mở đầu
1/ Lý do chọn đề tài.
Đề tài được xác định là xuất phát từ những lý do sau:
- Về mặt lý luận: Quản lý nhà nước có đặc trưng phổ biến là quản lý bằng pháp luật. Bởi vì, Nhà nước phải “hoá thân” vào pháp luật. Nhà nước pháp quyền càng phải như vậy. Nhà nước tồn tại qua pháp luật. ý chí của nhà nước muốn trở thành ý chí chung, được xã hội thừa nhận, phục tùng phải được chuyển hoá thành pháp luật. Người dân thấy nhà nước, quan hệ với nhà nước ở mọi lúc, mọi nơi, trong mọi công việc đều phả
44 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1465 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Quản lý nhà nước bằng pháp luật đối với Thị trường và thực hiện chức năng kiểm tra, kiểm soát Thị trường, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
i bằng các hành vi xử sự mà pháp luật dẫn dắt. Và như thế, quản lý nhà nước, quản lý nhà nước bằng pháp luật cũng là một. Lẽ đương nhiên nhà nước còn sử dụng nhiều phương tiện, công cụ quản lý khác. Song các công cụ, phương tiện quản lý đó cũng phải được tuyên bố sử dụng công khai, phải thông qua pháp luật. Thế nhưng, về mặt lý luận, vấn đề quản lý nhà nước bằng pháp luật, sử dụng kết hợp giữa pháp luật với công cụ, phương tiện khác trong quản lý nói chung, quản lý kinh tế, thị trường nói riêng ở Việt Nam vẫn chưa được nghiên cứu toàn diện. Sự lúng túng trong hoạch định chính sách của các cơ quan có thẩm quyền quản lý, sự thay đổi liên tục của hệ thống pháp luật hiện hành thời gian qua cho thấy rõ nhận định này.
- Về mặt thực tiễn: Quản lý nhà nước bằng pháp luật về kinh tế bao gồm nhiều lĩnh vực khác nhau, trong đó có quản lý thị trường, thực hiện chức năng kiểm tra, kiểm soát thị trường của các cơ quan quản lý thị trường. Đó là chức năng quản lý khó khăn nhất, bởi nó hàng ngày, hàng giờ phải đối mặt với những tiêu cực của thị trường; hàng ngày hàng giờ phải xử lý các mối quan hệ chứa đựng đầy mâu thuẫn giữa ý chí chung nhằm thiết lập trật tự quản lý thị trường với ý chí, khát vọng lợi nhuận, bất chấp mọi kỷ cương, pháp luật của không ít nhà doanh nghiệp, doanh nhân. Thực tiễn trên phạm vi toàn quốc cũng như từng địa phương, ở cấp trung ương, từng Bộ, Ngành, từng đối tượng, quan hệ quản lý đều cho thấy tường tận điều đó.
Chặn đứng những tiêu cực trong hoạt động thị trường, chặn đứng tình trạng buôn lậu, gian lận thương mại, chốn lậu thuế, hàng giả, hàng kém chất lượng, đưa các quan hệ thị trường, kinh doanh vào một trật tự quản lý là mục tiêu, nhiệm vụ quan trọng, thường xuyên của nhà nước, trước hết là của các cơ quan quản lý thị trường.
Từ thực trạng trên, vấn đề nghiên cứu “quản lý nhà nước bằng pháp luật đối với thị trường và thực hiện chức năng kiểm tra, kiểm soát thị trường” là hết sức cần thiết, cấp bách hiện nay.
2/ Mục đích và nhiệm vụ của luận văn.
- Về mục đích: Luận văn trên cơ sở phân tích lý luận và thực tiễn để đề xuất và luận chứng giải pháp cơ bản tăng cường quản lý nhà nước bằng pháp luật đối với việc thực hiện chức năng kiểm tra, kiểm soát thị trường.
- Về nhiệm vụ, phù hợp với mục đích đặt ra, luận văn thực hiện các nhiệm vụ sau:
Một: Phân tích những cơ sở lý luận của quản lý nhà nước bằng pháp luật đối với thị trường.
Hai: Phân tích chức năng kiểm tra, kiểm soát trong quản lý nhà nước bằng pháp luật đối với thị trường.
Ba: Phân tích cơ sở pháp luật của quản lý nhà nước đối với thị trường và kiểm tra, kiểm soát thị trường.
Bốn: Phân tích, đánh giá thực trạng vi phạm pháp luật về quản lý thị trường và thực trạng kiểm tra, kiểm soát thị trường; những tồn tại, hạn chế và nguyên nhân.
Năm: Đề xuất và luận chứng các giải pháp góp phần tăng cường thực hiện chức năng kiểm tra, kiểm soát thị trường của cơ quan quản lý thị trường ở nước ta hiện nay.
3/ Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu.
