghiệp, cá nuôi đều bị giảm nhu cầu, giá bán hạ, những dự án sản xuất những mặt hàng trên trở nên thua lỗ. Rủi ro cũng có thể xảy ra khi đạo đức của xã hội thay đổi. Nguyên nhân bất khả kháng: Ngoài các nguyên nhân khách quan trên, rủi ro tín dụng còn chịu tác động của các nhân tố khác như: thiên tai, chiến tranh, địch họa… Những nhân tố này vượt quá tầm kiểm soát của người vay lẫn người cho vay. Những nhân tố này có thể xảy ra bất ngờ, tác động tới người vay, tạo thuận lợi hoặc khó khăn cho người vay. Nhiều người vay với bản lĩnh của mình có khả năng dự báo, thích ứng hoặc khắc phục những khó khăn. Trong những trường hợp khác, dự án có thể bị tổn thất song vẫn đủ khả năng trả nợ cho ngân hàng đúng hạn, đủ gốc và lãi. Tuy nhiên, khi các tác động của các nguyên nhân bất khả kháng đối với dự án là nặng nề thì khả năng trả nợ của dự án ít nhiều bị suy giảm. Ví dụ: một trận động đất lớn xảy ra làm phá hủy toàn bộ cơ sở vật chất của một nhà máy. Nguyên nhân từ phía dự án. Nguyên nhân từ phía dự án đầu tư cho vay là một trong những nguyên nhân chính, điển hình gây ra rủi ro tín dụng. Theo thống kê cho thấy, khả năng xảy ra rủi ro tín dụng xuất phát từ phía dự án là phổ biến nhất bởi dự án mà đại diện là chủ đầu tư là người trục tiếp sử dụng vốn vay. Nguyên nhân từ phía dự án có thể xem xét trên các mặt sau: Dự án bị thua lỗ dẫn đến mất khả năng trả nợ. Nguyên nhân có thể do khả năng quản lý trong lĩnh vực kinh doanh, điều hành dự án, thực hiện dự án và vận hành dự án không tốt, do trình độ yếu kém của khách hàng trong việc dự đoán các vấn đề về kinh doanh như: Rủi ro trong quá trình xây dựng và hoàn thành công trình: do khả năng quản lý của chủ đầu tư kém nên dẫn đến một trong các rủi ro sau: Chi phí xây dựng vượt quá dự toán. Công trình xây dựng không đảm bảo các yêu cầu của dự án. Hoàn thành không đúng thời hạn. Không giải tỏa được dân, phải thu hẹp hoặc hủy bỏ dự án. Rủi ro về thị trường, thu nhập, thanh toán: do dự đoán ban đầu về thị trường của dự án không chính xác nên dự án có thể rơi vào một trong só các tình trạng sau: cầu không đủ, sản lượng bán ra nhỏ hơn công suất của dự án, giá bán thấp hơn dự kiến ban đầu…dẫn đến doanh thu của dự án thấp, không trang trải đủ cho các chi phí, không đảm bảo được khả năng trả nợ cho ngân hàng. Rủi ro về cung cấp đầu vào: Đầu vào của dự án bao gồm nguyên vật liệu, vốn, lao động, máy móc thiết bị… do chủ quan cảu người lập dự án lúc đầu mà có thể dẫn đến tình trạng khi dự án đi vào giai đoạn vận hành khai thác thì nguồn cung nguyên vật liệu của dự án lại không đáp ứng được công suất của dự án. Rủi ro cũng có khể xảy ra khi dự đoán về giá cả, chất lượng nguyên vật liệu lúc đầu không còn chính xác. Ví dụ: dự án được lập vào năm 2007 khi mà giá vật liệu thép mới chỉ là 10 triệu đồng/ tấn, nhưng đến năm 2008 khi đi vào thi công xây dựng dự án thì giá nguyên vật liêu thép tăng lên 16 triệu đồng/1tấn. Tất cả những rủi ro do dự đoán không chính xác về nguồn cung cấp đầu vào trên đều gây khó khăn tới việc vận hành dự án cũng như thanh toán các khoản nợ. Rủi ro về kỹ thuật và vận hành: Khi các tiện ích ( dây chuyền, thiết bị, hệ thống điều hành…) của dự án không thể vận hành và bảo dưỡng ở mức độ phù hợp với thiết kế ban đầu. Ví dụ: Một công nghệ đặc biệt của dự án được nhập về từ châu Âu, nơi có khí hậu lạnh và khô, khi về tới Việt Nam do khí hậu nhiệt đới gió mùa, độ ẩm cao nên các thông số ban đầu cảu công nghệ đã bị thay đổi, không thể vận hành như ở nơi nhập công nghệ. Rủi ro trên sẽ dẫn đến dự án phải tốn thêm chi phí để bảo dưỡng hoặc điều chỉnh lại công nghệ cho phù hợp với điều kiện ở Việt Nam, thậm chí có thể dẫn tới bỏ hoàn toàn công nghệ. Điều đó sẽ có ảnh hưởng không nhỏ tới khả năng trả nợ của dự án. Khách hàng cố tình không tuân thủ các điều kiện trong hoạt động vay vốn, cố tình lừa đảo ngân hàng. Không ít khách hàng để đạt được mục tiêu vay vốn của mình đã tìm mọi cách để đối phó với ngân hàng như cung cấp thông tin không chính xác, giả tạo hồ sơ, hợp đồng mua bán vòng vo, mua chuộc cán bộ tín dụng nhằm vay vốn ngân hàng. Nhiều chủ đầu tư còn lập dự án ảo để vay vốn của ngân hàng sau đó sử dụng số tiền vay vốn đó vào mục đích khác. Thậm chí, nhiều dự án kinh doanh có lãi song không chịu trả nợ ngân hàng đúng hạn, chây ỳ với kỳ vọng quỵt nợ hoặc có thể sử dụng vốn vay càng lâu càng tốt. Đây là trường hợp tồi tệ nhất trong các nguyên nhân chủ quan dẫn đến rủi ro tín dụng, nó biểu hiện một hành động có chủ ý xấu của người vay đã được tính toán, chuẩn bị từ trước nhằm chiếm đoạt tiền vay, loại nguyên nhân này được coi là rủi ro về tư cách đạo đức của người vay. Rủi ro từ phía dự án cho vay luôn chiếm tỷ trọng lớn nhất và là chủ yếu trong hoạt động tín dụng hiện nay. Việc phòng tránh cũng rất khó khăn, phức tạp vì khách hàng của ngân hàng rất đa dạng, trình độ khác nhau, kinh doanh trong nhiều lĩnh vực do vậy ngân hàng cần nâng cao chất lượng công tác thẩm định dự án đầu tư trước khi quyết định cho vay, tăng cường công tác kiểm tra, giám sát việc thực hiện khoản vay của các chủ đầu tư và đa dạng hóa đầu tư nhằm phân tán bớt rủi ro. Nguyên nhân từ phía ngân hàng. Thứ nhất, rủi ro xảy ra do những nguyên nhân xuất phát từ cơ chế, chính sách của ngân hàng còn chưa phù hợp. Chính sách tín dụng phản ánh cưỡng lĩnh tài trợ của ngân hàng đó và trở thành hướng dẫn chung cho cán bộ tín dụng và các nhân viên ngân hàng, tăng cường chuyên môn hóa trong phân tích tín dụng, tạo sự thống nhất chung trong hoạt động tín dụng nhằm hạn chế rủi ro và nâng cao khả năng sinh lời. Chính sách không phù hợp sẽ làm giảm hiệu quả hoạt động của ngân hàng và có thể tạo nhiều rủi ro. Chẳng hạn, ngân hàng vì lợi nhuận mà mở rộng hoạt động tín dụng quá mức thì sẽ có rủi ro cao, nợ quá hạn gia tăng. Ngược lại, chính sách khách hàng không đa dạng, dẫn đến tập trung tài trợ cho một số khách hàng, lĩnh vực tạo nên nguy cơ rủi ro cao khi mà “bỏ trứng tất cả vào một giỏ”. Thứ hai, bộ máy tổ chức hoạt động quản lý rủi ro còn lạc hậu, yếu kém. Ngân hàng thiếu một cơ quan chuyên trách theo dõi, quản lý rủi ro, quản lý hạn mức tín dụng tối đa cho từng khách hàng thuộc các ngành nghề, địa phương khác nhau để phân tán rủi ro. Chất lượng thông tin thấp, sự hợp tác giữa ngân hàng thương mại và trung tâm thông tin tín dụng không đồng bộ và chưa đạt hiệu quả cao cũng là một nguyên nhân quan trọng dẫn đến rủi ro tín dụng. Thậm chí một số ngân hàng thương mại vì sợ cạnh tranh nên đã không thông tin cho trung tâm thông tin tín dụng và điều đó đã dẫn đến việc tìm hiểu khách hàng có quan hệ vay nợ tại các tổ chức tín dụng trở nên khó khăn. Chính vì vậy, ngân hàng rất khó giám sát khách hàng về việc họ có sử dụng khoản vay đúng mục đích hay không vì chưa có thông tin đầy đủ. Nếu thiếu một trong các yêu cầu đó thì ngân hàng sẽ không thể có được những quyết định phù hợp, có thể dẫn đến việc ngân hàng sẽ rót vốn vào những nơi thiếu tin cậy. Hệ thống kiểm tra, kiểm soát nội bộ còn yếu kém, lỏng lẻo. Nhiều ngân hàng còn chưa quan tâm đến hướng dẫn quy trình nghiệp vụ, chỉ đạo quy trình chưa nghiêm túc, kém hiệu lực, thậm chí có những sai phạm. Thứ ba, sự yếu kém về trình độ nghiệp vụ cũng như tư cách đạo đức của cán bộ tín dụng ngân hàng. Điều này được thể hiện: Cán bộ tín dụng yếu kém về trình độ, năng lực, nghiệp vụ, không có khả năng phân tích, thẩm định dự án, đánh giá khách hàng thiếu chính xác do công tác thông tin vừa yếu, vừa thiếu. Ngân hàng không có đủ các số liệu thống kê, các chỉ tiêu phân tích dẫn đến việc xác định sai hiệu quả của dự án, thời hạn cho vay, thời hạn trả nợ không phù hợp với phương án kinh doanh. Việc cán bộ tín dụng thiếu năng lực còn dẫn đến tình trạng không phát hiện được những sai sót về mặt pháp lý trong hồ sơ xin vay của khách hàng, hay định giá tài sản đảm bảo không hợp lý có thể gây ra những tổn thất cho ngân hàng khi khách hàng không có khả năng trả nợ hoặc cố tình gán tài sản đó cho ngân hàng. Sự yếu kém và lơi lỏng của cán bộ tín dụng trong quá trình giám sát việc thực hiện các khoản vay cũng là một nguyên nhân rất quan trọng dẫn đến việc không phát hiện kịp thời hiện tượng vốn vay không được sử dụng đúng mục đích hoặc hành vi lừa đảo của khách hàng. Bên cạnh vấn đề là thiếu và yếu năng lực, đôi khi một bộ phận cán bộ ngân hàng yếu kém về tư cách đạo đức đã lợi dụng vị trí công tác để trục lợi, tham ô, nhaanh hối lộ, cố tình cho vay sai nguyên tắc. Các cán bộ tín dụng quá dễ dàng cho vay đối với khách hàng là bạn bè, người quen thân, hoặc do lợi ích cá nhân mà bỏ qua các quy định cần thiết để đảm bảo an toàn. Cán bộ quản lý đôi khi vì lợi ích cá nhân hay vì lợi ích của một nhóm tập thể, trong công tác điều hành đã vô tình tạo điều kiện, kẽ hở cho loại rủi ro đạo đức ở cán bộ phát triển. Chẳng hạn khi nhà quản lý hay bộ phận nhóm cán quản lý đã có quan hệ lợi ích với khách hàng, mặc dù điều kiện vay vốn có thể chưa hội tụ đủ, thậm chí không đủ điều kiện và đã được cán bộ thẩm định ghi rõ nguyên nhân trong báo cáo thẩm định là không duyệt cho vay. Thông thường những khoản vay đó sẽ không được phê duyệt, nhưng vì một lý do tế nhị nào đó, nhà quản lý đã bằng cách này hay cách khác, hướng dẫn khách hàng hợp thức hóa hồ sơ, thậm chí còn yêu cầu cán bộ tín dụng, cán bộ thẩm định phải thực hiện theo ý kiến chỉ đạo ( trên thực tế thì rất ít cán bộ có thể bảo vệ ý kiến ban đầu của mình). Do đó, rủi ro tín dụng là không thể tránh khỏi, là khách quan. Nhiều quan điểm nhất trí rằng: rủi ro tín dụng là bạn đường trong kinh doanh, có thể đề phòng hoặc hạn chế chứ không thể loại trừ. Sự tiếp cận các yếu tố, nguyên nhân gây rủi ro trên đây giúp chúng ta nhìn nhận một cách đầy đủ, toàn diện, khách quan hơn, từ đó có được đề xuất phòng ngừa, giảm thiểu rủi ro trong kinh doanh của ngân hàng thương mại một cách hữu ích, thiết thực hơn. Các dấu hiệu phản ánh rủi ro tín dụng. Rủi ro tín dụng thường khó mà xảy ra qua một đêm, do vậy mà nó thường có một vài dấu hiệu báo động. Có những dấu hiệu biểu hiện mờ nhạt, có dấu hiệu biểu hiện rõ ràng. Ngân hàng cần có cách nhận biết ra