Quản lý của Nhà nước đối với các Công ty phát hành chứng khoán ở Việt Nam

Lời Mở đầu Với sự phát triển mạnh mẽ về kinh tế của thế giới, sự vươn lên không ngừng của các nước trong khu vực về tất cả các lĩnh vực mà đặc biệt là sự phát triển như vũ bão về kinh tế, chính trị, xã hội. Điều đó đặt nước ta vào một vị thế vô cùng quan trọng, bởi vì nước ta nằm ở vị trí cực kỳ nhạy cảm, nhạy cảm cả về vị trí chiến lược quân sự cũng như kinh tế trong khu vực. Chính vì thế mà Đảng và nhà nước đã nhận thấy rõ công việc của mình là phải lãnh đạo, định hướng phát triển cho nền kin

doc33 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1520 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Quản lý của Nhà nước đối với các Công ty phát hành chứng khoán ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
h tế đất nước sao cho thật tốt, để tiến vào kỷ nguyên mới với thành công mới rực rỡ. Để đạt được điều đó Đảng, nhà nước đã đưa ra nhiệm vụ và mục tiêu phải tiến hành "Công nghiệp hoá và Hiện đại hoá đất nước". Để tiến hành công nghiệp hoá hiện đại hoá thành công, tăng trưởng kinh tế bền vững, khắc phục nguy cơ tụt hậu so với các nước trong khu vực cần phải có nguồn vốn lớn. Mà để có nguồn vốn lớn cần phát triển thị trường chứng khoán. Tuy nhiên, việc phát triển thị trường chứng khoán ở Việt Nam gặp không ít khó khăn về kinh tế cũng như sự hiểu biết loại hình kinh doanh này còn hạn chế, đặc biệt khi thị trường chứng khoán đi vào hoạt động thì cần phải có “Quản lý của Nhà nước đối với các Công ty phát hành Chứng khoán ở Việt Nam”. Chính vì thế, mà hơn bao giờ hết chúng ta cần phải chuẩn bị một cách kỹ càng cả về kiến thức cơ bản và học hỏi kinh nghiệm của các nước khác trên thế giới về tổ chức quản lý và kiểm soát hoạt động của các Công ty phát hành chứng khoán. Những nội dung chính được trình bày trong Đề án này gồm: Phần 1: Cơ sở lý luận về Quản lý nhà nước đối với các Công ty phát hành Chứng khoán Phần 2: Thực trạng Quản lý Nhà nước đối với các Công ty phát hành chứng khoán Phần 3: Phương hướng và một số kiến nghị quản lý phù hợp ở Việt Nam nội dung Phần 1: Cơ sở lý luận về Quản lý nhà nước đối với các Công ty phát hành Chứng khoán thị trường chứng khoán và các công ty phát hành chứng khoán Chứng khoán và thị trường chứng khoán Chứng khoán Khái niệm Chứng khoán là chứng chỉ thể hiện quyền của chủ sở hữu chứng khoán đối với người phát hành. Chứng khoán bao gồm : chứng khoán nợ (trái phiếu), chứng khoán vốn (cổ phiếu) và các chứng chỉ có nguồn gốc chứng khoán (chứng quyền, chứng khế, chứng chỉ thụ hưởng ...). Các chứng khoán do chính phủ, chính quyền địa phương và các công ty phát hành với mức giá nhất định. Sau khi phát hành, các chứng khoán có thể được mua đi bán lại nhiều lần trên thị trường chứng khoán theo các mức giá khác nhau tuỳ thuộc vào cung và cầu trên thị trường. Các loại chứng khoán Cổ phiếu: Cổ phiếu là chứng khoán vốn, xác nhận quyền sở hữu một phần tài sản công ty của cổ đông. Cổ phiếu gồm hai loại chính: Cổ phiếu thường: là cổ phiếu xác định quyền sở hữu của cổ đông trong công ty. Cổ phiếu thường được đặc trưng bởi quyền quản lí, kiểm soát công ty. Cổ đông sở hữu cổ phiếu thường được tham gia bầu hội đồng quả trị, tham gia bỏ phiếu quyết định các vấn đề lớn của công ty. Cổ phiếu ưu đãi: là cổ phiếu có cổ tức xác định được thể hiện