Luận văn dựa trên cơ sở lý luận của Chủ nghĩa Mác - Lênin về nhà nước và pháp luật, về quản lý nhà nước; đường lối, chủ trương của Đảng về xây dựng, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
Để thực hiện mục tiêu và nhiệm vụ đặt ra luận văn sử dụng các phương pháp của triết học Mác - Lênin, trong đó chú trọng phương pháp kết hợp lý luận với thực tiễn, phương pháp phân tích và tổng hợp, lịch sử cụ thể. Ngoài ra, luận văn cũng sử dụng một số phương pháp khác của lý thuyết hệ thống, phương pháp thống kê, nhất là phương pháp xã hội học.
4/ ý nghĩa của luận văn.
Thực hiện luận văn, với kết quả đạt được sẽ có ý nghĩa sau;
Một là: Qua thực hiện luận văn tác giả có cơ hội vận dụng lý luận thu nhận được trong thời gian học tập tại Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh vào nghiên cứu một vấn đề thực tiễn cấp bách, từ đó báo cáo kết quả học tập với Học viện và cơ quan công tác, rèn luyện và nâng cao được năng lực và phương pháp công tác của bản thân.
Hai là: Luận văn đóng góp những giải pháp nhằm tăng cường quản lý nhà nước bằng pháp luật đối với việc thực hiện chức năng kiểm tra, kiểm soát thị trường, loại trừ, ngăn chặn và xử lý nghiêm các hành vi vi phạm pháp luật thị trường, góp phần thực hiện các mục tiêu kinh tế –xã hội trong chiến lược phát triển do Đảng đề ra tại Đại hội IX
5/ Kết cấu của luận văn.
Luận văn ngoài mục lục, mở đầu, kết luận, phụ lục, danh mục tài liệu tham khảo; phần nội dung gồm 2 chương, 5 tiết.
*
* *
Luận văn là kết quả của sự cố gắng của bản thân, sự giúp đỡ tận tình của các thầy cô giáo Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, trực tiếp là các thầy cô giáo Khoa Nhà nước và Pháp luật và sự giúp đỡ, chia sẻ của các đồng sự. Cho phép tôi được bầy tỏ sự trân trọng và cảm ơn về tất cả những điều tốt đẹp đó.
Chương 1 : Cơ sở lý luận về quản lý và quản lý nhà nước bằng pháp luật đối với thị trường và thực hiện chức năng kiểm tra, kiểm soát thị trường.
1.1.Quản lý và quản lý nhà nước bằng pháp luật đối với thị trường.
1.1.1. Quản lý và quản lý nhà nước bằng pháp luật.
Thứ nhất: Các quan niệm về quản lý.
Quản lý là một thuật ngữ được sử dụng phổ biến để chỉ một hoạt động đặc thù xuất hiện cùng với sự xuất hiện xã hội loài người. Con người trong tiến trình lịch sử tiến hoá của mình vừa tiến hành các hoạt động thực tiễn quản lý, vừa nghiên cứu quản lý, cốt để quản lý tốt hơn. Trong tiến trình đó đã xuất hiện nhiều tư tưởng, học thuyết quản lý, gắn với các tên tuổi lỗi lạc mà nhân loại luôn ngưỡng mộ:
- Khổng tử (551-479.TCN) – nhà triết gia lỗi lạc của Trung Quốc thời cổ đại cho rằng nghĩa vụ quản lý là thuộc về các bậc quân tử, những người đạt được đạo nhân, thấm nhuần các giá trị: “nhân, lễ, nghĩa, trí, dũng”, có khả năng “tề gia, trị quốc, bình thiên hạ”. Học thuyết quản lý của Khổng Tử chính vì thế lấy nhân, đức làm gốc, sử dụng và đề cao các chuẩn mực đạo đức trong dùng người và cai trị. Ông nhấn mạnh: Nhà quản lý – người cai trị mà “ nương tựa vào điều lợi mà làm là hay nảy sinh ra điều oán”. “Nhà quản lý phải nghiêm khắc với mình, rộng lượng với người, không ỷ vào chức quyền mà tranh lợi cấp dưới, có như thế xã hội mới có cái lợi lâu dài”. Ông cũng thường nói: Dùng hình luật để cai trị thì chỉ làm cho người ta sợ, khi có điều kiện lẩn tránh thì người ta vẫn làm. Dùng đức mà trị thì lâu bền, bởi nó đi vào lòng người, cảm hoá con người. Tư tưởng đó của Khổng Tử cho đến ngày nay vẫn là một giá trị lớn trong quản lý.
Đối lập với Khổng Tử là tư tưởng pháp trị của Hàn Phi Tử.
