Mở Đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Với những nỗ lực cải cách môi trường pháp lý phục vụ kinh doanh, từng bước đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế, Việt Nam đã đạt được những thành tựu nhất định trong việc tạo môi trường kinh doanh thuận lợi, an toàn và bình đẳng cho các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế.
Luật doanh nghiệp năm 1999 ra đời đánh dấu bước phát triển quan trọng trong việc giải phóng và phát triển sức sản xuất, huy động và phát huy nội lực trong xây dựng và phát triể
203 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1563 | Lượt tải: 3
Tóm tắt tài liệu Quản lý nhà nước bằng pháp luật đối với công ty cổ phần ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
n kinh tế - xã hội, góp phần đáng kể vào tăng trưởng kinh tế, tăng kim ngạch xuất khẩu, tăng thu ngân sách, tạo thêm nhiều công ăn việc làm và "xóa đói, giảm nghèo", giải quyết các vấn đề xã hội khác. Chỉ tính từ đầu năm 2000 đến tháng 7 năm 2003, đã có hơn 71.500 doanh nghiệp đăng ký kinh doanh (gấp 1,6 lần so với giai đoạn 1991-1999); với số vốn đăng ký mới và đăng ký bổ sung khoảng 9,5 tỷ đô la Mỹ (gấp hơn 4 lần so với 1991-1999), cao hơn số vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đăng ký trong cùng thời kỳ. Ngoài ra, còn có hơn 15.000 chi nhánh, văn phòng đại diện và khoảng 800.000 hộ kinh doanh cá thể đăng ký kinh doanh; đưa tổng số hộ kinh doanh cá thể trong cả nước lên khoảng hơn 2,5 triệu hộ. Nhờ đó, tỷ trọng đầu tư của dân cư và doanh nghiệp trong tổng đầu tư toàn xã hội đã tăng từ 20% năm 2000 lên 23% năm 2001 và 25,3% năm 2002; và năm 2003 gần 27%. Tỷ trọng đầu tư của các doanh nghiệp tư nhân trong nước liên tục tăng và đã vượt lên hơn hẳn tỷ trọng đầu tư của doanh nghiệp nhà nước (DNNN), gần bằng tổng vốn đầu tư của DNNN và tín dụng nhà nước. Vốn đầu tư của các doanh nghiệp dân doanh đã đóng vai trò quan trọng, thậm chí là nguồn vốn đầu tư chủ yếu đối với phát triển kinh tế địa phương. Ví dụ, đầu tư của các doanh nghiệp dân doanh năm 2002 ở Thành phố Hồ Chí Minh đã chiếm 38% tổng số vốn đầu tư toàn xã hội, cao hơn tỷ trọng vốn đầu tư của DNNN và ngân sách nhà nước gộp lại (36,5%) [5, tr. 3].
Tuy nhiên, hệ thống pháp luật nói chung và pháp luật kinh tế nói riêng của Việt Nam hiện nay còn chưa thống nhất, chưa đồng bộ, chưa ổn định và chưa minh bạch; việc thực hiện pháp luật trong hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp còn nhiều hạn chế; các doanh nghiệp chưa thực sự có được những cơ hội để đóng góp tích cực, chủ động vào quá trình hoàn thiện cơ chế quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp. Công tác kiểm tra, giám sát xử lý vi phạm pháp luật trong kinh doanh chưa kịp thời và hiệu quả. Vì vậy chưa phát huy đầy đủ vai trò của các loại hình doanh nghiệp, nhất là công ty cổ phần (CTCP), góp phần bảo đảm nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa (XHCN) phát triển đúng hướng và bền vững.
Tình hình trên do nhiều nguyên nhân gây ra, trong đó có nguyên nhân quản lý nhà nước bằng pháp luật đối với nền kinh tế nói chung và hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp (trong đó có CTCP) nói riêng còn nhiều bất cập, chưa đáp ứng được yêu cầu và nhiệm vụ quản lý nhà nước trong tình hình mới. Điều này thể hiện ở các mặt cơ bản sau:
- Chưa có sự nhận thức đúng đắn về quản lý nhà nước bằng pháp luật đối với CTCP trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN nên dẫn đến tình trạng: hoặc Nhà nước chỉ nhấn mạnh yêu cầu quản lý, tạo ra nhiều tầng nấc trung gian, thủ tục hành chính rườm rà, ảnh hưởng đến quyền tự do kinh doanh hoặc can thiệp hành chính vào hoạt động đúng đắn của các CTCP; hoặc Nhà nước buông lỏng quản lý để các mặt tiêu cực của nền kinh tế thị trường phát triển, tạo cơ hội cho một số CTCP thao túng thị trường, lừa đảo, gây thiệt hại nghiêm trọng đến tài sản nhà nước, tài sản của các tổ chức và của công dân.
- Hệ thống pháp luật kinh tế nói chung, trong đó có khung pháp luật về CTCP thiếu đồng bộ, chưa nhất quán, chưa sát cuộc sống, nhiều văn bản hướng dẫn chậm ban hành, nhiều lĩnh vực còn bỏ ngỏ như pháp luật về tài chính của công ty, pháp luật về kế toán, kiểm toán, pháp luật về kiểm tra, thanh tra kinh tế. Mặt khác, một số quy định trong các văn bản pháp luật còn chồng chéo, mâu thuẫn nên đã tạo ra nhiều sơ hở cho các CTCP lợi dụng hoạt động trái pháp luật hoặc cơ quan nhà nước sử dụng để can thiệp quá sâu vào hoạt động kinh doanh đúng đắn của các CTCP.
- Các cơ chế, chính sách lỗi thời, chậm thay đổi đã kìm hãm sự phát triển các CTCP, đã hạn chế năng lực kinh doanh và sức sản xuất của họ. Trong một số trường hợp nhà nước lại thường xuyên thay đổi chính sách, chủ trương đã đẩy các CTCP rơi vào tình thế lúng túng, đối phó hoặc gây ra những thiệt hại không nhỏ trong kinh doanh cho các công ty.
Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX Đảng Cộng sản Việt Nam đã xác định rõ:
Kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa có sự quản lý của Nhà nước. Nhà nước ta là nhà nước xã hội chủ nghĩa, quản lý nền kinh tế bằng pháp luật, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chính sách, sử dụng cơ chế thị trường, áp dụng các hình thức kinh tế và phương pháp quản lý của kinh tế thị trường để kích thích sản xuất, giải phóng sức sản xuất, phát huy mặt tích cực, hạn chế và khắc phục mặt tiêu cực của cơ chế thị trường, bảo vệ lợi ích của nhân dân lao động và của toàn thể nhân dân [18, tr. 87-88].
Xuất phát từ những nội dung trình bày trên, bản thân tác giả nhận thấy: việc nghiên cứu quản lý nhà nước bằng pháp luật đối với CTCP ở Việt Nam hiện nay là việc làm cần thiết của khoa học pháp lý Việt Nam trong xu hướng hoàn thiện quản lý nhà nước bằng pháp luật đối với nền kinh tế, trong đó có quản lý các CTCP nhằm tạo môi trường pháp lý an toàn, thuận lợi; bảo đảm các quyền tự do kinh doanh và lợi ích chính đáng, sự bình đẳng của các CTCP trong nền kinh tế, góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh của các CTCP Việt Nam trong bối cảnh hội nhập với các nước trong khu vực và thế giới. Đó cũng là lý do để chúng tôi chọn đề tài: "Quản lý nhà nước bằng pháp luật đối với công ty cổ phần ở Việt Nam" để làm luận án tiến sĩ luật học.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Từ sau Đại hội VI của Đảng (tháng 12/1986), cùng với quá trình chuyển đổi nền kinh tế từ cơ chế tập trung, bao cấp sang cơ chế thị trường định hướng XHCN đã đặt ra nhiều nhiệm vụ cấp bách cho khoa học pháp lý trong việc xây dựng và hoàn thiện Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam, hệ thống pháp luật XHCN Việt Nam. Từ đó, đã có nhiều công trình của các cơ quan, đơn vị, các nhà khoa học, các luận văn, luận án nghiên cứu về vai trò của nhà nước và pháp luật trong sự nghiệp đổi mới ở nước ta. Những công trình này ở mức độ khác nhau cũng đã đề cập đến vấn đề quản lý nhà nước bằng pháp luật nói chung và quản lý nhà nước bằng pháp luật đối với một số loại hình doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN nói riêng. Điển hình như: Về đề tài nghiên cứu khoa học, có: Đề tài KX.03.13: Luận cứ khoa học cho việc hoàn thiện và xây dựng hệ thống pháp luật và quản lý kinh tế bằng pháp luật do Viện Nghiên cứu Khoa học pháp lý - Bộ Tư pháp chủ trì (1994), đề tài này tập trung nghiên cứu những vấn đề có tính chất nền tảng trong việc xác lập các nguyên tắc nhằm hoàn thiện và xây dựng hệ thống pháp luật kinh tế cũng như việc quản lý nền kinh tế bằng pháp luật. Nội dung của đề tài bao gồm: trình bày sự phát triển của các quan niệm Luật kinh tế trong lịch sử, lịch sử phát triển pháp luật kinh tế của Việt Nam; hệ quan điểm xây dựng pháp luật kinh tế ở Việt Nam; các điều kiện bảo đảm thi hành pháp luật kinh tế trong quá trình chuyển sang kinh tế thị trường ở nước ta, từ đó đề tài đưa ra những kiến nghị cụ thể nhằm xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật kinh tế và quản lý kinh tế bằng pháp luật; Dự án VIE/94/003 về Tăng cường năng lực pháp luật tại Việt Nam do Bộ Tư pháp chủ trì với sự tài trợ của chương trình phát triển Liên hợp quốc (UNDP), được thực hiện từ năm 1994 đến năm 1998. Kết quả
nghiên cứu của dự án được đề cập trong "Báo cáo kiến nghị về xây dựng và hoàn thiện khung pháp luật kinh tế tại Việt Nam". Thông qua kết quả nghiên cứu này, chúng ta thấy nổi lên những nội dung cơ bản sau: Khái niệm, vai trò của khung pháp luật kinh tế và những đặc điểm của nền kinh tế thị trường ở Việt Nam. Trên cơ sở đánh giá khung pháp luật kinh tế hiện hành, báo cáo đã kiến nghị về việc xây dựng và hoàn thiện khung pháp luật kinh tế tại Việt Nam cũng như những biện pháp để bảo đảm thực hiện khung pháp luật kinh tế trên thực tế. Về đề tài của các luận án tiến sĩ luật học có: Nhà nước quản lý kinh tế bằng pháp luật trong cơ chế thị trường ở Việt Nam hiện nay của Chu Hồng Thanh, trong luận án của mình, trên cơ sở nhận thức đúng những khái niệm cơ bản, tác giả đã làm rõ vai trò của nhà nước và pháp luật trong cơ chế thị trường, phân tích khái quát quá trình xuất hiện và vận động của cơ chế thị trường ở Việt Nam. Từ đó rút ra những nhận xét về các yêu cầu kinh tế khách quan xây dựng hệ thống pháp luật. Khẳng định vai trò và phạm vi tác động thông qua công cụ pháp luật của Nhà nước trong cơ chế thị trường; Đề tài: Hoàn thiện pháp luật về tổ chức, hoạt động và quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp nhà nước trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay (từ thực tiễn của thành phố Hồ Chí Minh) của Lê Văn Hưng, đã góp phần làm sáng tỏ thực trạng pháp luật về tổ chức, hoạt động và quản lý nhà nước đối với DNNN trong thời gian qua, từ đó đề xuất phương hướng và giải pháp đổi mới và hoàn thiện pháp luật, nâng cao hiệu quả hoạt động của DNNN trong cơ chế thị trường; Đề tài: Đổi mới và hoàn thiện quản lý nhà nước bằng pháp luật đối với các loại hình doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư nhân ở Việt Nam hiện nay của Nguyễn Thanh Hóa, thì tập trung cơ sở lý luận và thực tiễn về quản lý nhà nước bằng pháp luật đối với các loại hình doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư nhân; kiến nghị các phương hướng và giải pháp khả thi nhằm đổi mới và hoàn thiện quản lý nhà nước bằng pháp luật đối với các loại hình doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư nhân nói chung trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta hiện nay; Đề tài: Nhà nước quản lý bằng pháp luật đối với doanh nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn của Phạm Quý Tỵ, chỉ đi sâu nghiên cứu về sự quản lý của Nhà nước bằng pháp luật đối với hai loại hình doanh nghiệp trong các loại hình doanh nghiệp ở nước ta hiện nay là doanh nghiệp tư nhân và công ty trách nhiệm hữu hạn. Về sách chuyên khảo đã có các tác phẩm sau: Đại hội VIII Đảng Cộng sản Việt Nam và những vấn đề cấp bách của khoa học về Nhà nước và pháp luật do PGS.TS Đào Trí úc (chủ biên), đây là tác phẩm của tập thể tác giả là những nhà nghiên cứu khoa học pháp lý của Việt Nam trên nhiều lĩnh vực khác nhau, tập trung nghiên cứu những nội dung cơ bản, những vấn đề cấp bách của khoa học về Nhà nước và pháp luật được đề ra từ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng Cộng sản Việt Nam. Nội dung cuốn sách chủ yếu đề cập: Đại hội VIII của Đảng Cộng sản Việt Nam và những vấn đề về bộ máy nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam; Đại hội VIII của Đảng Cộng sản Việt Nam và những vấn đề về pháp luật; sách Nhà nước và pháp luật của chúng ta trong sự nghiệp đổi mới của PGS.TS Đào Trí úc, là tập hợp những bài viết và công trình nghiên cứu lý luận cơ bản mà tác giả đã thực hiện trong khoảng thời gian từ năm 1990-1997. Tác giả đã tập trung nghiên cứu một cách toàn diện những vấn đề phương pháp luận, các vấn đề về hệ thống chính trị và Nhà nước, các vấn đề về pháp luật và pháp chế, xây dựng ý thức và lối sống tuân theo pháp luật. Những vấn đề mà tác giả nghiên cứu đã góp phần to lớn trong việc xây dựng nhà nước ta ngày càng vững mạnh, "là trụ cột của hệ thống chính trị, là công cụ để thực hiện quyền lực nhân dân"; Nhà nước của dân, do dân và vì dân, một nhà nước trong sạch, quản lý có hiệu quả các mặt của đời sống xã hội trên cơ sở xây dựng hệ thống pháp luật đồng bộ, phù hợp với yêu cầu đổi mới của công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; Một số vấn đề về nhà nước quản lý vĩ mô nền kinh tế thị trường Việt Nam của GS.TS Nguyễn Duy Gia, là tác phẩm mà thông qua đó tác giả đã luận giải những vấn đề cơ bản về nền kinh tế thị trường ở nước ta phải là nền kinh tế thị trường có quản lý, hướng dẫn và điều tiết của Nhà nước theo định hướng XHCN và đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Nền kinh tế thị trường phát triển đúng hướng, các nguồn lực vật chất - tài chính của xã hội được huy động tốt hơn nhằm nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân; đồng thời phát huy nền dân chủ XHCN, thực hiện công bằng xã hội, tạo điều kiện và môi trường thuận lợi cho các hoạt động sản xuất - kinh doanh, kiểm soát chặt chẽ và xử lý nghiêm minh các hành vi vi phạm pháp luật, bảo đảm "cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa trở thành cơ chế vận hành của nền kinh tế". Bên cạnh các sách chuyên khảo còn có rất nhiều bài viết của các nhà luật học bàn về vai trò của Nhà nước và pháp luật trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam như: Tìm hiểu vai trò của nhà nước trong nền kinh tế thị trường của GS.TS Hoàng Văn Hảo; Pháp luật trong cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước của PTS. Trần Ngọc Đường; Pháp luật kinh tế nước ta trong bước chuyển sang kinh tế thị trường của PTS. Nguyễn Như Phát; Nền kinh tế thị trường và những vấn đề pháp lý đặt ra của PTS. Hoàng Thế Liên, v.v...