bằng số tiền xác định được in trên cổ phiếu hoặc theo tỉ lệ phần trăm cố định so với mệnh giá cổ phiếu. Trái phiếu: Trái phiếu là chứng khoán nợ, người phát hành trái phiếu phải trả lãi và hoàn trả gốc cho những người sở hữu trái phiếu vào lúc đáo hạn. Trái phiếu có thể phân theo nhiều tiêu chí khác nhau: - Căn cứ vào chủ thể phát hành, trái phiếu gồm hai loại chính là: trái phiếu chính phủ, trái phiếu chính quyền địa phương (do chính phủ và chính quyền địa phương phát hành) và trái phiếu công ty (do công ty phát hành). - Căn cứ vào tính chất chuyển đổi, trái phiếu được chia thành loại có khả năng chuyển đổi (chuyển đổi thành cổ phiếu) và loại không có khả năng chuyển. - Trái phiếu chiết khấu: là loại trái phiếu không trả thưởng và được bán theo nguyên tắc chiết khấu. - Trái phiếu có bảo đảm và trái phiếu không có bảo đảm. Các chứng chỉ có nguồn gốc chứng khoán: - Chứng quyền: là giấy xác nhận quyền được mua cổ phiếu mới phát hành tại mức giải tường bán ra của công ty. - Chứng khế: là các giấy tờ được phát hành kèm theo các trái phiếu, trong đó xác nhận quyền được mua cổ phiếu theo những điều kiện nhất định. - Chứng chỉ thụ hưởng: là giấy xác nhận quyền lợi của khách hàng là những nhà đầu tư cá nhân trong các quỹ đầu tư nhất định. Thị trường chứng khoán Khái niệm Thị trường chứng khoán là nơi diễn ra các hoạt động mua bán chứng khoán theo các nguyên tắc của thị trường (theo quan hệ cung cầu) Cơ cấu Xét về sự lưu thông của CK trên thị trường,TTCK có hai loạI:thị trường sơ cấp và thị trường thứ cấp. Thị trường sơ cấp: Là thị trường phát hành. Đây là thị trường mua bán các chứng khoán phát hành lần đầu giữa nhà phát hành (người bán) và nhà đầu tư (người mua). Trên thị trường sơ cấp, chính phủ và các công ty thực hiện huy động vốn thông qua việc phát hành- bán chứng khoán của mình cho nhà đầu tư. Thị trường thứ cấp: Là thị trường giao dịch. Đây là thị trường mua bán các loại chứng khoán đã được phát hành. Thị trường thứ cấp thực hiện vai trò điều hoà, lưu thông các nguồn vốn, đảm bảo chuyển hoá các nguồn vốn ngắn hạn thành dài hạn. Qua thị trường thứ cấp, những người có vốn nhàn rỗi tạm thời có thể đầu tư vào chứng khoán, khi cần tiền họ có thể bán lại chứng khoán cho nhà đầu tư khác. Xét về phương diện tổ chức và giao dịch ,TTCK có ba loại: Thị trường chứng khoán tập trung: là thị trường ở đó việc giao dịch mua bán chứng khoán được thực hiện thông qua Sở giao dịch chứng khoán. Thị trường chứng khoán bán tập trung: là thị trường CK “bậc cao”. Thị trường chứng khoán bán tập trung (OTC) không có trung tâm giao dịch mà giao dịch mua bán chứng khoán thông qua mạng lưới điện tín, điện thoại. Một điều rất quan trọng là các nhà đầu tư trên thị trường OTC không trực tiếp gặp nhau để thoả thuận mua bán chứng khoán như trong phòng giao dịch của SGDCK, thay vào đó họ thuê các công ty môi giới giao dịch hộ thông qua hệ thống viễn thông. Thị trưòng chứng khoán phi tập trung: còn gọi là thị trường thứ ba. Hoạt động mua bán chứng khoán được thực hiện tự do. Các chủ thể tham gia thị trường chứng khoán Các đối tượng tham gia thị trường CK chia thành các nhóm:nhà phát hành,nhà đầu và các tổ chức có liên quan. Nhà phát hành Nhà phát hành là các tổ chức thực hiện huy động vốn thông qua thị trường chứng khoán. Nhà phát hành có thể là Chính phủ, chính quyền địa