MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài.
Trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và việc hội nhập ngày càng sâu rộng của Việt Nam với nền kinh tế thế giới mở ra cho nước ta rất nhiều cơ hội cũng như thách thức. Chúng ta phấn đấu đến năm 2020, thu nhập bình quân đầu người là 1500 USD. Muốn như vậy thì tăng trưởng bình quân phải đạt 8%/năm. Và vốn đầu tư phải tăng ít nhất 20%/năm, tức là tăng 6,2 lần so với năm 1995 vào khoảng 60 tỷ USD, trong đó nguồn vốn ODA chiếm 9 tỷ U
75 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1594 | Lượt tải: 1
Tóm tắt tài liệu Quản lý nguồn vốn ODA cho vay lại tại Sở Giao dịch 3 - Ngân hàng đầu tư và phát triển (BIDV) Việt Nam. Thực trạng và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
SD. Nguồn vốn ODA vào Việt Nam thường thông qua các dự án do các nước phát triển (Nhật bản, Úc, Hoa Kỳ, Hàn Quốc, Thụy Điển..) hay các định chế tài chính (WB, IMF, ADB…). Qua quá trình triển khai các dự án cho thấy kết quả sử dụng vốn là khá cao. Trong thời kỳ 1993 - 2008 (tính đến hết tháng 10 năm 2008), tổng vốn ODA giải ngân đạt 22,065 tỷ USD, chiếm 52% tổng vốn ODA cam kết và 62,65% tổng vốn ODA ký kết, với thời hạn từ 25-30 năm, lãi suất ưu đãi. Như vậy nguồn vốn ODA có tầm quan trọng hết sức to lớn đối với sự phát triển kinh tế Việt Nam nói chung và tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nói riêng. Do vậy vấn đề đặt ra là quản lý nguồn vốn ODA như thế nào để nó mang lại hiệu quả thực sự cho nền kinh tế. Do yêu cầu của thực tế Sở giao dịch III - Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam đã ra đời để đáp ứng nhu cầu đó. Với nhiệm vụ chủ yếu là trực tiếp thực hiện chức năng chủ dự án (ngân hàng bán buôn), Sở giao dịch III quản lý và cho vay tiếp toàn bộ số vốn vay từ Ngân hàng thế giới (WB), các đối tác nước ngoài đến các định chế tài chính. Đây là mô hình khá mới ở Việt Nam - ngân hàng bán buôn nguồn vốn ODA. Hoạt động này không chỉ giúp tăng cường năng lực thể chế cho các ngân hàng, nâng cao khả năng cạnh tranh với các ngân hàng nước ngoài mà còn phát triển các chi nhánh ra nước ngoài, phát triển các dịch vụ ngân hàng.
Sở giao dịch III với nhiệm vụ chính là tiếp quản nguồn vốn ODA từ dự án tài chính nông thôn của Ngân hàng thế giới cho Việt Nam đã thu được những kết quả như đã nêu ở trên. Tuy nhiên, bên cạnh đó vẫn còn những khó khăn trong quá trình quản lý nguồn vốn ODA cho vay lại tới các định chế tài chính, tổ chức quản lý còn mang tính chất thụ động, chủ quan duy ý chí; công tác thẩm định lựa chọn định chế còn nhiều khó khăn; việc định hướng tín dụng vẫn chưa tới được các vùng nông thôn, vùng sâu, vùng sa… Xuất phát từ thực trạng trên, cần nghiên cứu việc “Quản lý nguồn vốn ODA cho vay lại tại sở giao dịch III – ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam. Thực trạng và giải pháp” để có thể nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn vốn này không chỉ trong giai đoạn giải ngân mà cả giai đoạn quay vòng vốn, để nó mang lại ý nghĩa thực tiễn cho sự phát triển của nền kinh tế.
2. Mục đích nghiên cứu của đề tài
- Hệ thống hóa những vấn đề lý luận chung về vốn ODA và việc quản lý cho vay lại nguồn vốn ODA thông qua ngân hàng bán buôn.
- Nhận định, đánh giá thực trạng hoạt động quản lý cho vay lại vốn ODA trong những năm gần đây. Trên cơ sở đó tổng kế những mặt đạt được và những khó khăn trong quá trình triển khai các dự án ODA.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Hoạt động quản lý cho vay lại nguồn vốn ODA tại sở giao dịch III - Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam.
- Phạm vi nghiên cứu: Trong khuân khổ đề tài nghiên cứu 3 dự án tài chính nông thôn I, II, III do ngân hàng Thế giới tài tại sở giao dịch III.
4. Phương pháp nghiên cứu.
Phương pháp được sử dụng là phương pháp thu thập thống kê, phương pháp tổng hợp, phương pháp phân tích và xử lý thông tin nhằm nghiên cứu các vấn đề lý thuyết và thực tế.
5. Bố cục của đề tài.
Bài luận văn được chia làm 3 phần chính, gồm 70 trang nội dung. Trong đó:
Chương 1: Tổng quan về vốn ODA và quản lý cho vay lại nguồn vốn ODA thông qua ngân hàng thương mại tại Việt Nam. (14 trang)
Chương 2: Thực trạng quản lý cho vay lại nguồn vốn ODA tại sở giao dịch III – Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam. (42 trang)
Chương 3: Giải pháp quản lý hiệu quả nguồn vốn ODA cho vay lại tại sở giao dịch III – Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam. (14 trang)
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ VỐN ODA VÀ QUẢN LÝ CHO VAY LẠI NGUỒN VỐN ODA THÔNG QUA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VIỆT NAM.
1.1. Tổng quan về vốn ODA
1.1.1. Khái niệm vốn ODA
Hỗ trợ phát triển chính thức (Official Development Assistance - ODA) là một hình thức đầu tư gián tiếp nước ngoài. Vốn ODA phản ánh mối quan hệ quốc tế giữa các nước phát triển hoặc các tổ chức quốc tế và các nước đang phát triển thông qua việc cung cấp các khoản viện trợ phát triển. Đối với các nước đang phát triển nói chung và với Việt Nam nói riêng, vốn ODA là một bộ phận quan trọng trong cơ cấu vốn đầu tư của toàn xã hội. Vai trò của nó ngày càng được khẳng định trong tăng trưởng kinh tế, xoá đói giảm nghèo. Vậy ODA được hiểu như thế nào, cho đến nay vẫn còn nhiều quan điểm khác nhau:
Định nghĩa sớm về ODA được đưa ra bởi Tổ chức hợp tác kinh tế của Châu Âu (nay là OECD) từ những năm 60 của thế kỉ XX. Định nghĩa phát biểu: “ODA là nguồn tài chính do các cơ quan chính thức (chính quyền nhà nước hay địa phương) của một nước viện trợ cho các nước đang phát triển và các tổ chức nhằm thúc đẩy phát triển kinh tế và phúc lợi của các nước này. Nó mang tính chất trợ cấp (ít nhất là cho không 25% kể từ ngày 1-1-1973)”.
Trên góc độ về bản chất tài chính, Ngân Hàng Thế Giới (WB) định nghĩa: “ODA là vốn bao gồm các khoản viện trợ không hoàn lại cộng với các khoản vay ưu đãi có thời gian dài và lãi suất thấp hơn so với mức lãi suất thị trường tài chính quốc tế. Mức độ ưu đãi của một khoản vay được đo lường bằng yếu tố cho không. Một khoản tài trợ không phải hoàn lại sẽ có yếu tố cho không là 100% (gọi là viện trợ không hoàn lại). Một khoản vay ưu đãi được coi là ODA phải có yếu tố cho không không ít hơn 25%”.
Theo Chương trình phát triển Liên hợp quốc (UNDP): “Vốn ODA hay vốn hỗ trợ phát triển chính thức bao gồm cả các khoản cho không và các khoản vay đối với các nước đang phát triển, đó là nguồn vốn do các bộ phận chính thức cam kết (nhà tài trợ chính thức) nhằm mục đích cơ bản là phát triển kinh tế và phúc lợi xã hội và được cung cấp bằng các điều khoản tài chính ưu đãi (nếu là khoản vay sẽ có yếu tố cho không không ít hơn là 25%)”.
Như vậy có rất nhiều quan điểm khi định nghĩa ODA, trong luận văn này ODA được hiểu như sau:
Hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) là nguồn tài trợ ưu đãi của một hay một số quốc gia hoặc tổ chức tổ chức tài chính quốc tế cung cấp cho một chính phủ nào đó nhằm hỗ trợ và thúc đẩy việc khôi phục và phát triển kinh tế- xã hội. Đây là một hình thức chủ yếu và chính thức để tài trợ cho các Chính phủ (chủ yếu là các nước đang phát triển) hiện nay và nó trở thành hoạt động tài chính quốc tế quan trọng nhất của các Chính phủ.
1.1.2. Phân loại vốn ODA
Tuỳ theo tính chất, mục đích, điều kiện khác nhau mà có nhiều cách phân loại ODA. Việc phân loại này hết sức cần thiết nhất là đối với nước nhận viện trợ. Phân loại đúng ODA sẽ giúp cho việc sử dụng được đúng mục đích và đạt hiệu quả cao hơn.