những dấu hiệu ban đầu của dự án có vấn đề và có hành động cần thiết nhằm ngăn ngừa hoặc xử lý chúng. Nhưng các dấu hiệu này đôi khi được nhận ra qua một quá trình chứ không hẳn là một thời điểm, do vậy cán bộ tín dụng cần phải biết cách nhận ra chúng một cách có hệ thống. Sau khi khoản vay phát sinh và được phân loại, cán bộ tín dụng luôn phải theo dõi, giám sát khoản vay để nhận diện rủi ro thông qua các dấu hiệu cảnh báo sau: Nhóm các dấu hiệu liên quan đến mối quan hệ với ngân hàng. Trì hoãn hoặc gây khó khăn, trở ngại đối với ngân hàng trong quá trình kiểm tra theo định kỳ hoặc đột xuất tình hình sử dụng vốn vay, tình hình tài chính, hoạt động sản xuất kinh doanh của khách hàng mà không có sự giải thích minh bạch, thuyết phục. Có dấu hiệu không thực hiện đầy đủ các quy định, vi phạm pháp luật trong quá trình quan hệ tín dụng. Chậm gửi hoặc trì hoãn gửi các báo cáo tài chính theo yêu cầu mà không có sự giải thích minh bạch, thuyết phục. Không có các báo cáo hay dự đoán về lưu chuyển tiền tệ. Trong quá trình hạch toán của khách hàng, xu hướng các tài khoản của khách hàng qua một quá trình sẽ cung cấp cho ngân hàng một số dấu hiệu quan trọng như: Phát hành séc quá bảo chứng hoặc bị từ chối. Khó khăn trong thanh toán lương. Sự giao động của các tài khoản mà đặc biệt là giảm sút số dư tài khoản tiền gửi. Tăng mức sử dụng bình quân trong các tài khoản. Thường xuyên yêu cầu hỗ trợ nguồn vốn lưu động từ nhiều nguồn khác nhau . Không có khả năng thực hiện các hoạt động cắt giảm chi phí. Gia tăng các khoản nợ thương mại hoặc không có khả năng thanh toán nợ khi đến hạn… Các hoạt động cho vay: Mức độ vay thường xuyên gia tăng. Thanh toán chậm các khoản nợ gốc và lãi. Yêu cầu các khoản vay vượt quá nhu cầu dự kiến. Xuất hiện nợ quá hạn do khách hàng không có khả năng hoàn trả hoặc khách hàng không muốn trả nợ hoặc do việc tiêu thụ hàng, thu hồi công nợ chậm hơn dự tính. Tài sản đảm bảo không đảm bảo đủ tiêu chuẩn, giá trị tài sản bị giảm sút so với định giá khi cho vay. Có dấu hiệu tài sản đã cho người khác thuê, bán hay trao đổi hoặc đã biến mất, không còn tồn tại. Phương thức tài chính: Sử dụng nhiều các tài khoản ngắn hạn tài trợ cho các hoạt động phát triển dài hạn. Chấp nhận sử dụng các nguồn tài trợ đắt nhất. Ví dụ: thường xuyên sử dụng dịch vụ chiết khấu các tài khoản phải trả. Giảm các khoản phải thu và tăng các khoản phải trả. Các hệ số thanh toán phát triển theo chiều hướng xấu. Có biểu hiện giảm vốn điều lệ. Có dấu hiệu tìm kiếm sự tài trợ nguồn vốn lưu động từ nhiều nguồn khác, đặc biệt từ đối thủ cạnh tranh của ngân hàng. Có dấu hiệu cho thấy khách hàng trông chờ các nguồn thu nhập bất thường khác không phải từ hoạt động sản xuất kinh doanh chính hoặc từ hoạt động được đề xuất trong phương án vay vốn để đáp ứng các nghĩa vụ thanh toán. Nhóm các dấu hiệu liên quan đến phương pháp quản lý của khách hàng. Cũng như nhóm các dấu hiệu liên quan tới mối quan hệ với ngân hàng, nhóm các dấu hiệu này có tác động trực tiếp tới chất lượng khoản vay nhưng với tốc độ chậm hơn. Các dấu hiệu này xuất phát từ chính hoạt động sản xuất kinh doanh của dự án đầu tư và không dễ nhận diện nếu thiếu sự quản lý chặt chẽ, sâu sát của cán bộ tín dụng. Nó cũng đòi hỏi các giải pháp và chiến lược xử lý có tính dài hạn hơn. Biểu hiện cụ thể: Có chênh lệch lớn giữa doanh thu hay dòng tiền thực tế so với mức dự kiến ban đầu khi lập dự án. Những thay đổi bất lợi trong cơ cấu vốn, tỷ lệ thanh khoản hay mức độ hoạt động của dự án. Xuất hiện ngày càng nhiều các khoản chi phí bất hợp lý như sự gia tăng đột biến trong chi phí quảng cáo, tiếp khách, tập trung quá mức chi phí để gây ấn tượng như thiết bị văn phòng hiện đại, phương tiện giao thông đắt tiền… Thay đổi thường xuyên cơ cấu tổ chức của hệ thống quản trị hoặc ban điều hành. Xuất hiện bất đồng và mâu thuẫn trong quản trị điều hành, tranh chấp trong quá trình quản lý. Có dấu hiệu phát hiện ra quá trình khảo sát, thẩm định dự án sai dẫn đến việc đầu tư dự án không hiệu quả. Lập kế hoạch xác định mục tiêu kém, xuất hiện các hành động nhất thời, không có khả năng đối phó với những thay đổi. Việc lập kế hoạch những người kế cận không đầy đủ. Quản lý có tính gia đình: có biểu hiện thiếu tin tưởng vào những người quản lý không thuộc gia đình, cho thành viên gia đình chưa được đào tạo, huấn luyện đầy đủ đảm đương vị trí then chốt. Đối với khách hàng là tư nhân cá thể, có dấu hiệu của người vay bị bệnh kéo dài hoặc chết. Nhóm các dấu hiệu liên quan đến các ưu tiên trong kinh doanh. Xuất hiện dấu hiệu hội chứng hợp đồng lớn: sẵn sàng từ bỏ các hợp đồng có giá trị nhỏ và vừa nhưng có khả năng thu được tỷ suất lợi nhuận cao để tìm kiếm các hợp đồng có giá trị lớn với các bạn hàng có “tên tuổi” dù lợi nhuận thu về có khả năng đạt thấp hơn, sẵn sàng cắt giảm lợi nhuận để đạt được các hợp đồng lớn, theo đuổi chiến lược “mượn thương hiệu”, “nước nổi thuyền nổi”. Xuất hiện dấu hiệu hội chứng sản phẩm đẹp: mải mê theo đuổi một sản phẩm không thích hợp về thời gian và năng lực hiện tại mà không chú đến các yếu tố khác. Do áp lực nội bộ dẫn tới tung ra thị trường các sản phẩm dịch vụ quá sớm khi chưa hội tụ đủ các điều kiện chín muồi hoặc đặt ra các hạn mức thời gian kinh doanh, doanh số không thực tế, tạo mong đợi trên thị trường không đúng lúc. Nhóm các dấu hiệu liên quan đến các vấn đề về kỹ thuật thương mại. Khó khăn trong phát triển sản phẩm, dịch vụ mới. Những thay đổi từ chính sách của Nhà nước, đặc biệt là tác động của các chính sách thuế, xuất nhập khẩu; thay đổi các biến số kinh tế vĩ mô: tỷ giá, lãi suất, thay đổi công nghệ kỹ thuật sản xuất, thị hiếu tiêu dùng, mất nhà cung ứng hoặc khách hàng lớn, thêm đối thủ cạnh tranh tác động bất lợi đến chiến lược và kế hoạch sản xuất, kinh doanh của khách hàng. Thiên tai, hỏa hoạn, dịch bệnh xảy ra. Sản phẩm của khách hàng mang tính thời vụ cao. Nhóm các dấu hiệu về xử lý thông tin tài chính, kế toán của khách hàng. Sự gia tăng không cân đối về tỷ lệ nợ thường xuyên. Khả năng tiền mặt giảm. Tăng doanh số bán nhưng lãi giảm hoặc không có. Các tài khoản hạch toán vốn điều lệ không khớp. Những thay đổi về tỷ lệ lãi gộp và lãi ròng trên doanh số bán. Số khách hàng nợ tăng nhanh và thời gian thanh toán của các con nợ được kéo dài. Hoạt động lỗ. Lập kế hoạch trả nợ mà nguồn vốn không đủ. Không hạch toán đúng tài sản cố định., Làm đẹp bản cân đối bằng cách tạo ra những tài sản vô hình. Thường xuyên không đạt mức kế hoạch về sản xuất và bán hàng. Tăng giá trị quá cao thông qua việc tính lại tài sản. Phân bố nợ không thích hợp. Lệ thuộc vào sản phẩm bất thường để tạo ra lợi nhuận. Trong tất cả các dấu hiệu đó, dấu hiệu rõ ràng và có ý nghĩa nhất là chậm thanh toán các khoản vay và các khoản phải trả khác. Quản lý rủi ro các dự án đầu tư tại ngân hàng. Hoạt động tín dụng là quan trọng nhất trong ngân hàng thương mại, bao gồm 2 mặt: Sinh lời và rủi ro. Phần lớn các thua lỗ của các ngân hàng là từ hoạt động tín dụng. Song ở đây không có cách nào để loại trừ rủi ro tín dụng hoàn toàn mà phải quản lý thật cẩn thận. Đứng trước quyết định tài trợ vốn cho các dự án, cán bộ ngân hàng phải cân nhắc mâu thuẫn giữa sinh lời và rủi ro. Vì vậy, quản lý rủi ro tín dụng (đặc biệt là đối với cho vay các dự án đầu tư) được coi là nội dung quản lý quan trọng của ngân hàng thương mại. Khái niệm quản lý rủi ro tín dụng: “Quản lý rủi ro tín dụng là việc sử dụng các biện pháp nghiệp vụ để kiểm soát chất lượng tín dụng, hạn chế hậu quả xấu trong hoạt động tín dụng, giảm thiểu sự tổn thất không để hoạt động ngân hàng lâm vào tình trạng đổ vỡ.” Sự cần thiết phải quản lý rủi ro các dự án đầu tư. Rủi ro đối với cho vay các dự án đầu tư là rủi ro phức tạp nhất trong hoạt động ngân hàng. Nó có thể xảy ra ở bất cứ nơi đâu và bất kỳ khi nào. Ảnh hưởng của rủi ro tới nền kinh tế. Trước tiên, rủi ro xảy ra làm cho ngân hàng chậm hoặc không có khả năng thu hồi vốn để tiếp tục cho vay. Vì vậy rủi ro sẽ làm giảm vòng quay sử dụng vốn của ngân hàng, giảm khả năng cung cấp vốn và làm chậm tốc độ lưu chuyển vốn trong nền kinh tế. Kết quả là sản xuất bị đình đốn, nền kinh tế không phát triển được, xã hội bị rối loạn. Sau đó, nếu việc quản lý rủi ro của các tổ chức tín dụng không tốt sẽ làm ảnh hưởng tới khả năng thanh khoản của ngân hàng. Nếu tình trạng này kéo dài đến một mức độ nào đó nó sẽ là một trong những nguyên nhân cơ bản dẫn đến đỗ vỡ, phá sản của tổ chức tín dụng đó và lớn hơn là sự đổ vỡ dây chuyền của các tổ chức tín dụng mà hậu quả của nó dẫn đến khủng hoảng kinh tế, tài chính. Điều này không chỉ diễn ra ở một quốc gia mà nó còn lan truyền đến nhiều nước, nhiều khu vực trên toàn thế giới. Nó không chỉ là sự khủng hoảng về kinh tế, nó còn dẫn đến sự khủng hoảng về chính trị. VD: khủng hoảng ở Anbani năm 1997, khủng hoảng ở Thái Lan và khu vực Đông Nam Á 1997. Ảnh hưởng của rủi ro tới bản thân ngân hàng cấp tín dụng. Hoạt động tín dụng là hoạt động mang lại nguồn thu nhập chủ yếu cho ngân hàng và nó quyết định sự tồn tại cũng như sự phát triển của ngân hàng. Khi rủi ro xảy ra đối với các dự án đầu tư, trước tiên nó sẽ làm gây ra những khoản nợ khó thu hồi, vốn của ngân hàng sẽ không thể quay vòng, lãi không thể thu. Mặt khác, khi có quá nhiều các khoản nợ khó đòi sẽ phát sinh các khoản chi phí phát sinh như giám sát, thu nợ… Bên cạnh đó, ngân hàng vẫn phải trả lãi cho các khoản tiền huy động. Kết quả là lợi nhuận của ngân hàng bị giảm sút. Ngân hàng bao giờ cũng lên kế hoạch cân đối giữa dòng tiền ra và dòng tiền vào tại các thời điểm được xác định sẵn trong tương lai. Khi các khoản vay không thu hồi được như kế hoạch sẽ dẫn đến sự mất cân đối, gây ra sự suy yếu và hạn chế cho ngân hàng khi đến hạn thanh toán cho các khoản tiền ra. Nếu tình trạng mất khả năng chi trả của ngân hàng diễn ra quá nhiều lần, hay những thông tin về rủi ro tín dụng của nội bộ ngân hàng bị rò rỉ ra bên ngoài thì uy tín của ngân hàng bị giảm sút. Điều đó tất yếu sẽ dẫn đến khả năng cạnh tranh của ngân hàng cũng yếu đi, do đó việc huy động tiền gửi sẽ gặp nhiều khó khăn, việc thiết