Ngoài ra, còn nhiều bài viết của nhiều tác giả khác cũng đề cập dưới nhiều góc độ khác nhau liên quan đến hoạt động quản lý nhà nước bằng pháp luật trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Những công trình được công bố trên là tài liệu tham khảo quý giá cho tác giả trong quá trình nghiên cứu của mình. Tuy nhiên, các công trình nghiên cứu và bài viết của các tác giả nêu trên chỉ đề cập đến những vấn đề chung nhất có tính lý luận về vai trò của Nhà nước, vai trò của pháp luật, về việc sử dụng công cụ pháp luật trong quản lý nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN. Hoặc chỉ dừng lại ở mức độ nghiên cứu quản lý nhà nước đối với DNNN hoặc doanh nghiệp tư nhân và công ty trách nhiệm hữu hạn hay nghiên cứu về các doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư nhân nói chung. Chưa có công trình hay đề tài nào đi sâu vào việc nghiên cứu một cách toàn diện về quản lý nhà nước bằng pháp luật đối với CTCP ở Việt Nam hiện nay, để từ đó xây dựng cơ sở lý luận, đưa ra những giải pháp cơ bản nhằm nâng cao năng lực và hiệu quả quản lý nhà nước bằng pháp luật đối với CTCP, một loại hình công ty có nhiều đặc tính ưu việt hiện nay ở nước ta. Hơn nữa, việc luận giải một cách có hệ thống yếu tố quản lý nhà nước bằng pháp luật đối với công ty cổ phần có ý nghĩa quan trọng trong việc xây dựng và hoàn thiện các thiết chế quản lý kinh tế dân chủ của Nhà nước trong nền kinh tế nhiều thành phần. Đây là một vấn đề khá mới mẻ ở nước ta trong điều kiện Đảng và Nhà nước ta chủ trương phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án
Mục đích nghiên cứu của luận án là đề xuất các quan điểm và giải pháp tăng cường quản lý nhà nước bằng pháp luật đối với CTCP nhằm bảo đảm môi trường pháp lý thuận lợi, an toàn, nâng cao năng lực cạnh tranh trong hoạt động kinh doanh của CTCP; phát huy vai trò của CTCP trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam hiện nay.
Để thực hiện tốt mục đích nghiên cứu nêu trên, luận án có những nhiệm vụ chủ yếu sau đây:
- Nghiên cứu cơ sở lý luận về CTCP và quản lý nhà nước bằng pháp luật đối với CTCP trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
- Đánh giá thực trạng quản lý nhà nước bằng pháp luật đối với CTCP ở nước ta trong thời gian qua, tìm ra những thiếu sót, yếu kém trong thực tiễn hoạt động quản lý nhà nước bằng pháp luật và các nguyên nhân của tình trạng trên.
- Đề xuất, kiến nghị những quan điểm, giải pháp tăng cường quản lý nhà nước bằng pháp luật đối với CTCP, phát huy vai trò to lớn của CTCP trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta.
4. Phạm vi nghiên cứu của luận án
ở nước ta, có nhiều loại hình công ty được thành lập và hoạt động như: công ty TNHH có hai thành viên trở lên; công ty TNHH một thành viên do một tổ chức thành lập và làm chủ sở hữu; CTCP; công ty hợp danh (theo luật doanh nghiệp); các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tồn tại dưới hình thức công ty trách nhiệm hữu hạn (TNHH) (theo Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam); một số doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài hoạt động theo hình thức CTCP qui định tại Nghị định số 38/2003/NĐ-CP ngày 15 tháng 4 năm 2003 của Chính phủ; các CTCP thành lập từ cổ phần hóa DNNN.
Trong luận án này, chúng tôi chỉ đi sâu nghiên cứu quản lý nhà nước bằng pháp luật đối với CTCP theo Luật doanh nghiệp ở Việt Nam (bao gồm: CTCP thành lập theo Luật doanh nghiệp và các CTCP thành lập do cổ phần hóa DNNN).
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Luận án được nghiên cứu trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật, những quan điểm, đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước về phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN.
Đề tài được nghiên cứu trên cơ sở vận dụng các phương pháp nghiên cứu của chủ nghĩa duy vật biện chứng. Đây là cơ sở cho việc nhận thức bản chất nội tại và các mối quan hệ biện chứng của các vấn đề cần nghiên cứu. Vận dụng các quan điểm lịch sử cụ thể, quan điểm vận động, đề tài được nghiên cứu trong quá trình hình thành và phát triển hoạt động quản lý nhà nước bằng pháp luật đối với CTCP; gắn liền với sự thay đổi về các điều kiện kinh tế - xã hội, hoàn cảnh lịch sử qua các thời kỳ phát triển của đất nước. Ngoài ra, tác giả luận án còn sử dụng phương pháp nghiên cứu tổng hợp, thống kê, phân tích, so sánh, đánh giá qua các số liệu thu thập có liên quan đến hoạt động quản lý nhà nước bằng pháp luật đối với CTCP ở Việt Nam cũng như một số nước trên thế giới nhằm làm sáng tỏ những luận cứ khoa học và tính thuyết phục cao trong các đề xuất về quan điểm, giải pháp tăng cường quản lý nhà nước bằng pháp luật đối với CTCP trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam hiện nay.
6. Những đóng góp mới về mặt khoa học của luận án
Nội dung của luận án có những điểm mới sau đây:
- Luận án đã phân tích những đặc điểm và tính ưu việt của CTCP trong nền kinh tế thị trường ở nước ta trước nhu cầu nâng cao năng lực cạnh tranh, thu hút vốn đầu tư, trong bối cảnh hội nhập và hợp tác phát triển của kinh tế Việt Nam với các nước trong khu vực và trên thế giới.
- Đây là công trình đầu tiên nghiên cứu một cách toàn diện, có hệ thống cơ sở lý luận về quản lý nhà nước bằng pháp luật đối với CTCP ở Việt Nam hiện nay, trong điều kiện phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN.
- Từ đánh giá thực trạng quản lý nhà nước bằng pháp luật đối với CTCP hiện nay ở nước ta, luận án làm sáng tỏ những hạn chế trong công tác quản lý nhà nước cần được tổng kết, rút kinh nghiệm.
- Xác lập các quan điểm, đề xuất những giải pháp nhằm tăng cường quản lý nhà nước bằng pháp luật đối với CTCP ở Việt Nam.
7. ý nghĩa của luận án
Những kết quả nghiên cứu được đề cập trong luận án có thể làm tài liệu tham khảo về cơ sở lý luận và thực tiễn trong việc tiếp cận và hoàn thiện phương thức quản lý nhà nước bằng pháp luật đối với CTCP ở Việt Nam.
Luận án có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu và giảng dạy về quản lý nhà nước, về chuyên ngành luật trong các trường học hiện nay.
8. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, nội dung của luận án gồm 3 chương 8 tiết.
Chương 1
CƠ Sở Lý Luận Về Quản Lý Nhà Nước Bằng Pháp Luật Đối Với CÔNG TY Cổ Phần ở Việt NAM
1.1. Khái Niệm, Đặc Điểm, Tính ƯU Việt và quá trình hình thành CÔNG TY Cổ Phần ở Việt Nam
1.1.1. Khái niệm và đặc điểm của công ty cổ phần
1.1.1.1. Khái niệm công ty cổ phần
Với những tiền đề kinh tế - pháp lý vững chắc của mình, từ lâu công ty đã đi vào đời sống của con người như một mô hình "lý tưởng" nhất giúp họ tối đa hóa lợi nhuận, tạo điều kiện thuận lợi cho các giao dịch, kiểm soát sự lợi dụng cơ hội của các thành viên trong công ty. Công ty ra đời gắn liền với những điều kiện nhất định về kinh tế, xã hội, lịch sử. Các công ty luôn thay đổi phù hợp với các nhu cầu tất yếu của con người. Lúc ban đầu, các thương gia liên kết dưới hình thức một hãng buôn hay một công ty để hùn vốn đóng những con thuyền vượt đại dương, hoặc buôn bán xa hơn ở những lãnh thổ mới khám phá. Trong quá trình cùng nhau kinh doanh, buôn bán theo phường hội, các thương gia rất cần niềm tin, sự sống chết có nhau. Yếu tố về nhân thân, sự quen biết mang tính chất "chọn mặt gửi vàng" được đặt lên hàng đầu. Càng về sau, sự giao lưu thương mại được mở rộng, nền sản xuất hàng hóa - tiền tệ ngày càng phát triển, với mục tiêu tìm kiếm lợi nhuận cao nhất, nhiều nhà kinh doanh đã bắt đầu sự cạnh tranh quyết liệt nhằm tìm kiếm thị trường, mở rộng qui mô kinh doanh. Sức mạnh của họ được dựa trên thực lực về tài chính, nên mục tiêu nâng cao năng lực về vốn luôn được các nhà doanh nghiệp chú ý. Đến lúc này, yếu tố về vốn đã chi phối mạnh mẽ hoạt động của các công ty. Hơn thế nữa, khi pháp luật của một quốc gia thừa nhận một loại hình công ty này hay công ty khác đều luôn tính đến đặc thù, điều kiện của mình thích ứng ra sao đối với loại hình doanh nghiệp đó; sự lựa chọn của nhà đầu tư, khả năng phát triển cũng như trình độ quản lý của Nhà nước. Không tính đến các yếu tố này thì pháp luật về công ty sẽ không tạo ra được khả năng thu hút vốn đầu tư, sẽ sơ hở, tản mạn, tùy tiện. Từ đó, chúng ta thấy rằng, để có thể huy động được nhiều vốn, kinh doanh có hiệu quả hơn người ta tổ chức ra nhiều loại hình công ty khác nhau. Sự phân biệt các loại hình công ty này tùy thuộc vào các tiêu chí, các căn cứ khác nhau. Dù phân chia theo hình thức nào đi nữa thì vấn đề quan trọng nhất mà nhà nước, chủ nợ, nhà đầu tư, các thành viên trong công ty quan tâm nhất đó là vốn phục vụ sản xuất - kinh doanh và trách nhiệm pháp lý của công ty đối với các hoạt động của mình. Nếu dựa trên cơ sở này thì có hai loại hình công ty chủ yếu là công ty đối nhân và công ty đối vốn.
* Công ty đối nhân: Có hai loại hình là công ty hợp danh và công ty hợp vốn đơn giản. Các thành viên khi tham gia thành lập công ty này chủ yếu quan tâm đến nhân thân người góp vốn mà không quan tâm đến phần vốn góp.
Công ty hợp danh là loại hình công ty trong đó các thương gia cùng kinh doanh dưới một tên chung (hãng buôn), nhưng công ty không có tư cách pháp nhân, các thương gia phải chịu trách nhiệm vô hạn hoặc liên đới chịu trách nhiệm vô hạn về các hoạt động của công ty. Mặt ưu điểm của công ty này là do các thành viên chịu trách nhiệm vô hạn nên có độ an toàn cao đối với xã hội, quản lý có hiệu quả vì ít người và tin tưởng nhau. Hạn chế của nó là huy động vốn không được nhiều vì thành viên rất hạn chế, chỉ gồm những người hiểu biết nhau, tin tưởng nhau, kết ước với nhau.
Công ty hợp vốn đơn giản gồm hai loại thành viên, thành viên nhận vốn và thành viên góp vốn, thành viên nhận vốn phải chịu trách nhiệm vô hạn về các khoản nợ của công ty còn thành viên góp vốn chỉ chịu trách nhiệm trong phạm vi vốn góp. Ưu điểm của loại hình công ty này là có thể mở rộng được thành viên góp vốn, có thể huy động được vốn lớn hơn công ty hợp danh. Tuy vậy, số lượng thành viên vốn hạn chế nên việc huy động vốn có hạn và chỉ thích hợp với qui mô kinh doanh nhỏ.
* Công ty đối vốn: Có hai loại hình là công ty TNHH và CTCP. Đặc điểm chung của công ty đối vốn là khi thành lập và trong suốt quá trình hoạt động các thành viên công ty hoàn toàn không quan tâm đến nhân thân người góp vốn mà chỉ quan tâm đến phần vốn góp của họ và trách nhiệm của các thành viên là trách nhiệm hữu hạn trong phần vốn góp.