Theo tính chất tài trợ:
Viện trợ không hoàn lại
Tài trợ có hoàn lại
Tài trợ hỗn hợp
Theo mục đích sử dụng:
Hỗ trợ cơ bản
Hỗ trợ kĩ thuật
Theo các điều kiện để được nhận tài trợ:
ODA không ràng buộc
ODA có ràng buộc
ODA hỗn hợp
Theo hình thức thực hiện các khoản tài trợ:
ODA hỗ trợ dự án
ODA hỗ trợ phi dự án
ODA hỗ trợ chương trình
Theo người cung cấp tài trợ:
ODA song phương
ODA đa phương
ODA của các tổ chức phi chính phủ( NGO)
1.1.3. Vai trò của vốn ODA đối với sự phát triển kinh tế
Tại Việt Nam, ODA có tầm quan trọng to lớn trong sự phát triển kinh tế. Đặc biệt, khi nước ta đang thực hiện sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa theo đường lối đại hội Đảng lần thứ VIII với mục tiêu thu nhập bình quân đầu người lên tới 1500 USD vào năm 2020. Để thực hiện được mục tiêu này thì mức tăng trưởng bình quân hàng năm phải là 8%/năm. Và muốn đạt được mức tăng trưởng này vốn đầu tư phải tăng ít nhất là 20%/năm tức là phải tăng gấp 6,2 lần so với năm 1995 vào khoảng 60 tỷ USD, trong đó vốn ODA chiếm khoảng 9 tỷ. Điều đó khẳng định ODA chiếm tỷ trọng không nhỏ trong tổng vốn đầu tư toàn xã hội. Điều đó được thể hiện ở những khía cạnh sau:
Thứ nhất, ODA là nguồn vốn bổ sung quan trọng cho đầu tư phát triển. Sự nghiệp công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước mà Việt Nam đang thực hiện đòi hỏi một lượng vốn lớn. Vốn đầu tư trong nước không đáp ứng được do đó vốn đầu tư nước ngoài trong đó có ODA trở thành nguồn vốn quan trọng để đáp ứng nhu cầu cho đầu tư phát triển. Nguồn vốn ODA được sử dụng hầu hết cho các công trình công cộng như phát triển mạng lưới giao thông, cầu đường, mạng lưới bưu chính viễn thông, xây dựng nhiều cảng biển, cụm cảng hàng không và đặc biệt là sự ra đời của hàng loạt các khu công nghiệp, khu chế xuất…Điều này cũng tạo điều kiện thuận lợi cho Việt Nam trong thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài. Bên cạnh đó, các dự án ODA phát triển cho nông thôn người nghèo, hoạt động y tế, giáo dục cũng góp phần nâng cao chất lượng sống của người dân, thúc đẩy kinh tế phát triển toàn diện.
Thứ hai, ODA giúp cho việc tiếp thu những thành tựu khoa học, công nghệ hiện đại và phát triển nguồn nhân lực. Một trong các yếu tố quan trọng góp phần thúc đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa là thành tựu khoa học kỹ thuật công nghệ mới. Thông qua các dự án ODA, các nhà tài trợ có những hoạt động nhằm giúp Việt Nam nâng cao trình độ công nghệ cũng như quản lý như: cung cấp tài liệu kĩ thuật, tổ chức các buổi hội tọa với sự tham gia của chuyên gia nước ngoài, cử cán bộ đi học nước ngoài, cử trực tiếp chuyên gia sang Việt Nam hỗ trợ thực hiện dự án và cung cấp những thiết bị kỹ thuật, dây chuyền công nghệ hiện đại. Đây chính là một trong những lợi ích lâu dài cho Việt Nam.
Thứ ba, ODA giúp điều chỉnh cơ cấu kinh tế. Các dự án mà nhà tài trợ dành cho Việt Nam thường ưu tiên vào phát triển cơ sở hạ tầng kỹ thuật, phát triển nguồn nhân lực tạo điều kiện thuận lợi cho việc phát triển cân đối giữa các ngành, các vùng khác nhau trong cả nước. Bên cạnh đó một số dự án còn giúp Việt Nam cải cách hành chính, nâng cao hiệu quả của các cơ quan quản lý nhà nước. Tất cả những vấn đề đó làm thúc đẩy điều chỉnh cơ cấu kinh tế hợp lý ở nước ta.
Thứ tư, ODA góp phần tăng khả năng thu hút FDI và tạo điều kiện mở rộng đầu tư phát triển. Các nhà đầu tư nước ngoài khi quyết định bỏ vốn đầu tư vào một số nước, họ thường quan tâm trước tiên là khả năng sinh lời của vốn đầu tư tại nước đó. Do đó, một cơ sở hạ tầng yếu kém như giao thông chưa hoàn chỉnh, phương tiện liên lạc thiếu thốn và lạc hậu, hệ thông cung cấp năng lượng không đủ cho nhu cầu sẽ làm nản lòng các nhà đầu tư vì những tổn phí mà họ phải trả cho việc sử dụng các tiện ích hạ tầng. Một hệ thống ngân hàng lạc hậu cũng là lý do e ngại của các nhà đầu tư vì những chậm trễ trong hệ thống thanh toán và dịch vụ ngân hàng, dẫn tới hiệu quả đầu tư kém.
Như vậy, ODA là một nguồn vốn đem lại cho nước ta những lợi ích lâu dài, dọn đường cho việc thu hút vốn FDI và không những thế nó còn cải thiện đáng kể đời sống của nhân dân, đặc biệt là người nghèo, những nơi vùng sâu, vùng xa…
1.1.4. Ưu điểm và hạn chế của vốn ODA
Nguồn vốn ODA có ưu điểm là thời gian ân hạn và hoàn trả vốn dài. Chẳng hạn, vốn ODA của WB, ADB, JBIC có thời gian hoàn trả là 40 năm và thời gian ân hạn là 10 năm. Một phần vốn ODA là viện trợ không hoàn lại (>25%). Thành tố cho không được xác định dựa vào thời gian cho vay, thời gian ân hạn và so sánh lãi suất viện trợ với mức lãi suất tín dụng thương mại. Phần vốn ODA hoàn lại có mức lãi suất thấp hơn mức lãi suất vay thương mại quốc tế. Đây cũng chính là điểm phân biệt giữa viện trợ và cho vay thương mại.
Bên cạnh ưu điểm là một số hạn chế của vốn ODA có thể kể đến như:
- Về kinh tế, nước tiếp nhận ODA phải chấp nhận rỡ bỏ dần hàng rào thuế quan bảo hộ của các ngành công nghiệp non trẻ và bảng thuế xuất nhập khẩu hàng hóa của nước nhận tài trợ. Nước tiếp nhận ODA cũng được yêu cầu từng bước mở cửa thị trường bảo hộ cho những danh mục hàng hóa mới của nước tài trợ; yêu cầu có những ưu đãi đối với các nhà đầu tư trực tiếp nước ngoài như cho phép họi đầu tư vào những lĩnh vực hạn chế, có khả năng sinh lời cao.
- Về chính trị, Viện trợ của các nước phát triển không chỉ đơn thuần là việc trợ giúp hữu nghị mà còn là một công cụ lợi hại để thiết lập và duy trì lợi ích kinh tế và vị thế chính trị cho các nước tài trợ. Những nước cấp tài trợ đòi hỏi nước tiếp nhận phải thay đổi chính sách phát triển cho phù hợp vơí lợi ích của bên tài trợ. Khi nhận viện trợ các nước nhận cần cân nhắc kỹ lưỡng những điều kiện của các nhà tài trợ không vì lợi ích trước mắt mà đánh mất những quyền lợi lâu dài. Quan hệ hỗ trợ phát triển phải đảm bảo tôn trọng toàn vẹn lãnh thổ của nhau, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, bình đẳng và cùng có lợi.
- Nguồn vốn ODA từ các nước giàu cung cấp cho các nước nghèo cũng thường gắn liền với việc mua các sản phẩm từ các nước này mà không hoàn toàn phù hợp, thậm chí không cần thiết với các nước nghèo. Nước cấp ODA buộc nước tiếp nhận ODA phải chấp nhận một khoản ODA là hàng hóa, dịch vụ do họ sản xuất. Hoặc ví dụ như dự án ODA vào lĩnh vực giáo dục đào tạo, lập dự án và tư vấn kỹ thuật, phần trả cho các chuyên gia nước ngoài thường chiếm đến hơn 90%. Bên tài trợ ODA thường yêu cầu trả lương cho các chuyên gia, cố vấn cho dự án của họ quá cao so với chi phí thực tế để thuê một chuyên gia như vậy trên thị trường lao động thế giới.
- Nước tiếp nhận ODA tuy có toàn quyền quản lý sử dụng ODA nhưng thông thường các danh mục dự án ODA cũng phải có sự thỏa thuận, đồng ý của nước viện trợ, dù không trực tiếp điều hành dự án nhưng họ có thể tham gia gián tiếp dưới hình thức nhà thầu hoặc hỗ trợ chuyên gia.
- ODA là nguồn vốn có khả năng gây nợ. Khi tiếp nhận và sử dụng nguồn vốn ODA do tính chất ưu đãi nên gánh nặng nợ thường chưa xuất hiện. Một số nước do không sử dụng hiệu quả ODA có thể tạo nên sự tăng trưởng nhất thời nhưng sau một thời gian lại lâm vào vòng nợ nần do không có khả năng trả nợ. Vấn đề là ở chỗ vốn ODA không có khả năng đầu tư trực tiếp cho sản xuất, nhất là cho xuất khẩu trong khi việc trả nợ lại dựa vào xuất khẩu thu ngoại tệ. Do đó, trong khi hoạch định chính sách sử dụng ODA phải phối hợp với các nguồn vốn để tăng cường sức mạnh kinh tế và khả năng xuất khẩu.
Ngoài ra, tác động của yếu tố tỷ giá hối đoái cũng có thể làm cho giá trị vốn ODA phải hoàn lại tăng lên. Bên cạnh đó, tình trạng thất thoát, lãng phí, xây dựng chiến lược quy hoạch thu hút và sử dụng vốn ODA vào các lĩnh vực chưa hợp lý, trình độ quản lý thấp, thiếu kinh nghiệm trong tiếp nhận cũng như xử lý, điều hành dự án… cũng khiến cho hiệu quả và chất lượng các công trình đầu tư bằng nguồn vốn này còn thấp, có thể đẩy nước tiếp nhận ODA vào tình trạng nợ nần.
1.2. Quản lý cho vay lại nguồn vốn ODA tại Ngân hàng thương mại
1.2.1. Một số khái niệm
Hiệp định vay hoặc viện trợ nước ngoài là các Điều ước quốc tế do Chính phủ hoặc Nhà nước Việt Nam ký hoặc do Cơ quan được ủy quyền của Nhà nước hoặc Chính phủ Việt Nam ký với Bên nước ngoài (bên cung cấp tài chính) nhằm cung cấp vốn cho Việt Nam để thực hiện chương trình, dự án. Nguồn vốn ODA này thường được giao cho Bộ tài chính quản lý trực tiếp cho vay lại hoặc ủy quyền cho cơ quan cho vay lại. Trong trường hợp vốn ODA được ủy quyền cho cơ quan cho vay lại thì Bộ Tài chính (thay mặt chính phủ) và Cơ quan cho vay lại ký hợp đồng Ủy quyền cho vay lại. Trong giới hạn đề tài nghiên cứu, chúng ta nghiên cứu việc quản lý nguồn vốn ODA do Bộ tài chính thay mặt chính phủ ủy quyền cho ngân hàng thương mại (dưới mô hình ngân hàng bán buôn) là cơ quan cho vay lại. Để tìm hiểu rõ hơn vấn đề này, ta đi tìm hiểu một vài khái niệm.