lập các giao dịch với các doanh nghiệp và các ngân hàng khác cũng sẽ không được thuận lợi. ._.Uy tín đối với khách hàng là một tài sản vô hình hết sức quý giá của ngân hàng, một khi đã mất đi thì rất khó có thể lấy lại hoặc nếu có thì cũng phải tốn nhiều tiền của cũng như thời gian. Nếu mức độ rủi ro mà ngân hàng có thể chịu đựng được thì ngân hàng có thể bù đắp bằng các quỹ dự phòng rủi ro hoặc vốn tự có, còn nếu rủi ro xảy ra ở mức độ nghiêm trọng thì sự bù đắp của các quỹ dự phòng cũng không thay đổi được tình hình. Thu nhập không thể bù đắp được chi phí, các dòng tiền vào không thể cân đối với dòng tiền ra, khả năng thanh toán của ngân hàng bị giảm sút dẫn đến rủi ro thanh toán, thậm chí gây phá sản nếu không có sự can thiệp kịp thời của Ngân hàng Nhà nước. VD: ngân hàng Đông Nam Á năm 2001. Như vậy, rủi ro khi cho vay các dự án đầu tư xảy ra dù ở mức độ nào cũng gây ảnh hưởng tới sự phát triển của ngân hàng nói riêng và sự tăng trưởng của nền kinh tế nói chung. Vì vậy, quản lý rủi ro khi cho các dự án đầu tư vay vốn không chỉ là trách nhiệm riêng của ngân hàng mà là của toàn nền kinh tế. thực hiện các biện pháp quản lý rủi ro phù hợp sẽ làm giảm tổn thất cho ngân hàng cũng như nền kinh tế, lành mạnh hóa hệ thống tài chính ngân hàng, tăng cường sức cạnh tranh, tạo điều kiện cho nền kinh tế tăng trưởng. Nội dung quản lý rủi ro. Quy trình quản lý rủi ro chung: Phát hiện rủi ro Đánh giá rủi ro Quản trị rủi ro Tránh rủi ro Hạn chế rủi ro Tự bảo hiểm Phong tỏa rủi ro Chuyển giao rủi ro Phát hiện rủi ro. Đây là công việc mang tính thiết yếu, quan trọng bởi nếu nó được làm tốt thì các bước tiếp theo của nội dung quản lý rủi ro mới được tiến hành, mới đạt kết quả tốt. Việc phát hiện rủi ro phải được tiến hành xem xét một cách tổng thể đối với mọi dự án đầu tư nói chung và trên mọi giai đoạn, mọi khía cạnh của dự án đầu tư dựa trên mọi dấu hiệu có liên quan. Nguồn thông tin mà ngân hàng có thể dựa vào để phát hiện rủi ro là: Thông tin từ hồ sơ dự án. Thông tin ngân hàng tự thu thập, điều tra và tổng hợp được từ việc phỏng vấn chủ đầu tư, kiểm tra thực tế dự án hay khai thác thông tin từ trung tâm thông tin phòng ngừa rủi ro của Ngân hàng Nhà nước. Thông tin từ tổ chức tín dụng khác có quan hệ với khách hàng, thông tin từ báo chí, dư luận, internet và các cơ quan quản lý khác. Đánh giá rủi ro của một dự án đầu tư. Tìm hiểu, đo lường và phân tích là những bước tiếp theo sau khi đã phát hiện được dự án đầu tư có những nguy cơ rủi ro để đánh giá rủi ro. Trên thực tế những bước này có liên kết khá chặt chẽ với nhau và thường được gộp chung lại. Mục tiêu của các bước này là giúp cho bộ máy quản trị rủi ro hiểu chính xác và nhất quán nguy cơ rủi ro đã xác định, phân tích rõ nguyên nhân của rủi ro và quan trọng nhất là lượng hóa được mức độ rủi ro có thể xảy ra cho ngân hàng. Để xác định mức độ rủi ro của một dự án đầu tư, có thể áp dụng một số mô hình cụ thể đánh giá rủi ro. Mô hình chất lượng 6C: Character ( tư cách chủ đầu tư): Tiêu chuẩn này thể hiện tinh thần trách nhiệm, tính trung thực, mục đích rõ ràng và thiện chí của chủ đầu tư trong việc đầu tư thực hiện dự án cũng như vay nợ ngân hàng. Cán bộ tín dụng phải làm rõ mục đích thực hiện dự án cũng như mục đích xin vay vốn của chủ đầu tư có phù hợp với chính sách pháp luật của nhà nước cũng như chính sách tín dụng hiện hành của ngân hàng hay không, đồng thời phải xem xét về lịch sử hoạt động kinh doanh, lịch sử đi vay và trả nợ của khách hàng. Ngân hàng cần thu thập thông tin từ nhiều nguồn khác nhau để đánh giá được chính xác. Thậm chí khi mục đích thực hiện dự án và mục đích xin vay tốt thì cán bộ tín dụng cũng phải xem xét chủ đầu tư có tỏ thái độ trách nhiệm trong việc sử dụng vốn vay, có trả lời các câu hỏi một cách trung thực, có thiện chí và nỗ lực hết sức để dự án hoạt động có hiệu quả và hoàn trả khoản vay đúng hạn. Nếu phát hiện chủ đầu tư giả dối trong kế hoạch sử dụng và trả nợ vốn vay như đã thỏa thuận thì cán bộ tín dụng phải từ chối cho vay, nếu không thì khả năng xảy ra rủi ro sẽ là rất cao. Capacity ( năng lực của người vay): Cán bộ tín dụng phải chắc chắn rằng người xin vay phải có đủ năng lực, hành vi cũng như năng lực pháp lý để thực hiện dự án cũng như ký kết hợp đồng. Ngân hàng phải căn cứ vào các giấy phép thực hiện của dự án. Cash (thu nhập của dự án): Dự án đầu tư có khả năng tạo ra đủ tiền để trả nợ hay không? Đây là một câu hỏi mà ngân hàng luôn tìm cách trả lời. Nhìn chung, dự án có ba nguồn để tạo tiền đó là: dòng tiền từ doanh thu bán hàng, dòng tiền từ phát hành chứng khoán và dòng tiền từ bán hàng thanh lý tài sản. Bất cứ nguồn thu nào từ ba nguồn thu trên đều có thể dùng để trả nợ vay. Tuy nhiên khi xem xét khả năng trả nợ của dự án người ta thường ưu tiên nguồn thứ nhất hơn cả và coi đây là nguồn thu đầu tiên và căn bản để trả nợ. Có sự ưu tiên này vì việc bán thanh lý tài sản có thể làm cho năng lực tài chính của dự án đầu tư yếu đi, khiến cho ngân hàng và chủ nợ ít được đảm bảo. Collateral ( tài sản đảm bảo): Một khoản tín dụng được đảm bảo bằng tài sản cầm cố hay thế chấp sẽ gắn chặt trách nhiệm và nghĩa vụ trả nợ của người đi vay. Khi rủi ro tín dụng xảy ra, dự án không trả được nợ thì tài sản cầm cố, tài sản thế chấp sẽ trở thành nguồn thu nợ thứ 2 của ngân hàng. Chính vì vai trò quan trọng này của nó mà tài sản thế chấp, cầm cố phải đáp ứng được những yêu cầu nhất định. Ngoài các tài sản tự có của chủ đầu tư đem cầm cố, thế chấp, ngân hàng còn cho phép dự án đầu tư được dùng tài sản hình thành từ vốn vay để thế chấp, cầm cố. Khi đó vốn tự có của chủ đầu tư tham gia vào dự có thể chỉ là 15% đã được vay vốn thực hiện dự án. Một tỷ lệ rất thấp nên dễ nảy sinh tâm lý chủ quan, rủi ro cao cho ngân hàng. Vì vậy, khi đánh giá giá trị tài sản bảo đảm, cán bộ tín dụng phải đặc biệt chú ý đến những yếu tố nhạy cảm như: tuổi thọ, điều kiện và mức độ chuyên dụng của tài sản. Khía cạnh công nghệ cũng phải đặc biệt chú ý tới bởi nếu tài sản của người vay có công nghệ lạc hậu thì giá trị sẽ bị giảm sút rất nhiều và rất khó tìm được người mua khi công nghệ lại thay đổi hàng ngày. Conditions ( các điều kiện). Các điều kiện này bao gồm điều kiện bên trong ( chính sách tín dụng từng thời kỳ của ngân hàng, việc mua sắm, đầu tư, chính sách lương thưởng…) và các điều kiện bên ngoài ( định hướng phát triển xã hội của Nhà nước, chính sách thuế, tiêu chuẩn về công nghệ môi trường…) Mô hình điểm số Z. Mô hình này do nhà kinh tế E.I.Altman dùng để cho điểm tín dụng đối với các doanh nghiệp và dự án vay vốn: Z = 1,2 X1 + 1,4 X2 + 3,3 X3 + 0,6 X4 + 1,0 X5 Trong đó: X1 = Vốn lưu động / Tổng tài sản. X2 = Lợi nhuận chưa chia / Tổng tài sản. X3 = Lợi nhuận trước thuế và lãi / Tổng tài sản. X4 = Giá thị trường của tổng tài sản / Giá trị hạch toán của tổng nợ. X5 = Doanh thu / Tổng tài sản. Theo mô hình này, nếu trị số Z càng cao thì dự án có xác suất vỡ nợ càng thấp. Theo mô hình của Altmat: Nếu Z > 2,675 ---> Mức độ rủi ro thấp. Nếu 1,8 Mức độ rủi ro trung bình. Nếu Z Mức độ rủi ro cao. Mô hình này có ưu điểm là giúp nhanh chóng định lượng được rủi ro của doanh nghiệp cũng như dự án. Tuy nhiên, bên cạnh đó, mô hình này cũng có những hạn chế: Chỉ cho phép phân biệt dự án, khách hàng “ vỡ nợ”, và “ không vỡ. Trong thực tế vỡ nợ được chia thành nhiều loại. Vì vậy, để có thể phân biệt chính xác dự án, doanh nghiệp thuộc loại nào thì mô hình cần có nhiều thang điểm hơn tương ứng với các mức vỡ nợ khác nhau. Trong công thức không tính đến nhiều yếu tố rất quan trọng và ảnh hưởng đáng kể tới mức độ rủi ro của dự án nhưng khó lượng hóa. Quản trị rủi ro. Các biện pháp được ngân hàng dùng để quản trị rủi ro các dự án đầu tư là: Tránh rủi ro: không cho vay các dự án đầu tư cảm thấy khả năng rủi ro cao, tính khả thi thấp. Hạn chế rủi ro: Thực hiện các quy định về an toàn tín dụng được ghi trong Luật các tổ chức tín dụng và trong các Nghị định của Ngân hàng Nhà nước. Các quy định nêu rõ trường hợp cấm các ngân hàng không được tài trợ, điều kiện ngân hàng phải thực hiện khi tài trợ. Xác định danh mục các dự án tài trợ với mức độ rủi ro khác nhau. Các loại khách hàng khác nhau, các đối tượng cho vay khác nhau, các loại dự án khác nhau … sẽ có rủi ro khác nhau. Xây dựng chính sách tín dụng và quy trình phân tích tín dụng. Hoạt động tín dụng liên quan tới nhiều bộ phận trong ngân hàng, đòi hỏi phải có sự kết hợp và chỉ đạo chung thông qua chính sahcs, quy tắc và kiểm soát chung. Các chính sách tín dụng nhằm hạn chế rủi ro như: Chính sách tài sản đảm bảo, chính sách đồng tài trợ…Quy trình phân tích tín dụng thể hiện những nội dung mà cán bộ tín dụng phải thực hiện khi cho vay nhằm hạn chế rủi ro như phân tích tình hình sản xuất kinh doanh, thẩm định dự án vay vốn, lịch sử của người vay, mục đích vay, kiểm soát trong khi cho vay…. Xác định dấu hiệu của khoản cho vay có vấn đề, giới hạn các khoản tín dụng và đa dạng hóa. Quản lý các dự án đầu tư cho vay vốn, hỗ trợ hoạt động các dự án như cho vay thêm, gia hạn nợ, giảm lãi … Quản lý nợ quá hạn, nợ khó đòi, các khoản nợ có vấn đề. Rủi ro là tất yếu của quá trình kinh doanh. Do vậy, ngân hàng luôn xây dựng chính sách sống chung cùng với rủi ro: Hạn chế rủi ro, chấp nhận rủi ro, khai thác hoặc thanh lý nợ quá hạn, nợ khó đòi hoặc nợ có vấn đề. Tự bảo hiểm: Mua bảo hiểm tín dụng. Ngân hàng có thể mua bảo hiểm cho các khoản cho vay của mình tại các công ty bảo hiểm để trường hợp xấu nhất là khi xảy ra rủi ro thì người chịu rủi ro là công ty bảo hiểm chứ không phải ngân hàng. Ngoài ra ngân hàng còn yêu cầu dự án tham gia đầy đủ các loại bảo hiểm. Đây vừa là cách để các dự án giảm thiểu rủi ro cho mình và cũng là cho chính ngân hàng. Phong tỏa rủi ro. Chuyển giao rủi ro: Bán nợ. Ngân hàng khi thấy các dự án không còn có khả năng thu hồi nợ thì có thể bán khoản nợ đó cho các công ty mua bán và quản lý nợ. CHƯƠNG II THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG QUẢN LÝ RỦI RO CÁC DỰ ÁN ĐẦU TƯ TẠI NGÂN HÀNG CÔNG THƯƠNG CHI NHÁNH THANH XUÂN HÀ NỘI Khái quát về Ngân hàng công thương Chi