Công ty TNHH là loại hình công ty chuyển tiếp giữa loại hình công ty đối nhân và công ty đối vốn. Trong việc thành lập loại hình công ty này người ta vẫn lựa chọn thành viên góp vốn đồng thời cũng quan tâm đến phần vốn góp, các thành viên phải có lượng vốn nhất định mới được tham gia công ty. Việc quản lý, điều hành loại hình công ty này cũng phức tạp hơn công ty đối nhân, vốn huy động cũng bị giới hạn trong phần vốn góp của các thành viên và không được phát hành bất kỳ loại chứng khoán nào để huy động vốn.
CTCP là loại hình đặc trưng của công ty đối vốn, nghĩa là khi thành lập và trong suốt quá trình hoạt động các thành viên công ty hoàn toàn không quan tâm đến nhân thân người góp vốn mà chỉ quan tâm đến phần vốn góp của họ. Bởi vì đối với loại hình công ty này tư cách thành viên công ty và các quyền của cổ đông trong việc quyết định các vấn đề liên quan đến cơ cấu tổ chức và hoạt động của công ty được quyết định trước hết bởi số lượng các cổ phiếu của công ty mà người đó nắm giữ. CTCP được quyền phát hành chứng khoán ra công chúng. Với tính chất này, CTCP là một hình thức tổ chức đặc biệt, năng động có thể sử dụng để huy động vốn thông qua các giao dịch trên thị trường chứng khoán.
Từ sự phân tích trên, luận án đưa ra khái niệm CTCP như sau:
Công ty cổ phần là loại hình doanh nghiệp thuộc công ty đối vốn. Vốn của công ty cổ phần được chia thành những phần bằng nhau gọi là cổ phần và được thể hiện dưới hình thức cổ phiếu. Việc góp vốn vào công ty được thực hiện bằng cách mua cổ phiếu. Các cổ đông chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ của công ty trong phạm vi giá trị cổ phiếu mà họ sở hữu. Công ty cổ phần có tư cách pháp nhân độc lập, mang tính tổ chức cao, có cấu trúc vốn phức tạp. Công ty cổ phần có quyền phát hành chứng khoán ra công chúng để huy động vốn.
1.1.1.2. Đặc điểm của công ty cổ phần
CTCP có những đặc điểm cơ bản sau:
+ Về số lượng thành viên: Hầu hết pháp luật các nước đều qui định số lượng thành viên tối thiểu mà không giới hạn số lượng tối đa (theo qui định của Luật công ty năm 1990 của Việt Nam thì số lượng thành viên tối thiểu trong suốt quá trình hoạt động của CTCP là 7 và theo Luật doanh nghiệp năm 1999 thì số lượng thành viên tối thiểu của CTCP là 3). Đặc điểm này thể hiện đặc trưng cơ bản của CTCP là loại hình công ty đối vốn nên có sự liên kết của nhiều thành viên tham gia góp vốn vào CTCP.
+ Về hình thức góp vốn: Vốn điều lệ của công ty được chia thành nhiều phần bằng nhau gọi là cổ phần. Giá trị của mỗi cổ phần gọi là mệnh giá cổ phiếu, người mua cổ phiếu gọi là cổ đông, lợi nhuận có được hằng năm từ cổ phần gọi là cổ tức. Việc góp vốn vào CTCP được thực hiện bằng cách mua cổ phiếu, mỗi cổ đông có thể mua một hoặc nhiều cổ phiếu.
+ Về huy động vốn: Trong quá trình hoạt động của mình, CTCP được quyền phát hành chứng khoán theo qui định của pháp luật về phát hành chứng khoán ra công chúng để huy động vốn. Theo Luật công ty năm 1990 và Luật doanh nghiệp năm 1999 đều qui định: đối với công ty TNHH khi muốn tăng vốn điều lệ của mình thì chỉ được thực hiện bằng cách hoặc tăng thêm phần vốn góp của các thành viên, hoặc kết nạp thêm thành viên mới. Trong khi đó khả năng huy động vốn để tăng thêm vốn điều lệ của CTCP là rất lớn, bất cứ lúc nào khi hội đủ các điều kiện luật định CTCP cũng có quyền phát hành cổ phiếu mới để kêu gọi vốn đầu tư từ các cổ đông mới.
+ Về chuyển nhượng phần vốn góp: trong CTCP, phần vốn góp của các cổ đông được thể hiện dưới hình thức cổ phiếu. Các cổ phiếu do CTCP phát hành là "hàng hóa" nên người sở hữu các "hàng hóa" này có thể tự do chuyển nhượng một cách dễ dàng mà không bị ràng buộc bất kỳ điều kiện nào. Các cổ đông muốn chuyển nhượng một phần hoặc toàn bộ số cổ phiếu của mình trong CTCP cho các cổ đông khác đều được thực hiện một cách dễ dàng theo qui định của điều lệ công ty, trừ những trường hợp pháp luật hạn chế quyền chuyển nhượng cổ phiếu.
Như vậy, so sánh với các loại hình công ty khác thì CTCP có nhiều ưu việt hơn, khắc phục được những hạn chế của loại hình công ty đối nhân và công ty TNHH. Với loại hình CTCP có thể huy động được nguồn vốn lớn thỏa mãn nhu cầu kinh doanh miễn là sản xuất kinh doanh của công ty có hiệu quả, mức cổ tức đủ sức hấp dẫn những người có vốn, đồng thời chia nhỏ rủi ro cho các thành viên. Tuy vậy, do CTCP thường có quy mô kinh doanh lớn, số lượng thành viên đông nên quản lý, điều hành sẽ gặp nhiều phức tạp. Kết quả hoạt động của công ty ảnh hưởng nhiều đến ổn định xã hội vì công ty được công khai phát hành cổ phiếu huy động vốn trong xã hội và số đông các thành viên góp vốn có thể là người lao động. Mặc dù công ty chịu trách nhiệm hữu hạn nhưng để bảo đảm an toàn cho xã hội và hoạt động của công ty có hiệu quả nhà nước phải có nhiều ràng buộc chặt chẽ về tổ chức, hoạt động của loại hình công ty này.
Cần nhận thức rằng, mỗi loại hình công ty đều có những ưu điểm và hạn chế nhất định, nhưng CTCP là loại hình công ty có nhiều ưu điểm, phù hợp với nền kinh tế thị trường. Đồng thời trên thực tế để bảo đảm phù hợp với tâm lý của người góp vốn, phù hợp với qui mô ngành nghề kinh doanh, trình độ của người quản lý điều hành công ty, pháp luật các nước đều cho phép thành lập các loại hình công ty nêu trên. Luật doanh nghiệp của Việt Nam năm 1999 cho phép thành lập công ty TNHH một thành viên, công ty TNHH hai thành viên trở lên, CTCP và cả loại hình công ty hợp danh kết hợp cả ưu việt của loại hình công ty hợp vốn đơn giản.
1.1.2. Tính ưu việt của công ty cổ phần
So với các loại hình doanh nghiệp khác hiện nay ở nước ta, thì CTCP có nhiều tính ưu việt rõ nét. Những tính ưu việt này xuất phát từ chính đặc điểm của CTCP và được thể hiện ở những khía cạnh sau:
- Thứ nhất: CTCP là tổ chức có tư cách pháp nhân độc lập
Pháp luật về công ty của các nước đều xác lập một cách cụ thể và rõ ràng về các quyền và nghĩa vụ pháp lý của CTCP với tư cách là một pháp nhân độc lập, có năng lực và tư cách chủ thể riêng, tồn tại độc lập và tách biệt với các cổ đông trong CTCP. Trong quá trình hoạt động công ty chịu trách nhiệm về các khoản nợ bằng chính tài sản của mình. Với tư cách chủ thể là pháp nhân thông qua người đại diện theo qui định của pháp luật, CTCP có thể trở thành nguyên đơn hoặc bị đơn dân sự trong các quan hệ tranh tụng tại tòa án. Khi CTCP mua sắm các tài sản mới, thì tài sản đó thuộc sở hữu của CTCP, còn các cổ đông chỉ được sở hữu cổ phần trong CTCP mà không có bất kỳ quyền sở hữu nào đối với tài sản của CTCP.
- Thứ hai: Các cổ đông trong CTCP chịu trách nhiệm hữu hạn
Khi một tổ chức hay cá nhân mua cổ phiếu của CTCP tức là họ đã chuyển dịch vốn của mình theo những phương thức nhất định vào CTCP và phần vốn đó trở thành tài sản thuộc sở hữu CTCP, đồng thời cổ đông sẽ được hưởng các quyền và nghĩa vụ phát sinh từ việc góp vốn. Với tư cách là một pháp nhân, CTCP có năng lực pháp luật độc lập, có đầy đủ các quyền và nghĩa vụ pháp lý theo qui định của pháp luật. Vì thế, các quyền và nghĩa vụ của CTCP hoàn toàn tách biệt khỏi các quyền và nghĩa vụ của cổ đông vì CTCP là chủ thể của quyền sở hữu công ty. Vốn thuộc sở hữu CTCP chính là giới hạn sự rủi ro tài chính của cá._.c cổ đông trên toàn bộ số vốn đã đầu tư vào CTCP, nên trách nhiệm của những cổ đông đối với các nghĩa vụ của công ty được hạn chế trong phạm vi mà họ đã đầu tư vào cổ phiếu. Xét về phương diện sự tách bạch về tài sản thì các cổ đông không có quyền đối với tài sản của CTCP nên họ không chịu trách nhiệm về các nghĩa vụ của CTCP; CTCP chịu trách nhiệm bằng chính tài sản của mình. Cả CTCP lẫn chủ nợ của CTCP đều không có quyền kiện đòi tài sản của cổ đông trừ trường hợp cổ đông nợ CTCP do chưa đóng đủ tiền góp vốn hoặc chưa thanh toán đủ cho CTCP số tiền mua cổ phiếu phát hành. Đây là điểm khác nhau cơ bản về trách nhiệm của các chủ thể kinh doanh, trong công ty hợp danh hay doanh nghiệp tư nhân (theo pháp luật Việt Nam) và đối với công ty đối nhân hay doanh nghiệp một chủ của hầu hết các nước thì các thành viên hợp danh (hay thành viên nhận vốn) và chủ doanh nghiệp sẽ chịu trách nhiệm cá nhân vô hạn về các nghĩa vụ của công ty hay của doanh nghiệp bằng tài sản của mình bất kể tài sản đó có liên quan đến hoạt động kinh doanh hay không.
Như vậy, xuất phát từ sự tồn tại độc lập của CTCP so với các cổ đông nên CTCP có các quyền và nghĩa vụ về tài sản riêng, do đó các rủi ro của cổ đông khi đầu tư vào CTCP chỉ giới hạn trong số lượng giá trị cổ phiếu mà cổ đông đó đầu tư. Ngược lại, khi đầu tư vào công ty hợp danh hay doanh nghiệp tư nhân thì mức độ rủi ro là vô hạn. Với tính chất chịu trách nhiệm hữu hạn như trên đã thu hút mạnh mẽ các nhà đầu tư mạnh dạn đầu tư vào CTCP nhiều hơn so với đầu tư vào các loại hình doanh nghiệp khác mà ở đó họ phải chịu trách nhiệm vô hạn. Bất kỳ nhà đầu tư nào cũng hiểu rằng khi mình đầu tư vào CTCP với tính chất chịu trách nhiệm hữu hạn của cổ đông thì không bao giờ mình bị mất nhiều hơn so với số vốn đã bỏ ra đầu tư vào CTCP nên họ ít sợ rủi ro hơn người đầu tư vốn vào công ty hợp danh hay doanh nghiệp tư nhân, những người này phải thấp thỏm lo âu canh cánh khi tình hình kinh doanh của doanh nghiệp xấu đi, vì họ có thể mất toàn bộ tài sản bất kỳ khi nào. Chính lợi thế này mà các CTCP có khả năng huy động rất lớn các nguồn vốn đầu tư của xã hội vào hoạt động sản xuất - kinh doanh của mình.
- Thứ ba: Việc chuyển nhượng các phần vốn góp được thực hiện một cách tự do
Hầu hết pháp luật về công ty của các nước trên thế giới đều qui định và cho phép chuyển nhượng một cách dễ dàng và tự do các loại cổ phiếu do CTCP phát hành từ cổ đông sang chủ sở hữu mới. Vì khác với các loại công ty khác, vốn điều lệ của CTCP được chia thành nhiều phần bằng nhau gọi là cổ phần. Giá trị của mỗi cổ phần gọi là mệnh giá cổ phiếu. Việc góp vốn vào CTCP được thực hiện bằng cách mua cổ phiếu nên cổ phiếu được xem là hình thức thể hiện phần vốn góp của các cổ đông. Các cổ phiếu do CTCP phát hành là "hàng hóa" nên các cổ đông khi sở hữu cổ phiếu có thể tự do chuyển nhượng; hơn thế nữa trách nhiệm của các cổ đông chỉ giới hạn trong phạm vi giá trị các cổ phiếu mà họ sở hữu nên khi họ muốn rút lui khỏi công việc kinh doanh hay muốn bán cổ phiếu của mình cho người khác thì họ thực hiện rất dễ dàng. Đó là lý do giải thích vì sao có rất nhiều người muốn đầu tư vào CTCP chứ không muốn đầu tư vào các loại hình doanh nghiệp khác. Đây cũng là một trong những yếu tố cần thiết cho việc hình thành và phát triển thị trường chứng khoán.