phương, Công ty. - Chính phủ phát hành các loại trái phiếu chính phủ nhằm huy động tiền bù đắp thâm hụt ngân sách hoặc thực hiện nhưng công trình quốc gia lớn. - Chính quyền địa phương phát hành trái phiếu địa phương để huy động tiền đầu tư cho các công trình hay chương trình kinh tế, xã hội của địa phương. - Các công ty muốn huy động vốn đầu tư phát triển sản xuất thương phát hành trái phiếu công ty hoặc cổ phiếu. Nhà đầu tư Nhà đầu tư có thể chia làn hai loại: nhà đầu tư cá nhân và nhà đầu tư có tổ chức. Các nhà đầu tư cá nhân Nhà đầu tư cá nhân là những người tham gia mua bán trên thị trường chứng khoán với mục đích tìm kiếm lợi nhuận. Tuy nhiên, lợi nhuận luôn gắn liền với rủi ro. Rủi ro càng cao thì lợi nhuận càng lớn. Do vậy, các nhà đầu tư phải lựa chọn các hình thức đầu tư phù hợp với mình. Các nhà đầu tư có tổ chức Các tổ chức này thường xuyên mua bán chứng khoán với số lượng lớn và có các bộ phận chức năng bao gồm nhiều chuyên gia có kinh nghiệm để nghiên cứu thị trường và đưa ra các quyết định đầu tư. Đầu tư thông qua các tổ chức này có ưu điểm là đa dạng hoá danh mục đầu tư và các quyết định đầu tư được thực hiện bởi các chuyên gia có kinh nghiệm. Các tổ chức kinh doanh chứng khoán Công ty chứng khoán Các công ty này hoạt động với nghiệp vụ chính là bảo lãnh phát hành, tự doanh, môi giới, quản lý danh mục đầu tư và tư vấn đầu tư chứng khoán. Các ngân hàng thương mại Các ngân hàng thương mại có thể sử dụng vốn để đầu tư chứng khoán nhưng chỉ được trong giới hạn rất định để bảo vệ ngân hàng trước những biến động của giá chứng khoán. Các tổ chức có liên quan đến thị trường chứng khoán - Cơ quan quản lý nhà nước Cơ quan này được thành lập để thực hiện chức năng quản lý nhà nước đối với thị trường chứng khoán. cơ quan này có những tên gọi khác nhau tuỳ từng nước. Tại Anh có Uỷ ban đầu tư chứng khoán (SIB- Securities Investment Board), tại Mỹ có Uỷ ban chứng khoán và Giao dịch chứng khoán (SEC - Securities And Exchange Comission) hay ở Nhật Bản có Uỷ ban giám sát chứng khoán và Giao dịch chứng khoán (ESC - Exchange Surveillance Comission) được thành lập vào năm 1992 và đến năm 1998 đổi tên thành FSA - Financial Supervision Agency. Và ở Việt Nam có Uỷ ban chứng khoán nhà nước được thành lập theo Nghị địng số 75/CP ngày 28/11/1996. - Sở giao dịch chứng khoán - Hiệp hội các nhà kinh doanh chứng khoán - Tổ chức ký gửi và thanh toán chứng khoán - Các tổ chức đánh giá hệ số tín nhiệm Các công ty phát hành Chứng khoán Điều kiện phát hành Phát hành chứng khoán ra công chúng là việc chào bán chứng khoán rộng rãi cho các nhà đầu tư ngoài tổ chức phát hành để huy động vốn từ đông đảo công chúng đầu tư. Hình thức huy động vốn này có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với nền kinh tế Việt Nam, khi mà một nguồn vốn nhàn rỗi rất lớn vẫn còn nằm trong dân, trong khi các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế luôn ở trong tình trạng đói vốn và khả năng đáp ứng của ngân sách nhà nước cũng như vay ngân hàng còn hạn chế. Hiện nay trong bất kỳ thị trường nào, dù là đã phát triển hay đang phát triển, yêu cầu đầu tiên đối với hoạt động phát hành là phải có sự quản lý, giám sát của nhà nước để đảm bảo hiệu quả, công bằng và bảo vệ quyền lợi của các nhà đầu tư. ở Việt Nam, Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước với tư cách là cơ quan quản lý Nhà nước về chứng khoán và thị trường chứng khoán, thực hiện chức năng giám sát và điều chỉnh việc phát hành chứng khoán ra công chúng để được niêm yết trên thị trường. Mỗi nước có những quy định riêng cho việc phát hành chứng khoán lần đầu ra công chúng. Tuy nhiên, để phát hành chứng khoán ra công chúng thông thường tổ chức phát hành phải đảm bảo năm điều kiện cơ bản sau: * Về quy mô vốn: tổ chức phát hành phải đáp ứng được yêu cầu về vốn điều lệ tối thiểu ban đầu và sau khi phát hành phải đạt được một tỷ lệ phần trăm nhất địnhvề vốn cổ phần do công chúng nắm giữ và do số lượng công chúng tham gia. * Về tính liên tục của hoạt động sản xuất kinh doanh: Công ty được thành lập và hoạt động trong vòng một thời gian nhất định( thường khoảng từ 3-5 năm). * Về đội ngũ quản lý công ty: Công ty phải có đội ngũ quản lý tốt, có đủ năng lực và trình độ quản lý các hoạt động sản xuất, kinh doanh của công ty. * Về hiệu quả sản xuất kinh doanh: công ty phải làm ăn có lãi với mức lợi nhuận không thấp hơn mức quy định và trong một số năm liên tục nhất định ( thường từ 2- 3 năm). * Về tính khả thi của dự án: công ty phải có dự án khả thi trong việc sử dụng nguồn vốn huy động được. Tuy nhiên, các nước đang phát triển thường cho phép một số trường hợp ngoại lệ, tức là có những doanh nghiệp sẽ được miễn giảm một số điều kiện nêu trên, Ví dụ: Doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực công ích, hạ tầng cơ sở có thể được miễn giảm về hoạt động sản xuất kinh doanh. ở Việt Nam, theo quy định của Nghị định 48/1998/-NĐ-CP về chứng khoán và thị trường chứng khoán và thông tư 01/1998/TT-UBCK hướng dẫn Nghị định 48/1998/-NĐ-CP, tổ chức phát hành cổ phiếu, Trái phiếu lần đầu ra công chúng phải đáp ứng được các điều kiện sau: + Mức vốn điều lệ tối thiểu là 5 tỷ đồng Việt Nam + Hoạt động kinh doanh có lãi trong 2 năm liên tục gần nhất + Thành viên Hội đồng quản trị và Giám đốc (Tổng giám đốc) có kinh nghiệm quản lý kinh doanh. tổ chức phát hành và phải nắm giữ mức này tối thiểu 3 năm kể từ ngày kết thúc đợt phát hành. + Trường hợp cổ phiếu phát hành có tổng giá trị theo mệnh giá vượt 10 tỷ đồng thì phải có tổ chức bảo lãnh phát hành. + Có phương án khả thi về việc sử dụng vốn thu được từ đợt phát hành cổ phiếu, trái phiếu. + Tối thiểu 20% vốn cổ phần của tổ chức phát hành phải được bán cho trên 100 người đầu tư ngoài tổ chức phát hành; trường hợp vốn cổ phần của tổ chức phát hành; trường hợp vốn cổ phần của tổ chức phát hành từ 100 tỷ đồng trở lên thì tỷ lệ tối thiểu này là 15% vốn cổ phần của tổ chức phát hành. + Cổ đông sáng lập phải nắm giữ ít nhất 20% vốn cổ phần của Hình thức phát hành Doanh nghiệp có thể kêu gọi tiền tiết kiệm của dân cư bằng cách phát hành cổ phiếu hoặc trái phiếu để hình thành nguồn vốn dài hạn rất cần cho sự tài trợ phát triển của mình. Doanh nghiệp cũng có thể tiến hành gia tăng vốn bằng việc phát hành cổ phiếu để kêu gọi thêm sự tham gia của các cổ đông sáng lập, nhưng việc đó giả thiết một mặt các cổ đông này phải có sẵn những vốn cần thiết, và mặt khác, họ cũng chấp nhận tham gia bổ sung vào hoạt động của doanh nghiệp. Trái phiếu là một chứng chỉ nợ, đại diện cho một sự vay vốn dài hạn đối với tổ chức phát hành. Do đó sẽ phải được hoàn trả cả gói hoặc từng phần theo theo mệnh giá phát hành hoặc đắt