Hàn Phi cho rằng vua không cần “hiền” mà cần “thế” ( quyền lực), bởi " hiền tài như vua Nghiêu khi chưa làm vua nói không ai nghe, bạo tàn như vua Kiệt nhưng vì là vua nên mọi người không dám trái lệnh". Từ sự nhận định tinh tế đó, Hàn Phi Tử đi đến quan điểm pháp trị trong quản lý, với việc sử dụng quyền lực công khai, nhưng làm cho nó có sức mạnh khổ biến, dưới hình thức các đạo luật chung cho cả kẻ cai trị và người bị trị. Luận về điều này Hàn Phi Tử cho rằng đức trị của Nho giáo đẹp, nhưng kém thực tế; cai trị bằng pháp luật, trọng thưởng phạt nghiêm minh, đúng phép nước; vua, chúa phải vô tư, công minh khi sử dụng pháp luật; phải coi pháp luật là những thứ dùng làm tiêu chuẩn để phân biệt đúng- sai, phải- trái, như cái mực, cái quy, cái củ để điều hành thì xã hội thái bình. Hàn Phi đưa ra các nguyên tắc của pháp luật với tính cách là công cụ cai trị, quản lý: 1,pháp luật có tính kịp thời; thời thay mà pháp luật không đổi thì nước loạn; đời đã thay đổi mà cấm lệnh không biến thì nước bị chia cắt. Cho nên thánh nhân trị dân thì pháp luật theo thời đó mà đổi, cấm lệnh cũng với đời mà biến; 2, pháp luật phải soạn sao cho dân dễ biết, dễ thi hành, “pháp luật không gì bằng thống nhất, cố định để cho dân dễ hiểu”; "cái gì mà kẻ sĩ có óc tinh tế mới biết được thì không nên ban làm lệnh, vì dân không phải người nào cũng có óc tinh tế cả. Cái gì mà bậc hiền mới làm được thì không nên dùng phép tắc là vì không phải người dân nào cũng hiểu cả"; 3," pháp luật phải công bằng, bênh vực kẻ yếu, thiểu số”, vì thế, "trị nước thì minh định pháp luật, đặt ra hình phạt nghiêm khắc để cứu loạn cho dân chúng, trừ cho thiên hạ khiến cho kẻ mạnh không lấn kẻ yếu, đám đông không hiếp đáp số ít, người già được hưởng hết tuổi trời, bọn trẻ mồ côi được nuôi lớn, biên giới không bị xâm phạm, vua tôi thân nhau, cha con bảo vệ nhau, không lo bị giết hay bị giặc cầm tù, đó cũng là cái công cực lớn vậy”; 4, pháp luật phải có tính phổ biến, được công khai, truyền bá tới tất cả mọi người để không một người dân nào có thể viện cớ không biết nên nỡ phạm luật. Ông yêu cầu các quan cai trị phải “lấy luật pháp mà dạy cho dân”, pháp luật phải như một “phép công” điều khiển hành vi của mọi người.
- ở phương Tây, các quan niệm về quản lý ngay từ thời cổ đại cũng đã hết sức phát triển, gắn liền với các tên tuổi lớn, những triết gia vĩ đại mà tư tưởng của họ đã đặt mốc cho sự ra đời của nhiều học thuyết quản lý nổi tiếng sau này. Đó là Arixtốt, Platon, Xixêron…
- Trong xã hội tư sản quản lý được nghiên cứu dưới nhiều góc độ khác nhau, học thuyết quản lý luôn kề cận với khoa học chính trị, khoa học kinh tế, hành chính và điều khiển học, vì lẽ đó nó mang tính toàn diện và thực dụng. F. Taylo (1856-1915) cho rằng “ quản lý là biết được chính xác điều bạn muốn người khác làm, và sau đó hiểu được rằng họ đã hoàn thành công việc một cách tốt nhất và rẻ nhất”. Theo ông, mục tiêu cơ bản nhất của quản lý doanh nghiệp là giải quyết mối mâu thuẫn gay gắt giữa chủ và thợ để cùng đi tới mục tiêu chung là nâng cao hiệu quả và năng suất lao động. Như vậy, mục tiêu kinh tế là cái cốt của quản lý của Taylo; quản lý của Taylo là quản lý con người kinh tế, với các nguyên tắc: bố trí lao động một cách khoa học để thay thế các thao tác lạc hậu, kém hiệu suất; lựa chọn công nhân một cách khoa học; đào tạo, huấn luyện và bồi dưỡng họ; gắn công nhân với công nghệ sản xuất; phân công đều công việc giữa người quản lý và công nhân. Cái gắn bó giữ họ là lợi nhuận. Quản lý như thế đã tuyệt đối hoá lợi ích vật chất, coi nhẹ động lực tinh thần của con người.
Đối ngược với học thuyết quản lý của Taylo, nhiều nhà khoa học quản lý tư sản đề xuất học thuyết quản lý con người xã hội làm trọng tâm, với sự coi trọng cả lợi ích kinh tế, cả lợi ích tinh thần của họ. Nhìn chung, các quan niệm và học thuyết quản lý tư sản đã khẳng định tính khách quan của quản lý cả trên bình diện xã hội, cả với một tổ chức, và nhất là đối với doanh nghiệp. Quản lý do đó được đồng nhất với các hoạt động điều khiển, chỉ huy một tổ chức của con người, với từng con người bằng các mệnh lệnh mang tính quyền lực phổ biến, trên cơ sở các nguyên tắc phổ biến, được thực hiện từ các trung tâm quản lý.