- Thứ tư: CTCP có cơ cấu vốn và tài chính linh hoạt, có thể huy động được vốn theo yêu cầu kinh doanh
CTCP không thể được thành lập và không thể hoạt động nếu không có vốn. Vốn quyết định và chi phối toàn bộ hoạt động, quan hệ nội bộ cũng như quan hệ với các đối tác bên ngoài. Trong quan hệ nội bộ, vốn của công ty được xem là cội nguồn của quyền lực. Với đặc trưng là loại hình công ty đối vốn, quyền lực trong CTCP sẽ thuộc về những ai nắm giữ phần lớn số vốn trong công ty. Trong quan hệ với bên ngoài, vốn của CTCP là một dấu hiệu chỉ rõ thực lực tài chính của công ty. Tuy nhiên, khác với nhiều yếu tố khác, vốn trong CTCP là yếu tố năng động nhất. Các qui luật kinh tế thị trường chỉ ra rằng cùng với sự lưu thông hàng hóa là sự lưu thông tiền tệ, tức là sự chu chuyển các nguồn vốn. Sự phát triển của CTCP tỷ lệ thuận với sự luân chuyển các nguồn vốn trong nền kinh tế. Sự vận động của vốn trong CTCP vừa chịu sự chi phối khách quan của các qui luật kinh tế, vừa bị ảnh hưởng bởi ý chí chủ quan của con người. Điều này đặt ra một đòi hỏi là con người phải tạo ra cách thức góp vốn, cách tổ chức và quản lý vốn để có thể đáp ứng được sự vận động linh hoạt của vốn. Sự linh hoạt trong vận động của vốn vừa phải thích ứng với yêu cầu đòi hỏi đa dạng của nhà đầu tư, vừa không mất đi bản chất vốn có của CTCP. Điều đó có nghĩa là phải tạo cho bản thân CTCP khả năng chuyển dịch các phần vốn góp một cách dễ dàng song tư cách pháp nhân của công ty không vì sự chuyển nhượng đó mà bị thay đổi.
Theo các qui định của Luật doanh nghiệp thì CTCP ở Việt Nam có thể qui định và phát hành nhiều loại cổ phiếu khác nhau như: cổ phiếu phổ thông, cổ phiếu ưu đãi (trong cổ phiếu ưu đãi có: cổ phiếu ưu đãi biểu quyết, cổ phiếu ưu đãi cổ tức, cổ phiếu ưu đãi hoàn lại và các loại cổ phiếu ưu đãi khác) và các loại trái phiếu. Đây sẽ là những loại chứng khoán được phát hành rộng rãi ra công chúng nhằm tăng khả năng thu hút vốn đầu tư cho kinh doanh của CTCP. Ngoài ra, với việc xác lập mệnh giá của cổ phiếu thấp đã tạo điều kiện thuận lợi cho những nhà đầu tư dù cho khả năng tài chính không nhiều nhưng vẫn có khả năng tham gia đầu tư vốn vào CTCP.
- Thứ năm: Tính ổn định trong hoạt động kinh doanh và không hạn chế về thời gian tồn tại
Đối với các loại hình doanh nghiệp tư nhân hay công ty hợp danh sự tồn tại của các doanh nghiệp này luôn luôn gắn liền với tư cách của chủ sở hữu doanh nghiệp hay các thành viên hợp danh; bởi vì hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp này có thể sẽ bị kết thúc cùng với cái chết, sự rút lui hay sự khánh tận của chủ doanh nghiệp tư nhân hay của một trong các thành viên hợp danh công ty. Khác với các loại hình doanh nghiệp trên, hoạt động kinh doanh của CTCP hoàn toàn không phụ thuộc vào bất kỳ điều gì có thể xảy ra đối với các cổ đông trong CTCP; bởi vì CTCP có tư cách pháp nhân độc lập nên nếu có bất kỳ sự rút lui, sự phá sản hoặc thậm chí cái chết có xảy ra đối với các cổ đông thì CTCP vẫn tiếp tục tồn tại và phát triển mà hoàn toàn không hề bị ảnh hưởng gì cả. Đây chính là một ưu điểm bảo đảm cho việc kinh doanh của CTCP diễn ra một cách liên tục và ổn định. Mặt khác, pháp luật công ty hiện đại của một số nước đều không hạn chế thời gian tồn tại của CTCP trừ những trường hợp như: công ty phá sản hoặc các cổ đông cùng thỏa thuận chấm dứt hoạt động hay vì một lý do nào khác mà điều lệ công ty qui định. Chính sự ổn định trong kinh doanh và thời gian hoạt động lâu dài đã tạo cho các CTCP có được sự thu hút mạnh mẽ và được ưa chuộng hơn so với các loại hình doanh nghiệp khác.
- Thứ sáu: CTCP có cơ chế quản lý tập trung cao và minh bạch
Với tư cách là một pháp nhân độc lập, trong CTCP có sự tách biệt giữa quyền sở hữu và cơ chế quản lý. Đó là việc các cổ đông sẽ bầu ra ban giám đốc và ban giám đốc sẽ thay mặt các cổ đông quản lý công ty. Như vậy, trong CTCP việc quản lý được tập trung hóa cao vào ban giám đốc mà không dàn trải đều việc quản lý cho các cổ đông như đối với công ty hợp danh; bởi vì trong công ty hợp danh việc quản lý công ty được thực hiện bởi các thành viên hợp danh với tư cách là những người chịu trách nhiệm vô hạn hoặc liên đới chịu trách nhiệm vô hạn về các khoản nợ trong kinh doanh của công ty nên họ được toàn quyền quản lý công ty và nhân danh công ty trong các hoạt động. Sự tách biệt giữa quyền sở hữu và việc quản lý còn được thể hiện ở việc luật công ty hiện đại của một số nước còn qui định cho phép giám đốc quản lý công ty có thể không phải là cổ đông của công ty. Giám đốc có thể là người đại diện theo pháp luật của CTCP, là người điều hành các hoạt động kinh doanh hàng ngày của công ty. Rõ ràng việc qui định như vậy một mặt thu hút được những người quản lý chuyên nghiệp được CTCP thuê làm công tác quản lý, mặt khác tách biệt vai trò chủ sở hữu với chức năng quản lý đã tạo cho CTCP có được sự quản lý tập trung cao thông qua cơ chế quản lý hiện đại, lành nghề nên rất phù hợp với điều kiện quản lý các doanh nghiệp có qui mô lớn.
1.1.3. Quá trình hình thành công ty cổ phần ở Việt Nam
ở Việt Nam, so với các nước trên thế giới, Luật công ty ra đời muộn và chậm phát triển mặc dù các hoạt động thương mại đã có từ lâu và được điều chỉnh bằng thông lệ thương mại. Do Việt Nam là thuộc địa của Pháp, nên đã có thời kỳ Luật thương mại của Pháp được áp dụng trên từng vùng khác nhau của lãnh thổ Việt Nam. Luật lệ về công ty lần đầu tiên được qui định tại Việt Nam vào năm 1913 trong "Dân luật được thi hành tại các Tòa Nam án Bắc kỳ", trong đó có đề cập đến "hội buôn" đó là những hình thức công ty đơn giản. Theo đạo luật này, các công ty (hội buôn) được chia thành hai loại: hội người và hội vốn. Trong hội người chia thành hội hợp danh (công ty hợp danh), hội hợp tư (công ty hợp vốn đơn giản), hội đồng lợi. Trong hội vốn chia thành: hội vô danh (CTCP) và hội hợp cổ (công ty hợp vốn cổ phần đơn giản). Trong luật này không có công ty trách nhiệm hữu hạn.
Năm 1944, chính quyền Bảo Đại xây dựng Bộ Luật thương mại Trung phần.
Năm 1972, chính quyền Việt Nam Cộng hòa ban hành Bộ Luật thương mại Việt Nam Cộng hòa.
Sau năm 1954, đất nước chia làm hai miền: miền Bắc bắt đầu tiến hành cải tạo và xây dựng chủ nghĩa xã hội, miền Nam tiếp tục cuộc đấu tranh thống nhất đất nước. ở miền Bắc, Nhà nước ta tiến hành cải tạo các thành phần kinh tế phi XHCN theo kế hoạch 3 năm khôi phục và phát triển kinh tế (1957-1960). Trong giai đoạn này, hình thức công ty hợp doanh ra đời là sự duy trì một số doanh nghiệp có phần sở hữu tư nhân. Về cơ bản, các công ty hợp doanh được coi như một hình thức để cải tạo đối với các thành phần kinh tế phi XHCN. Sự tồn tại của các công ty này chỉ trong một thời gian ngắn và sau đó chuyển thể thuộc sở hữu nhà nước và sở hữu tập thể dưới các hình thức xí nghiệp quốc doanh, các nhà máy, các cửa hàng hay hợp tác xã. Việc ra đời hình thức công ty hợp doanh thực chất là bước chuyển trong quá trình thực hiện nhiệm vụ cải tạo các thành phần kinh tế nên nó tồn tại không lâu và nhà nước cũng không có văn bản pháp luật nào để điều chỉnh mà chỉ dùng chính sách để cải tạo.
Từ năm 1960, thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng Lao động Việt Nam (nay là Đảng Cộng sản Việt Nam) lần thứ III, miền Bắc bắt đầu xây dựng nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung với hai thành phần kinh tế chủ yếu là quốc doanh và tập thể trong đó kinh tế quốc doanh giữ vai trò then chốt chi phối toàn bộ các quan hệ kinh tế trong nền kinh tế quốc dân. Nhà nước với tư cách là chủ sở hữu các tư liệu sản xuất chủ yếu và vốn đã đề ra hệ thống chỉ tiêu pháp lệnh bắt buộc từ sản xuất, lưu thông đến phân phối sản phẩm theo mệnh lệnh hành chính. Một số văn bản pháp luật trong thời kỳ này cũng đề cập đến thuật ngữ "công ty", nhưng khái niệm "công ty" ở thời kỳ này được sử dụng không đúng với bản chất pháp lý của nó, mà thực chất là khái niệm được dùng để phân biệt giữa các hình thức hoạt động trong các đơn vị sản xuất tạo ra sản phẩm và các đơn vị thực hiện hoạt động thương nghiệp phân phối, tiêu thụ sản phẩm; nên không có loại hình công ty và pháp luật về công ty.
Sau đại thắng mùa xuân năm 1975, miền Nam được hoàn toàn giải phóng, thống nhất đất nước, Đảng và Nhà nước ta đã có nhiều chính sách trong việc khôi phục và phát triển kinh tế sau chiến tranh. Nhưng do nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan khác nhau, nên chúng ta chưa có bước đột phá trong công cuộc phát triển nền kinh tế đất nước.
Từ năm 1986, với đường lối đổi mới toàn diện đất nước theo tinh thần Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng Cộng sản Việt Nam, Đảng ta đề ra đường lối xây dựng nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN. Đường lối đổi mới đó đã thúc đẩy sự đa dạng hóa các loại hình doanh nghiệp với việc bảo đảm quyền tự do kinh doanh của các doanh nghiệp trong việc lựa chọn qui mô kinh doanh, ngành nghề hoạt động, hình thức sở hữu. Ngày 21 tháng 12 năm 1990, Quốc hội khóa VIII nước Cộng hòa XHCN Việt Nam đã thông qua hai đạo luật quan trọng là: Luật công ty và Luật doanh nghiệp tư nhân. Với việc ban hành hai đạo luật này cùng hệ thống các văn bản hướng dẫn thi hành đã tạo lập nên hành lang pháp lý cho hoạt động của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh như: CTCP, công ty TNHH, doanh nghiệp tư nhân; đã góp phần to lớn trong việc giải phóng lực lượng sản xuất, phát huy nội lực, thúc đẩy nhanh quá trình chuyển đổi từ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp sang cơ chế thị trường định hướng XHCN. Tuy nhiên, do được xây dựng trong thời kỳ đầu của công cuộc đổi mới, nên sau gần mười năm thực hiện, nhiều nội dung của các đạo luật trên đã tỏ ra bất cập, không đáp ứng được nhu cầu điều chỉnh hoạt động của các loại hình doanh nghiệp trong thời kỳ mới. Vì vậy, việc sửa đổi, bổ sung Luật công ty và Luật doanh nghiệp tư nhân đã trở nên cấp thiết hơn lúc nào hết nhằm tiếp tục hoàn thiện môi trường pháp lý cho các hoạt động kinh doanh tại Việt Nam. Đáp ứng nhu cầu đó, trên cơ sở hợp nhất có sửa đổi, bổ sung Luật công ty và Luật doanh nghiệp tư nhân, ngày 01 tháng 6 năm 1999 Quốc hội khóa X nước Cộng hòa XHCN Việt Nam đã thông qua Luật doanh nghiệp và có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 01 năm 2000. Luật doanh nghiệp ra đời với phạm vi điều chỉnh được mở rộng, nhiều nội dung được đề cập một cách toàn diện, cải cách một bước quan trọng về thủ tục hành chính, phù hợp với yêu cầu tăng cường quản lý nhà nước, cải thiện môi trường kinh doanh, phát huy nội lực, thúc đẩy sự nghiệp phát triển kinh tế đất nước.
Như vậy, cùng với các loại hình doanh nghiệp khác, CTCP ở Việt Nam ra đời khá muộn so với các nước trên thế giới. CTCP ở nước ta được hình thành và phát triển cùng với sự thừa nhận nền kinh tế thị trường có điều tiết, thể hiện sự thay đổi sâu sắc trong tư duy lãnh đạo kinh tế của Đảng và Nhà nước ta.
Mặt khác, cùng với chủ trương sắp xếp, đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả DNNN, từ đầu thập niên 90, Đảng và Nhà nước ta đã có chủ trương "cổ phần hóa" DNNN nhằm mục tiêu:
- Góp phần quan trọng nâng cao hiệu quả, sức cạnh tranh của doanh nghiệp; tạo ra loại hình doanh nghiệp có nhiều chủ sở hữu, trong đó có đông đảo người lao động; tạo động lực mạnh mẽ và cơ chế quản lý năng động cho doanh nghiệp để sử dụng có hiệu quả vốn, tài sản của Nhà nước và của doanh nghiệp.
- Huy động vốn của toàn xã hội, bao gồm: cá nhân, các tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội trong nước và ngoài nước để đầu tư đổi mới công nghệ, phát triển doanh nghiệp.
- Phát huy vai trò làm chủ thực sự của người lao động, của các cổ đông, tăng cường sự giám sát của nhà đầu tư đối với doanh nghiệp; bảo đảm hài hòa lợi ích của Nhà nước, doanh nghiệp, nhà đầu tư và người lao động.