Theo quyết định của thủ tướng chính phủ số 181/2007/QĐ-TTg ngày 26 tháng 11 năm 2007 về ban hành quy chế cho vay lại từ nguồn vốn vay, viện trợ nước ngoài của chính phủ:
Cho vay lại là việc Bộ Tài chính thay mặt Chính phủ:
Trực tiếp hoặc ủy quyền cho Cơ quan cho vay lại thực hiện cho vay lại các doanh nghiệp toàn bộ hoặc một phần vốn nước ngoài từ nguồn vay, viện trợ nước ngoài của Chính phủ để đầu tư cho các dự án đầu tư có khả năng thu hồi vốn, hoặc;
Cho tổ chức tín dụng trong nước vay lại để cho vay tiếp theo một chương trình tín dụng hoặc hợp phần tín dụng trong một dự án sử dụng vốn vay nước ngoài, hoặc;
Cho Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương vay lại theo quy định của pháp luật hoặc theo Quyết định của Thủ tướng Chính phủ.
Ngân hàng thương mại là một doanh nghiệp kinh doanh trong lĩnh vực tiền tệ - tín dụng, với các hoạt động thường xuyên là nhận tiền gửi, cho vay và cung cấp các dịch vụ ngân hàng cho nền kinh tế quốc dân. Dựa vào tính chất và mục tiêu hoạt động của ngân hàng ta có thể phân chia thành:
- Ngân hàng bán buôn: là ngân hàng với hoạt động chủ yếu là cung cấp dịch vụ cho ngân hàng thương mại khác, những công ty lớn với những khoản tiền lớn.
- Ngân hàng bán lẻ: là ngân hàng có hệ thống chi nhánh rộng khắp và giao dịch với người đi vay cuối cùng (cá nhân, hộ gia đình, doanh nghiệp vừa và nhỏ).
Phí cho vay lại là khoản phí do Chính phủ thông qua Cơ quan cho vay lại thu của người vay lại trong trường hợp cho vay lại đối với nguồn vốn vay thương mại nước ngoài của Chính phủ.
Phí dịch vụ cho vay lại là khoản phí do Bộ Tài chính trả cho Cơ quan cho vay lại trong trường hợp Bộ Tài chính ủy quyền cho Cơ quan cho vay lại thực hiện quản lý, thu hồi khoản cho vay lại và không chịu rủi ro tín dụng.
Từ những khái niệm trên có thể hiểu việc quản lý cho vay lại nguồn vốn ODA tại ngân hàng thương mại là việc Bộ tài chính thay mặt chính phủ cho tổ chức tín dụng trong nước vay lại để cho vay tiếp theo một chương trình tín dụng hoặc hợp phần tín dụng trong một dự án sử dụng vốn vay nước ngoài. Cơ quan cho vay lại mà ở đây là ngân hàng bán buôn sẽ tiếp tục cho vay lại các ngân hàng bán lẻ, vốn sẽ tiếp tục được chuyển đến người vay cuối cùng thông qua ngân hàng bán lẻ được lựa chọn.
1.2.2. Điều kiện cho vay lại nguồn vốn ODA
Điều kiện chung đối với các tổ chức tín dụng:
- Được Chính phủ cho phép sử dụng vốn vay, viện trợ và được nhà tài trợ chấp thuận (trường hợp Hiệp định vay nước ngoài quy định phải có sự chấp thuận của nhà tài trợ);
- Đảm bảo được khả năng trả nợ theo phương án tài chính được thẩm định.
1.2.2.1. Đồng tiền cho vay lại và đồng tiền thu hồi nợ
* Đồng tiền cho vay lại:
Đối với nguồn vốn ODA của Chính phủ: người vay lại có thể lựa chọn đồng tiền vay lại là nội tệ (đồng Việt Nam) hoặc bằng ngoại tệ gốc vay của nước ngoài tuỳ theo khả năng trả nợ. Tỷ giá quy đổi từ ngoại tệ sang đồng Việt Nam là tỷ giá hạch toán do Bộ Tài chính quy định.
* Đồng tiền thu hồi nợ:
Đối với vốn ODA: về nguyên tắc người vay lại nhận vay lại theo loại tiền nào thì trả nợ bằng loại tiền đó. Trường hợp người vay lại yêu cầu hoàn trả cho Chính phủ bằng Đồng Việt Nam hoặc ngoại tệ tự do chuyển đổi khác với đồng tiền nhận vay lại, Cơ quan cho vay lại áp dụng tỷ giá hối đoái do Bộ Tài chính quy định hoặc tỷ giá do Cơ quan cho vay lại thoả thuận với người vay lại ghi trong Thoả thuận vay lại để thu nợ.
1.2.2.2. Lãi suất cho vay lại
a) Trường hợp vay lại bằng đồng Việt Nam:
Lãi suất cho vay lại được xác định theo ngành kinh tế - kỹ thuật và không vượt quá mức lãi suất tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước quy định trong từng thời kỳ. Một số ngành, lĩnh vực theo Phụ lục I kèm Quy chế 181/2007/QĐ-TTg được hưởng mức lãi suất ưu đãi theo các mức 33,3% và 55,5% so với lãi suất tín dụng đầu tư của nhà nước. Mức lãi suất này bao gồm cả phí dịch vụ cho vay lại. Trường hợp mức lãi suất tín dụng đầu tư của nhà nước thay đổi, các mức lãi suất ưu đãi được thay đổi theo tương ứng.
Lãi suất cho vay lại được áp dụng không thay đổi trong suốt thời gian vay lại.
b) Trường hợp vay lại bằng đồng ngoại tệ:
Lãi suất cho vay lại bằng mức lãi suất cho vay lại bằng Đồng Việt Nam quy định trong mục (a) nói trên trừ đi tỷ lệ rủi ro hối đoái tương ứng của đồng tiền cho vay lại, nhưng không thấp hơn mức lãi suất đi vay của nước ngoài và không cao hơn hai phần ba (2/3) lãi suất thương mại tham chiếu (CIRR) do Tổ chức hợp tác phát triển kinh tế (OECD) công bố vào cùng thời điểm xác định lãi suất cho vay lại.
Trên cơ sở mức biến động tỷ giá của Đồng Việt Nam tương ứng với từng loại ngoại tệ và biến động chỉ số lạm phát bình quân trong 5 năm gần nhất của Việt Nam so với các nước/khu vực: Mỹ, Liên minh châu Âu và Nhật Bản, mức rủi ro tỷ giá áp dụng cho ba loại ngoại tệ là Đô La Mỹ (USD), Euro (EUR) và Yên Nhật Bản (JPY). Hàng năm không muộn hơn ngày 15 tháng 3, căn cứ vào biến động của thị trường tài chính tiền tệ, Bộ Tài chính tính toán và công bố mức rủi ro tỷ giá đối với ba loại ngoại tệ nêu trên áp dụng cho đến hết ngày 15 tháng 3 của năm kế tiếp. Trường hợp đặc biệt có biến động lớn, Bộ Tài chính có thể thực hiện công bố lại mức rủi ro tỷ giá ngay trong kỳ áp dụng.
Trường hợp ngoại tệ gốc trong Hiệp định vay khác với ba loại ngoại tệ nói trên, mức rủi ro hối đoái được áp dụng theo mức rủi ro hối đoái của đồng USD.
Lãi suất cho vay lại sau khi xác định được áp dụng không thay đổi trong suốt thời gian vay lại.
Các tổ chức tín dụng được quyền quyết định lãi suất cho vay đối với người sử dụng vốn cuối cùng và chịu rủi ro tín dụng về việc cho vay này. Các tổ chức tín dụng được hưởng chênh lệch giữa lãi suất cho vay ra và lãi suất vay lại từ Bộ Tài chính.
1.2.2.3. Một số điều kiện khác
Phí dịch vụ cho vay lại được tính theo tỷ lệ 1,5% trên số thu hồi nợ thực tế (bao gồm cả gốc, lãi và lãi chậm trả nếu có) không phân biệt đồng tiền thu hồi nợ.
Phí dịch vụ cho vay lại được Cơ quan cho vay lại thông báo cho Bộ Tài chính theo từng kỳ thu nợ và Cơ quan cho vay lại được phép tự trích từ số nợ thu hồi thực tế trước khi chuyển trả cho Bộ Tài chính.
Thời hạn vay lại bằng thời hạn của Hiệp định vay ODA của Chính phủ nhưng không vượt quá 20 năm (bao gồm cả thời gian ân hạn).
1.2.3. Cơ chế quản lý, thu hồi nguồn vốn ODA cho vay lại
* Cơ chế quản lý:
Bộ Tài chính thực hiện thẩm định phương án sử dụng vốn vay và trả nợ của các tổ chức tín dụng tham gia chương trình trước khi ký thỏa thuận cho vay lại.
Các tổ chức tín dụng thực hiện cho vay đến người sử dụng vốn cuối cùng, chịu trách nhiệm thẩm định dự án và chọn đối tượng cho vay tiếp phù hợp với chương trình tín dụng đã thoả thuận với nhà tài trợ hoặc Người cho vay, đồng thời chịu mọi rủi ro trong quá trình cho vay lại đối với những đối tượng này.
* Thu hồi nợ cho vay lại
Người vay lại thực hiện trả nợ đúng hạn, đầy đủ theo nghĩa vụ trả nợ ghi trong Thoả thuận cho vay lại cho Cơ quan cho vay lại.
Cơ quan cho vay lại thực hiện trả nợ đúng hạn, đầy đủ theo nghĩa vụ trả nợ ghi trong Hợp đồng ủy quyền cho vay lại vào Quỹ tích luỹ trả nợ nước ngoài do Bộ Tài chính quản lý theo hướng dẫn cụ thể của Bộ Tài chính. Trường hợp Bộ Tài chính ủy quyền cho Cơ quan cho vay lại trả nợ trực tiếp cho nước ngoài, Cơ quan cho vay lại chỉ chuyển cho Bộ Tài chính phần còn lại sau khi đã thực hiện trả cho nước ngoài.
Trong trường hợp có thay đổi về chính sách hoặc điều chỉnh điều kiện cho vay lại, Cơ quan cho vay lại hoặc Bộ Tài chính không hoàn trả lại các khoản nợ cho vay lại đã được thu hồi trước đó.