Sự chật hẹp trong các học thuyết quản lý tư sản chính là ở chỗ nó chỉ nhằm phục vụ cho lợi ích của giai cấp tư sản. Và do đó, khi đem áp dụng vào xã hội nó đã tỏ ra bế tắc trên nhiều phương diện, nhất là trong việc thực hiện các quyết định quản lý.
- Quan niệm quản lý của chủ nghĩa Mác - Lênin .
Học thuyết Mác - Lênin quan niệm quản lý là tất yếu, bắt nguồn từ sự phân công, hợp tác lao động. Sự phân công, hợp tác lao động nhằm mục đích mang lại hiệu quả nhiều hơn, năng suất lao động cao hơn trong công việc đòi hỏi phải có sự chỉ huy phối hợp, điều hành, kiểm tra, điều chỉnh, phải có người đứng đầu. Các Mác chỉ rõ; “Tất cả mọi lao động xã hội trực tiếp hay lao động chung nào tiến hành trên quy mô tương đối lớn, thì ít nhiều cũng cần đến một sự chỉ đạo để điều hoà những hoạt động cá nhân và thực hiện những chức năng chung phát sinh từ sự vận động của toàn bộ cơ thể sản xuất khác với sự vận động của những khí quan độc lập của nó. Một nghệ sỹ vĩ cầm tự điều khiển mình, còn một dàn nhạc thì cần phải có nhạc trưởng” [1, tr 480].
Phát triển tư tưởng của Mác, Ănghen, VI. Lênin, các nhà khoa học quản lý và pháp lý xã hội chủ nghĩa đã xây dựng lên những luận cứ khoa học của quản lý, qua đó làm rõ bản chất, mục tiêu, các nguyên tắc, vai trò của nhà nước và hệ thống chính trị, của quần chúng nhân dân trong quản lý dưới chủ nghĩa xã hội. Phù hợp với những cơ sở đó, khoa học quản lý xã hội chủ nghĩa đã đi sâu nghiên cứu một loạt các vấn đề quan trọng về lý luận quản lý, đặc biệt là các vấn đề:
- Chủ thể quản lý, là người chỉ đạo, quản lý điều khiển, chỉ huy quá trình, hoạt động quản lý .
- Đối tượng quản lý là người (hoặc vật), tổ chức chịu sự quản lý của chủ thể quản lý.
- Nội dung, hình thức quản lý.
- Khách thể quản lý là mục tiêu, mục đích mà chủ thể quản lý hướng đến.
- Công cụ quản lý là phương tiện gắn với các biện pháp, cách thức mà chủ thể quản lý sử dụng để tác động lên đối tượng quản lý.
- Môi trường quản lý là các yếu tố tạo điều kiện thuận lợi để quá trình quản lý đạt được mục tiêu, mục đích có hiệu quả cao nhất.
Trong chủ nghĩa xã hội, quản lý luôn là một quá trình mang bản chất xã hội, gắn với tổ chức xã hội, gắn với một lĩnh vực hoạt động cụ thể, cũng luôn gắn với đào tạo, giáo dục, huấn luyện con người, với quá trình lao động tạo ra của cải, vật chất, vì con người và lợi ích của con người.
Thứ hai: Quản lý nhà nước bằng pháp luật theo quan điểm của Chủ nghĩa Mác-Lênin và của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Quản lý nhà nước bằng pháp luật là quản lý mà chủ thể là nhà nước, cụ thể là các cơ quan quản lý từng lĩnh vực nhất định, trong đó pháp luật là cơ sở, công cụ quản lý, thể hiện các quyết định quản lý và bảo đảm thực hiện các quyết định đó.
Tư tưởng về nhà nước quản lý bằng pháp luật của chủ nghĩa Mác - Lênin gắn liền với các quan điểm duy vật biện chứng về nhà nước và pháp luật. Theo Các Mác và Ph.Ănghen, nhà nước là sản phẩm của của xã hội; Nhà nước thiết lập một “quyền lực công cộng”, là một bộ máy cai trị, quản lý. Bộ máy này dường như tách ra ngoài xã hội, đứng trên xã hội, bao gồm một hệ thống các cơ quan quản lý các lĩnh vực của đời sống xã hội. Nhà nước sử dụng quyền lực công cộng để ra các quyết định quản lý, thực hiện các chức năng đối nội, đối ngoại bằng cách ban hành pháp luật và bắt buộc mọi tổ chức, mọi thành viên trong xã hội phải thực hiện.