Theo tinh thần Nghị quyết Hội nghị lần thứ 3 Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa IX và các Nghị định số 28/CP ngày 7 tháng 5 năm 1996, Nghị định số 44/1998/NĐ-CP ngày 29 tháng 6 năm 1998 và Nghị định số 64/2002/NĐ-CP ngày 19 tháng 6 năm 2002 của Chính phủ thì các DNNN sau khi cổ phần hóa sẽ chuyển đổi hình thức sở hữu và hoạt động dưới hình thức CTCP theo Luật doanh nghiệp và nhà nước sẽ thực hiện chức năng quản lý của mình đối với các doanh nghiệp này như đối với CTCP. Như vậy, ngoài các CTCP được thành lập và hoạt động theo qui định của Luật doanh nghiệp thì việc cổ phần hóa DNNN sẽ có thêm cơ hội cho các doanh nghiệp thuộc sở hữu nhà nước sau khi cổ phần hóa sẽ trở thành các CTCP hoạt động theo Luật doanh nghiệp.
Thực tiễn cho thấy, chủ trương đẩy mạnh cổ phần hóa các doanh nghiệp, kể cả DNNN là hoàn toàn đúng đắn, góp phần nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh, góp phần tăng trưởng và phát triển bền vững nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta hiện nay. Theo số liệu thống kê của Ban chỉ đạo đổi mới và phát triển doanh nghiệp, tính đến cuối tháng 7/2004 số DNNN được cổ phần hóa là 1.748 doanh nghiệp. Kết quả khảo sát 500 doanh nghiệp đã được cổ phần hóa cho thấy: doanh thu trung bình của các doanh nghiệp đã tăng 43%, vốn điều lệ tăng 1,5 - 2 lần, cổ tức được chia khoảng 15,5%, nộp ngân sách nhà nước tăng 16%, lợi nhuận tăng 243%, thu nhập người lao động tăng 54%, số lao động được sử dụng trong các doanh nghiệp cổ phần tăng 12%, phần vốn nhà nước tại doanh nghiệp tăng từ 10 - 50% nhờ cổ tức được chia đầu tư trở lại.
Rõ ràng, xuất phát từ nhu cầu phát triển các hoạt động đầu tư kinh doanh trong nền kinh tế, CTCP đã ra đời và với lợi thế của mình, CTCP đã ngày càng khẳng định sức sống trong đời sống kinh tế - pháp lý của các quốc gia. Đặc biệt với quá trình toàn cầu hóa đang diễn ra một cách mạnh mẽ thì hình thức CTCP cũng đã có sức bật mới với sự xuất hiện của các loại hình CTCP "đa quốc gia", "xuyên quốc gia " với tầm hoạt động rộng lớn và khả năng cạnh tranh cao.
1.2. Khái Niệm, Nội DUNG, Đặc TRƯNG Và VAi Trò Quản Lý Nhà Nước Bằng Pháp Luật Đối Với CÔNG TY Cổ Phần ở Việt Nam
1.2.1. Khái niệm quản lý nhà nước bằng pháp luật đối với công ty cổ phần
Quản lý nhà nước bằng pháp luật là việc nhà nước sử dụng pháp luật làm công cụ để điều chỉnh các quan hệ xã hội. Đây là phương thức quản lý riêng có của Nhà nước nhằm thực hiện các chức năng của Nhà nước đối với xã hội. Điều 12 Hiến pháp 1992 quy định: "Nhà nước quản lý xã hội theo pháp luật, không ngừng tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa" [57, tr. 4].
Nhà nước và pháp luật là hai hiện tượng xã hội thuộc kiến trúc thượng tầng, có mối liên hệ chặt chẽ, mật thiết với nhau, cùng phát sinh, tồn tại, phát triển và tiêu vong; đều là phương tiện của quyền lực chính trị. Nhà nước thiếu công cụ pháp luật có tính bắt buộc chung thì không thể phát huy vai trò quản lý kinh tế - xã hội của mình vì không thiết lập được trật tự, kỷ cương trong quản lý. Pháp luật mà thiếu sức mạnh cưỡng chế của Nhà nước thì sẽ không thể phát huy tác dụng cưỡng chế và giá trị thuyết phục phòng ngừa.
Pháp luật là hệ thống các quy tắc xử sự do nhà nước ban hành và được bảo đảm thực hiện bằng nhà nước. Vai trò và giá trị xã hội to lớn của pháp luật thể hiện ở chức năng điều chỉnh các quan hệ xã hội và là cơ sở pháp lý quan trọng cho sự ổn định và phát triển năng động của các quan hệ kinh tế - xã hội. Vì vậy, khi đề cập đến quản lý nhà nước bằng pháp luật thì trước hết nhà nước phải xây dựng một hệ thống pháp luật làm nền tảng trong việc điều chỉnh các quan hệ kinh tế - xã hội.
Để đưa pháp luật vào thực tiễn đời sống kinh tế - xã hội cần phải triển khai quá trình tổ chức thực hiện pháp luật với nhiều hình thức và biện pháp khác nhau: từ việc tổ chức tuyên truyền, giáo dục pháp luật cho mọi tầng lớp nhân dân, mọi doanh nhân thuộc các thành phần kinh tế hiểu biết và kinh doanh theo đúng pháp luật, tuân thủ và chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật, đến việc làm cho các cơ quan nhà nước, cán bộ, công chức nhà nước am hiểu pháp luật, thừa hành và áp dụng đúng đắn pháp luật trong hoạt động quản lý nhà nước.
Một đòi hỏi khách quan của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN là bên cạnh việc khuyến khích và tạo điều kiện cho các thành phần kinh tế phát triển thì việc thường xuyên thanh tra, kiểm tra việc tuân thủ và chấp hành pháp luật, cũng như xử lý nghiêm minh các hành vi vi phạm pháp luật của các chủ thể kinh doanh là một hoạt động không thể thiếu của Nhà nước. Thông qua hoạt động này nhằm thiết lập sự ổn định và trật tự trong các quan hệ kinh tế, bảo đảm sự phát triển bền vững và đúng định hướng XHCN của nền kinh tế thị trường ở nước ta.
Từ phân tích trên đây, có thể thấy rằng, quản lý nhà nước bằng pháp luật đối với CTCP chính là việc nhà nước ban hành pháp luật và sử dụng pháp luật như một công cụ quản lý nhằm tác động lên các hoạt động của CTCP theo những phương thức nhất định nhằm thực hiện các chức năng và nhiệm vụ của Nhà nước. Quản lý nhà nước bằng pháp luật đối với CTCP thể hiện phương thức tác động mang tính quyền lực trong hoạt động quản lý của Nhà nước thông qua các cơ quan trong bộ máy nhà nước để đạt đến mục đích quan trọng là vừa bảo đảm quyền tự do kinh doanh trong khuôn khổ pháp luật của CTCP, vừa nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước của bộ máy nhà nước.
Như vậy, quản lý nhà nước bằng pháp luật đối với CTCP là quá trình nhà nước ban hành pháp luật, tổ chức thực hiện pháp luật và xử lý các vi phạm pháp luật để quản lý các CTCP nhằm thực hiện chức năng quản lý nhà nước về kinh tế, đồng thời phát huy vai trò và nâng cao hiệu quả hoạt động của CTCP trong điều kiện xây dựng và phát triển bền vững nền kinh tế thị trường định hướng XHCN.
1.2.2. Nội dung quản lý nhà nước bằng pháp luật đối với CTCP
Nội dung được hiểu là "mặt bên trong của sự vật, cái được hình thức chứa đựng hoặc biểu hiện" [79, tr. 15]. Khi chúng ta đề cập đến nội dung quản lý nhà nước bằng pháp luật đối với CTCP cũng có nghĩa chúng ta đề cập đến sự chứa đựng những nội dung mang tính chất quản lý bằng pháp luật của Nhà nước đối với CTCP. Nó thể hiện một cách bao quát nhất những biểu hiện bên trong của nội dung quản lý, tức sự quản lý được hiện hữu trên những khía cạnh nào? Theo chúng tôi, khi tiếp cận phương thức quản lý nhà nước bằng pháp luật đối với CTCP, chúng ta có thể thấy rằng, phương thức này được thể hiện trên ba khía cạnh chính, đó là việc tạo ra công cụ để làm cơ sở cho sự quản lý; đó là việc triển khai thực hiện các công cụ quản lý trong đời sống kinh tế-xã hội và cuối cùng là bước kiểm tra, đánh giá hiệu quả áp dụng và xử lý các hành vi vi phạm nếu có xảy ra trên thực tế. Tương ứng với ba khía cạnh nói trên của phương thức quản lý nhà nước bằng pháp luật đối với CTCP chính là hoạt động ban hành pháp luật, thực hiện pháp luật và kiểm tra việc chấp hành, xử lý hành vi vi phạm pháp luật.
a) Xây dựng pháp luật liên quan đến tổ chức, hoạt động của CTCP
Để xác định được nội dung xây dựng pháp luật liên quan đến tổ chức, hoạt động của CTCP cần xuất phát từ mục đích của quản lý nhà nước bằng pháp luật đối với CTCP.
Quản lý nhà nước bằng pháp luật đối với CTCP ở nước ta hiện nay phải đạt được hai mục đích sau đây:
Một là, tăng cường hiệu lực quản lý nhà nước đối với CTCP bảo đảm phát triển bền vững nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Mục đích này đòi hỏi pháp luật phải bảo đảm tạo điều kiện và khuyến khích các CTCP phát triển, đồng thời hạn chế những tiêu cực phát sinh từ mặt trái của cơ chế thị trường tác động vào tổ chức và hoạt động của các CTCP, đưa các hoạt động của CTCP đi vào quỹ đạo chung trong nền kinh tế thị trường thông qua phương tiện pháp luật.
Hai là, tạo môi trường pháp lý thuận lợi, nâng cao hiệu quả hoạt động của CTCP, góp phần phát triển kinh tế và đảm bảo các lợi ích xã hội. Nhà nước ban hành pháp luật để quản lý CTCP phải tạo ra môi trường pháp lý thuận lợi, phát huy tối đa sức mạnh và hiệu quả hoạt động của CTCP. Hiệu quả đó được đánh giá bằng sự đóng góp của CTCP vào sự nghiệp phát triển kinh tế và đảm bảo các lợi ích xã hội ở nước ta. Chính hiệu quả hoạt động của các CTCP trong nền kinh tế sẽ là thước đo công dụng và lợi ích mà hoạt động ban hành pháp luật quản lý CTCP mang lại.
Để đáp ứng các mục đích trên, hoạt động ban hành pháp luật trong quản lý nhà nước bằng pháp luật đối với CTCP phải đảm bảo các nội dung sau:
Thứ nhất: Những qui định về nhiệm vụ, quyền hạn đối với các chủ thể quản lý nhà nước bằng pháp luật đối với CTCP.
Nội dung này được thể hiện ở các khía cạnh sau:
+ Xây dựng các qui định của pháp luật về mối quan hệ giữa các cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền với CTCP trong hoạt động quản lý nhà nước bằng pháp luật trên lĩnh vực thành lập CTCP.
+ Xây dựng các qui định của pháp luật về mối quan hệ giữa các cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền với CTCP trong hoạt động quản lý nhà nước bằng pháp luật trên lĩnh vực tổ chức và hoạt động của CTCP.
+ Xây dựng các qui định của pháp luật về mối quan hệ giữa cơ quan nhà nước có thẩm quyền với CTCP trong việc giải quyết các tranh chấp phát sinh.
+ Xây dựng các qui định của pháp luật về mối quan hệ giữa các cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền với các chủ thể khác trong hoạt động quản lý nhà nước bằng pháp luật đối với CTCP.
- Thứ hai: Những qui định về tổ chức và hoạt động của CTCP trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN.
Nội dung của các qui định này cần tập trung vào những vấn đề sau đây:
+ Các qui định về điều kiện, thủ tục thành lập, đăng ký kinh doanh của CTCP.
+ Bảo đảm về mặt pháp lý quyền sở hữu tài sản và bảo vệ những lợi ích từ tài sản của các cổ đông và CTCP trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN.
+ Bảo đảm quyền chủ động của các CTCP trong mọi hoạt động kinh doanh, trong thuê mướn, sử dụng lao động và bảo đảm quyền lợi cho người lao động.
+ Quyền của công ty trong lĩnh vực tài chính - tín dụng, trong lĩnh vực liên doanh, liên kết kinh tế.
+ Bảo đảm thực hiện các chính sách về ưu đãi đối với CTCP theo định hướng và mục tiêu của chiến lược, quy hoạch và kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội.
+ Bảo đảm các điều kiện cạnh tranh lành mạnh của CTCP với các doanh nghiệp khác trong nền kinh tế, chống độc quyền và các hành vi gian lận thương mại khác, ngăn ngừa các hoạt động gây ô nhiễm môi trường.
+ Bảo đảm hình thành đồng bộ các quan hệ thị trường, các loại thị trường như: thị trường hàng hóa - dịch vụ, thị trường lao động, thị trường chứng khoán, thị trường công nghệ, thị trường bất động sản nhằm tạo cơ hội thuận tiện cho các CTCP tiếp cận nhanh chóng và hiệu quả các yếu tố pháp lý của thị trường phục vụ nhu cầu phát triển sản xuất kinh doanh của mình.
+ Ban hành các chuẩn mực pháp lý nhằm xác lập các mối quan hệ trong tổ chức, quản lý, điều hành các CTCP. Bao gồm: các mối quan hệ giữa CTCP với các cổ đông, các chủ nợ và các đối tác khác; mối quan hệ giữa cổ đông phổ thông với cổ đông ưu đãi và giữa các cổ đông ưu đãi với nhau; mối quan hệ giữa đại hội cổ đông với hội đồng quản trị, giữa đại hội cổ đông với ban kiểm soát; mối quan hệ giữa hội đồng quản trị với tổng giám đốc (giám đốc) công ty. Mối quan hệ giữa các bộ phận cấu thành trong công ty, mối quan hệ giữa công ty với các bộ phận cấu thành này v.v...
+ Qui định khuôn khổ pháp lý về mối quan hệ giữa CTCP với các khách hàng và người tiêu dùng trong xã hội.
+ Qui định những hình thức pháp lý về giải quyết các tranh chấp phát sinh trong kinh doanh để các CTCP lựa chọn.
+ Qui định các nghĩa vụ pháp lý của CTCP đối với nhà nước và xã hội như nghĩa vụ nộp thuế, nghĩa vụ đóng góp vào sự nghiệp giáo dục, đào tạo nguồn nhân lực phục vụ CTCP.
- Thứ ba: Những qui định về thanh tra, kiểm tra và xử lý vi phạm pháp luật đối với CTCP.