nhánh Thanh Xuân Quá trình hình thành và phát triển của chi nhánh. Chi nhánh ngân hàng công thương (NHCT) Thanh Xuân có tên tiếng anh là Incombank Thanh Xuân (viết tắt của Industrial and Commercial Bank) là một chi nhánh của ngân hàng công thương Việt Nam. Trước đây, quận Thanh Xuân chưa được tách ra từ quận Đống Đa thì chi nhánh này chỉ là một phòng giao dịch của NHCT Đống Đa. Sau khi thành phố Hà Nội quyết định tách quận Thanh Xuân ra khỏi quận Đống Đa thì đến tháng 4/1997 phòng giao dịch này được tách ra thành ngân hàng cấp 2 của NHCT Đống Đa. Ngày 22/4/1997 ngân hàng công thương Việt Nam công bố quyết định số 17/HĐQT-QĐ của chủ tịch hội đồng quản trị NHCT Việt Nam V/v thành lập chi nhánh ngân hàng công thương Thanh Xuân trực thuộc chi nhánh NHCT Đống Đa trên cơ sở nâng cấp phòng giao dịch Thượng Đình và chính thức đi vào hoạt động nhằm đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế xã hội của thủ đô Hà Nội nói chung và quận Thanh Xuân nói riêng trong sự nghiệp công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước. Đến ngày 20/2/1999, chủ tịch hội đồng quản trị NHCT Việt Nam ký quyết định số 13/QĐ-HĐQT/NHCT thành lập ngân hàng Công thương Thanh Xuân – Chi nhánh cấp 1 trực thuộc NHCT Việ Nam. Ngày từ ngày đầu đi vào hoạt động, chi nhánh NHCT Thanh Xuân đã gặp rất nhiều khó khăn tác động đến quá trình tổ chức thực hiện nhiệm vụ chính trị được giao; đó là trụ sở giao dịch phải đi thuê với diện tích rất chật hẹp; bộ máy tổ chức gồm 4 phòng với 50 cán bộ nhân viên; cán bộ lãnh đạo quản lý phần lớn được bổ nhiệm, mạng lưới huy động vốn rất mỏng chỉ có 2 QTK trên 11 phường thuộc quận Thanh Xuân, thị phần đầu tư và cho vay hạn chế, đại bộ phận các doanh nghiệp trên địa bàn đã có quan hệ truyền thống với các ngân hang khác. Mặc dù mới sinh ra còn rất non trẻ đã phải đối đầu với sự cạnh tranh quyết liệt của cơ chế thị trường, với hang chục ngân hàng, tổ chức tín dụng hoạt động trên địa bàn thủ đô. Nhận thức được những thuận lợi khó khăn tập thể lãnh đạo đã đặt ra nhiệm vụ bước đi biện pháp mang tính chiến lược chủ yếu để tổ chức thực hiện nhiệm vụ chính trị được giao. Một mặt vừa củng cố ổn định bộ máy tổ chức Đảng, chính quyền các đoàn thể đi vào hoạt động, vừa đảm bảo ổn định vừa từng bước phát triển rộng thị phần hoạt động kinh doanh dịch vị ngân hàng. Đây là nhiệm vụ cấp bách cũng như lâu dài đối với sự phát triển của chi nhánh. Mặt khác bằng nhiều hình thức phát động nhiều phong trào thi đua sâu rộng trong Đảng trong cơ quan trong các đoàn thể nhằm tập trung được trí tuệ tập thể nhằm phát huy nội lực, dân chủ đoàn kết của CBCNV; Đồng thời tranh thủ sự chỉ đạo quan tâm của ngân hàng cấp trên và sự ủng hộ tạo điều kiện giúp đỡ của cấp ủy chính quyền các ban ngành địa phương đã tạo nên sức mạnh tổng hợp để chi nhánh NHCT Thanh Xuân tổ chức thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị được giao. Chi nhánh NHCT Thanh Xuân từ khi thành lập đến nay đã trải qua hai giai đoạn: Từ khi thành lập tháng 4/1997 đến tháng 2/1999 trực thuộc chi nhánh NHCT Đống Đa và từ 3/1999 đến nay là đơn vị thành viên của NHCT Việt Nam. Từ khi đi vào hoạt động với chức năng là một ngân hàng thương mại quốc doanh được sự chỉ đạo của NHCT Việt Nam, sự ủng hộ giúp đỡ của cấp ủy chính quyền, các ban ngành địa phương và với tinh thần trách nhiệm, tập thể Đảng ủy ban giám đốc đã bám sát và tập trung triển khai thực hiện có mục tiêu, định hướng hoạt động kinh doanh của NHCT Việt Nam; Các tổ chức đoàn thể tích cực phát động phong trào thi đua sôi nổi rộng khắp trên các mặt công tác. Trải qua 11 năm xây dựng và trưởng thành, tính đến cuối năm 2008 chi nhánh NHCT Thanh Xuân đã phát triển lớn mạnh: Từ 4 phòng nghiệp vụ, 2QTK, 50 lao động khi thành lập, đến nay có 10 phòng nghiệp vụ, giao nhiệm vụ và đổi tên 7QTK thành 01 ĐGD mẫu và 6 ĐGD thường với 210 lao động. Đưa ĐGD toàn chi nhánh lên 8 ĐGD, trong đó có 2 ĐGD mẫu. Cơ cấu tổ chức của Chi nhánh. Để tạo điều kiện phù hợp với hoạt động kinh doanh của mình, NHCT Thanh Xuân đã sắp xếp cơ cấu tổ chức bộ máy bao gồm có: một giám đốc, ba phó giám đốc và chín phòng nghiệp vụ. Đó là các phòng: phòng khách hàng doanh nghiệp, phòng khách hàng cá nhân, phòng quản lý rủi ro và nợ có vấn đề, phòng kế toán giao dịch, phòng thanh toán xuất nhập khẩu, phòng tiền tệ kho quỹ, phòng tổ chức hành chính, phòng thông tin điện toán và phòng tổng hợp. Hiện nay, NHCT Thanh Xuân có 220 nhân viên (tính đến hết ngày 1/3/2009) với trình độ trên 90% là đại học trở lên. Cơ cấu tổ chức của NHCT Thanh Xuân được thể hiện qua sơ đồ sau: Sơ đồ 1: Cơ cấu tổ chức ngân hàng công thương Thanh Xuân GIÁM ĐỐC PHÓ GIÁM ĐỐC PHÓ GIÁM ĐỐC PHÓ GIÁM ĐỐC P.Tổng hợp Xử lý nợ có vấn đề Lao động tiền lương P.Tiền tệ-kho quỹ P.Kế toán giao dịch P.TT xuất nhập khẩu P.Thông tin điện toán Hành chính P.KH cá nhân Quản lý rủi ro và nợ có vấn đề KH DN vừa và nhỏ KH Doanh nghiệp lớn P. Hành chính tổng hợp P. Quản Lý rủi ro và nợ có vấn đề P. Khách Hàng Doanh Nghiệp Nguồn: Báo cáo tổng hợp ngân hàng công thương Thanh Xuân năm 2008 2.1.2.1. Phòng khách hàng doanh nghiệp a, Chức năng: là phòng nghiệp vụ trực tiếp giao dịch với khách hàng là các Doanh nghiệp, để khai thác vốn bằng VNĐ và ngoại tệ; thực hiện các nghiệp vụ liên quan đến tín dụng, quản lý các sản phẩm tín dụng phù hợp với chế độ, thể lệ hiện hành và hướng dẫn của Ngân hàng Công thương VN (NHCT VN); trực tiếp quảng cáo tiếp thị, giới thiệu và bán các sản phẩm dịch vụ ngân hàng cho các doanh nghiệp. b, Nhiệm vụ: - Khai thác nguồn vốn bằng VNĐ và ngoại tệ từ khách hàng là các Doanh nghiệp. - Thực hiện tiếp thị, hỗ trợ, chăm sóc khách hàng, tư vấn cho khách hàng về các sản phẩm dịch vụ của NHCT VN: Tín dụng, đầu tư, chuyển tiền, mua bán ngoại tệ, thanh toán xuất nhập khẩu, thẻ, dịch vụ ngân hàng điện tử….; làm đầu mối bán các sản phẩm dịch vụ của NHCT VN đến khác hàng là doanh nghiệp lớn. Nghiên cứu đưa ra các đề xuất về cải tiến sản phẩm dịch vụ hiện có, cung cấp những sản phẩm dịch vụ mới phục vụ cho khách hàng là doanh nghiệp. - Thẩm định, xác định, quản lý các giới hạn tín dụng cho các khách hàng có nhu cầu giao dịch về tín dụng và tài trợ thương mại, trình cáp có thẩm quyền theo quy định của NHCT VN. - Thực hiện các nghiệp vụ tín dụng và xử lý giao dịch: Nhận và xử lý đề nghị vay vốn, bảo lãnh và các hình thức cấp tín dụng khác; Thẩm định khách hàng, dự án, phương án vay vốn, bảo lãnh và các hình thức cấp tín dụng khác theo thẩm quyền và quy định của ngân hàng công thương Việt Nam; Đưa ra các đề xuất chấp thuận, từ chối đề nghị cấp tín dụng, cơ cấu lại thời hạn trả nợ cho khách hàng trên cơ sở hồ sơ và kết quả thẩm định; Kiểm tra, giám sát chặt chẽ trong và sau khi cấp các khoản tín dụng, phối hợp với các phòng ban thu hồi gốc, lãi và phí đầy đủ kịp thời, đúng hạn; Theo dõi quản lý các khoản cho vay bắt buộc, tìm biện pháp thu hồi các khoản cho vay này. - Quản lý các khoản tín dụng đã được cấp, quản lý tài sản bảo đảm theo quy định của NHCT VN. - Thực hiện nhiệm vụ thành viên Hội đồng tín dụng, hội đồng miễn giảm lãi, Hội đồng xử lý rủi ro. - Cung cấp hồ sơ, tài liệu, thông tin của khách hàng cho Phòng /tổ quản lý rủi ro để thẩm định độc lập và tái thẩm định theo quy định của chi nhánh và NHCT VN. - Cập nhật, phân tích thường xuyên hoạt động kinh tế, khả năng tài chính của khách hàng đáp ứng yêu cầu quản lý hoạt động tín dụng. - Thực hiện chấm điểm xếp hạng tín nhiệm đối với khách hàng có nhu cầu quan hệ giao dịch và đang có quan hệ giao dịch tín dụng với Chi nhánh. - Phản ánh kịp thời những vấn đề vướng mắc cơ chế, chính sách, quy trình nghiệp vụ và những vấn đề mới nảy sinh, đề xuất biện pháp trình Giám đốc chi nhánh xem xét, giải quyết hoặc kiến nghị với cấp trên giải quyết. - Lưu trữ hồ sơ số liệu, làm báo cáo theo quy định hiện hành. - Tổ chức học tập nâng cao trình độ nghiệp vụ cho cán bộ của phòng. - Làm công tác khác khi được Giám đốc giao. 2.1.2.1. Phòng quản lý rủi ro và nợ có vấn đề. a, Chức năng: Phòng quản lý Nợ có vấn đề - Rủi ro có nhiệm vụ quản lý, giám sát thực hiện danh mục cho vay, đầu tư đảm bảo tuân thủ các giới hạn tín dụng cho từng khách hàng. Quản lý và xử lý các khoản nợ có vấn đề( Bao gồm các khoản nợ: cơ cấu lại thời hạn trả nợ, nợ quá hạn, nợ xấu); Quản lý, khai thác và xử lý tài sản đảm bảo nợ vay theo quy định của Nhà nước nhằm thu hồi nợ gốc và lãi tiền vay. Quản lý, theo dõi và thu hồi các khoản nợ đã được xử lý rủi ro. Tham mưu cho Giám đốc chi nhánh về công tác quản lý rủi ro của Chi nhánh, Thẩm định hoặc tái thẩm định khách hàng, dự án, phương án đề nghị cấp tín dụng. Thực hiện chức năng đánh giá, quản lý rủi ro trong toàn bộ các hoạt động Ngân hàng theo chỉ đạo của NHCT VN. b, Nhiệm vụ: - Nghiên cứu chủ trương, chính sách, luật pháp, các văn bản pháp quy của Nhà nước, của các ngành và NHCT VN có liên quan đến hoạt động Ngân hàng và kế hoạch phát triển theo vùng kinh tế, ngành kinh tế tại địa phương, các văn bản về hoạt động Ngân hàng… chiến lược kinh doanh, chính sách quản lý rủi ro của NHCT VN và thực trạng tín dụng tại Chi nhánh trong từng thời kỳ để: + Theo dõi, quản lý các khoản nợ có vấn đề, các khoản nợ quá hạn (gốc, lãi), các khoản nợ đã được xử lý rủi ro. Thực hiện các biện pháp, chế tài tín dụng và tiến hành xử lý tài sản bảo đảm để nhanh chóng thu hồi các khoản nợ này. + Đề xuất mức tăng trưởng tín dụng theo nhóm khách hàng ngành nghề, khu vực kinh tế phù hợp với năng lực quản trị rủi ro của Chi nhánh và tình hình phát triển kinh tế địa phương. + Đề xuất danh sách khách hàng cần hạn chế tín dụng hoặc ngừng quan hệ tín dụng. + Đề xuất các biện pháp xử lý đối với các loại tài sản đảm bảo nợ vay có vấn đề phù hợp với qui định của pháp luật tình hình thực tế trong từng thời kỳ. - Đề xuất phương án trình các cấp, các ngành có liên quan hỗ trợ Chi nhánh trong việc xử lý thu hồi các khoản nợ có vấn đề vượt phạm vi, khả năng xử lý của Chi nhánh. Hoàn thiện hồ sơ theo yêu cầu của NHCT VN trình cấp có thẩm quyền cho xử lý các khoản nợ tồn đọng(Nếu có) theo yêu cầu của NHCT VN. - Thực hiện thẩm định