Do bản chất kiểu mới của nhà nước xã hội chủ nghĩa mà quản lý nhà nước bằng pháp luật có bản chất hoàn toàn khác với nhà nước bóc lột. Trong tác phẩm nổi tiếng “Những nhiệm vụ trước mắt của chính quyền Xô -Viết”, VI. Lênin đã nhấn mạnh: “ Ngày nay, nhiệm vụ quản lý đã trở thành nhiệm vụ chủ yếu và trung tâm”, “ Chúng ta giành được nước Nga từ tay bọn nhà giàu để giao lại cho những người nghèo, từ tay bọn bóc lột để giao lại cho những người lao động. Bây giờ chúng ta phải quản lý nước Nga”, và “ chúng ta phải suy nghĩ kỹ rằng muốn quản lý được tốt, thì ngoài cái tài biết thuyết phục, biết chiến thắng trong cuộc nội chiến, còn cần phải biết tổ chức trong lĩnh vực thực tiễn ” [1, tr 209-210]. Người đặc biệt nhấn mạnh công việc “kiểm kê, kiểm soát” trong quản lý nhà nước. Người cho rằng: “ Điều quyết định là: tổ chức cho toàn dân kiểm kê và kiểm soát một cách hết sức chặt chẽ sự sản xuất và phân phối sản phẩm ”, rằng: “ Nếu nhà nước không tiến hành kiểm kê và kiểm soát toàn diện đối với việc sản xuất và phân phối các sản phẩm, thì chính quyền của những người lao động, nền tự do của họ sẽ không thể nào duy trì được và nhất định họ sẽ phải phải sống trở lại dưới ách của chủ nghĩa tư bản” [2, tr 224]. Nhấn mạnh vai trò của nhân dân lao động trong quản lý nhà nước VI. Lênin viết: “Chủ nghĩa xã hội không thể do một số ít người tiến hành mà phải do hàng chục triệu người tham gia”.
Kế thừa những tư tưởng mác xít về quản lý nhà nước trong nhà nước xã hội chủ nghĩa, trong thời kỳ đổi mới Đảng Cộng sản Việt Nam đã khẳng định; “Chúng ta đã xác định mối quan hệ Đảng lãnh đạo, nhân dân làm chủ, Nhà nước quản lý thành cơ chế chung trong quản lý toàn bộ xã hội” [3, tr 109], trong đó, “công tác quản lý không phải việc riêng của những người quản lý chuyên nghiệp, mà là sự nghiệp của nhân dân. Trong công tác quản lý của các cơ quan nhà nước, dù quản lý hành chính hay quản lý sản xuất, kinh doanh, quản lý trật tự, trị an, đều cần có sự tham gia của quần chúng”, rằng phải đảm bảo phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra là nền nếp hàng ngày của xã hội mới, thể hiện chế độ nhân dân lao động quản lý nhà nước mình” [1, tr112]. Mục đích, cũng là khách thể sâu xa nhất của quản lý nhà nước “là sự đổi mới sâu sắc trong mọi lĩnh vực của đời sống đất nước; là tạo cho chủ nghĩa xã hội một hình thức tổ chức mới, hiện đại nhất; là sự phát huy cao nhất tính nhân đạo xã hội chủ nghĩa ở mọi lĩnh vực đời sống xã hội : chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội [2, tr 89].
Trong bối cảnh cả nước đang bằng mọi nỗ lực để thực hiện Nghị quyết Đại hội IX, xây dựng nhà nước pháp quyền, thực hiện quản lý nhà nước bằng pháp luật đòi hỏi phải thay đổi về cơ bản mối quan hệ giữa nhà nước và pháp luật. Quản lý nhà nước bằng pháp luật trong nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân đòi hỏi trước hết Nhà nước phải tôn trọng pháp luật, bị ràng buộc bởi pháp luật, mọi hoạt động quản lý của nhà nước phải trong khuôn khổ pháp luật, chỉ được làm những gì mà pháp luật cho phép. Quá trình quản lý nhà nước do vậy là quá trình tạo dựng cơ sở pháp luật, đưa pháp luật vào cuộc sống bằng chính sự tuân thủ của Nhà nước, bằng việc bảo đảm sự thi hành pháp luật nghiêm minh của mọi đối tượng quản lý.
Thứ ba: Đặc trưng cơ bản của nhà nước bằng pháp luật.
Từ những cơ sở lý luận trên cho phép rút ra một số đặc trưng cơ bản sau của quản lý nhà nước bằng pháp luật:
- Quản lý nhà nước được bắt đầu bằng việc định ra các thể chế pháp lý thể hiện ý chí chung của xã hội nhằm tạo cơ sở chuẩn mực cho các hoạt động quản lý nhà nước cụ thể, để đánh giá chất lượng, hiệu quả quản lý, cho việc xử lý vi phạm trật tự quản lý. Đó cũng là sự tạo dựng ra công cụ, phương tiện pháp luật trong quản lý, tạo ra yếu rõ quyết định của cơ chế quản lý nhà nước.
- Yếu tố quan trọng của quản lý nhà nước bằng pháp luật là quyền lực quản lý. Đó là quyền lực có giới hạn, trong khuôn khổ pháp luật. Trong nhà nước xã hội chủ nghĩa, quyền lực nhà nước được sử dụng để thực hiện các các quyết định quản lý, là quyền lực của nhân dân, do nhân dân uỷ nhiệm cho cơ quan nhà nước theo thủ tục do pháp luật quy định. Việc thực hiện quyền lực đó phải bảo đảm tính thống nhất, trên cơ sở có sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan quản lý nhà nước, không đối trọng, triệt tiêu hiệu quả quản lý của nhau.