Ngoài ra, để quản lý nguồn ODA cho vay lại hiệu quả, chính phủ cũng đã phân công trách nhiệm quản lý nhà nước về cho vay lại từ nguồn vay, viện trợ nước ngoài của Chính phủ đối với Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ tài chính, Ngân hàng nhà nước…
1.2.4. Lợi thế của việc quản lý nguồn vốn ODA cho vay lại thông qua ngân hàng thương mại.
Thứ nhất, việc quản lý nguồn vốn ODA cho vay lại thông quan ngân hàng thương mại giúp kết hợp hài hòa chức năng quản lý nguồn vốn và kinh doanh nguồn vốn ODA. Trong đó công cụ quản lý nhà nước về ODA thể hiện ở các “hợp đồng vay phụ” ký kết giữa bộ tài chính và BIDV đối với toàn bộ nguồn vốn vay của dự án. Và thực tế kinh nghiệm thế giới cho thấy, nguồn lực sẽ được sử dụng hiệu quả hơn khi hoạt động vì mục tiêu lợi nhuận.
Nhờ áp dụng hài hòa và hiệu quả giữa mô hình quản lý cùng với cơ chế bán buôn tín dụng nên dự án đã huy động được tối đa nguồn vốn đối ứng của các tổ chức tín dụng tham gia. Việc các tổ chức tín dụng tự trang trải vốn đối ứng trong dự án đã góp phần giảm thiểu gánh nặng ngân sách nhà nước trong việc bố trí vốn đối ứng hàng năm cho dự án. Hơn nữa ngân sách nhà nước còn thu được khoản tiền chênh lệch lãi suất bán buôn. Đây là lợi thế nổi bật nhất mà các tổ chức tín dụng có được so với các PMU (ban quản lý dự án) khác hiện đang quản lý vốn ODA.
Thứ hai, việc quản lý nguồn vốn ODA cho vay lại thông quan ngân hàng thương mại đảm bảo chắc chắn khả năng hoàn trả, phạm vi thực hiện dự án rộng. Việc chính phủ ủy quyền cho cơ quan cho vay lại là ngân hàng thương mại (Ngân hàng bán buôn), sau đó ngân hàng bán buôn lại thẩm định cho vay lại tiếp các định chế tài chính, các định chế tài chính thẩm định các tiểu dự án đối với người vay cuối cùng. Cơ chế thẩm định cho vay lại thông qua cơ quan cho vay lại là ngân hàng bán buôn được thực hiện chặt chẽ từ trên xuống dưới phù hợp với tiêu chí mà bên tài trợ đưa ra, đồng thời có sự giám sát của các bộ ngành liên quan. Điều này giảm hạn chế tối đa rủi ro có thể mang lại do vậy đảm bảo chắc chắn khả năng hoàn trả. Ngoài ra, kênh chuyển vốn này thực sự hữu hiệu vì các định chế tài chính được lựa chọn đều là những ngân hàng hàng đầu Việt Nam, có các chi nhánh và phòng giao dịch rộng khắp cả nước. Do vậy, nguồn vốn sẽ được lưu chuyển nhanh và đến với người vay cuối cùng thuận tiện nhất. Vì vậy, tốc độ giải ngân cũng như hiệu quả khoản vay được cải thiện đáng kể.
So với việc bộ tài chính trực tiếp cho vay lại nguồn vốn ODA tới ủy ban nhân dân tỉnh/thành phố trực thuộc trung ương. Đồng tiền cho vay lại: đồng ngoại tệ theo Hiệp định vay ký giữa Chính phủ và Nhà tài trợ; Lãi suất cho vay lại: bằng lãi suất vay nước ngoài của Chính phủ. Phạm vi thực hiện một dự án thường bó hẹp trong tỉnh/thành phố đó. Việc quản lý vốn ODA cho vay lại thông qua ủy ban nhân dân tỉnh/thành phố thực sự chưa hiệu quả, mỗi tỉnh/ thành phố chỉ có một ban quản lý dự án, vốn đối ứng phụ thuộc nhiều vào ngân sách trung ương, việc trả nợ vốn vay chủ yếu từ ngân sách địa phương, tốc độ giải ngân của dự án còn chậm.
Tuy nhiên, việc quản lý cho vay lại nguồn vốn ODA dưới mô hình ngân hàng bán buôn tín dụng vẫn còn khá mới ở Việt Nam hiện nay. Mặc dù có một số lợi thế nhất định song nó lại chỉ phù hợp với những dự án có quy mô lớn, phạm vi rộng. Với những nguồn vốn mang tính chất cấp phát cho từng vùng thì cho vay lại thông qua PMUs lại tỏ ra hiệu quả hơn./
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG QUẢN LÝ CHO VAY LẠI NGUỒN VỐN ODA TẠI SỞ GIAO DỊCH III - NGÂN HÀNG ĐẦU TƯ VÀ PHÁT TRIỂN VIỆT NAM.
2.1. Khái quát quá trình hình thành và phát triển của sở giao dịch III
2.1.1. Sự hình thành của sở giao dịch III
Ngân hàng đầu tư và phát triển (BIDV) trước đây được gọi là ngân hàng kiến thiết Việt Nam (thuộc Bộ Tài Chính), được thành lập theo quyết định số 177 – TTg của thủ tướng chính phủ vào ngày 26/4/1957. Ngân hàng ra đời chủ yếu làm nhiệm vụ là cấp phát, quản lý vốn kiến thiết cơ bản từ ngân sách nhà nước cho sự phát triển của kinh tế đất nước.
Ngân hàng đầu tư và phát triển được gọi chính thức vào ngày 14/11/1990. Đến nay đã trở thành một trong năm ngân hàng quốc doanh lớn nhất, xét về mạng lưới hoạt động và mặt tài sản là ngân hàng lớn thứ hai. Hiện nay ngân hàng có 103 chi nhánh chính và 202 chi nhánh cấp cơ sở. Trải qua hơn 50 năm xây dựng và hoạt động ngân hàng đã đem lại rất nhiều lợi ích cho ngân sách và nền kinh tế.
Trên cơ sở quyết định số 285/QĐ-TTg ngày 18/4/2002 của Thủ tướng Chính phủ, quyết định số 617/QĐ-NHNN ngày 14/6/2002 của thống đốc ngân hàng nhà nước Việt Nam về việc tiếp nhận chuyển giao nguồn vốn dự án Tài chính nông thôn (TCNN) từ ngân hàng Nhà nước, và quyết định số 39/QĐ-HĐQT ngày 2/7/2002 của hội đồng quản trị Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam (BIDV). Từ đó, sở giao dịch III đã được thành lập với nhiệm vụ chủ yếu là trực tiếp thực hiện chức năng chủ dự án (ngân hàng bán buôn), quản lý và cho vay tiếp toàn bộ số vốn vay từ Ngân hàng thế giới (WB), các đối tác nước ngoài đến các định chế tài chính. Bên cạnh đó, sở giao dịch III còn được giao thực hiện các nghiệp vụ ngân hàng theo Luật các tổ chức tín dụng theo điều lệ và quy định của BIDV. Sở giao dịch III thực hiện dịch vụ ngân hàng đại lý, quản lý vốn đầu tư cho các dự án theo yêu cầu của khách hàng; dịch vụ thanh toán giữa các khách hàng và các nghiệp vụ khác theo ủy nhiệm của Tổng giám đốc BIDV.
2.1.2. Cơ cấu, chức năng và nhiệm vụ của sở giao dịch III
Biểu 2.1: Cơ cấu tổ chức của sở giao dịch III - BIDV
Giám đốc
Phó Giám đốc
Khối quản lý dự án
Khối quan hệ khách hàng
Khối quản lý rủi ro
Khối tác nghiệp
Khối quản lý nội bộ
P. quản lý dự án
P. Lựa chọn định chế
P. Thẩm định dự án
P. Môi trường
Tổ Đào tạo và QL tiểu cấu phần cấp phát
P. Quan hệ khách hàng
P. Ngân hàng đại lý và ủy thác
P. quản lý rủi ro
P. quản lý và dịch vụ kho quỹ
P. thanh toán quốc tế
P. dịch vụ khách hàng
P. quản trị tín dụng
P. tổ chức hành chính
P. kế hoạch tổng hợp
P. tài chính kế toán
P. điện toán
Ngoài chức năng là ngân hàng bán buôn tiếp quản dự án tài chính nông thôn, sở giao dịch III còn đóng vai trò đầu mối quản lý hoạt động đại lý ủy thác của toàn ngành và thực hiện các dịch vụ ngân hàng như một ngân hàng thương mại bình thường.
2.1.3. Khái quát tình hình kinh doanh của sở giao dịch III
Trong bẩy năm thành lập và hoạt động của mình, sở giao dịch III đã có những bước phát triển khá mạnh, ổn định và mang lại lợi nhuận kinh doanh rất lớn cho ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam. Sau đây là bảng báo cáo tình hình kết quả kinh doanh của sở giao dịch III tính đến ngày 31/12/2009:
Nhận xét:
- Tổng tài sản của sở giao dịch III trong năm 2009 đạt 20.215 tỷ đồng, tăng lên so với năm 2008 là 730 tỷ đồng, tương đương 4%
- Huy động vốn cuối kỳ đạt 4.777 tỷ đồng, giảm đi so với năm 2008 là 2.953 tỷ đồng, tương đương với 38%. Việc huy động vốn sụt giảm mạnh đi có nguyên nhân là do Bộ tài chính thực hiện rút 3.450 tỷ VNĐ và 60 triệu USD tiền gửi tại sở giao dịch III phục vụ chi tiêu ngân sách.
- Dư nợ đối với các dự án nông thôn I và II lại tăng so với năm trước. Dư nợ của dự án I là 1.059,22 tăng 30,97 tỷ đồng tương đương với tỷ lệ 3% so với năm 2008. Bên cạnh đó, dư nợ của dự án II là 2.823,7 tỷ đồng tăng 340,07 tỷ đồng tương đương với 14% so với năm 2008. Sự tăng lên của tổng dư nợ hai dự án trên có nguyên nhân do:
+ Năm 2008 nền kinh tế nước t._.a bị ảnh hưởng bởi cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu, làm cho các hoạt động kinh doanh và đầu tư có phần giảm sút. Nhưng năm 2009, việc chính phủ đưa ra các gói kích cầu và chính sách lãi suất đã khuyến khích tiêu dùng và đầu tư, dấu hiệu phục hồi của nền kinh tế.