độc lập(Theo cấp độ quy định của NHCT VN hoặc theo yêu cầu của Giám đôc chi nhánh, hội đồng tín dụng chi nhánh) hoặc tái thẩm định: Đối với các khách hàng lần đầu tiên quan hệ vay vốn Giám đốc sẽ có quy định cụ thể. Đối với các tài khoản vay theo quy định của Tổng giám đốc phải thẩm định rủi ro hoặc người có thẩm quyền quyết định cho vay yêu cầu: + Thẩm định, xác định giới hạn tín dụng, các khoản cấp tín dụng cho khách hàng có quan hệ tín dụng tại Chi nhánh và trình cấp có thẩm quyền qui định. + Thẩm định các khoản vay, dự án vay vốn, các khoản bảo lãnh cấp tín dụng khác có độ phức tạp hoặc có giá trị lớn theo các qui định của ngân hàng công thương Việt Nam trong từng thời kỳ hoặc theo yêu cầu của giám đốc Chi nhánh hoặc của HĐTD chi nhánh. + Thẩm định đánh giá rủi ro đối với đề nghị cơ cấu lại thời hạn trả nợ theo yêu cầu của giám đốc Chi nhánh, HĐTD cơ sở. - Tái thẩm định đánh giá rủi ro đối với các khoản ảo lãnh, khoản cấp tín dụng khác hoặc đề nghị cơ cấu lại thời hạn trả nợ theo yêu cầu của giám đốc Chi nhánh hoặc HĐTD Chi nhánh. - Thực hiện phân loại nợ và tính toán trích dự phòng rủi ro cho từng khách hàng theo quy định hiện hành. Phân tích thực trạng chất lượng dư nợ của Chi nhánh theo định kỳ hoặc theo yêu cầu đột xuất của NHCT Việt Nam. - Chấm điểm xếp hạng tín nhiệm đối với khách hàng có quan hệ tín dụng tại chi nhánh đối với những khách hàng có dư nợ gia hạn 20-30% trở nên trên tổng dư nợ của doanh nghiệp. - Kiểm tra việc hoàn thiện hồ sơ tín dụng, giám sát thực hiệc các khoản cấp tín dụng và nhập dữ liệu đối với khách hàng có quan hệ tín dụng tại chi nhánh - Kiểm tra việc hoàn thiện hồ sơ của các nghiệp vụ về tài trợ thương mại, chuyển tiền ngoại tệ mua bán nợ theo yêu cầu của Giám đốc chi nhánh hoặc NHCT VN. - Nghiên cứu các danh mục tài sản đảm bảo tiền vay, cảnh báo rủi ro trong việc nhận TSBĐ. - Tổng hợp, thống kê, lưu trữ tài liệu, số liệu liên quan đến các khoản nợ có vấn đề và các khoản tài sản bảo đảm tồn đọng. Làm các báo cáo định kỳ hoặc đột xuất theo yêu cầu của giám đốc Chi nhánh và ngân hàng công thương Việt Nam. - Cung cấp thông tin liên quan đến nghiệp vụ phòng ngừa rủi ro cho các phòng liên quan chi nhánh và trụ sở chính của ngân hàng công thương Việt Nam khi có yêu cầu. - Làm đầu mối liên hệ với trung tâm tín dụng ngân hàng Nhà nước trên địa bàn trong việc cung cấp và khai thác sử dụng thông tin tín dụng theo qui định của ngân hàng Nhà nước. - Lưu trữ hồ sơ số liệu, lập báo cáo theo qui định hiện hành và báo cáo đột xuất theo yêu cầu của giám đốc chi nhánh và Ngân hàng công thương Việt Nam. - Tổ chức học tập và nâng cao trình độ nghiệp vụ cho cán bọ của phòng. Tình hình hoạt động của Chi nhánh trong giai đoạn 2005- 2008. Những hoạt động chính của Ngân hàng công thương Chi nhánh Thanh Xuân. Huy động vốn bằng đồng Việt Nam và ngoại tệ từ dân cư và các tổ chức thuộc mọi thành phần dưới nhiều hình thức. Cho vay ngắn hạn, trung hạn, dài hạn bằng đồng Việt Nam và ngoại tệ. Đại lý uỷ thác cấp vốn, cho vay từ nguồn hỗ trợ chính thức của chính phủ, các nước và các tổ chức Tài chính tín dụng nước ngoài đối với các doanh nghiệp hoạt động tại Việt Nam. Thực hiện các dịch vụ chuyển tiền nhanh, thanh toán trong nước qua mạng vi tính và thanh toán quốc tế qua mạng thanh toán toàn cầu SWIFT. Đại lý thanh toán các loại thẻ tín dụng quốc tế: Visa, Mastercard, JCBcard, cung cấp du lịch, ATM. Thực hiện các dịch vụ ngân qũy: Thu đổi ngoại tệ, thu đổi ngân phiếu thanh toán, chi trả kiều hối, cung ứng tiền mặt đến tận nhà. Kinh doanh ngoại tệ. Thực hiện các nghiệp vụ bảo lãnh. Thực hiện các dịch vụ về tư vấn đầu tư . 2.1.3.2. Tóm tắt về tình hình kinh doanh của Chi nhánh qua các năm 2006 – 2008. Với các hoạt động kinh doanh linh hoạt và phong phú của mình chi nhánh NHCT Thanh Xuân đã đạt được những kết quả khả quan. Trước tiên về công tác huy động vốn: trong vòng 3 năm 2006 – 2008 Bảng 1: Bảng kết quả huy động vốn 2006 - 2008 Đơn vị: Triệu đồng Chỉ tiêu 2006 2007 2008 Tổng vốn huy động 3.580.788 3.689.454 3.736.670 Vay 1.530.000 1.568.000 1.592.200 Tiền gửi TCKT và dân cư 1.841.388 2.026.163 2.478.719 Phát hành giấy tờ có giá 209.400 95.291 76.067 Qua bảng trên ta thấy mức tổng huy động của Chi nhánh NHCT Thanh Xuân không ngừng tăng qua các năm. Tổng mức huy động vốn năm 2007 tăng 10,3% so với năm 2005. Sang năm 2008 tổng mức huy động vốn đã tăng lên tới con số 3.736.670 triệu đồng. Trong đó số tiền gửi huy động được của các tổ chức kinh tế và người dân cụ thể như sau. Bảng 2: Bảng kết quả huy động vốn cụ thể từng hạng mục 2006-2008 Đơn vị: Triệu đồng Chỉ tiêu 2006 2007 2008 Tiền gửi các TCKT 682.291 760.403 1.043.781 Bằng VNĐ 545.495 523.255 609.860 Bằng ngọai tệ 136.796 237.148 433.922 Tiền gửi TK của cá nhân 1.159.096 1.265.759 1.232.060 Bằng VNĐ 851.165 979.217 895.952 TG VNĐ khác 4.124 6.979 7.317 Bằng ngoại tệ 302.511 277.566 226.280 TG ngoại tệ khác 1.296 1.997 2.200 Trong tổng số vốn huy động được của Chi nhánh NHCT Thanh Xuân thì nguồn vốn huy động từ tiền gửi tiết kiệm của cá nhân chiếm một tỷ lệ rất lớn, mức vôn shuy động tiền gửi tiết kiệm của cá nhân năm 2007 là 1.265.759 triệu đồng tăng 9,2% so với năm 2006. Năm 2008 mặc dù nền kinh tế đã có phần bị ảnh hưởng của khủng hoảng tiền gửi của dân cư có phấn giảm nhưng không đáng kể. Điều này chứng tỏ Chi nhánh Ngân hàng công thương Thanh Xuân đã có những chiến lược tốt trong việc thu hút tiền gửi tiết kiệm của cá nhân cũng như tiền gửi từ các tổ chức kinh tế. Về thu nhập, chi phí và lợi nhuận của Chi nhánh: Từ năm 2006 khi bắt đầu thực hiện mô hình giao dịch một cửa thì ngân hàng đã hoạt động khởi sắc có lại với mức thu nhập 3.722.215.919 đồng, năm 2007 là 79.128.378.165 đồng và năm 2008 là đồng Bảng 3: Báo cáo kết quả kinh doanh 2006 – 2008 Đơn vị:Triệu đồng Chỉ tiêu 2006 2007 2008 I. Thu từ lãi 326.533 410.670 471.622 1.Thu lãi cho vay 130.222 133.631 134.521 2. Thu lãi tiền gửi 195.811 275.679 335.690 3. Thu lãi góp vốn mua CP 4. Thu từ cho thuê tài chính 5. Thu khác về hoạt độngHĐTD 499 1.360 1.410 II. Thu ngoài lãi 23.036 116 167.729 1. Thu từ ngh.vụ bảo lãnh 268 1.074 1.126 2. Thu dịch vị phí thanh toán 1.623 1.834 1.915 3. Thu phí dịch vụ ngân quỹ 17 54 62 4. Thu từ tham gia TT tiền tệ 5. Lãi từ kinh doanh ngoại hối 337 0 0 6. Thu từ ủy thác và đại lý 7. Thu từ các dịch vụ khác 879 1.092 1.325 8. Thu nhập bất thường 19.910 112.543 100 TỔNG THU NHẬP 349.570 527.269 639.351 III.Chi trả lãi 254.657 313.514 358.191 1. Chi trả lãi tiền gửi 131.864 165.303 200.124 2. Chi trả lãi tiền vay 110.757 132.890 141.138 3. Chi trả lãi phát hành GTCG 12.036 15.321 16.928 IV.Chi phí ngoài lãi 91.190 134.626 135.589 1. Chi phí về huy động vốn 2. Chi dịch vụ thanh toán và ngân quỹ 732 943 1.012 3. Chi phí tham gia TT tiền tệ 4. Lỗ từ kinh doanh ngoại hối 76 15 5. Chi hoạt động khác 17 252 436 6. Chi nộp thuế 159 204 267 7. Chi nộp các khoản phí, lệ phí 33 35 36 8. Chi phí cho nhân viên 10.943 21.055 34 9. Chi cho quản lý và công vụ 6.993 8.199 9.657 10. Chi khấu hao TSCĐ 2.645 2.737 2.974 11. Chi khác về tài sản 2.114 2.677 2.842 12. Chi dự phòng 62.512 75.531 77.545 13. Chi nộp phí BH 1.369 1.548 1.845 14. Chi bất thường khác 3.668 21.364 35.458 TỔNG CHI PHÍ 345.848 448.141 493.780 THU NHẬP TRƯỚC THUẾ 3.722 79.128 145.570 THUẾ TNDN THU NHẬP SAU THUẾ 3.722 79.128 145.570 Qua bảng số liệu này ta thấy, nguồn thu chủ yếu của chi nhánh vẫn là thu từ lãi điều chuyển vốn và thu từ lãi cho vay. Ngoài ra thu từ lãi bất thường cũng khá cao cho thấy tinh thần trách nhiệm cao trong công việc của cán bộ nhân viên của Ngân hàng. Tuy chi phí còn khá cao nhưng với cố gắng nỗ lực thì Ngân hàng đã có lãi trong 3 năm gần đây 2006, 2007 và 2008 khi lợi nhuận đạt được là 3.722 triệu đồng, 79.128 triệu đồng và đặc biệt năm 2008 là 145,570 triệu đồng. Điều đó làm cho lương thưởng của nhân viên cao hơn, từ đó thúc đẩy sự phát triển của ngân hàng trong các năm tiếp theo. Thực trạng hoạt động quản lý rủi ro các dự án đầu tư tại Ngân hàng công thương Chi nhánh Thanh Xuân. Tổ chức quản lý rủi ro các dự án đầu tư. Quản lý, đánh giá rủi ro khi thẩm định dự án xin vay vốn. Đây là một trong những khâu quan trọng nhất trong quá trình xét duyệt vốn vay và cũng là một trong những biện pháp phòng ngừa rủi ro xảy ra tại Ngân hàng công thương Chi nhánh Thanh Xuân. Với khâu đầu tiên thực hiện trước khi cho vay này, các cán bộ tín dụng xem xét, phân tích, đánh giá tư cách, tình hình tài chính cũng như tình hình sản xuất kinh doanh của khách hàng cũng như tính khả thi, hiệu quả kinh tế, xã hội, khả năng hoàn trả nợ của dự án đầu tư. Quy trình tiếp nhận hồ sơ dự án và thẩm định đánh giá vốn vay được thực hiện theo sơ đồ sau: Sơ đồ 2: Qui trình tiếp nhận hồ sơ dự án Nhiệm vụ cụ thể của các phòng chức năng được thể hiện dưới sơ đồ Qui trình cho vay theo dự án tại chi nhánh Thanh Xuân như sau: Sơ đồ 3: Qui trình cho vay theo dự án tại chi nhánh ngân hàng công thương Thanh Xuân Bước Phòng giao dịch Khách hàng P. khách hàng P.quản lý rủi ro P.khác P.kế toán Người có thẩm quyền QĐ cho vay 1 Y/cầu bổ sung Hồ sơ Thiếu Đủ Đề nghị bổ sung Nhận hồ sơ Nhận HS do P.KH sao gửi 2 Kiểm soát tờ trình thẩm định Thẩm định/Tái thẩm định Tham gia 3 Thẩm định RR 4 Xét duyệt cho vay 4 5 cho vay Đồng ý Thông báo cho KH Y/cầu bổ sung Y/cầu bổ sung Thiếu Vượt thẩm quyền đủ Trụ sở chính 6 Ký HĐ Soạn thảo hợp đồng Nhập thông tin khoản vay Tham gia Tham gia Ký HĐ 7 Giải ngân 8 Ký phụ lục hợp đồng Soạn thảo phụ lục hợp đồng Ký phụ lục hợp đồng a, Nhận diện và đánh giá rủi ro khi xem xét tư cách khách hàng. Khi xem xét tư cách khách hàng, các cán bộ tín dụng có thể nhận được ý đồ, thiên chí hợp tác của chủ dự án. Đối với khách hàng có thái độ hợp tác, đó là điều kiện cung cấp cho ngân hàng những thông tin liên quan một cách đầy đủ, chính xác, nhanh chóng. Còn đối với những khách hàng có thái độ nóng vội, trì hoãn cung cấp thông t._.DPRR: Đạt trên 87 tỷ đồng - Lợi nhuận từ hoạt động kinh doanh: Đạt trên 50 tỷ đồng - Lợi nhuận từ thu ngoại bảng: Đạt trên 37 tỷ đồng Mục tiêu năm 2009 đặt ra