Phần này tập trung giải quyết những vấn đề sau đây:
+ Ban hành những qui định về cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền trong việc thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm pháp luật về CTCP.
+ Tạo lập khuôn khổ pháp lý cho phép các đối tác kinh doanh và người tiêu dùng giám sát hoạt động và phát hiện các hành vi vi phạm pháp luật của các CTCP.
+ Xây dựng trình tự, thủ tục pháp lý trong việc tiến hành thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm pháp luật về CTCP.
+ Qui định những biện pháp chế tài cụ thể áp dụng đối với các hành vi vi phạm pháp luật về CTCP thông qua công tác thanh tra, kiểm tra đối với công ty.
+ Qui định rõ ràng cách thức xử lý và bồi thường thiệt hại áp dụng đối với cán bộ, công chức lợi dụng hoạt động thanh tra, kiểm tra để gây khó khăn cho CTCP hoặc gây thiệt hại cho công ty.
b) Tổ chức thực hiện pháp luật để quản lý CTCP
Một nội dung khác không kém phần quan trọng trong hoạt động quản lý nhà nước bằng pháp luật đối với CTCP chính là việc áp dụng và thực hiện nghiêm chỉnh trên thực tế những qui định của pháp luật liên quan đến tổ chức và hoạt động của CTCP. Đây chính là quá trình tổ chức thực hiện pháp luật để quản lý CTCP. Quá trình này được thực hiện bởi các cơ quan quản lý nhà nước về kinh tế nhằm thực hiện các yêu cầu chứa đựng trong các quy phạm pháp luật bằng cách làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt các quan hệ pháp luật cụ thể trong hoạt động quản lý nhà nước đối với CTCP dựa trên cơ sở các quy phạm pháp luật và cũng nhằm thực hiện nội dung của các quy phạm pháp luật này. Quá trình này đặt ra nhiều yêu cầu đối với hoạt động quản lý của Nhà nước đối với CTCP. Trước hết đòi hỏi các chủ thể quản lý phải nhận thức đúng đắn mục đích của hoạt động quản lý nhà nước bằng pháp luật đối với CTCP. Đây chính là cơ sở quan trọng cho những hành động, những việc làm cụ thể của các cơ quan, cán bộ, công chức quản lý trong thực tế. Thứ hai là đề ra những giải pháp và bước đi thích hợp trong việc áp dụng những việc làm cụ thể đã được xác định từ nhận thức. Đó là việc giải quyết những công việc phát sinh từ hoạt động quản lý nhà nước đối với CTCP. Thứ ba là thực hiện những quyết định mang tính quản lý cần thiết và hiệu quả để thực hiện chức năng quản lý của các cơ quan quản lý nhà nước đối với CTCP.
Tổ chức thực hiện pháp luật để quản lý CTCP bao gồm những hoạt động chủ yếu sau đây:
- Tổ chức công tác nghiên cứu khoa học pháp lý về quản lý nhà nước bằng pháp luật đối với CTCP nhằm xây dựng và hoàn thiện cơ chế quản lý CTCP trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Đây là công việc rất quan trọng nhằm giúp cho nhà nước có được những phương thức quản lý phù hợp với yêu cầu và nhiệm vụ đặt ra trong hoạt động quản lý nhà nước bằng pháp luật đối với CTCP.
- Thực hiện công tác giải thích pháp luật để làm sáng tỏ nội dung, ý nghĩa các quy định của pháp luật liên quan đến hoạt động quản lý nhà nước bằng pháp luật đối với CTCP. Thông qua hoạt động này giúp cho việc tuyên truyền và giáo dục pháp luật trong các cơ quan quản lý nhà nước và các CTCP đạt kết quả cao.
- Triển khai công tác thông tin, tuyên truyền giáo dục pháp luật, để cho các CTCP biết và thi hành, góp phần nâng cao ý thức pháp luật của CTCP. Cụ thể: đăng tải các qui định của pháp luật trên công báo và phát hành công báo rộng rãi đến mọi doanh nghiệp để các CTCP nắm bắt kịp thời các qui định pháp luật để thực hiện.
- Đào tạo đội ngũ cán bộ có đủ trình độ, phẩm chất chính trị và khả năng công tác trong việc thực hiện pháp luật quản lý nhà nước đối với CTCP. Nâng cao trách nhiệm cá nhân, b._.iệt Nam. Những nội dung này bao gồm: tiếp tục hoàn thiện nội dung pháp luật liên quan đến tổ chức và hoạt động của CTCP, nâng cao chất lượng hoạt động xây dựng pháp luật. Đẩy mạnh các hoạt động thực hiện pháp luật, tăng cường kiểm tra, giám sát và xử lý vi phạm pháp luật về CTCP. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, nhân tố quyết định và đảm bảo thực hiện thành công quản lý nhà nước bằng pháp luật đối với CTCP trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam hiện nay.
những Công trình nghiên cứu đã công bố liên quan đến đề tài luận án
Nguyễn Thanh Bình (2003) "Những lợi thế của công ty cổ phần trong nền kinh tế thị trường", Khoa học pháp lý, 1(16), tr. 21-24.
Nguyễn Thanh Bình (2004) "Những đặc trưng của quản lý nhà nước bằng pháp luật đối với công ty cổ phần", Nhà nước và pháp luật, (9), tr. 72-80.
Danh mục tài liệu tham khảo
PTS. Ngô Trần ánh (2000), Kinh tế và quản lý doanh nghiệp, Nxb Thống kê, Hà Nội.
TS. Lê Xuân Bá (2003), Sự hình thành và phát triển thị trường bất động sản trong công cuộc đổi mới ở Việt Nam, Nxb Khoa học kỹ thuật, Hà Nội.
Ban Tư tưởng - Văn hóa Trung ương (1994), Một số quan điểm và giải pháp chuyển sang kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
TS. Nguyễn Kim Bảo (2002), Kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa có đặc sắc Trung Quốc, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2003), Báo cáo đánh giá tình hình 4 năm thi hành Luật Doanh nghiệp, ngày 04-11, Hà Nội.
Bộ Kế hoạch và Đầu tư - Viện Nghiên cứu Quản lý Kinh tế Trung ương (1995), Luật công ty của một số nước trên thế giới, Hà Nội.
Bộ Tư pháp và Chương trình phát triển Liên hợp quốc UNDP (1994), Báo cáo kiến nghị xây dựng và hoàn thiện khung pháp luật kinh tế của Ban dự án đề tài VIE/94/003, Hà Nội.
Bộ Tư pháp - Câu lạc bộ Pháp chế doanh nghiệp, Văn phòng Quốc hội - Tạp chí Nghiên cứu lập pháp (2001), Tọa đàm xây dựng pháp luật và thực trạng áp dụng tại các doanh nghiệp, Hà Nội.
PTS Mai Văn Bưu - PTS Phan Kim Chiến (1999), Quản lý nhà nước về kinh tế, Nxb Khoa học kỹ thuật, Hà Nội.
ThS. Ngô Huy Cương - Phạm Vũ Thăng Long (2001), "Công ty: bản chất pháp lý, các loại hình và việc xây dựng hệ thống các văn bản pháp luật có liên quan", Nghiên cứu lập pháp, (4).
TS. Lê Đăng Doanh (2002), Hình thành đồng bộ hệ thống chính sách kinh tế vĩ mô thúc đẩy công nghiệp hóa, hiện đại hóa, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Lê Đăng Doanh, Nguyễn Minh Tú (chủ biên) (1997), Khu vực kinh tế phi chính quy-Một số kinh nghiệm quốc tế và thực tiễn Việt Nam trong quá trình chuyển đổi kinh tế, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
TS. Nguyễn Sĩ Dũng (2003), "Bàn về triết lý của lập pháp", Nghiên cứu lập pháp, (6).
Đảng Cộng sản Việt Nam (1982), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V, Nxb sự thật, Hà Nội.
Đảng Cộng sản Việt Nam (1987), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Nxb Sự thật, Hà Nội.
Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, Nxb Sự thật, Hà Nội.
Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
Đảng Cộng sản Việt Nam (2001) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Đảng Cộng sản Việt Nam (2002), Các nghị quyết Hội nghị lần thứ năm Ban chấp hành Trung ương khóa IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Đảng Cộng sản Việt Nam (2002), Nghị quyết Hội nghị lần thứ ba Ban chấp hành Trung ương khóa IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Đảng Cộng sản Việt Nam (2004), Văn kiện Hội nghị lần thứ chín Ban chấp hành Trung ương khóa IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
PGS.TSKH Từ Điển (2001), Cải cách hành chính và cải cách kinh tế, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Đỗ Đức Định (1991), Nhà nước trong kinh tế thị trường các nước đang phát triển châu á, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
PTS Trần Ngọc Đường (1992), "Pháp luật trong cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước", Nghiên cứu lý luận, (4).
GS.TS Nguyễn Duy Gia (1997), Một số vấn đề về Nhà nước quản lý vĩ mô nền kinh tế thị trường ở Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
PGS.TS Lê Hồng Hạnh (2002), Những nền tảng pháp lý cơ bản của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, Bộ Tư pháp - Ngân hàng Phát triển châu á, Dự án TA 2853 VIE.
PGS.TS Lê Hồng Hạnh (2003), "Bàn thêm về hoàn thiện pháp luật kinh tế ở Việt Nam", Nhà nước và pháp luật, (4).
Hiến pháp Việt Nam từ 1946 đến 2001(2002), Nxb Thành phố Hồ Chí Minh.
Nguyễn Am Hiểu (1996), Hoàn thiện luật kinh tế ở Việt Nam trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, Luận án Phó Tiến sĩ Luật học, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
Nguyễn Thanh Hóa (2002), Đổi mới và hoàn thiện quản lý nhà nước bằng pháp luật đối với các loại hình doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư nhân ở Việt Nam hiện nay, Luận án Tiến sĩ Luật học, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
PGS.TS Dương Đăng Huệ (2004), "Luật doanh nghiệp chung: cần hay không cần ban hành? ", Nghiên cứu lập pháp, (5).
Quách Sĩ Hùng (1996), Tăng cường pháp chế về kinh tế trong quản lý nhà nước nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay, Luận án Phó Tiến sĩ Luật học, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
Lê Văn Hưng (2002), Hoàn thiện pháp luật về tổ chức, hoạt động và quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp nhà nước trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay (từ thực tiễn Thành phố Hồ Chí Minh), Luận án Tiến sĩ Luật học, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
PTS. Vũ Trọng Khải - Lâm Ngọc Điệp (1995), Tổ chức và quản trị công ty, Nxb Thống kê, Hà Nội.
PGS.PTS Trần Hậu Kiêm (chủ biên) (1998), Một số vấn đề về quản lý nhà nước, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Nguyễn Văn Kim (chủ biên) (2001), Tổ chức và hoạt động thanh tra, kiểm tra, giám sát của một số nước trên thế giới, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Reinier Kraakman (1997), Cơ chế điều chỉnh của luật công ty - Phân tích và so sánh, Đề cương tọa đàm, tháng 3.
TS. Trần Du Lịch (2002), Hoàn thiện hệ thống pháp luật về kinh tế để đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
PTS Hoàng Thế Liên (1992), "Mấy vấn đề pháp lý của kinh tế thị trường ở nước ta", Tạp chí Cộng sản, (3).
PTS. Hoàng Thế Liên (1998), "Pháp luật của một số nước Đông Âu trong quá trình chuyển đổi cơ chế", Thông tin Khoa học Pháp lý, Viện Nghiên cứu Khoa học Pháp lý - Bộ Tư pháp.
"Luật và tư vấn luật - Doanh nghiệp và người dân cần biết?" (2004), Nxb Thông tấn, (chi nhánh Thành phố Hồ Chí Minh).
Trần Đức Lượng (Chủ nhiệm) (2001), Hoàn thiện cơ chế thanh tra, kiểm tra, giám sát góp phần nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước, Đề tài khoa học độc lập cấp nhà nước, Thanh tra Nhà nước, Hà Nội.
C.Mác (1978), Toàn tập, tập 1, Nxb Sự thật, Hà Nội.
C. Mác - Ph. Ăngghen, Toàn tập, tập 23, Nxb Sự thật, Hà Nội.
TS. Nguyễn Văn Mạnh (2003), "Vai trò của Nhà nước ta trong bối cảnh toàn cầu hóa", Nhà nước và pháp luật, (3).
Nguyễn Minh Mẫn (1996), Đổi mới và hoàn thiện khung pháp luật kinh tế trong điều kiện kinh tế thị trường ở Việt Nam, Luận án Phó tiến sĩ Luật học, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
Ngân hàng thế giới (1998), Nhà nước trong một thế giới chuyển đổi, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
GS.TS Lê Hữu Nghĩa (2003), "Vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản và quản lý của Nhà nước trong quá trình phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam", Tạp chí Cộng sản, (31).
Pháp lệnh về đối xử tối huệ quốc và đối xử quốc gia trong thương mại hàng hóa quốc tế (2002), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Pháp lệnh về tự vệ trong nhập khẩu hàng hóa nước ngoài vào Việt Nam (2002), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội
PTS Nguyễn Như Phát (1992), "Pháp luật kinh tế nước ta trong bước chuyển sang kinh tế thị trường", Nhà nước và pháp luật, (4).
Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (2000), Báo cáo điều tra thi hành Luật Doanh nghiệp - Những trở ngại và kiến nghị đối với sự phát triển của khu vực kinh tế dân doanh, Hà Nội.
Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (2001), Chính phủ và doanh nghiệp, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (2003), "Doanh nghiệp và việc hoàn thiện môi trường pháp lý kinh doanh", Kỷ yếu: Dự án hỗ trợ xây dựng và thực hiện pháp luật kinh doanh tại Việt Nam, Hà Nội.
Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (2003), Báo cáo tổng hợp Dự án nghiên cứu việc thay thế giấy phép kinh doanh bằng một hệ thống giám sát pháp lý, Hà Nội, tháng 3.
Đinh Mai Phương - Nguyễn Văn Cương, "Những vướng mắc trong quá trình thực hiện Luật doanh nghiệp và một số giải pháp khắc phục", Nhà nước và pháp luật, (10).
Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (1992), Hiến pháp, Nxb Pháp lý, Hà Nội.
Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (1993), Luật phá sản doanh nghiệp, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (1996), Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (1997), Luật Thương mại, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (1997), Luật công ty năm 1990 và Luật sửa đổi một số điều của Luật Công ty năm 1994, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội.
Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (1999), Luật Doanh nghiệp, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2002), Luật Tổ chức Chính phủ, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
TS Ngô Văn Quế (2001), Công ty cổ phần và thị trường tài chính, Nxb Lao động, Hà Nội.
GS.VS Nguyễn Duy Quý (1992), "Vấn đề xây dựng Nhà nước pháp quyền ở nước ta", Tạp chí Cộng sản, (4).
GS.TSKH Lương Xuân Quỳ (2001), Cơ cấu thành phần kinh tế ở nước ta hiện nay - Lý luận, thực trạng và giải pháp, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Jean-Claude Ricci (2002), Nhập môn Luật học, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội.
Nguyễn Đình Tài (1999), Sự hình thành và phát triển thị trường tài chính của nền kinh tế chuyển đổi Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Anna S. Tarassova (1996), "Những bối cảnh quốc gia ảnh hưởng đến việc hình thành luật công ty", Trích trong chương II: "Hướng dẫn về luật công ty cổ phần của Cộng hòa Liên bang Nga" của B. R. Kraakman, tháng 11.
Chu Hồng Thanh (1993), Nhà nước quản lý kinh tế bằng pháp luật trong cơ chế thị trường ở Việt Nam hiện nay, Luận án Phó Tiến sĩ Luật học, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
Thanh tra Nhà nước (2004), Báo cáo công tác thanh tra năm 2003 và phương hướng công tác năm 2004, Hà Nội.
Nguyễn Văn Thảo (1992), "Vai trò của Nhà nước trong quản lý nền kinh tế thị trường", Tạp chí Cộng sản, (3).
PGS.TS Hoàng Công Thi - Phạm Hồng Vân (2000), Tạo lập môi trường tài chính bình đẳng giữa các loại hình doanh nghiệp, Nxb Tài chính, Hà Nội.
Nguyễn Phước Thọ (2001), "Bàn thêm về quản lý nhà nước ở nước ta hiện nay", Nhà nước và pháp luật, (10).
GS.TS Nguyễn Phú Trọng (2003), "Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa: Quan niệm và giải pháp phát triển", Tạp chí Cộng sản, (31).
Phương Tùng, Nguyễn Hiểu (1997), Luật pháp về chứng khoán và công ty chứng khoán, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Từ điển giải thích thuật ngữ Luật học (1999), Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.
Từ điển Luật học (1999), Nxb Từ điển Bách khoa, Hà Nội.
Từ điển Tiếng Việt (1994), Nxb Giáo dục, Hà Nội.
Phạm Quý Tỵ (2000), Nhà nước quản lý bằng pháp luật đối với doanh nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn, Luận án Tiến sĩ Luật học, Trung tâm Khoa học xã hội và Nhân văn quốc gia, Hà Nội.
PGS.TS Đào Trí úc (1997), Đại hội VIII Đảng Cộng sản Việt Nam và những vấn đề cấp bách của khoa học về Nhà nước và pháp luật, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
PGS.TS Đào Trí úc (1997), Nhà nước và pháp luật của chúng ta trong sự nghiệp đổi mới, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
Nguyễn Thị Thu Vân (1998), Một số vấn đề về công ty và hoàn thiện pháp luật về công ty ở Việt Nam hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Viện Nghiên cứu Khoa học Pháp lý - Bộ Tư pháp (1994), Luận cứ khoa học cho việc hoàn thiện và xây dựng hệ thống pháp luật và quản lý kinh tế bằng pháp luật, Đề tài KX.03.13.
Viện Nghiên cứu Quản lý Kinh tế Trung ương (1999), Báo cáo đánh giá tổng kết thi hành Luật công ty, Luật doanh nghiệp tư nhân và Nghị định 66/HĐBT ngày 02 tháng 3 năm 1992, tháng 4, Hà Nội.
Viện Nghiên cứu Quản lý Kinh tế Trung ương (2002), 205 câu hỏi - đáp về Luật Doanh nghiệp, Nxb Giao thông vận tải, Hà Nội.
Viện Quản lý Kinh tế Trung ương (1999), Báo cáo nghiên cứu so sánh Luật công ty ở 4 quốc gia Đông Nam á: Thái Lan, Singapore, Malaysia và Philipine, Hà Nội.
GS.TS Hồ Văn Vĩnh (2003), Kinh tế tư nhân và quản lý nhà nước đối với kinh tế tư nhân ở nước ta hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Xiaolin Xia, Yang Yao (2002), Chính sách kinh tế tư nhân Trung Quốc: Chính sách, quá trình phát triển và những trở ngại trước mắt, National Economic Research Institute P.R. China.
Prof. Dr. Wolfran Engels (1989), Thị trường chứng khoán và công ty, Nxb Tài chính, Hà Nội.
phụ lục
Phụ lục 1
DANH Mục Các Loại Giấy Phép Bị Bãi Bỏ
(Ban hành kèm theo Quyết định số 19/2000/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ, ngày 3 tháng 2 năm 2000)
1. Ngành Khoa học, Công nghệ và Môi trường
Giấy xác nhận kiểm soát ô nhiễm môi trường
Giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh thiết bị tin học
Giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh phế liệu, phế thải là kim loại
2. Ngành Thương mại
Giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh nhà trọ
Giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh dịch vụ cầm đồ
Giấy phép về dịch vụ trông giữ tài sản
3. Ngành Thủy sản
Giấy phép di chuyển lực lượng khai thác
Giấy phép khai thác hải sản xa bờ
Giấy phép hoạt động nghề cá
Giấy phép thuần hóa, lai tạo và di giống
Giấy chứng nhận đăng ký sản xuất thức ăn cho động vật thủy sản
Giấy chứng nhận thu hoạch nhuyễn thể
Giấy chứng nhận xuất xứ nhuyễn thể
4. Tổng cục Hải quan
Giấy chứng nhận đăng ký dịch vụ khai thuê hải quan
5. Bộ Tài chính
Giấy phép hoạt động tư vấn tài chính
6. Ngành Công nghiệp
Chứng chỉ hành nghề tư vấn xây dựng điện
17. Giấy phép hành nghề sản xuất, gia công chế biến sản phẩm công nghiệp - thủ công nghiệp
18. Giấy phép hành nghề công nghiệp
7. Tổng cục Bưu điện
19. Giấy phép làm đại lý kinh doanh thiết bị bưu chính viễn thông
20. Giấy phép hành nghề đại lý cung cấp dịch vụ bưu chính viễn thông
21. Giấy phép làm đại lý cho các công ty chuyển phát nhanh nước ngoài
22. Giấy phép kết nối mạng Internet, kinh doanh hoặc làm đại lý cung cấp các dịch vụ Internet
23. Đăng ký chứng chỉ hành nghề xây dựng trong lĩnh vực bưu chính, viễn thông (cấp cho tổ chức).
8. Tổng Cục Du lịch
24. Giấy phép kinh doanh lữ hành nội địa
25. Giấy phép kinh doanh vận chuyển khách du lịch
26. Giấy chứng nhận đủ điều kiện cơ sở lưu trú du lịch, kinh doanh khách sạn
9. Bộ Y tế
27. Giấy chứng nhận cơ sở đạt tiêu chuẩn an toàn vệ sinh thực phẩm
28. Giấy chứng nhận đủ tiêu chuẩn và điều kiện thành lập cơ sở hành nghề trang thiết bị, dụng cụ y tế tư nhân.
10. Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội
29. Giấy phép hành nghề dịch vụ lao động
11. Ngành Văn hóa và Thông tin
30. Giấy phép hoạt động khuyến mãi có thưởng
31. Giấy phép dịch vụ vi tính
32. Giấy phép đánh máy chữ
33. Giấy phép hoạt động nhiếp ảnh, kẻ biển hiệu
34. Giấy phép ca nhạc
35. Giấy phép thành lập cơ sở in bao bì
36. Giấy phép hành nghề in khắc gỗ
37. Giấy phép hành nghề ép nhũ
38. Giấy phép hành nghề in Roneo
39. Giấy phép hành nghề Photocopy
40. Giấy phép hành nghề đóng, xén sách
41. Giấy phép hành nghề vật tư ngành in
42. Giấy phép hành nghề sản xuất và sửa chữa cơ khí ngành in
43. Giấy phép hành nghề sản xuất vật liệu in
44. Giấy chứng nhận đủ điều kiện hoạt động Galery
45. Giấy phép sao chép tranh
46. Giấy phép kinh doanh dịch vụ trò chơi điện tử
47. Giấy phép dạy nhạc
48. Giấy phép dạy khiêu vũ
49. Giấy phép cho thuê âm thanh
50. Giấy phép quay camera
51. Giấy phép hoạt động nhạc lễ, nhạc tân
52. Giấy phép quay phim ngoại cảnh
53. Giấy phép vẽ truyền thần
54. Giấy phép sửa chữa nhạc cụ
55. Giấy phép mua bán vật tư ngành ảnh
56. Giấy phép mở cửa hàng minilab
57. Giấy phép khắc chữ
58. Giấy phép gia công phim ảnh
59. Giấy phép thiết kế, tạo mẫu
60. Giấy phép bán tranh điện
61. Giấy phép cho thuê máy tính
62. Giấy phép dịch thuật
63. Giấy phép dịch vụ bi-a
64. Giấy phép bán đồ mỹ nghệ lưu niệm
12. Ngành Giao thông vận tải
65. Giấy phép vận tải hành khách công cộng bằng xe máy
66. Giấy phép mở rộng địa bàn hành nghề xây dựng
67. Giấy phép hành nghề xây dựng giao thông
68. Giấy phép vận tải đường thủy
69. Giấy phép đóng mới, sửa chữa phương tiện vận tải
70. Giấy phép hoạt động hàng hải
71. Giấy phép hoạt động kinh doanh dịch vụ hàng hải
72. Giấy phép hành nghề, sửa chữa, đóng mới phương tiện thủy nội địa
73. Giấy phép vận tải hàng hóa, giấy phép vận tải hành khách
74. Giấy phép đăng ký kinh doanh dịch vụ vận tải đường thủy nội địa
75. Giấy phép vận tải đường bộ
76. Giấy phép cải tạo phương tiện cơ giới đường bộ
77. Giấy phép sử dụng vùng nước đường thủy nội địa
78. Giấy phép hành nghề sản xuất sản phẩm công nghiệp GTVT
13. Ngành Xây dựng
79. Chứng chỉ hành nghề xây dựng
80. Chứng chỉ hành nghề tư vấn xây dựng
14. Ngành Nông nghiệp và Phát triển nông thôn
81. Giấy chứng nhận đủ điều kiện mua bán thuốc thú y
82. Giấy phép chế biến gỗ và lâm sản
83. Chứng chỉ hành nghề xay xát, chế biến thực phẩm
15. Bộ Kế hoạch và Đầu tư
84. Chứng chỉ hành nghề tư vấn đầu tư nước ngoài
Phụ lục 2
DANH Mục Các Giấy Phép Được Bãi Bỏ, Các Giấy Phép Chuyển Thành Điều Kiện KINH DOANH
(Ban hành kèm theo Nghị định số 30/2000/NĐ-CP ngày 11 tháng 8 năm 2000 của Chính phủ)
Danh mục I - Các giấy phép được bãi bỏ
I. Ngành Địa chính - Nhà đất
1. Giấy phép cho người nước ngoài thuê nhà quy định tại Nghị định số 56/CP ngày 18 tháng 9 năm 1995 của Chính phủ ban hành Quy chế cho người nước ngoài, người Việt Nam định cư ở nước ngoài thuê nhà tại Việt Nam.
II. Ngành Giao thông vận tải
2. Giấy phép hành nghề giao thông vận tải cấp cho hợp tác xã quy định tại Thông tư số 323/TT-GTVT ngày 03 tháng 10 năm 1997 của Bộ Giao thông vận tải về việc hướng dẫn thực hiện Nghị định số 45/CP ngày 29 tháng 4 năm 1997 của Chính phủ ban hành Điều lệ mẫu hợp tác xã giao thông vận tải.
III. Ngành Hàng không dân dụng
3. Giấy đăng ký văn phòng bán vé của Hãng Hàng không Việt Nam quy định tại Quy định 913/CAAV ngày 10 tháng 5 năm 1994 của Cục Hàng không Dân dụng Việt Nam về quản lý hoạt động bán chứng từ vận chuyển hàng không tại Việt Nam.
IV. Ngành Khoa học, Công nghệ và Môi trường
4. Giấy chứng nhận tổ chức dịch vụ đại diện sở hữu công nghiệp quy định tại Nghị định số 63/CP ngày 24 tháng 10 năm 1996 của Chính phủ quy định cho tiết về sở hữu công nghiệp.
V. Ngành Nông nghiệp và Phát triển nông thôn
5. Giấy phép xuất khẩu thức ăn gia súc quy định tại Nghị định số 15/CP ngày 19 tháng 3 năm 1996 của Chính phủ về việc quản lý thức ăn chăn nuôi.
6. Giấy chứng nhận đăng ký sản phẩm thức ăn gia súc sản xuất quy định tại Nghị định số 86/CP ngày 08 tháng 12 năm 1995 của Chính phủ quy định phân công trách nhiệm quản lý nhà nước về chất lượng hàng hóa.
7. Giấy phép nhập khẩu thức ăn chăn nuôi (đối với loại thông thường) quy định tại Nghị định số 15/CP ngày 19 tháng 3 năm 1996 của Chính phủ về việc quản lý thức ăn chăn nuôi.
8. Giấy hành nghề sản xuất và kinh doanh thức ăn chăn nuôi gia súc quy định tại Nghị định số 15/CP ngày 19 tháng 3 năm 1996 của Chính phủ về việc quản lý thức ăn chăn nuôi.
9. Giấy phép xuất khẩu giống cây trồng đối với loại thông thường quy định tại Nghị định số 07/CP ngày 05 tháng 02 năm 1996 của Chính phủ về quản lý giống cây trồng.