+ Tình hình thu hồi nợ được cải thiện do người vay cuối cùng trả nợ đúng hạn.
- Hoạt động đại lý ủy thác phát huy tốt vai trò đầu mối quản lý hoạt động dịch vụ đại lý ủy toàn ngành. Tính đến cuối năm 2009 đã đạt 8.739 tỷ đồng hoàn thành 47% so với năm 2008.
- Đặc biệt dư nợ tín dụng tăng 163 tỷ đồng, tương đương 82% so với năm 2008.
- Chỉ tiêu nợ quá hạn trong năm 2009 theo kế hoạch là 1%, nhưng trong quá trình thực hiện đạt 0%. Chứng tỏ trong năm 2009, PFIs hoàn thành rất tốt công tác trả nợ.
- Trích lập quỹ dự phòng rủi ro của sở giao dịch III năm 2009 giảm đáng kể so với năm 2008 là 100,1 tỷ đồng tương đương với giảm 70%. Điều này chứng tỏ tính an toàn của dự án là khá cao, việc trả nợ của các PFIs cũng như tiềm lực của BIDV là rất tốt.
2.1.4. Đánh giá tình hình kế hoạch kinh doanh năm 2009
* Về hoạt động dự án TCNT:
Sở giao dịch III đã quản lý và kiểm soát tốt việc thực hiện dự án TCNT I, II và III đảm bảo cáo tiêu chí mà dự án theo yêu cầu của WB trong bối cảnh thị trường có nhiều biến động. Dự án TCNT II được WB đánh giá là dự án được triển khai tốt nhất tại Việt Nam. Đến nay, dự án tài chính nông thôn II đã hoàn tất quá trình giải ngân, chất lượng tín dụng tốt, không phát sinh nợ quá hạn giữa sở giao dịch III và các PFIs. Dự án tài chính nông thôn II đã chính phủ Việt Nam chấp thuận việc gia hạn dự án để thực hiện hỗ trợ kỹ thuật đến hết tháng 9/2009 và đến nay đã hoàn tất.
Đối với dự án tài chính nông thôn III, sở giao dịch III là đầu mối tổ chức phối hợp, đàm phán thành công và đã được tiếp nhận dự án theo đúng lộ trình kế hoạch. Vào tháng 11/ 2008 Hiệp định tài trợ dự án được ký kết chính thức giữa WB và chính phủ Việt Nam với tổng giá trị dự án là 200 triệu USD. Dự án đang trong quá trình giải ngân và mọi tiến trình diễn ra tương đối tốt.
* Về hoạt động đại lý ủy thác:
Với vai trò là đầu mối quản lý hoạt động đại lý ủy thác của toàn ngành, sở giao dịch III thay mặt ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam trong việc tiếp cận các bộ, ngành và các nhà tài trợ quốc tế. Đồng thời xây dựng cơ chế, hướng dẫn triển khai dự án trong toàn hệ thống, góp phần nâng cao uy tín và vị thế của ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam. Số vốn mới đại lý ủy thác năm 2009 băng 109% so với kế hoạch năm. Việc giải ngân các nguồn vốn thương mại từ các nguồn NIB, JBIC được đẩy mạnh. Dư nợ đại lý ủy thác hết tháng 12/2009 đạt 8.739 tỷ đồng, đạt 323% kế hoạch năm.
* Về hoạt động thương mại:
Trước áp lực cạnh tranh huy động vốn khốc liệt giữa các ngân hàng, sở giao dịch III đã chủ động, tích cực huy động vốn vì mục tiêu, lợi ích chung của toàn ngành. Sở giao dịch III đã triển khai đa dạng và toàn diện các hình thức huy động vốn hiện có trong hệ thống ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam; tăng cường quan hệ hợp tác với các khách hàng truyền thống, đồng thời tiếp cận và triển khai các khách hàng mới.
Về hoạt động tín dụng thương mại, sở giao dịch III đã bám sát định hướng chỉ đạo của hội sở chính, từng bước tăng trưởng dư nợ và phát triển khách hàng theo hướng chất lượng và bền vững. Sở giao dịch III đã tiếp cận một số khách hàng tiềm năng như Tổng công ty cổ phần dung dịch khoan và hóa phẩm dầu khí, Tổng công ty truyền tải điện quốc gia. Sở giao dịch II cũng tiếp tục bám sát những dự án đã được hội sở chính đồng ý cho tham gia đồng tài trợ như dự án Xi măng Sơn La.. Đến hết năm 2009, tổng dư nợ thương mại đạt 362 tỷ đồng và không phát sinh nợ quá hạn, tăng so với năm 2008 là 163 tỷ đồng, tương đương 82%.
Công tác tiếp thị và đẩy mạnh dịch vụ ngày càng được chú trọng triển khai một cách có hệ thống, tạo đột phá trong hoạt động của sở giao dịch III. Sở cũng đã hoàn thiện và ban hành bộ tờ rơi sản phẩm, dịch vụ mới của mình; xây dựng kế hoạch phát triển các sản phẩm, dịch vụ tại sở, tăng cường công tác tiếp thị khách hàng trên cơ sở thành lập và triển khai tổ Marketing; triển khai đa dạng các sản phẩm dịch vụ, chú trọng các sản phẩm có thế mạnh đặc thù như thực hiện hoán đổi tiền tệ chéo nguồn AFD trị giá 11 triệu EUR với lợi nhuận khoảng 8 tỷ VNĐ/năm. Thu dịch vụ ròng luôn đạt kế hoạch đề ra, vì vậy sở giao dịch III được hội sở chính ghi nhận là cánh chim đầu đàn của toàn ngành.
2.2. Thực trạng quản lý nguồn vốn ODA cho vay lại tại SGD III
Trong những năm vừa qua Việt Nam là một trong những quốc gia có chỉ số tăng trưởng vượt bậc. Tỷ lệ người nghèo giảm đáng kể song theo dự tính hiện nay vẫn còn khoảng 33% dân số sống trong đói nghèo, khoảng 85% người nghèo sống ở vùng nông thôn và 40% dân số nông thôn sống dưới mức đói nghèo. Nâng cao mức sống của nhân dân đang là một vấn đề hết sức khó khăn đối với chính phủ. Muốn nâng cao cần phải thay đổi tư duy trong các mô hình chăn nuôi, trồng trọt, cần thương mại hóa các sản phẩm nông nghiệp và phi nông nghiệp. Bên cạnh đó còn rất nhiều trở ngại như thiếu thông tin thị trường, công nghệ lạc hậu, các dịch vụ tiết kiệm còn hạn chế, thiếu sự hỗ trợ tín dụng… Xuất phát từ vấn đề trên, chính phủ đã ký kết một hiệp định hỗ trợ vay vốn ưu đãi với ngân hàng thế giới (WB) thông qua các dự án tài chính nông thôn.
Năm 1996 hiệp định của dự án TCNT được ký kết giữa chính phủ Việt Nam và ngân hàng Thế Giới (WB) do bộ tài chính đứng ra nhận vốn. Sau đó bộ tài chính chuyển nhượng nguồn vốn này cho ngân hàng đầu tư thực hiện. Trong 6 năm thực hiện, do yêu cầu của công việc khá lớn vì thế mà Ngân hàng đầu tư đã quyết định thành lập sở giao dịch III để chuyên biệt mảng ngân hàng bán buôn, thực hiện cho vay lại vốn ODA tới các định chế tài chính được lựa chọn.
Cả ba dự án TCNT đều được tổ chức dưới mô hình hoạt động ngân hàng bán buôn (Wholesale Banking Operations) với ba chủ thể chính là ngân hàng bán buôn, các ngân hàng bán lẻ và người vay cuối cùng.
Biểu 2.2: Mô hình tài trợ dự án TCNT
Nhà tài trợ (WB)
Bộ tài chính
Ngân hàng bán buôn
PFI
PFI
PFI
Người hưởng lợi
(SME, cá nhân, hộ gia đình nông thôn)
Mô hình tài trợ: Bộ tài chính là cơ quan tiếp nhận vốn ODA tại một tài khoản đặc biệt tại một ngân hàng do WB chỉ định. Số tiền tối đa cho mỗi lần rút vốn là 20 triệu USD, sau đó khoản tín dụng này được chuyển về sở giao dịch III – Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam dưới sự giám sát của ngân hàng nhà nước. Từ đó, nguồn vốn này sẽ được cho vay lại đối với các ngân hàng được lựa chọn (gọi là các định chế tài chính - PFI). Ngân hàng bán buôn chịu rủi ro ở cấp PFI, các PFI chịu toàn bộ rủi ro cho vay tới người sử dụng cuối cùng. Hiện nay, đã có 25 định chế tài chính được lựa chọn tham gia giải ngân cho ba dự án tài chính nông thôn I, II, III. Trong đó, dự án tài chính nông thôn I, II đang trong quá trình thực hiện quay vòng vốn sau khi kết thúc 5 năm đầu tiên thực hiện dự án. Dự án tài chính nông thôn III mới được thực hiện vào tháng 3/2009. Dưới đây là kết quả thực hiện ba dự án từ năm 2006 - 2009.
Bảng 2.2: Tổng hợp dư nợ 3 DA TCNT 2006 - 2009
(Đơn vị: tỷ VNĐ)
Năm
Dự án
2006
2007
2008
2009
1. DA TCNT I
1.121,02
1.109,02
1.028,25
1.059,22
2. DA TCNT II
2.892,23
2.884,57
2.483,63
2.823,70
3. DA TCNT III
-
-
-
324,75
Tổng
4.013,25
3.993,59
3.511,88
4.207,67
(Nguồn: SGD III – BIDV)
Qua bảng tổng hợp 3 dự án tài chính nông thôn đang được triển khai tại sở giao dịch III thì ta thấy một nhận xét chung là trong năm 2009 là năm mà dư nợ cho vay đạt hiệu quả cao nhất 4.207,67 tỷ VNĐ do Ngân hàng đầu tư và phát triển tiếp quản thêm dự án TCNT III và nền kinh tế Việt Nam phục hồi sau giai đoạn suy giảm kinh tế. Thấy rõ dư nợ của hai năm 2007 và 2008 tổng dư nợ của ba dự án giảm đi đáng kể so với năm 2009 và 2006 do ảnh hưởng của lạm phát và khung kinh tế toàn cầu.