là rất nặng nề, mọi hoạt động ngân hàng đang bước vào một giai đoạn mới, giai đoạn hội nhập nền kinh tế và sự khủng hoảng kinh tế toàn cầu. Để đạt được những mục tiêu đề ra đòi hỏi Ngân hàng phải phát huy hết sức mạnh, tăng cường lãnh đại của Đảng, của chính quyền, phát huy vai trò của tổ chức đoàn thể xã hội. Nâng cao chất lượng hoạt động của tổ chức công đoàn, đoàn thanh niên nhằm tạo nên sức mạnh tổng hợp thực hiện tốt nhiệm vụ được giao, để chi nhánh trở thành đơn vị kinh doanh xuất sắc trong hệ thống NHCT Việt Nam. Giải pháp tăng cường khả năng quản lý rủi ro tín dụng tại Ngân hàng công thương Chi nhánh Thanh Xuân Hà Nội. Đổi mới cơ cấu tổ chức quản lý rủi ro. Xuất phát từ đòi hỏi thực tiễn của hoạt động tín dụng, theo khuyến cáo của Ủy ban Basel thuộc Ngân hàng thanh toán quốc tế (BIS) và tuân thủ các thông lệ quốc tế, bộ máy tổ chức hoạt động tín dụng và quản lý rủi ro tín dụng phải được tách bạch. Chức năng quản lý rủi ro các dự án đầu tư sẽ được giao cho một bộ phận độc lập với các đơn vị hoạt động kinh doanh của Ngân hàng công thương Chi nhánh Thanh Xuân và sẽ không tham gia vào hoạt động cho các dự án vay vốn. Thay vào đó, bộ phận này sẽ quản lý và giám sát rủi ro toàn bộ các dự án đã được cho vay trong toàn bộ hệ thống ngân hàng. Để hạn chế tối đa rủi ro cần thiết có sự độc lập giữa các chức năng mà một Cán bộ tín dụng hiện đang được thực hiện, phải tiến hành tách các bộ phận: chức năng tiếp xúc khách hàng, chức năng phân tích hồ sơ dự án (phân tích, thẩm định, dự báo, đánh giá dự án…) và chức năng tác nghiệp (xử lý hồ sơ, theo dõi, giám sát dự án, thu nợ…) Thực hiện phân tán rủi ro. Rủi ro là khả năng xảy ra sự khác biệt giữa kết quả thực tế và kết quả theo kế hoạch. Để hạn chế bớt thiệt hại cho ngân hàng khi rủi ro xảy ra, cán bộ ngân hàng cần tìm cách phân tán rủi ro. Phân tán rủi ro là chia nhỏ rủi ro có thể xảy ra cho các đối tượng chủ thể khác nhau như cho chủ đầu tư, cho nhà thầu… Nâng cao năng lực của cán bộ tín dụng, coi trọng cả phẩm đạo đức lẫn nghiệp vụ. Trong các yếu tố thì yếu tố con người luôn là yếu tố đóng vai trò quan trọng nhất chi phối mọi hoạt động. Các biện pháp đề ra thực hiện có hiệu quả hay không đều phụ thuộc vào trình độ nghiệp vụ cũng như tư cách đạo đức của cán bộ ngân hàng. Chính vì vậy công tác tổ chức và đào tạo phải được hết sức chú trọng, và tiến hành một cách thường xuyên, liên tục, đòi hỏi sự đầu tư cả về vật lực cũng như trí lực. Nhân viên ngân hàng có trình độ chuyên môn giỏi sẽ có khả năng đánh giá mức độ rủi ro của các dự án một cách đầy đủ, chuẩn xác, đồng thời cũng có phương pháp quản lý, theo dõi khoa học, hiệu quả hơn. Khi có vấn đề xảy ra với dự án, cán bộ có chuyên môn cao sẽ có những phương án xử lý khéo léo, giảm được thiệt hại một cách tối đa. Để đào tạo được những cán bộ này, ngân hàng phải có kế hoạch tập huấn thường xuyên cho các Cán bộ tín dụng, tổ chức các buổi hội thảo để cùng nhau bàn luận, trao đổi, cập nhật những kinh nghiệm, những diễn biến thường xuyên của nền kinh tế…, đưa các Cán bộ tín dụng đi tham quan học hỏi kinh nghiệm ở các ngân hàng bạn, thậm chí là ở cả một số nước tiên tiến để có cơ hội mở mang kiến thức, học tập phương pháp làm việc của họ. Đây sẽ là đội ngũ cán bộ nòng cốt, kế cận lớp cán bộ lớn tuổi, nhiều kinh nghiệm đến tuổi về hưu. Đối với Cán bộ tín dụng, phải thường xuyên tự đào tạo, bồi dưỡng, cập nhật kiến thức, trau dồi trình độ chuyên môn tín dụng. Ngoài ra, Cán bộ tín dụng cần phải nâng cao trình độ vi tính, ngoại ngữ, đồng thời nâng cao khả năng giao tiếp, ứng xử để nắm bắt được tâm lý khách hàng, thái độ phản ứng của chủ đầu tư, khả năng thương lượng với khách hàng. Một Cán bộ tín dụng giỏi không phải chỉ là một người có trình độ chuyên môn cao, kỹ năng nghiệp vụ tốt mà còn phải là người có đạo đức nghề nghiệp bởi môi trường làm việc của họ là một môi trường nhạy cảm, liên quan trực tiếp đến tiền. Vấn đề đạo đức nghề nghiệp phải là chủ đề được bàn luận trong các buổi hội thảo và là một tiêu chí cần được chú trọng trong công tác tuyển dụng. Nguồn nhân lực của ngân hàng chủ yếu được lấy từ kênh tuyển dụng bởi vậy mà chính sách tuyển dụng của ngân hàng là rất quan trọng, kế hoạch tuyển chọn phải được chuẩn bị kỹ càng, các tiêu chí đưa ra phải đảm bảo tính hợp lý, bám sát thị trường nhân lực, phải chú trọng về chất lượng thật sự chứ không nên chỉ dựa vào bằng cấp. Việc tổ chức cán bộ, chuyên môn hóa từng vị trí, sắp xếp công việc cho hợp lý là tối quan trọng đối với mỗi một ngân hàng. Mỗi cá nhân có một ưu điểm riêng, có một sở trường riêng nên việc tận dụng được điểm mạnh của mỗi cá nhân sẽ tạo ra một sức mạnh về nguồn lực rất lớn. Ngân hàng công thương Chi nhánh Thanh Xuân Hà Nội cần phải xem xét phân công cán bộ theo từng ngành, từng lĩnh vực cụ thể để tạo điều kiện cho Cán bộ tín dụng có cơ hội, thời gian tìm hiểu sâu về lĩnh vực mà họ phụ trách như: nông nghiệp, xây dựng, cơ khí, bất động sản… Như vậy, sự hiểu biết của cán bộ mới ngày càng được chuyên sâu, việc tìm hiểu thông tin về khách hàng, dự án cũng thuận lợi hơn, tiết kiệm chi phí, thời gian; bên cạnh đó họ có thể đưa ra những lời khuyên bổ ích cho dự án, giảm thiểu những rủi ro có thể xảy ra. Ngoài ra, đối với các dự án lớn, phức tạp thì ngân hàng cần mời chuyên ra trong lĩnh vực đó về ngân hàng cộng tác. Tuy nhiên, khi áp dụng phương pháp này, ngân hàng cũng cần chú ý tới công tác bảo mật thông tin bằng cách gắn lợi ích của đội ngũ chuyên gia với trách nhiệm và nghĩa vụ cụ thể, điều này sẽ giúp ngân hàng vừa tận dụng được hết kiến thức chuyên môn của họ lại vừa chủ động hơn trong việc ngăn ngừa việc tiết lộ thông tin. Chế độ đãi ngộ nhân viên hiện nay đang là một trong những tiêu chí được rất nhiều ứng viên xem xét kỹ lưỡng trước khi thi tuyển vào một ngân hàng. Trong bối cảnh cạnh tranh gay gắt hiện nay, để có cơ hội tuyển dụng được những nhân viên mới có năng lực và giữ chân được những nhân viên cũ giàu kinh nghiệm, gắn bó, cống hiến cho ngân hàng thì Ngân hàng công thương Chi nhánh Thanh Xuân Hà Nội cần có những chính sách đãi ngộ nhân viên thật hấp dẫn, hợp lý như: động viên, khen thưởng kịp thời những cá nhân, bộ phận có những đóng góp lớn, có những sáng kiến hay trong quá trình làm việc. Cùng với việc tuyên dương trước tập thể cần có các phần thưởng thực sự có chất lượng như tăng lương, tặng phần thưởng có giá trị… Bên cạnh đó, cũng nghiêm khắc kỷ luật các Cán bộ tín dụng có hành vi xấu, không trung thực trong công việc. Nếu có sự sai phạm cần điều tra kỹ lưỡng, nếu là lần đầu và lý do là khách quan thì có thể nhắc nhở, động viên để họ khắc phục khuyết điểm. Ngoài ra, tạo điều kiện thuận lợi cho cán bộ có năng lực có cơ hội thăng tiến xứng đáng. Thưởng phạt công bằng sẽ là động lực khuyến khích nhân viên gắn bó với ngân hàng, tích cực, chủ động tìm kiếm các dự án khả thi, hiệu quả để mở rộng quy mô tín dụng, hoàn thành tốt công việc của mình không chỉ bằng trách nhiệm mà còn bằng lòng yêu nghề. Tăng cường mối quan hệ tương tác giữa khách hàng và ngân hàng Mối quan hệ giữa ngân hàng và khách hàng, các chủ đầu tư là một mối quan hệ tương hỗ lẫn nhau. Mối quan hệ này được củng cố sẽ giúp cho đôi bên cùng có lợi, đặc biệt tạo nhiều thuận lợi cho ngân hàng. Một khách hàng có mối quan hệ lâu dài với ngân hàng thì khi khách hàng đó cần vay vốn cho những dự án đầu tư của minh sẽ gặp nhiều thuận lợi hơn. Vì nếu khách hàng đã vay vốn ở ngân hàng, thì ngân hàng đã có những ghi chép về việc thanh toán tiền vay vì vậy mà sự hiểu biết về khách hàng cũng nhiều hơn, đặc biệt ngân hàng đã có những phương thức giám sát khoản vay do vậy mà các chi phí để giám sát những khách hàng lâu dài thường thấp hơn các chi phí đối với những khách hàng mới. Do vậy, ngân hàng sẽ luôn dành cho người vay những ưu tiên nhất định như: lãi suất thấp hơn, thời gian sử dụng vốn dài hơn… những ưu tiên này sẽ giúp cho dự án tiết kiệm được chi phí, nguồn vốn ổn định hơn nên nguy cơ gặp rủi ro cũng sẽ bớt đi. Ngoài ra, mối quan hệ lâu dài cũng giúp cho ngân hàng hạn chế được những bất ngờ ngoài mong muốn mà ngân hàng không thể lường trước được. Bởi một khách hàng đã có mối quan hệ tốt với ngân hàng thì luôn mong muốn giữ gìn được mối quan hệ đó để có thể được hưởng những ưu đãi trong tương lai. Do đó, họ luôn cẩn trọng trong các động thái của mình nhằm không làm mất lòng tin của ngân hàng. Do vậy mà quan hệ lâu dài với khách hàng có thể giúp ngân hàng đối phó với những sự bất ngờ rủi ro đạo đức mà ngay cả ngân hàng cũng không thể lường trước được ở lúc ban đầu. Để có được mối quan hệ tốt đẹp này, ngân hàng cần có những khóa huấn luyện với các chuyên gia để tập huấn cho nhân viên ngân hàng về phong cách phục vụ, kỹ năng giao tiếp, nâng cao khả năng xử lý tình huống, quán triệt chủ trương “khách hàng là thượng đế”. Một công cụ rất tốt nữa giúp ngân hàng có thể có được những mối quan hệ bền vững với những khách hàng của mình đó là những ưu tiên trong chính sách cho vay của ngân hàng đối với khách hàng, đó có thể là lãi suất, tài sản đảm bảo hay thời hạn vay… Đặc biệt, ngân hàng cần phải cung cấp dịch vụ tư vấn cho khách hàng. Ngân hàng là một trung gian tài chính, có quan hệ với rất nhiều các doanh nghiệp thuộc các lĩnh vực kinh tế khác nhau, vì vậy mà có nhiều kinh nghiệm, nhiều thông tin mà khách hàng khó tự tiếp cận được. Từ đó, ngân hàng có thể đưa ra những lời khuyên cho dự án về bạn hàng, về lĩnh vực hiện đang đầu tư có hiệu quả, về công nghệ, về các văn bản pháp luật có liên quan để khách hàng định hướng cho hoạt động kinh doanh của mình, giảm thiểu rủi ro cho dự án và cũng là giảm thiểu rủi ro cho ngân hàng. Hơn nữa sự tư vấn này hoàn toàn nên áp dụng trong cả quá trình khách hàng sử dụng vốn. Điều này sẽ giúp cho ngân hàng vừa nắm được tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh của dự án, vừa giúp đỡ dự án có được những phương án kinh doanh tốt nhất. Khi khách hàng nhận được sự giúp đỡ, hỗ trợ từ khách hàng thì sẽ càng gắn bó với ngân hàng, sẽ muốn tiếp tục vay vốn ở ngân hàng những lần sau. Hoàn thiện hệ thống thông tin khách hàng và