- Khách thể của quản lý nhà nước là trật tự quản lý nhà nước từng lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội. Đạt được các khách thể này cũng đồng nghĩa với đạt được mục tiêu của quản lý, thiết lập và duy trì được trật tự, ổn định xã hội, đưa xã hội phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
- Quản lý nhà nước bằng pháp luật là quản lý được thực hiện trên cả ba lĩnh vực lập pháp, hành pháp và tư pháp. Mỗi lĩnh vực quản lý đó có tính độc lập nhưng quan hệ chặt chẽ với nhau trong một chu trình quản lý thống nhất.
Trong chu trình quản lý đó, quản lý hành chính bằng pháp luật thể hiện tập trung bản chất, đặc điểm của quản lý trong nhà nước xã hội chủ nghĩa, quyết định việc thực hiện mục tiêu của quản lý. Quản lý đó có các đặc điểm sau:
+ Chủ thể quản lý là toàn bộ các cơ quan, tổ chức trong bộ máy hành chính nhà nước. Đó là những cơ quan chấp hành của cơ quan dân cử, có chức năng thống nhất quản lý các nhiệm vụ kinh tế – xã hội, hoạt động liên tục, mang tính pháp lý và nghiệp vụ hành chính cao.
+ Quyền lực hành chính trong quản lý bằng pháp luật là quyền lực đơn phương, trực tiếp, trong nhiều trường hợp buộc đối tượng quản lý chấp hành vô điều kiện. Vì lẽ đó, quản lý nhà nước bằng pháp luật phải bị đặt trong khuôn khổ của pháp luật một cách chặt chẽ nhất, và phải thường xuyên thanh tra, kiểm tra sự chấp hành của các cơ quan quản lý hành chính.
+ Quản lý hành chính phục vụ cho các chức năng của nền hành chính, tuân thủ các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của nền hành chính, bao gồm các nguyên tắc: Đảng lãnh đạo; nguyên tắc nhân dân lao động tham gia ngày càng đông đảo vào quản lý; nguyên tắc tập trung dân chủ; nguyên tắc bình đẳng giữa các dân tộc; nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa; nguyên tắc quản lý theo ngành kết hợp với quản lý theo địa phương, vùng lãnh thổ; nguyên tắc quản lý theo ngành kết hợp với quản lý theo chức năng.
+ Quản lý hành chính nhà nước bằng pháp luật được thực hiện theo những hình thức và phương pháp quản lý đặc thù riêng.
Về hình thức, gồm: 1, hình thức ban hành văn bản quy phạm pháp luật để chấp hành Hiến pháp, luật, pháp lệnh, nghị quyết của cơ quan lập pháp và cơ quan hành chính cấp trên, đồng thời để đặt ra chuẩn mực trực tiếp cho quản lý; 2, hình thức ban hành văn bản áp dụng pháp luật, là hình thức thực hiện văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan hành chính nhà nước để ra các quyết định quản lý cá biệt giải quyết các trường hợp ,vụ việc cụ thể phát sinh trong quản lý. Có thể nói đây là hình thức phổ biến và quan trọng nhất; ngoài ra, có hình thức áp dụng các biện pháp tổ chức trực tiếp không mang tính chất quyền lực, pháp lý, như hướng dẫn, cung cấp thông tin, tư liệu, và các hình thức quản lý liên quan đến thực hiện thủ tục hành chính, trong các việc cấp văn bằng, chứng chỉ, giải quyết yêu cầu, lập biên bản xử lý…
Phù hợp với mục tiêu, chức năng, nội dung và hình thức trên, quản lý hành chính bằng pháp luật được tiến hành theo các phương pháp khác nhau, bao gồm: 1, phương pháp thuyết phục hành chính; 2, phương pháp cưỡng chế hành chính; 3, các phương pháp hành chính, phương pháp kinh tế và một số phương pháp khác.
1.1.2. Quản lý nhà nước bằng pháp luật đối với thị trường. Quản lý nhà nước bằng pháp luật đối với thị trường là quản lý của nhà nước, với sự tham gia của cả ba hệ thống cơ quan lập pháp, hành chính, tư pháp, bằng việc sử dụng công cụ pháp luật để thiết lập trật tự của thị trường.
Từ quan niệm trên, quản lý nhà nước bằng pháp luật đối với thị trường là quản lý nhà nước được triển khai trên cả ba phương diện lập pháp, hành pháp và tư pháp, lấy đối tượng tác động quản lý là thị trường. Theo Các Mác “thị trường nghĩa là lĩnh vực trao đổi”, là tổng thể nói chung những hoạt động mua bán, “nơi thường xuyên diễn ra các hoạt động lưu thông hàng hoá”, là “tổng hoà những mối quan hệ mua bán trong xã hội, phản ánh tổng hợp quan hệ giữa các bộ phận của nền kinh tế quốc dân”.