2.2.1. Dự án tài chính nông thôn I
Hiệp định Tín dụng Phát triển cho Dự án Tài chính Nông thôn I (Khoản Tín dụng số 2855 - VN) được ký kết tháng 7/1996 giữa Ngân hàng Thế giới (WB) và Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam và có hiệu lực từ tháng 2/1997. Theo Hiệp định, WB tài trợ cho Việt Nam số tiền tương đương 113 triệu USD để thực hiện dự án. Dự án đã kết thúc vào ngày 31/12/2001 và sẽ được quay vòng trong 25 năm tiếp theo.
* Mục tiêu của dự án:
- Hỗ trợ Việt Nam trong các nỗ lực cải thiện điều kiện sống của người dân nông thôn qua việc khuyến khích đầu tư cá nhân.
- Nâng cao năng lực của hệ thống ngân hàng trong việc cung cấp tài chính cho khu vực tư nhân.
- Giúp đỡ người nghèo ở nông thôn tiếp cận được các dịch vụ tài chính.
* Yêu cầu với PFIs:
- Tính hợp pháp: các ngân hàng được lựa chọn phải tuân thủ đầy đủ các yêu cầu về kiểm toán và luật ngân hàng.
- Khả năng thanh toán: các PFI đáp ứng được các tiêu chí về giá trị tài sản đủ để trang trải các hoạt động của nó, đặc biệt các khoản nợ. Các chỉ tiêu yêu cầu như: tỷ lệ nợ quá hạn ròng <10% so với tổng dư nợ vay, tỷ lệ nợ quá hạn ròng so với vốn tự có <25%, tỷ lệ an toàn tối thiểu 8%.
- Khả năng thanh khoản: có thể chuyển đổi nhanh các tài sản của mình để trang trải các khoản nợ ngắn hạn. Tỷ lệ thanh khoản không được thấp hơn 30% (được xác định bởi tài sản có động trên các tài sản nợ ngắn hạn).
- Khả năng sinh lời và tính hiệu quả: xem xét chỉ tiêu ROE > tỷ lệ lạm phát hàng năm và chỉ tiêu ROA > 3%
- Chất lượng năng lực của đội ngũ quản lý và các bộ phận nhân viên: Các PFI phải có đội ngũ nhân viên có trình độ quản lý và chuyên môn đảm bảo khả năng triển khai có hiệu quả các hoạt động của ngân hàng và hoạt động cho vay lại từ RDF. Đồng thời các PFI cũng phải có hệ thống quản lý tài chính lành mạnh bao gồm hệ thống hạch toán kế toán, kiểm toán, kiểm toán nội bộ tốt nhằm đảm bảo cho vốn RDF được sử dụng đúng mục đích và có hiệu quả.
* Cấu phần của dự án:
Nguồn vốn của Dự án được phân bổ cho 3 Cấu phần:
(A) Quĩ Phát triển Nông thôn I (RDF I): Quỹ RDF là hạn mức tín dụng chung dùng để tài trợ cho các hoạt động khả thi của hộ gia đình và doanh nghiệp tư nhân nông thôn với 67,76 triệu SDR tương đương 94,69 triệu USD cho vay ngắn, trung và dài hạn thông qua PFIs.
(B) Quĩ Cho vay Người nghèo Nông thôn (FRP): Quỹ FRP được thiết kế để dành riêng cho người nghèo nông thôn nhằm mục đích khắc phục những yếu kém trong tín dụng nông thôn với việc mở cửa thị trường cho các nhóm người trước đó chưa tiếp cận được với vốn do các điều kiện vay không được đáp ứng như không có tài sản thế chấp, thiếu nguồn vốn của các định chế tài chính, rủi ro trong thu hồi nợ… Quỹ có tổng số tiền vay là 8,13 triệu SDR tương đương 11,06 triệu USD.
(C) Cấu phần Tăng cường năng lực thể chế: Cấu phần này được tài trợ 6.81 triệu SDR tương đương khoảng 7,5 triệu USD bao gồm các hoạt động trợ giúp và đào tạo để: (i) Hỗ trợ cán bộ của Ban quản lý dự án và giám sát hoạt động cho vay lại vốn ODA của ngân hàng bán buôn, trong đó có việc đánh giá lựa chọn các PFI, (ii) Nâng cao năng lực cho VBARD và VBP trong việc cung cấp dịch vụ tài chính cho khu vực nông thôn, (iii) Hỗ trợ đào tạo tăng cường năng lực cho cộng đồng nông thôn trong việc tiếp cận các dịch vụ tài chính, thành lập tổ nhóm tín dụng tiết kiệm… Dự án cũng tài trợ cho chương trình xe ngân hàng lưu động để mở rộng phạm vi hoạt động tài chính đến các vùng sâu, vùng xa.
* Các định chế tài chính được lựa chọn:
Trong quá trình từ khi dự án bắt đầu đến khi dự án kết thúc thì đã có 6 ngân hàng tham gia giải ngân nguồn vốn dự án bao gồm: Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam; Ngân hàng TMCP Bắc Á; Ngân hàng TMCP Đông Á; Ngân hàng TMCP Á Châu; Ngân hàng TMCP Rạch Kiến (Nay là Ngân hàng Đại Tín); và Ngân hàng TMCP Phương Nam.
* Lãi suất cho vay lại:
- Cho vay bằng VNĐ: Lãi suất cho vay lại từ NHĐT tới các tổ chức tín dụng được tính bằng lãi suất cơ bản hiện hành trừ đi một biên độ. Biên độ này sẽ được cố định trong 3 tháng và sẽ được xác định bằng cách lấy lãi suất cơ bản hiện hành trừ đi lãi suất trung bình trọng số của các khoản tiền gửi 3 tháng, 6 tháng, 12 tháng trong hệ thống ngân hàng Việt Nam được điều chỉnh theo các yêu cầu về dự trữ bắt buộc do Ngân hàng nhà nước quy định và không thấp hơn 5%/năm.
- Cho vay bằng USD: Trong từng trường hợp cụ thể, NHĐT có thể cho các tổ chức tín dụng vay lại bằng USD với lãi suất bằng lãi suất Libor cộng với một khoản chênh lệch, song không thấp hơn 2,75%/năm.
Lãi suất bán lẻ: các PFI được tự do xác định lãi suất cho vay đến người vay cuối cùng, phù hợp với chính sách lãi suất của từng tổ chức tín dụng.
* Kết quả giải ngân tín dụng (31/12/2001)
Tại thời điểm 31/12/2001 toàn bộ số vốn của cấu phần (A) và (B) đã được giải ngân hết cho 6 PFIs với dư nợ đạt 1.461 tỷ VNĐ và tỷ lệ sử dụng hạn mức tín dụng của các PFIs đạt 98%. Lũy kế cho vay nguồn vốn tín dụng (giải ngân vòng 1 và cho vay quay vòng) đạt 3.475 tỷ VNĐ. Nguồn vốn đã tạo ra tổng mức đầu tư ở khu vực nông thôn lên đến 6.581 tỷ VNĐ và đầu tư cho khoảng 636.000 khoản vay.
Bảng 2.3: Kết quả giải ngân dự án TCNT I
Quỹ
Triệu USD
Tỷ VNĐ
Quỹ phát triển nông thôn (RDF)
- Dư nợ cho vay
- Lũy kế giải ngân
94,69
1.298
1.286
3.324
Quỹ cho vay người nghèo (FRP)
- Dư nợ cho vay
- Lũy kế giải ngân
11,06
163
151
151
Tổng nguồn vốn của 2 quỹ
Lũy kế giải ngân của 2 quỹ
105,75
1.461
3.475
(Theo tỷ giá USD/ VNĐ = 14000)
Tỷ lệ cho vay theo các quỹ như sau:
- Dư nợ quỹ RDF đạt 1.286 trong đó có 74% là cho vay trung và dài hạn. Lũy kế giải ngân cho vốn RDF đạt 3.324 tỷ VNĐ và tài trợ trên 595.000 khoản vay ở khu vực nông thôn. Trung bình quỹ RDF sẽ tài trợ 52,3%, các PFI tài trợ bổ sung 11,2% và người vay cuối cùng đóng góp 36,5% tổng chi phí tiểu dự án, các món vay chủ yếu là nhỏ, bình quân khoảng 6,8 triệu VNĐ.
- Dư nợ quỹ FRP đạt 151 tỷ và số món vay khoảng 41.000. Trung bình quỹ FRP tài trợ 66,5%, các PFI tài trợ 12,1% và người đi vay cuối cùng đóng góp 21,4% chi phí tiểu dự án. Bình quân các món vay khoảng 4,4 triệu VNĐ.
Đối với cấu phần tín dụng RDF và FRP thì toàn bộ số vốn của dự án đã sử dụng để tài trợ cho 63.000 dự án bao gồm các phương án kinh doanh của các cá nhân, hộ gia đình, các doanh nghiệp nông thôn ở hầu hết các tỉnh thành trên cả nước. Dự án đã giúp cho khoảng 375.000 hộ được tiếp cận với các dịch vụ tài chính chính thức, trong đó có khoảng 6.000 hộ được vay trực tiếp từ FRP và khoảng 325.000 hộ được hưởng các dịch vụ từ 159 xe ngân hàng lưu động. Điều này đã tạo ra được khối lượng đầu tư lớn hơn gấp nhiều lần so với dự kiến. Ước tính cứ 1 USD thì tạo ra khoảng 4 USD tính đến 31/12/2001. Đối với cấu phần tăng cường năng lực thể chế thì dự án I mới chỉ sử dụng được 1/3 số tiền của phần nâng cao này cho nên chưa đáp ứng được yêu cầu.
* Kết quả dự án TCNT I tính đến thời điểm 31/12/2009
Dự án TCNT I được đánh giá là dự án khá thành công khi lần đầu tiên được triển khai tại Việt Nam. Dự án TCNT I đã kết thúc giai đoạn rút vốn giải ngân và hoàn thành vào ngày 31/12/2001. Toàn bộ nguồn vốn của khoản Tín dụng đã được giải ngân theo các Cấu phần của Dự án cho các Ngân hàng được lựa chọn tham gia.