10. Giấy chứng nhận đăng ký chất lượng để phục vụ cho quảng cáo quy định tại Nghị định số 15/CP ngày 19 tháng 3 năm 1996 của Chính phủ về việc quản lý thức ăn chăn nuôi.
11. Giấy chứng nhận đạt tiêu chuẩn theo hợp đồng đối với việc bán hàng rời quy định tại Nghị định số 15/CP ngày 19 tháng 3 năm 1996 của Chính phủ về việc quản lý thức ăn chăn nuôi.
12. Giấy chứng nhận hành nghề dịch vụ thú y cấp cho tổ chức quy định tại Nghị định số 93/CP ngày 27 tháng 11 năm 1993 của Chính phủ về hướng dẫn thi hành Pháp lệnh thú y.
13. Giấy chứng nhận hành nghề về bảo vệ thực vật quy định tại Nghị định số 92/CP ngày 27 tháng 11 năm 1993 của Chính phủ hướng dẫn thi hành Pháp lệnh Bảo vệ và kiểm dịch thực vật.
VI. Ngành Tài chính
14. Giấy phép hành nghề kiểm toán quy định tại Thông tư số 04/1999/TT-BTC ngày 12 tháng 01 năm 1999 của Bộ Tài chính hướng dẫn đăng ký hành nghề kiểm toán trong các tổ chức kiểm toán độc lập.
VII. Ngành Thủy sản
15. Giấy phép sản xuất thức ăn thủy sản quy định tại Nghị định số 15/CP ngày 19 tháng 3 năm 1996 của Chính phủ về việc quản lý thức ăn chăn nuôi.
16. Giấy phép kinh doanh thức ăn thủy sản quy định tại Nghị định số 15/CP ngày 19 tháng 3 năm 1996 của Chính phủ về việc quản lý thức ăn chăn nuôi.
17. Giấy phép nhập khẩu thức ăn cho động vật thủy sản (đối với loại thức ăn thông thường) quy định tại Nghị định số 15/CP ngày 19 tháng 3 năm 1996 của Chính phủ về việc quản lý thức ăn chăn nuôi.
18. Giấy phép xuất khẩu thuốc thú y thủy sản, thuốc bán thành phẩm quy định tại Nghị định số 93/CP ngày 27 tháng 11 năm 1993 của Chính phủ về hướng dẫn thi hành Pháp lệnh Thú y.
19. Giấy phép nhập khẩu thuốc thú y thủy sản, thuốc bán thành phẩm (đối với loại thông thường) quy định tại Nghị định số 93/CP ngày 27 tháng 11 năm 1993 của Chính phủ về hướng dẫn thi hành Pháp lệnh thú y.
20. Giấy phép xuất nhập khẩu giống và động vật thủy sản sống (đối với loại thông thường) quy định tại Nghị định số 14/CP ngày 19 tháng 3 năm 1996 của Chính phủ về việc quản lý giống vật nuôi.
21. Giấy phép di chuyển lực lượng khai thác (nơi đến) quy định tại Quyết định số 682/QĐ-TS ngày 11 tháng 9 năm 1993 của Bộ trưởng Bộ Thủy sản về Giấy phép di chuyển ngư trường.
22. Giấy chứng nhận đăng ký tạm thời cho tàu cá quy định tại Quyết định số 413/QĐ-BVNL ngày 01 tháng 4 năm 1996 của Bộ trưởng Bộ Thủy sản về việc ban hành thể lệ đăng ký tàu cá, thuyền viên.
VIII. Ngành Văn hóa - Thông tin
23. Giấy phép chiếu phim, băng đĩa hình quy định tại Nghị định số 87/CP ngày 12 tháng 12 năm 1995 của Chính phủ về tăng cường quản lý các hoạt động văn hóa và dịch vụ văn hóa, đẩy mạnh bài trừ một số tệ nạn xã hội nghiêm trọng.
24. Giấy phép mở cửa hàng băng đĩa nhạc quy định tại Nghị định số 87/CP ngày 12 tháng 12 năm 1995 của Chính phủ về tăng cường quản lý các hoạt động văn hóa và dịch vụ văn hóa, đẩy mạnh bài trừ một số tệ nạn xã hội nghiêm trọng.
25. Giấy phép hành nghề in lưới (in lụa thủ công) quy định tại Nghị định số 79/CP ngày 6 tháng 11 năm 1993 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành Luật Xuất bản.
26. Giấy phép phát hành sách báo đối với cơ sở bán lẻ và đại lý bán lẻ sách báo quy định tại Nghị định số 79/CP ngày 6 tháng 11 năm 1993 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành Luật xuất bản.
IX. Ngành Du lịch
27. Giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh dịch vụ du lịch.
Danh mục II - Các giấy phép chuyển thành điều kiện kinh doanh
I. Ngành Công an
1. Giấy chứng nhận đủ điều kiện an toàn về phòng cháy chữa cháy (trừ một số ít ngành, nghề có yêu cầu đặc biệt về phòng cháy, chữa cháy như: kinh doanh khí đốt, chất lỏng dễ cháy, khách sạn, văn phòng cho thuê, chợ, trung tâm thương mại cao trên 10 tầng thì phải được cơ quan phòng cháy chữa cháy có thẩm quyền cấp giấy chứng nhận trước khi bắt đầu hoạt động) quy định tại Nghị định số 17/CP ngày 23 tháng 12 năm 1992 của Chính phủ về việc quản lý các nghề kinh doanh đặc biệt.
II. Ngành Công nghiệp
2. Giấy phép hành nghề thăm dò khoáng sản quy định tại Nghị định số 68/CP ngày 1 tháng 11 năm 1996 của Chính phủ quy định chi tiết việc thi hành Luật khoáng sản.
III. Ngành Giao thông vận tải
3. Giấy phép hành nghề vận tải biển cấp cho hợp tác xã quy định tại Thông tư số 323/TT-GTVT ngày 3 tháng 10 năm 1997 của Bộ Giao thông vận tải về việc hướng dẫn thực hiện Nghị định số 45/CP ngày 29 tháng 4 năm 1997 của Chính phủ ban hành Điều lệ mẫu hợp tác xã giao thông vận tải.
4. Giấy phép hành nghề thiết kế phương tiện thủy nội địa quy định tại Nghị định số 40/CP ngày 5 tháng 7 năm 1996 của Chính phủ về bảo đảm trật tự, an toàn giao thông đường thủy nội địa.
IV. Ngành Hàng không dân dụng
5. Chứng chỉ đủ điều kiện bán chứng từ vận chuyển hàng không (vé hành khách và vận đơn hàng không) quy định tại Quy định 913/CAAV ngày 10 tháng 5 năm 1994 của Cục Hàng không dân dụng Việt Nam về quản lý hoạt động bán chứng từ vận chuyển hàng không tại Việt Nam.
V. Ngành Nông nghiệp và Phát triển nông thôn
6. Giấy phép kinh doanh giống cây trồng quy định tại Nghị định số 07/CP ngày 5 tháng 2 năm 1996 của Chính phủ về quản lý cây trồng.
7. Giấy phép khảo nghiệm giống quy định tại Nghị định số 07/CP ngày 5 tháng 2 năm 1996 của Chính phủ về quản lý giống cây trồng.
8. Giấy phép sản xuất thử giống mới quy định tại Nghị định số 07/CP ngày 5 tháng 2 năm 1996 của Chính phủ về quản lý giống cây trồng.
9. Giấy phép sản xuất thử đối với giống chưa được công nhận quy định tại Nghị định số 07/CP ngày 5 tháng 2 năm 1996 của Chính phủ về quản lý giống cây trồng.
10. Giấy phép sản xuất giống cây trồng quy định tại Nghị định số 07/CP ngày 5 tháng 2 năm 1996 của Chính phủ về quản lý giống cây trồng.
11. Giấy công nhận đủ điều kiện sản xuất giống cây trồng quy định tại Nghị định số 07/CP ngày 5 tháng 2 năm 1996 của Chính phủ về quản lý giống cây trồng.
12. Giấy cho phép sản xuất thử thức ăn mới cho gia súc quy định tại Nghị định số 15/CP ngày 19 tháng 3 năm 1996 của Chính phủ về việc quản lý thức ăn chăn nuôi.
13. Giấy phép nhập khẩu thức ăn chăn nuôi quy định tại Nghị định số 15/CP ngày 19 tháng 3 năm 1996 của Chính phủ về việc quản lý thức ăn chăn nuôi.
14. Giấy phép sản xuất giống vật nuôi quy định tại Nghị định số 14/CP ngày 19 tháng 3 năm 1996 của Chính phủ về quản lý giống vật nuôi.
15. Giấy chứng nhận đủ điều kiện giết mổ gia súc, gia cầm quy định tại Nghị định số 93/CP ngày 27 tháng 11 năm 1993 của Chính phủ về hướng dẫn thi hành Pháp lệnh Thú y.
16. Giấy phép hành nghề về thuốc bảo vệ thực vật quy định tại Nghị định số 92/CP ngày 27 tháng 11 năm 1993 của Chính phủ về hướng dẫn thi hành Pháp lệnh Bảo vệ và kiểm dịch thực vật.
17. Giấy phép kinh doanh thuốc bảo vệ thực vật quy định tại Nghị định số 92/CP ngày 27 tháng 11 năm 1993 của Chính phủ về hướng dẫn thi hành Pháp lệnh Bảo vệ và kiểm dịch thực vật.
18. Giấy phép sản xuất thuốc bảo vệ thực vật quy định tại Nghị định số 92/CP ngày 27 tháng 11 năm 1993 của Chính phủ về hướng dẫn thi hành Pháp lệnh Bảo vệ và kiểm dịch thực vật.
19. Giấy phép gia công, sang chai, đóng gói thuốc bảo vệ thực vật quy định tại Nghị định số 92/CP ngày 27 tháng 11 năm 1993 của Chính phủ về hướng dẫn thi hành Pháp lệnh Bảo vệ và kiểm dịch thực vật.
VI. Ngành Thủy sản
20. Giấy phép sản xuất thử nghiệm thức ăn cho động vật thủy sản loại mới quy định tại Nghị định số 15/CP ngày 19 tháng 3 năm 1996 của Chính phủ về việc quản lý thức ăn chăn nuôi.
21. Giấy phép sản xuất thử nghiệm giống thủy sản nội địa mới quy định tại Nghị định số 14/CP ngày 19 tháng 3 năm 1996 của Chính phủ về quản lý giống vật nuôi.
22. Giấy chứng nhận đăng ký sản xuất và kinh doanh giống thủy sản quy định tại Quyết định số 166-TS/QĐ ngày 12 tháng 6 năm 1991 của Bộ trưởng Bộ Thủy sản về việc ban hành Quy chế về quản lý giống nuôi trồng thủy sản.
23. Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh thuốc thú y thủy sản đối với cửa hàng, đại lý quy định tại Nghị định số 93/Chính phủ ngày 27 tháng 11 năm 1993 của Chính phủ về hướng dẫn thi hành Pháp lệnh Thú y.
24. Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh thuốc thú y thủy sản đối với cửa hàng, đại lý quy định tại Nghị định số 93/CP ngày 27 tháng 11 năm 1993 của Chính phủ về hướng dẫn thi hành Pháp lệnh Thú y.
25. Giấy chứng nhận đạt tiêu chuẩn vệ sinh an toàn thực phẩm quy định tại Nghị định số 86/CP ngày 8 tháng 12 năm 1995 của Chính phủ quy định phân công trách nhiệm quản lý nhà nước về chất lượng hàng hóa.
VII. Ngành Văn hóa - Thông tin
26. Giấy phép thành lập cơ sở chiếu phim, băng đĩa hình quy định tại Nghị định số 87/CP ngày 12 tháng 12 năm 1995 của Chính phủ về tăng cường quản lý các hoạt động văn hóa và dịch vụ văn hóa, đẩy mạnh bài trừ một số tệ nạn xã hội nghiêm trọng.
27. Giấy đăng ký tổ chức biểu diễn nghệ thuật chuyên nghiệp quy định tại Nghị định số 87/CP ngày 12 tháng 12 năm 1995 của Chính phủ về tăng cường quản lý các hoạt động văn hóa và dịch vụ văn hóa, đẩy mạnh bài trừ một số tệ nạn xã hội nghiêm trọng.
28. Giấy đăng ký biểu diễn nghệ thuật chuyên nghiệp quy định tại Nghị định số 87/CP ngày 12 tháng 12 năm 1995 của Chính phủ về tăng cường quản lý các hoạt động văn hóa và dịch vụ văn hóa, đẩy mạnh bài trừ một số tệ nạn xã hội nghiêm trọng.
29. Giấy phép nhân bản băng, đĩa nhạc quy định tại Nghị định số 87/CP ngày 12 tháng 12 năm 1995 của Chính phủ về tăng cường quản lý các hoạt động văn hóa và dịch vụ văn hóa, đẩy mạnh bài trừ một số tệ nạn xã hội nghiêm trọng.
30. Giấy phép phát hành xuất bản phẩm quy định tại Nghị định số 79/CP ngày 6 tháng 11 năm 1993 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành Luật xuất bản.
31. Giấy phép hoạt động dịch vụ bản quyền tác giả quy định tại Nghị định số 76/CP ngày 29 tháng 11 năm 1996 của Chính phủ hướng dẫn thi hành một số quy định về quyền tác giả trong Bộ luật dân sự.
VIII. Ngành Y tế
32. Giấy chứng nhận đủ tiêu chuẩn và điều kiện hành nghề xoa bóp quy định tại Thông tư số 19/TT-BYT ngày 21 tháng 12 năm 1995 của Bộ Y tế hướng dẫn quản lý dịch vụ xoa bóp.
33. Giấy chứng nhận đủ tiêu chuẩn và điều kiện sản xuất muối ăn quy định tại Nghị định số 19/1999/NĐ-CP ngày 10 tháng 4 năm 1999 của Chính phủ về sản xuất và cung ứng muối iốt cho người ăn.
IX. Ngành Xây dựng
34. Giấy đăng ký hoạt động xây dựng quy định tại Nghị định số 52/1999/NĐ-CP ngày 8 tháng 7 năm 1999 về việc ban hành Quy chế quản lý đầu tư và xây dựng.
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LA2765.doc