dự án đầu tư. Thông tin khách hàng có vai trò vô cùng quan trọng đối với công tác quản lý rủi ro các dự án đầu tư vay vốn. Nhờ có thông tin đầy đủ về khách hàng, về dự án mà người quản lý có thể đưa ra những quyết định cần thiết liên quan đến khoản vay của dự án cũng như theo dõi và quản lý chúng. Thông tin bao gồm hai loại: thông tin nội bộ và thông tin từ bên ngoài. Thông tin nội bộ: Nguồn thông tin nội bộ giúp cung cấp thông tin về lịch sử quan hệ tín dụng giữa ngân hàng và chủ đầu tư. Báo cáo, thông tin từ các phòng ban, bộ phận khác nhau, các chi nhánh khác đều là những cơ sở quan trọng, cung cấp những thông tin đã được sàng lọc, có chất lượng, liên quan đến chủ đầu tư giúp cán bộ tín dụng đưa ra những nhận xét, đánh giá, quyết định đúng đắn đối với chủ đầu tư và dự án. Để nguồn thông tin này có được hiệu quả cao nhất, ngân hàng cần thiết phải lưu trữ mọi hồ sơ của khách hàng một cách cẩn thận, có hệ thống, khoa học, phân loại theo các ngành nghề một cách rõ ràng để tạo điều kiện thuận lợi trong khâu tìm kiếm thông tin. Việc lưu trữ này cũng giúp cho ngân hàng dễ dàng hơn trong sự đánh giá, so sánh giữa các khách hàng trong cùng một ngành nghề, nó rất hữu ích trong việc giúp cho ngân hàng tìm hiểu các thông tin bên ngoài về khách hàng thông qua các đối thủ cạnh tranh, các đối tác của khách hàng. Để công việc này thực sự đạt hiệu quả, cần có một bộ phận chuyên thu thập cũng như phân tích các chính sách vĩ mô của Nhà nước có tác động đến hoạt động kinh doanh đối với các ngành nghề, tư vấn pháp luật, kỹ thuật, công nghệ cho bộ phận tín dụng. Thông tin từ bên ngoài. Thông tin bên ngoài cung cấp cho ngân hàng những hiểu biết thực tế về tình hình hoạt động, kinh doanh của khách hàng, của dự án. Trước, trong và sau khi cho vay Cán bộ tín dụng vẫn cần phải thường xuyên sử dụng các thông tin bên ngoài để kiểm tra, giám sát tình hình sử dụng vốn vay cũng như tình hình tài chính của dự án. Các thông tin này có thể được lấy từ các cơ quan chuyên cung cấp thông tin tín dụng như: trung tâm thông tin tín dụng của Ngân hàng Nhà nước (CIC), từ các tổ chức tín dụng khác, hoặc nguồn thông tin trên các phương tiện thông tin đại chúng. Nhờ có các nguồn này mà ngân hàng có thể xác định lại các thông tin mà khách hàng đưa ra và bổ sung thêm các thông tin liên quan khác như: thị trường sản phẩm, tình hình tài chính, uy tín của dự án và chủ đầu tư trên thị trường và với các ngân hàng khác… Các thông tin bên ngoài cũng có thể là những thông tin phi tài chính, tuy nhiên chúng lại khá quan trọng, rất hữu ích trong việc đánh giá tình trạng hoạt động thực tế của dự án, khả năng lãnh đạo, tình hình kinh doanh cũng như tương lai phát triển của dự án. Khả năng quan sát và óc phân tích chính là những yếu tố rất quan trọng giúp Cán bộ tín dụng có thể thu thập được nhiều thông tin phi tài chính có chất lượng như: Quan sát tình hình hoạt động ở văn phòng, kho bãi: xem xét xem mọi người có vẻ vội vã hay không? Nhà kho có lỗn xộn hay không? Các loại hàng hóa có biểu hiện gì như bị bụi phủ, cũ, kém chất lượng giống như đã nằm trong kho lâu ngày không? Quan sát kỹ lưỡng văn phòng làm việc của chủ đầu tư, ban quản lý dự án: mọi thứ sắp xếp trong phòng có thể hiện được tiềm lực kinh tế tương xứng của doanh nghiệp không? Hồ sơ tài liệu trong phòng có được sắp xếp gọn gàng trong tủ kính có khóa không? Tiếp xúc với nhân viên hay công nhân làm việc tại dự án: xem xét xem điều kiện làm việc của họ có thuận lợi không? Tinh thần làm việc của công nhân viên như thế nào? Lưu ý tới chỗ làm việc của các nhân viên kế toán: có chứng tỏ được rằng công việc kế toán được kiểm soát chặt chẽ không? Phương tiện làm việc của họ là gì? Có hiện đại hay không?... Tuy nhiên, trong điều kiện thông tin tràn lan thì việc các Cán bộ tín dụng phải biết sàng lọc, lựa chọn, cảnh giác trong việc tiếp nhận thông tin cũng là rất cần thiết. Điều này đòi hỏi sự rèn luyện của các Cán bộ tín dụng nói riêng, cũng như đòi hỏi sự quan tâm của các cấp lãnh đạo ngân hàng nói chung. Tăng cường kiểm tra, giám sát và quản lý các dự án đầu tư cho vay vốn. Đây là một nội dung rất quan trọng ảnh hưởng đến chất lượng của hoạt động quản lý rủi ro các dự án đầu tư, giúp phát hiện và ngăn ngừa sớm các rủi ro có thể phát sinh. Để nâng cao hiệu quả của hoạt động kiểm tra, giám sát dự án vay vốn, trước hết các Cán bộ tín dụng cần quán triệt các nguyên tắc đã được đề ra. Trên thực tế các nguyên tắc này tuy đã được quy định rất cụ thể trong Sổ tay tín dụng của ngân hàng công thương Việt Nam nhưng chưa được các Cán bộ tín dụng chấp hành nghiêm chỉnh. Xây dựng kế hoạch kiểm tra sử dụng vốn vay là rất cần thiết giúp cho Cán bộ tín dụng chủ động trong việc thực hiện kiểm tra dự án vay vốn, các cán bộ ở các bộ phận liên quan, lãnh đạo các phòng ban hoặc Ban giám đốc có cơ sở để đôn đốc và giám sát việc thực hiện của Cán bộ tín dụng, thống nhất về nội dung và phương thức kiểm tra sử dụng vốn vay trong toàn Chi nhánh. Nội dung chủ yếu của kế hoạch kiểm tra sử dụng vốn vay bao gồm: lịch kiểm tra và đề xuất phương thức kiểm tra sử dụng vốn vay thích hợp. Căn cứ đặc thù hoạt động cho vay của Chi nhánh, Trưởng/ Phó Phòng khách hàng doanh nghiệp chỉ đạo xây dựng kế hoạch kiểm tra sử dụng vốn vay của từng dự án đầu tư. Cán bộ tín dụng cần xây dựng kế hoạch kiểm tra sử dụng vốn vay riêng theo từng Hợp đồng tín dụng, chậm nhất là sau khi phát món vay đầu tiên. Trong trường hợp giải ngân bằng tiền mặt, việc kiểm tra sử dụng vốn vay có thể thực hiện theo từng lần giải ngân và có thể thực hiện ngay sau ngày giải ngân hoặc 5- 10 ngày kể từ ngày giải ngân Thực hiện kiểm tra sử dụng vốn vay. Cán bộ tín dụng cần chủ động thực hiện Kế hoạch kiểm tra việc sử dụng vốn vay. Tùy đặc điểm của từng dự án, từng khoản vay, Cán bộ tín dụng có thể lựa chọn các cách thức kiểm tra như sau: Kiểm tra hàng hóa lưu kho. Căn cứ khối lượng hàng hóa thực tế hiện có trong kho khách hàng, Cán bộ tín dụng tính toán và cân đối với giá trị tiền vay đã phát hành theo Hợp đồng tín dụng. Trong trường hợp tài sản hình thành từ vốn vay là loại hàng hóa khó kiểm đếm thực tế, Cán bộ tín dụng có thể dựa trên thẻ kho hoặc các loại giấy tờ khác liên quan có thể chứng minh về số lượng, mẫu mã loại hàng hóa đang lưu trong kho. Trường hợp dự án đang vay từ nhiều ngân hàng, Cán bộ tín dụng cần yêu cầu khách hàng báo cáo rõ ràng hàng hóa trong kho hình thành từ những nguồn vay nào, trong đó của Ngân hàng công thương Chi nhánh Thanh Xuân Hà Nội là bao nhiêu, đồng thời kiểm tra sự khớp đúng giữa thực tế với nội dung báo cáo. Kiểm tra khối lượng thi công xây dựng cơ bản, máy móc thiết bị. Thông thường, việc kiểm tra khối lượng thi công xây dựng cơ bản tương đối khó khăn vì vậy Cán bộ tín dụng chỉ có thể căn cứ vào thực trạng của công trình tại thời điểm kiểm tra lần này so với thời điểm kiểm tra lần trước (sự tiến triển của công trình) đồng thời kiểm tra các chứng từ liên quan đến việc nghiệm thu công trình, yêu cầu thanh toán của bên thi công… Đối với máy móc thiết bị, Cán bộ tín dụng kiểm tra chủng loại, số lượng, seri trên máy … có khớp với giấy tờ hóa đơn lưu trong hồ sơ phát tiền vay. Kiểm tra sổ sách, chứng từ. Đối với các trường hợp hàng hóa hình thành từ vốn vay đã được xuất đi, được bán cho đối tác hoặc đang trên đường vận chuyển… cán bộ tín dụng có thể áp dụng phương pháp kiểm tra các hóa đơn chứng từ xuất khẩu, hóa đơn bán hàng, phiếu xuất kho… Trong trường hợp này, Cán bộ tín dụng cần theo dõi việc thanh toán của dự án để thu hồi kịp thời hoặc tổ chức kiểm tra thực tế sau khi hàng đã về. Kiểm tra về việc mua các loại bảo hiểm cảu dự án. Đặc biệt là các bảo hiểm về tái sản, bảo hiểm cho người lao động. Để đề phòng khi rủi ro xảy ra, người gánh chịu tổn thất không phải là doanh nghiệp, dự án mà là các công ty bảo hiểm. Như vậy thì mặc dù rủi ro có thể xảy ra nhưng những tổn thất mà dự án gặp phải có thể không lớn, không ảnh hưởng nhiều tới tình hình sản xuất kinh doanh của dự án. Do đặc thù sản xuất kinh doanh của các dự án đầu tư khác nhau vì vậy để có thể kiểm tra tốt các nội dung như trên, các Cán bộ tín dụng cần phát huy tinh thần trách nhiệm cao, chủ động trong công việc nhằm lựa chọn áp dụng biện pháp kiểm tra thích hợp nhất. Bên cạnh việc kiểm tra vốn vay, Cán bộ tín dụng cũng cần quan tâm đến nguồn tiền thanh toán của dự án, yêu cầu chủ đầu tư, người mua khi thanh toán chuyển khoản về tài khoản khách hàng tại Chi nhánh để trả nợ tiền vay, không cho rút tiền mặt. Cán bộ tín dụng cũng cần kiểm soát tài khoản tiền gửi của khách hàng tránh hiện tượng tiền thanh toán về khách hàng không trả nợ mà sử dụng vào việc khác, khi nợ đến hạn không có khả năng trả cho ngân hàng. Nâng cao vai trò của kiểm tra, kiểm soát nội bộ. Công tác kiểm tra, kiểm soát nội bộ trong hoạt động cho vay các dự án đầu tư là một công cụ vô cùng quan trọng vì thông qua hoạt động này có thể phát hiện, ngăn ngừa và chấn chỉnh những sai sót trong quá trình thực hiện nghiệp vụ tín dụng. Bên cạnh đó, hoạt động kiểm tra, kiểm soát cũng phát hiện, ngăn chặn những rủi ro đạo đức do Cán bộ tín dụng gây ra. Để nâng cao vai trò của công tác kiểm tra, kiểm soát nhằm hạn chế rủi ro xảy ra với các dự án đầu tư vay vốn cần thực hiện một số biện pháp sau: Tăng cường những cán bộ có trình độ, đã qua nghiệp vụ tín dụng để bổ sung cho Phòng Kiểm tra nội bộ. Trong quá trình kiểm tra hoạt động tín dụng có thể tăng cường cán bộ làm trực tiếp từ bộ phận tín dụng hoặc quản lý rủi ro cùng phối hợp kiểm tra. Các cán bộ làm công tác kiểm tra nội bộ trước hết phải có kiến thức về các hoạt động của ngân hàng nói chung và về nghiệp vụ tín dụng nói riêng, kiến thức về pháp luật, tin học, ngoại ngữ đồng thời cũng phải nẳm rõ các kiến thức chuyên môn về kiểm toán. Vì vậy, phải thường xuyên đào tạo, nâng cao trình độ nghiệp vụ cho các cán bộ phòng Kiểm tra nội bộ. Không ngừng hoàn thiện và đổi mới phương pháp kiểm tra theo hướng từ kiểm tra riêng lẻ sang kiểm tra hệ thống và kiểm tra tính tuân thủ, áp dụng linh hoạt các biện pháp kiểm tra tùy thuộc vào từng thời điểm, từng đối