Dự án TCNT I đã kết thúc giai đoạn thực hiện, song từ nguồn trả nợ gốc của các Ngân hàng tham gia, Dự án đã tạo ra một Quĩ Quay vòng (số vốn gốc do các Ngân hàng hoàn trả) có thời gian tồn tại 20 năm (đến 2022).
Bảng 2.4: Dư nợ dự án TCNT I giai đoạn 2006 - 2009
(Đơn vị: Tỷ VNĐ)
Năm
Dư nợ quỹ RDF
Dư nợ Quỹ FRP
Tổng cộng
2006
1.087,02
34
1.121,02
2007
1.075,02
34
1.109,02
2008
1.006,25
22
1.028,25
2009
1.035,22
24
1.059,22
(Nguồn: Sở giao dịch III - BIDV)
Trong giai đoạn 2006 - 2009 dư nợ 2 quỹ luôn đạt trên 1.000 tỷ VNĐ tương đương khoảng 90% tổng nguồn vốn. Lũy kế cho vay nguồn vốn dự án đạt 2.103 tỷ và đã có khoảng 390.000 tiểu dự án được tài trợ tính đến 31/12/2009 và dư nợ nguồn vốn đạt 1059 tỷ trong đó quỹ RDF đạt 1.035 tỷ, quỹ FRP là 24 tỷ.
Có thể nhận thấy trong bảng thống kê trên, trong năm 2006 tổng dư nợ là cao hơn các năm triển khai dự án tiếp theo, đạt 1.121,02 tỷ VNĐ. Bước vào năm 2007 do ảnh hưởng của lạm phát và khủng hoảng tài chính toàn cầu nhưng chưa sâu rộng nên mức dư nợ giảm nhẹ là 12 tỷ. Trong năm 2008, mức dư nợ đã giảm khá nhiều 92,77 tỷ VNĐ do nền kinh tế suy thoái dẫn đến việc cho vay của các ngân hàng hẹp và tổng mức dư nợ giảm. Năm 2009 tổng dư nợ tăng so với năm 2008 là 31 tỷ VNĐ, một dấu hiệu khá rõ khi nền kinh tế Việt Nam phục hồi.
Bảng 2.5: Dư nợ cho các PFIs vay, thời điểm 31/12/2009
(Đơn vị: tỷ VNĐ)
PFIs
Dư nợ (Tỷ VNĐ)
Tổng số
Ngắn hạn
Tr - Dài hạn
Quỹ RDF I
63,17
972,05
1.035,22
1, NH Nông nghiệp
0
919
919
2, NH Á Châu
21
17,93
38,93
3, NH Đông Á
16,65
31,71
48,36
4, NH Đại Tín
0
2,5
2,5
5, NH Bắc Á
15
0,91
15,91
6, NH Phương Nam
10,52
0
10,52
Quỹ FRP
24
0
24
1, NH Nông nghiệp
24
0
24
Tổng dự án
87,17
972,05
1.059,22
(Nguồn: Sở giao dịch III – BIDV)
Nhìn vào bảng ta thấy, ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn được đánh giá là ngân hàng có uy tín cao nhất. Do vậy có mức vay lớn nhất với tổng số tiền cho cả hai quỹ đạt 943 tỷ đồng, chủ yếu là cho vay trung và dài hạn chiếm 97,6% trong cho vay phát triển nông thôn và 23,4% cho vay ngắn hạn trong quỹ người nghèo và là ngân hàng duy nhất cho vay người nghèo.
Ngân hàng Á Châu thì chủ yếu cho vay trung dài hạn chiếm tới 75%, chứng tỏ ngân hàng này có tiềm lực khá lớn, đủ để trang trải cho những rủi ro tín dụng. Trong khi đó, ngân hàng Phương Nam việc sử dụng vốn vay của họ lại tập trung toàn bộ vào ngắn hạn để giảm rủi ro tối đa. Ngoài ra, các ngân hàng còn tùy vào điều kiện mà cho vay ngắn, trung - dài hạn tùy theo chiến lược kinh doanh của mình.
* Những tác động đến nền kinh tế xã hội:
- Hỗ trợ tích cực cho sự phát triển nông nghiệp nông thôn và xóa đói giảm nghèo của Việt Nam: Nguồn vốn đã tạo ra tổng mức đầu tư ở khu vực nông thôn tương đương 647 triệu USD.
- Tỷ lệ hoàn trả từ người đi vay cuối cùng đến các PFIs theo báo cáo luôn ở mức cao trên 98%, cho thấy nguồn vốn được sử dụng hiệu quả và mang lại lợi nhuận cao cho người vay.
- Phụ nữ nông thôn được hưởng lợi bình đẳng từ dự án. Người đi vay là phụ nữ chiếm 45% trong tổng người đi vay. Nguồn vốn đã tạo thêm việc làm cho khoảng 400,000 lao động ở khu vực nông thôn.
- Dự án đã kích thích cạnh tranh lành mạnh, cung cấp dịch vụ ngân hàng ở khu vực nông thôn, năng lực quản lý và cho vay cũng được cải thiện thông qua sự trợ giúp kỹ thuật và đào tạo.
2.2.2. Dự án tài chính nông thôn II
Dự án Tài chính Nông thôn II (TCNT II) được xây dựng trên cơ sở kết quả và kinh nghiệm thành công của Dự án TCNT I. Tại Quyết định số 285/QĐ - TTg, ngày 18/4/2002; hiệp định Tín dụng vay vốn cho Dự án (Khoản Tín dụng số 3648 - VN) được ký kết ngày 9/9/2002 và có hiệu lực từ ngày 14/4/2003. Giai đoạn thực hiện Dự án dự kiến kết thúc vào tháng 3/2008. Tuy nhiên, quĩ quay vòng của Dự án sẽ tiếp tục tồn tại đến năm 2027.
Phạm vi cho vay của Dự án được thực hiện trên toàn quốc, trừ khu vực nội thành của 4 thành phố lớn là Hà Nội, Hải Phòng, Đà Nẵng và Tp, Hồ Chí Minh.
* Mục tiêu của dự án:
- Khuyến khích phát triển kinh tế cho khu vực nông thôn, đặc biệt là các hộ gia đình nông nghiệp và các doanh nghiệp tư nhân nông thôn.
- Tăng cường năng lực của hệ thống ngân hàng để phục vụ tốt hơn cho kinh tế nông thôn.
- Tăng cường khả năng tiếp cận của người nghèo nông thôn tới các dịch vụ tài chính.
* Yêu cầu đối với PFIs:
Nguồn vốn sẽ được cho vay theo từng hạn mức tín dụng theo sự đánh giá dựa trên các tiêu chí của WB như tính hợp pháp, khả năng thanh toán, khả năng thanh khoản, khả năng sinh lời và tính hiệu quả, chất lượng của đội ngũ quản lý và nhân viên.
Các Tổ chức Tín dụng muốn tham gia Dự án TCNT III và sử dụng vốn của Dự án để cho vay theo các mục tiêu của Dự án cần gửi cho Sở Giao dịch III - NHĐT một bộ hồ sơ theo qui định để làm căn cứ đánh giá lựa chọn. Sau khi nhận đầy đủ các tài liệu trên, NHĐT sẽ tiến hành tính toán các chỉ số tài chính theo qui định của WB, cụ thể các Chỉ số theo qui định của WB:
Bảng 2.6: Các chỉ số tài chính theo qui định của WB
Tiêu chí tài chính
Yêu cầu của Quỹ RDF
Yêu cầu của Quỹ MLF
A
Khả năng thanh toán
Nợ qúa hạn – Dự phòng
- Tỷ lệ nợ quá hạn ròng = ------------------------------
Tổng dư nợ - Dựphòng
Nợ quá hạn – Dự phòng
- Tỷ lệ NQH so với VTC = ------------------------------
Vốn tự có
VTC-(Góp vốn, mua cổ phần)
- Tỷ lệ an toàn vốn = --------------------------------
TSC rủi ro nội, ngoại bảng
10%
25%
8%
10%
20%
8%
B
Tài sản có động
Khả năng thanh khoản = ---------------------------
Tài sản nợ ngắn hạn
30%
30%
C
Khả năng sinh lời và tính hiệu quả
- Lợi nhuận thực = LN sau thuế - (VTCđầu năm – TSCĐ còn lại đầu năm)x Tỷ lệ lạm phát năm
Lợi nhuận sau thuế
- Tỷ suất LN/TSC sinh lời bq = ------------------------
(TSCSLđk+TSCSLck)/2
0%
1%
0%
1%
(Nguồn: Sở giao dịch III – BIDV)
* Cấu phần của dự án:
Theo Hiệp định, WB tài trợ cho Dự án nguồn vốn tương đương 200 triệu USD và được phân bổ thành 2 Cấu phần:
- Cấu phần Tín dụng với số vốn tương đương 189,7 triệu USD được chia thành 2 tiểu cấu phần:
(i) Quĩ Phát triển Nông thôn II (RDF II) có số vốn 165,7 triệu USD. Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam cho vay lại trên cơ sở các khoản vay ngắn, trung - dài hạn để tài trợ cho các hoạt động đầu tư tư nhân của cá hộ nông nghiệp và doanh nhân nông thôn với các dự án đầu tư vền vững về mặt kinh tế và khả thi về mặt kỹ thuật. Điều này đáp ứng nhu cầu về vốn lưu động, thực hiện kế hoạch mở rộng và triển khai các dự án mới từ đó làm tăng năng lực sản xuất, cung cấp việc làm, nâng cao mức sống và góp phần phát triển kinh tế. Về nguyên tắc, tổng giá trị các khoản vay của Quỹ RDF II cho một Người vay cuối cùng không được phép vượt quá 5% vốn tự có của NHĐT.
(ii) Quĩ Cho vay Tài chính Vi mô (MLF), 24 triệu USD. Quỹ MLF sẽ được sử dụng để cung cấp chủ yếu những khoản vay ngắn hạn, nếu cấp cho những khoản vay trung hạn thì thời hạn không quá 3 năm. Với định mức cho vay là 24 triệu USD, quỹ đã cung cấp nguồn vốn cho vay bổ sung và hỗ trợ kỹ thuật phục vụ người nghèo, cải thiện khả năng phục vụ của các định chế tài chính về nhu cầu tiết kiệm của người nghèo và trực tiếp hỗ trợ tín dụng cho các hoạt động phát triển kinh tế bền vững. Giá trị một khoản vay MLF cho một tiểu dự án không được vượt quá số tiền tương đương 400 USD đối với người vay là cá nhân/hộ gia đình; không vượt quá số tiền tương đương 1.000 USD đối với bên vay là doanh nghiệp hộ gia đình có thuê ít nhất 3 nhân công không phải là thành viên trực tiếp của gia đình.