Từ những quan niệm trên cho thấy trong nội hàm khái niệm thị trường luôn bao hàm các yếu tố;
- Nội dung quan hệ thị trường là quan hệ mua, bán, lưu thông hàng hoá
- Đối tượng của quan hệ đó là hàng hoá;
- Chủ thể tham gia thị trường thuộc các thành phần kinh tế khác nhau, bình đẳng với nhau trước pháp luật, cũng là đối tượng của quản lý nhà nước đối với thị trường.
- Thị trường luôn diễn ra, gắn với một địa bàn, địa danh nhất định, như thị trường Hà Nội, thị trường trong nước, thị trường quốc tế, hoặc hẹp hơn, như các trung tâm giao dịch chứng khoán, chợ…
Từ quan niệm trên có thể đi tới khái niệm quản lý nhà nước bàng pháp luật đối với thị trường là quản lý các quan hệ mua bán lưu thông hàng hoá do các chủ thể kinh doanh thực hiện, diễn ra trên một địa bàn nhất định trên cơ sở tác động điều chỉnh của pháp luật theo một cơ chế pháp lý phù hợp.
Quan niệm quản lý nhà nước bằng pháp luật có thể còn theo nghĩa rộng hơn nếu lấy đối tượng của quản lý là các hoạt động thương mại. Hoạt động thương mại ở đây được định nghĩa theo Điều 5, khoản 2 Luật Thương mại “là việc thực hiện một hay nhiều hành vi thương mại của thương nhân, bao gồm việc mua bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ thương mại và các hoạt động xúc tiến thương mại nhằm mục đích lợi nhuận hoặc nhằm thực hiện các chính sách kinh tế – xã hội”. Như vậy, đối tượng của quản lý nhà nước bằng pháp luật đối với thị trường ngoài quan hệ mua bán hàng hoá còn bao gồm các hoạt động cung ứng dịch vụ thương mại, hoạt động xúc tiến thương mại.
Quan niệm về quản lý nhà nước bằng pháp luật đối với thị trường còn rộng hơn nữa nếu theo khái niệm hoạt động thương mại tại Điều 2, khoản 3 Pháp lệnh Trọng tài thương mại (25/02/2003). Theo pháp lệnh này, các hoạt động sau được coi là hoạt động thương mại:
- Mua bàn hàng hoá;
- Cung ứng dịch vụ;
- Phân phối;
- Đại diện, đại lý thương mại;
- Ký gửi;
- Thuê, cho thuê;
- Xây dựng;
- Tư vấn;
- Kỹ thuật;
- Li xăng;
- Đầu tư;
- Tài chính, ngân hàng;
- Bảo hiểm;
- Thăm dò, khai thác;
- Vận chuyển hàng hoá, hành khách bằng đường không, đường biển, đường sắt, đường bộ;
- Các hành vi thương mại khác theo quy định của pháp luật.
Dù quan niệm theo nghĩa nào, quản lý nhà nước bằng pháp luật đối với thị trường ở nước ta hiện nay có đặc điểm sau:
Một: Đối tượng của quản lý chịu tác động mạnh mẽ, trực tiếp của cơ chế thị trường. Đây là đặc điểm nói lên tính chất phức tạp của quản lý, đồng thời đề ra nhiệm vụ của quản lý là phải ngăn chặn được những tiêu cực, mặt trái của cơ chế thị trường, mặt khác, phải bảo đảm môi trường lành mạnh, từ đó thúc đẩy thị trường phát triển, đúng định hướng xã hội chủ nghĩa, đúng mục tiêu của các chính sách kinh tế –xã hội của nhà nước, của từng địa phương.
Hai: Trong điều kiện nền kinh tế thị trường ở nước ta chỉ mới được phát triển; các yếu tố thị trường hầu như chỉ mới ra đời, lại chưa đồng bộ đã làm cho pháp luật về thị trường thiếu ổn định, không đầy đủ.
Ba: Quản lý nhà nước bằng pháp luật đối với thị trường, với quan niệm “thị trường” như trên được giao cho nhiều cơ quan nhà nước nước khác nhau. Có thể nói hiện giờ, chủ thể quản lý nhà nước bằng pháp luật đối với thị trường hết sức phức tạp, không chỉ do Bộ Thương mại và các cơ quan quản lý chuyên trách. Trong điều kiện của bộ máy quản lý đang trong quá trình cải cách, đổi mới, điều chỉnh lại chức năng và cơ chế quản lý và kinh nghiệm quản lý thị trường trong điều kiện của cơ chế thị trường chưa nhiều đã làm cho chủ thể quản lý gặp nhiều lúng túng, hiệu lực, hiệu quả quản lý vẫn chưa đáp ứng yêu cầu.
Bốn: Quản lý nhà nước bằng pháp luật đối với thị trường mang tính xã hội sâu sắc bởi nó trực tiếp bảo vệ những lợi ích xã hội, đặc biệt là lợi ích của người tiêu dùng, của cá nhân, đơn vị kinh tế, và do đó, là bộ phận quản lý dễ huy động lực lượng của nhân dân tham gia, được dư luận xã hội đồng tình. Đây là yếu tố động lực lớn góp phần tăng cường hiệu lực, hiệu quả quản lý.