tượng và mục đích kiểm tra. 3.2.8. Đầu tư công nghệ hiện đại hóa hoạt động ngân hàng dễ dàng phát hiện và kiểm soát rủi ro. Triển khai tích cực giai đoạn hai của dự án hiện đại hóa, chú trọng đến các vấn đề phát triển sản phẩm tiện ích mới trong quản trị rủi ro an ninh bảo mật. Đặc biệt quan tâm đến việc nâng cao quản lý rủi ro: có các công cụ kỹ thuật hỗ trợ phân tích đo lường, lượng hóa cụ thể các loại rủi ro để có biện pháp cụ thể hạn chế bớt các rủi ro nhằm đảm bảo thực hiện mục tiêu lợi nhuận của ngân hàng. Kiến nghị. Kiến nghị với Nhà nước. Với tư cách là người tạo lập môi trường kinh tế vĩ mô, Chính phủ cần xây dựng một hệ thống chính sách đồng bộ, nhất quán có định hướng lâu dài nhằm tạo môi trường kinh tế ổn định. Tạo lập và hoàn thiện môi trường pháp lý đảm bảo an toàn cho hoạt động tín dụng cũng như tạo điều kiện ổn định cho các dự án hoạt động. Đồng thời, chỉ đạo phối hợp các ban ngành liên quan hỗ trợ các ngân hàng trong việc xử lý các khoản nợ vay quá hạn tồn đọng. Xây dựng hệ thống các chỉ tiêu trung bình ngành. Việc xây dựng hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ của các ngân hàng thương mại còn gặp nhiều khó khăn vì việc tiếp cận các thông tin giúp cho việc đánh giá, xếp hạng khách hàng, dự án (các thông tin về triển vọng kinh doanh ngành, các chỉ số trung bình ngành về tỷ số tài chính, giá thành…) hiện vẫn còn nhiều hạn chế và hầu như là không có. Vì vậy, Chính phủ cần giao cho Tổng cục thống kê phối hợp với Bộ Tài chính xây dựng hệ thống các chỉ tiêu trung bình của các ngành kinh tế. Đây là thông tin hết sức quan trọng trong việc xem xét, đánh giá khách hàng trên cơ sở so sánh với trung bình ngành, qua đó giúp cho các ngân hàng thương mại có những quyết định đúng đắn trong hoạt động kinh doanh tín dụng, cấp vốn cho các dự án đầu tư. Tăng cường giám sát nội bộ và kiểm toán đối với doanh nghiệp và các dự án đầu tư. Chuẩn bị cho quá trình hội nhập tài chính quốc tế và khu vực, các doanh nghiệp cần phải tuân thủ chuẩn mực quốc tế trong lĩnh vực tài chính kế toán. Điều này đồng nghĩa với việc tăng cường vai trò và hoạt động kiểm toán và giám sát nội bộ. Các công ty kiểm toán không chỉ dừng lại ở việc cung cấp đơn thuần dịch vụ kiểm toán mà cần tư vấn cho các doanh nghiệp, dự án về tài chính, kế toán và giải pháp quản lý, góp phần lành mạnh hóa hoạt động của các doanh nghiệp, dự án. Nhà nước cũng cần sớm ban hành quy định kiểm toán bắt buộc đối với tất cả các loại hình doanh nghiệp, sẽ tạo điều kiện cho các ngân hàng có nguồn thông tin đáng tin cậy trong việc đưa ra quyết định cho vay hợp lý, an toàn. Kiến nghị với ngân hàng nhà nước. Ngân hàng Nhà nước cần nâng cao chất lượng và mở rộng phạm vi thông tin từ trung tâm thông tin tín dụng. Trung tâm thông tin tín dụng (CIC) là một trong những kênh thông tin giúp ngân hàng đối phó với những vấn đề thông tin không cân xứng, từ đó góp phần vào việc ngăn ngừa, hạn chế rủi ro. Tuy nhiên, thông tin mà trung tâm cung cấp trong những năm qua vẫn chưa đáp ứng được cả về số lượng lẫn chất lượng cho các ngân hàng thương mại. Đây là một trong những hạn chế tạo nên những khó khăn cho các ngân hàng thương mại trong quá trình quản lý rủi ro xảy ra đối với các dự án đầu tư. Vì vậy, Ngân hàng Nhà nước cần phối hợp chặt chẽ hơn nữa với các ngân hàng thương mại, trung tâm thông tin của các bộ, các cơ quan quản lý về doanh nghiệp để làm giàu thông tin của mình. Bên cạnh đó, sửa đổi, bổ sung quy chế tổ chức hoạt động của trung tâm theo hướng bắt buộc các ngân hàng thành viên phải thực hiện vai trò cung cấp thông tin của mình, đảm bảo chất lượng, trung thực, đầy đủ. Ngoài ra, Ngân hàng Nhà nước cũng cần liên hệ với các tổ chức nước ngoài để khai thác thông tin về các đối tác nước ngoài có ý định đầu tư vào Việt Nam để kịp thời thông tin cho các ngân hàng thương mại trong nước, hạn chế những rủi ro đáng tiếc do thiếu thông tin. Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát của Ngân hàng Nhà nước đối với các ngân hàng thương mại. Trên thực tế, hoạt động của ngân hàng thương mại sẽ càng phát huy hiệu quả khi nó được kiểm tra, giám sát chặt chẽ. Kết quả của việc kiểm tra chính là những dấu hiệu vô cùng quan trọng trong việc ngăn chặn những xu hướng tiêu cực có thể xảy ra. Sự kiểm soát thường xuyên của Thanh tra Ngân hàng Nhà nước và sự kiểm toán định kỳ của cơ quan kiểm toán phải được thực hiện cùng với các biện pháp bắt buộc ngân hàng thương mại tuân thủ nghiêm túc các kiến nghị hay xử lý sau công tác thanh tra, kiểm tra. Với môi trường cạnh tranh ngày càng gay gắt thì nguy cơ dẫn đến rủi ro càng lớn, chỉ đơn độc một ngân hàng thì không thể khắc phục được. Cho nên cần phải có hình thức trao đổi kinh nghiệm, hợp tác giữa các ngân hàng trong công tác quản lý rủi ro các dự án đầu tư. Để làm được điều này cần có công tác chỉ đạo trực tiếp của Ngân hàng Nhà nước tới toàn hệ thống ngân hàng dưới hình thức tổ chức các buổi hội thảo và các khóa đào tạo, bồi dưỡng, cập nhật kiến thức. Kiến nghị với Ngân hàng công thương Việt Nam. Với tư cách là đơn vị chủ quản của toàn bộ hệ thống Ngân hàng công thương, Ngân hàng công thương Việt Nam cần tiếp tục xây dựng và hoàn thiện một hệ thống quản lý rủi ro định hướng thông lệ quốc tế. Cần sớm nghiên cứu và xây dựng mô hình lượng hóa cụ thể mức độ rủi ro của dự án cũng như mô hình định lượng để xác định số vốn được vay trên cơ sở mức độ rủi ro của dự án, xây dựng mô hình đánh giá và cảnh báo sớm rủi ro để áp dụng chung cho toàn hệ thống. Ngân hàng công thương cần sớm xây dựng và đưa vào vận hành hệ thống thông tin quản lý đảm bảo cập nhật, chính xác và đầy đủ. Hệ thống thông tin này được tập trung tại Hội sở chính, kết nối trực tuyến với các chi nhánh trên cơ sở mạng máy tính nội bộ. Nội dung hệ thống này bao gồm tất cả các thông tin cần thiết cho hoạt động quản lý rủi ro của ngân hàng. Với trình độ công nghệ chưa đồng bộ giữa các ngân hàng như hiện nay thì Ngân hàng công thương có thể thiết kế những mẫu biểu thông tin riêng phù hợp với xu hướng phát triển công nghệ riêng của mình trong đó bám sát các nội dung khoa học chung của các vấn đề báo cáo và đặc biệt phải bám sát quy định chung của quốc tế. Mặt khác, hệ thống thông tin này lại còn phải phù hợp với các yêu cầu báo cáo chung của Ngân hàng Nhà nước. Ngân hàng công thương cần tạo điều kiện cho các Chi nhánh trong công tác đào tạo cán bộ tín dụng và cán bộ quản lý tín dụng. Ngân hàng công thương cần thường xuyên tổ chức các khóa đào tạo về các lĩnh vực chuyên môn cung cấp nền tảng kiến thức toàn diện cho các Cán bộ tín dụng. LỜI KẾT Hoạt động kinh doanh nói chung và hoạt động đầu tư nói riêng luôn gắn liền và tiềm ẩn rất nhiều rủi ro. Trong bối cảnh nền kinh tế toàn cầu đang khủng hoảng trầm trọng đặt các doanh nghiệp trước các nguy cơ rủi ro ngày một cao hơn và nặng nề hơn. Ngân hàng là người cho các doanh nghiệp vay vốn để tiến hành các dự án đầu tư, do vậy cũng phải đối mặt với rất nhiều rủi ro. Khi các dự án đầu tư gặp rủi ro sẽ ngay lập tức ảnh hưởng tới ngân hàng. Trong bối cảnh đó, đòi hỏi không những chỉ các doanh nghiệp phải chú trọng tới công tác quản lý rủi ro các dự án đầu tư mà bản thân các ngân hàng cũng phải tổ chức quản lý rủi ro thật tốt các dự án này để có thể tồn tại lâu dài. Trên cơ sở lý luận về rủi ro, qua thực tiễn triển khai các biện pháp hạn chế rủi ro xảy ra đối với các dự án đầu tư tại Ngân hàng công thương Chi nhánh Thanh Xuân Hà Nội và các kết quả đã đạt được, em đã đánh giá, từ đó rút ra những thành công, hạn chế, nguyên nhân của hoạt động này tại Chi nhánh. Kết quả là đã đề ra một số giải pháp và kiến nghị có tính khả thi nhằm tăng cường quản lý rủi ro đối với các dự án đầu tư tại Ngân hàng công thương Chi nhánh Thanh Xuân Hà Nội. Rất mong rằng những giải pháp và kiến nghị của em sẽ có thể phần nào đóng góp được cho Ngân hàng trong công tác quản lý rủi ro các dự án đầu tư nói riêng cũng như cho sự phát triển của Ngân hàng nói chung. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO Vũ Hoài Chang (2005), “ Nâng cao năng lực quản trị rủi ro tín dụng trong các ngân hàng thương mại Việt Nam”, Tạp chí khoa học và đào tạo ngân hàng, số 8, tr. 36 – 42. Nguyễn Đức Đương (2005), “Thông tin tín dụng trong quản trị rủi ro tín dụng tại các ngân hàng thương mại Việt Nam”, Tạp chí khoa học và đào tạo ngân hàng, số 10, tr 1 – 6. PGS.TS. Phan Thị Thu Hà (2007), Ngân hàng thương mại, Nhà xuất bản Đại học Kinh tế Quốc dân. TS. Nguyễn Hồng Minh (2007), Bài giảng “Quản trị rủi ro trong đầu tư”. Luật các tổ chức tín dụng số 07/1999/QH10 do Quốc hội thông qua ngày 12/12/1997 và lậu sửa đổi bổ sung các tổ chức tín dụng số 20/2004 do Quốc hội thông qua ngày 15/06/2004 Luật đầu tư số 59/2005/QH 11 ngày 29/11/2005 Ngân hàng công thương Việt Nam (2004), Sổ tay tín dụng. Ngân hàng công thương Việt Nam (2003), Quy trình thẩm định dự án đầu tư. Ngân hàng công thương Việt Nam, Văn bản hướng dẫn cho vay các dự án trong nền kinh tế tại chi nhánh. Ngân hàng công thương Chi nhánh Thanh Xuân (2007), 10 năm xây dựng và phát triển. Ngân hàng công thương Chi nhánh Thanh Xuân, Báo cáo tổng kết hoạt động kinh doanh năm 2008 MỤC LỤC DANH MỤC SƠ ĐỒ, BẢNG BIỂU Sơ đồ 1: Cơ cấu tổ chức ngân hàng công thương Thanh Xuân 29 Sơ đồ 2: Qui trình tiếp nhận hồ sơ dự án 40 Sơ đồ 3: Qui trình cho vay theo dự án tại chi nhánh 41 ngân hàng công thương Thanh Xuân4 41 Sơ đồ 4: Sơ đồ quản lý rủi ro tín dụng. 63 Bảng 1: Bảng kết quả huy động vốn 2006 - 2008 35 Bảng 2: Bảng kết quả huy động vốn cụ thể từng hạng mục 2006-2008 36 Bảng 3: Báo cáo kết quả kinh doanh 2006 – 2008 37 BIỂU 1: TỔNG DƯ NỢ CHO VAY THEO DỰ ÁN 74 BIỂU 2: TỶ LỆ NỢ QUÁ HẠN CỦA DỰ ÁN ĐẦU TƯ 74 Lêi cam ®oan Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của tôi sinh viên Nguyễn Thị Ngọc Yến. Các số liệu, thông tin nêu trong chuyên đề thực tập hoàn toàn trung thực và có nguồn gốc rõ ràng. Nếu có bất cứ sự gian dối nào tôi xin chịu trách nhiệm Sinh viên Nguyễn Thị Ngọc Yến NHẬN XÉT CỦA GIÁO VIÊN HƯỚNG DẪN ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc2207.doc
Tài liệu liên quan