- Cấu phần Tăng cường Năng lực Thể chế cho các ngân hàng tham gia Dự án có số vốn tương đương 10,3 triệu USD:
(i) Tăng cường năng lực cho Ngân hàng đầu tư và phát triển: Với định mức vay là 2,2 triệu USD, ngân hàng đầu tư và phát triển xây dựng một khung pháp lý tập trung vào việc tăng cường hoạt động tài chính của ngân hàng, bao gồm: nâng cao chất lượng danh mục các khoản vay, đa dạng hóa các nguồn thu nhập và mở rộng chênh lệch lãi suất; tăng cường tính hiệu quả của hoạt động để tăng khả năng sinh lời, huy động nguồn vốn trung dài hạn bằng VNĐ, đào tạo nhân viên, cải thiện hệ thống thông tin quản lý và kiểm soát nội bộ.
(ii) Tăng cường năng lực của các định chế tài chính (PFIs và MFIs): hoạt động được vay với định mức 8,1 triệu USD bao gồm việc tăng cường vốn tự có, cải thiện khả năng thanh toán, khả năng sinh lời, huy động và đào tạo, Trong đó hoạt động ngân hàng lưu động cũng được tài trợ.
* Các định chế tài chính được lựa chọn:
Sở giao dịch III đã hoàn thành tốt công tác lựa chọn các định chế nhằm đưa dự án phát triển một cách bền vững, Theo đó, 25 định chế được lựa chọn bao gồm: Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam; Ngân hàng Phát triển Nhà Đồng bằng Sông Cửu Long; Ngân hàng TMCP Á Châu; Ngân hàng TMCP Đông Á; Ngân hàng TMCP Phương Nam; Ngân hàng TMCP Sài Gòn Thương tín; Ngân hàng TMCP Sài Gòn Công thương; Ngân hàng TMCP Quốc Tế; Ngân hàng TMCP Phương Đông; Ngân hàng TMCP Kỹ Thương; Ngân hàng TMCP Nam Á; Ngân hàng TMCP Nhà Hà Nội; Ngân hàng TMCP Quân đội; Ngân hàng TMCPNT Đại Á; Ngân hàng TMCP Sài gòn - Hà Nội; Ngân hàng TMCPNT Mỹ Xuyên (NH phát triển Mê Kong); Ngân hàng TMCPNT Kiên Long Ngân hàng TMCPNT Rạch Kiến (NH Đại Tín); Quỹ Tín dụng Nhân dân Trung ương Ngân hàng TMCP An Bình; Ngân hàng TMCP Bắc Á; Ngân hàng TMCP các DN ngoài Quốc doanh; Ngân hàng TMCPNT Miền Tây.
* Lãi suất cho vay lại:
Lãi suất Bán buôn:
- Cho vay bằng VNĐ: Lãi suất cho vay lại từ NHĐT tới các Tổ chức Tín dụng được tính bằng Lãi suất Cơ bản hiện hành trừ đi một 'biên độ'. 'Biên độ' này sẽ được cố định trong 3 tháng và sẽ được xác định bằng cách lấy Lãi suất Cơ bản hiện hành trừ đi Lãi suất Trung bình Trọng số của các khoản tiền gửi 3 tháng, 6 tháng, 12 tháng trong Hệ thống Ngân hàng Việt Nam được điều chỉnh theo các yêu cầu về dự trữ bắt buộc do Ngân hàng Nhà nước quy định” (không thấp hơn 5%/năm).
- Cho vay bằng USD: Trong từng trường hợp cụ thể, NHĐT có thể cho các Tổ chức Tín dụng vay lại bằng USD với lãi suất bằng Lãi suất LIBOR cộng một khoản chênh lệch, song không thấp hơn 2,75%/năm.
Lãi suất Bán lẻ: Các Tổ chức Tín dụng được tự do xác định lãi suất cho vay đến người vay cuối cùng, phù hợp với chính sách lãi suất của từng Tổ chức Tín dụng.
* Kết quả giải ngân tín dụng (31/3/2009)
Bảng 2.7: Kết quả giải ngân dự án TCNT II (234,8 triệu USD)
Khoản mục
Triệu USD
Tỷ VNĐ
(a) Cấu phần tín dụng
Quỹ phát triển nông thôn (RDF)
Quỹ cho vay người nghèo (FRP)
221,02
195,68
25,34
3.180,3
2.935,2
380,1
(b) Cấu phần nâng cao năng lực thể chế
12,58
188,7
Tổng
233,6
3504
(Theo tỷ giá USD/ VNĐ = 15000)
Theo báo cáo của Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam (đơn vị quản lý Dự án), số vốn của Dự án Tài chính nông thôn II đã tăng từ mức 200 triệu USD lên khoảng 234,8 triệu USD. Tính đến ngày 31/3/2009, số vốn đã giải ngân đạt 233,6 triệu USD, bằng 99,5% tổng vốn, giải ngân trên 60 tỉnh thành trong cả nước. Dự án tài chính nông thôn II được đánh giá là dự án tiến độ giải ngân nhanh nhất hiện nay.
* Kết quả dự án TCNT II tính đến thời điểm 31/12/2009
Đánh giá kết quả của dự án tài chính nông thôn II, ta đánh giá trên 2 góc độ: Theo cấu phần tín dụng và theo tổng dư nợ.
Theo cấu phần tín dụng:
- Quỹ phát triển nông thôn RDF II
Sau khi nhanh chóng thực hiện việc giải ngân thì đã có hàng trăm nghìn hộ gia đình, doanh nghiệp nông thôn được tiếp cận với nguồn vốn này để thực hiện và mở rộng việc kinh doanh của mình. Lũy kế tổng số tiền tiểu dự án được tài trợ từ dự án lên tới 154.107 tiểu dự án với chi phí đầu tư là 8.562 tỷ VNĐ (khoảng 535 triệu USD). Trong đó, vốn từ quỹ RDF II khoảng 4.631 tỷ chiếm 51,1%. Phần đóng góp của người vay cuối cùng đạt 2.891 tỷ chiếm 31,8%, đối với PFI đạt 1.041 tỷ và chiếm 12,1% tổng chi phí tiểu dự án.
Cơ cấu cho vay của dự án đang được thay đổi dần dần. Vào năm 2003 cơ cấu và tỷ lệ cho vay trung - dài hạn còn ở mức thấp, chiếm 54% nhưng WB đã khuyến nghị tỷ lệ này cần phải cao hơn 60%. Với nỗ lực của sở giao dịch III thì tỷ trọng cho vay trung - dài hạn trong khuân khổ RDF II đã có những thay đổi rõ rệt: 91% năm 2007; 83% năm 2008; 99% năm 2009, cao hơn rất nhiều so với cho vay trung - dài hạn của các ngân hàng khác trong hệ thống ngân hàng Việt Nam chỉ vào khoảng 40% - 55%.
Nguồn vốn dự án cũng được xem xét theo tỷ trọng các ngành nghề: 20,7% trong hoạt động chăn nuôi, 28,7% trong hoạt động thương mại dịch vụ, 17,2% tài trợ cho ngành trồng trọt, 7,5% cho hoạt động chế biến, thủy hải sản 7,6%, sản xuất công nghiệp là 3,4% và khoảng 14,9% cho hoạt động kinh doanh, dịch vụ khác hợp lệ.
Dự án TCNT II đã góp phần làm dịch chuyển cơ cấu kinh tế khu vực nông thôn theo hướng hiện đại hóa, áp dụng các tiến bộ khoa học. Thu nhập người dân ở vùng nông thôn ngày càng cao do có vốn để đầu tư. Ngoài ra, dự án cũng góp phần tạo ra sự bình đẳng cho người phụ nữ Việt Nam, có quyền chủ động hơn trong kinh tế và khẳng định được vị thế xã hội. Tỷ lệ phụ nữ tham gia dự án TCNT II đã tăng từ 45% lên 58%.
Biểu 2.3: Cơ cấu cho vay quỹ RDF II theo ngành nghề
(Nguồn: Sở giao dịch III - BIDV)
- Quỹ cho vay tài chính vi mô (MLF)
Giá trị một khoản vay MLF cho một tiểu dự án không được vượt quá số tiền tương đương 400 USD đối với người vay là cá nhân/ hộ gia đình; không vượt quá số tiền tương đương 1.000 USD đối với bên vay là doanh nghiệp, hộ gia đình có thuê ít nhất 3 nhân công không phải là thành viên trực tiếp của hộ gia đình.
Đến 31/12/2009 đã có tổng cộng 10 định chế tài chính tham gia quỹ này. Lũy kế giải ngân từ tài khoản đặc biệt đạt 476,5 tỷ đồng. Nguồn vốn quỹ đã tài trợ cho 197.227 dự án với tổng chi phí dự án lên đến 1.911 tỷ đồng. Trong đó, phần vốn từ quỹ chiếm 57,8% tổng chi phí tiểu dự án, phần đóng góp của người đi vay cuối cùng khoảng 22,4% và các MFI khoảng 19,8%.
Biểu 2.4: Cơ cấu chi phí tiểu dự án
(Nguồn: Sở giao dịch III - BIDV)
- Tăng cường năng lực thể chế cho các PFI
Dự án không chỉ dành vốn cho phát triển nông thôn mà đã trích ra một khoản không nhỏ để hỗ trợ cho sự phát triển của hệ thống tài chính ngân hàng. Nguồn vốn được phân bổ làm 3 phần chính cho: mua sắm hàng hóa, hỗ trợ kỹ thuật, đào tạo. Kế hoạch mua sắm hàng hóa và đào tạo được WB và ngân hàng nhà nước thông qua làm cơ sở để thực hiện. Việc WB chấp nhận danh sách các đơn vị đủ tiêu chuẩn cung cấp dịch vụ đào tạo cho dự án TCNT II, tạo điều kiện thuận lợi cho sở giao dịch III và các định chế tài chính đẩy mạnh nhanh quá trình chuẩn bị và triển khai các hoạt động đào tạo. Ngân hàng đầu tư và ngân hàng nông nghiệp mua được 248 xe ngân hàng lưu động. Trong đó BIDV có 76 xe, ._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 31765.doc