hơn, điều này phải được ghi rõ khi khoản thu nhập cố định bất kể trong tình huống nào và bất kể hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp ra sao. Mức lãi suất đã được quy định khi phát hành trái phiếu. Cổ phiếu là một chứng chỉ có tham gia vào cấu tạo vốn ban đầu của một doanh nghiệp, người chủ cổ phiếu có tư cách hội viên và có quyền được chia lợi tức theo tỷ lệ vốn tham gia hoặc tài sản có theo điều lệ của Công ty. Khoản thu nhập đó (gọi là lợi tức (hay cổ tức) cổ phiếu) thay đổi tuỳ theo tổng lợi nhuận của tài khoá và theo chính sách của công ty. Khi thấy cần thiết phải ưu đãi việc tự tài trợ hoặc mỗi khi phân phối lợi nhuận, Công ty có trách nhiệm thông tin cho các chủ cổ phần về hoạt động và kết quả kinh doanh của mình. Vì thế công ty phải công khai hoá bảng cân đối tài sản, bảng kết quả lỗ lãi cùng với các phụ lục, kể cả những tài liệu khác. Mặc dù cổ phiếu và trái phiếu có những điểm khác biệt nhưng xét cho cùng chúng đều là các hình thức huy động vốn của nhà phát hành, được quyền mua bán tự do trên thị trường riêng của nó. Chúng là nguồn tiếp vốn, là máu nuôi dưỡng các tế bào kinh tế, là cái phao nâng đỡ con tàu kinh tế qua các cơn phong ba bão tố của thị trường. Chức năng Công ty phát hành Chức năng thứ nhất :Huy động vốn cho nền kinh tế Phát hành chứng khoán được xem như chiếc cầu vô hình nối liền người thừa vốn với người thiếu vốn để họ giúp đỡ nhau thông qua việc mua bán cổ phiếu và trái phiếu, qua đó để huy động vón cho nền kinh tế, góp phần phát triển sản xuất kinh doanh tạo công ăn việc làm cho người lao động, giảm thất nghiệp, ổn định đời sống dân cư và thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Thông qua việc phát hành chứng khoán, chính phủ và chính quyền địa phương cũng huy động các nguồn vốn cho đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng. Phát hành chứng khoán đóng vai trò tự động điều hoà vốn giữa nơi thừa sang nơi thiếu vốn. Vì vậy, nó góp phần giao lưu và phát triển kinh tế. Mức độ điều hoà này phụ thuộc vào quy mô hoạt động của từng Công ty phát hành chứng khoán. Chẳng hạn, những công ty phát hành chứng khoán lớn ở thị trường Luân Đôn, Niu óc, Paris, Tokyo,... thì phạm vi ảnh hưởng của nó vượt ra ngoài khuôn khổ quốc gia vì đây là những Công ty từ lâu được xếp vào loại hoạt động có tầm cơ quốc tế. Cho nên mọi biến động của Nó tác động mạnh mẽ tới nền kinh tế của bản thân nước sở tại, mà còn ảnh hưởng đến thị trường chứng khoán nước khác. Chức năng thứ hai: thông tin Phát hành chứng khoán bảo đảm thông tin chính xác, kịp thời ( cho các nhà đầu tư và các nhà kinh doanh chứng khoán ) về tình hình cung - cầu, thị giá của từng loại chứng khoán trên thị trường mình và trên thị trường chứng khoán hữu quan. Chức năng thứ ba: cung cấp khả năng thanh khoản Nhờ có Phát hành chứng khoán mà các nhà đầu tư có thể chuyển đổi thành tiền khi họ muốn.Chức năng cung cấp khả năng thanh khoản bảo đảm cho thị trường chứng khoán hoạt động hiệu quảvà năng động. Chức năng thứ tư: đánh giá giá trị doanh nghiệp Phát hành chứng khoán là nơi đánh giá chính xác doanh nghiệp thông qua chỉ số chứng khoán trên thị trường, tình hình hoạt động của doanh nghiệp này kích các doanh nhgiệp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, kích thích áp dụng công ngệ mới. Chức năng thứ năm: tạo môi trường để chính