1.2. Chức năng kiểm tra, kiểm soát thị trường trong quản lý nhà nước bằng pháp luật đối với thị trường.
Kiểm tra, kiểm soát là một chức năng quan trọng của quản lý Nhà nước về kinh tế và cũng là một chức năng quan trọng của quản lý nhà nước đối với thị trường. Đối tượng của công tác kiểm tra, kiểm soát là thị trường, mà là đối tượng phức tạp về nhiều mặt, trong đó tính chất, nội dung và quy mô hoạt động của thị trường quyết định nội dung, nhiệm vụ, hình thức tổ chức, phương pháp, các công cụ của công tác kiểm tra, kiểm soát thị trường.
1.2. 1. Đối tượng, nội dung kiểm tra, kiểm soát thị trường.
Các hoạt động trên thị trường, gồm: hoạt động hợp pháp và hoạt động phi pháp, đều là đối tượng và đều chịu sự giám sát, kiểm tra của lực lượng quản lý, kiểm tra, kiểm soát thị trường. Tuy nhiên, phương thức kiểm tra, kiểm soát của lực lượng kiểm tra, kiểm soát thị trường đối với hai loại hoạt động nêu trên khác nhau về cơ bản:
- Một mặt, lực lượng kiểm tra, kiểm soát thị trường phải thường xuyên giám sát hoạt động trên thương trường, tuyên truyền, hướng dẫn, nhắc nhở các chủ thể tham gia thị trường hoạt động theo đúng các quy định của pháp luật, làm sao để hoạt động hợp pháp trên thị trường ngày càng trở thành phổ biến, tạo nền tảng cho thị trường phát triển lành mạnh, xây dựng trật tự, kỷ cương mới, văn minh trong hoạt động thương mại, dịch vụ của cả nước. Xét về mặt này, công tác kiểm tra, kiểm soát thị trường có nội dung và mục đích giáo dục, xây dựng và phòng ngừa, và về lâu dài đây phải là mặt chủ yếu.
- Mặt khác, do kinh tế thị trường ở nước ta mới trong giai đoạn đầu của sự phát triển, còn thiếu nhiều điều kiện cho cơ chế thị trường hoạt động có hiệu quả, có trật tự kỷ cương và văn minh, hoạt động thị trường còn nhiều lộn xộn, chưa có nề nếp. Điều đáng chú ý và quan tâm là hoạt động phi pháp, hành vi vi phạm pháp luật còn khá phổ biến, có nơi, có lúc rất nghiêm trọng. Xét theo hướng này, lực lượng quản lý, kiểm tra, kiểm soát thị trường trong thời gian tới, nhất là trong những năm trước mắt còn phải tập trung sức đấu tranh chống các hoạt động phi pháp trên thị trường, từng bước ngăn chặn và đẩy lùi các hoạt động tiêu cực này, góp phần tạo dựng trật tự, kỷ cương và văn minh thương mại.
Do tính chất các loại hoạt động phi pháp có khác nhau, nên mục tiêu, phương thức kiểm tra, kiểm soát đối với từng loại hoạt động này không giống nhau. Mỗi loại hoạt động phi pháp đều là một đối tượng cụ thể của công tác kiểm tra, kiểm soát thị trường; những công việc cụ thể có liên quan đến công tác đấu tranh chống từng loại vi phạm này là một nội dung của công tác kiểm tra, kiểm soát thị trường.
Có thể phân chia các loại hoạt động thị trường phi pháp là đối tượng kiểm tra, kiểm soát của lực lượng quản lý thị trường như sau:
Một: Kinh doanh trái phép.
Xuất phát từ chỗ các chủ thể tham gia hoạt động thị trường phải có đủ tư cách pháp lý, tức là được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp đăng ký kinh doanh theo trình tự và thủ tục pháp luật quy định, hoặc được pháp luật công nhận quyền tham gia hoạt động thị trường trong phạm vi nhất định, nên mọi hoạt động, hành vi trái với nội dung giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh, hoặc ngoài phạm vi quyền tham gia thị trường được pháp luật công nhận không phải đăng ký kinh doanh, hoặc kinh doanh không có đăng ký cũng như không có giấy phép riêng trong trường hợp pháp luật quy định phải có giấy phép đều là các hành vi kinh doanh trái phép.
Kinh doanh trái phép là một trong các đối tượng cụ thể của lực lượng kiểm tra, kiểm soát thị trường nhằm loại trừ các hành vi đó, bảo đảm các hoạt động kinh doanh, mua bán trên thị trường diễn ra bình thường, đúng quy định của pháp luật, duy trì trật tự, kỷ cương trong hoạt động thị trường, là công việc có tính thường xuyên, và hết sức quan trọng. Vì thế, trong Bộ luật Hình sự của nước ta có riêng một điều (Điều 159) về “Tội kinh doanh trái phép” để xét xử các hành vi vi phạm pháp luật thuộc loại này nế._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 3614.doc