phủ thực hiện chính vĩ mô Chính phủ có thẻ mua bán trái phiếu chính phủ để tạo ra nguồn thu bù đắp thâm hụt ngân sách và quản lý lạm phát.ngoài ra chính có thể sử dụng các chính sách tác động vào thị trường chứng khoán nhằm định hướng đầu tư. Vai trò của công ty phát hành Góp phần xây dựng và phát triển thị trường chứng khoán, với vai trò là tổ chức đầu tư trực tiếp, đồng thời là những trung gian tài chính sẽ góp phần nâng cao năng lực hoạt động của các doanh nghiệp Việt Nam, giúp quảng bá, giới thiệu sản phẩm cho các doanh nghiệp tới công chúng đầu tư, cho các thành phần kinh tế trong và ngoài nước và đặc biệt góp phần cải thiện tư duy, cách nhìn nhận đánh giá của đối tác vào thị trường chứng khoán Việt Nam. Bên cạnh đó còn góp phần hoàn thiện cơ chế quản lý điều hành các doanh nghiệp, giúp các doanh nghiệp huy động vốn và giao dịch chứng khoán trên thị trường chứng khoán; cung cấp cơ chế giá cho các khoản đầu tư, làm cơ chế chuyển nhượng chứng khoán thành tiền và ngược lại, giảm chi phí giao dịch, phát triển sản phẩm và dịch vụ trên thị trường làm cải thiện môi trường kinh doanh góp phần hình thành nền văn hoá đầu tư: tăng chất lượng và hiệu quả dịch vụ nhờ cạnh tranh. Công ty phát hành chứng khoán sẽ là cầu nối đưa nhà đầu tư, các luồng tiền nhàn rỗi đến với doanh nghiệp cần vốn một cách nhanh nhất với chi phí hợp lý. Ngoài ra giúp tuyên truyền quảng bá hoạt động của Doanh nghiệp và đây cũng là nơi cung cấp các kênh thông tin và dịch vụ mới nhanh, chính xác. Do vậy, Công ty phát hành chứng khoán có vai trò rất lớn trong nền kinh tế thị trường nói chung và nền kinh tế Việt Nam nói riêng. Quản lý Nhà nước đối với các Công ty phát hành chứng khoán Khái niệm quản lý nhà nước Là sự tác động có tổ chức và bằng pháp quyền của Nhà nước nên đối tượng quản lý nhằm dẫn dắt đối tượng đi đến mục tiêu với kết quả và hiệu quả cao nhất trong điều kiện môi trường luôn biến động. Quản lý nhà nước là quản lý có tính toàn cục mà đối tượng là những quan hệ kinh tế vĩ mô, nhưng quan hệ kinh tế xét trong tổng thể nền kinh tế của một nước. Tính toàn cục của quản lý nhà nước đòi hỏi nhà nước với tư cách là chủ thể quản lý cần xem xét các vấn đề kinh tế trung mô và xuất phát từ các yêu cầu của phát triển kinh tế quốc dân, từ sự phối hợp, điều hoà các mối quan hệ trong phạm vi nền kinh tế quốc dân. Quản lý có tính tổng thể là một loại quản lý dựa trên cơ sở quản lý doanh nghiệp, quản lý khu vực và quản lý ngành bằng việc vận dụng tổng hợp các phương pháp quản lý, Nhà nước điều tiết các mối quan hệ làm cho nền kinh tế quốc dân trên tổng thể phát triển cân đối nhịp nhàng tạo điều kiện thuận lợi cho quản lý doanh nghiệp, quản lý khu vực và quản lý ngành phát huy được hiệu quả của mình. Quản lý mang tính quyền lực: Nhà nước quản lý các hoạt xã hội bằng quyền lực chính trị ( lập pháp, hành pháp và tư pháp) của giai cấp thống trị đối với giai cấp khác. Mặt khác quản lý nhà nước còn mang tính pháp quyền và thực hiên theo nguyên tắc pháp chế. Quản lý bằng pháp luật là đặc điểm riêng có của quản lý Nhà nước đối với quản lý xã hội. Quản lý mang tính phức hợp đa dạng được thể hiện ở tính phức hợp và tính đa dạng của các đối tượng quản lý, tính đa mục tiêu, tính phong phú của các hình thức tác động, tính phụ thuộc vào môi trường trong nước và quốc tế, tính hệ thống của các vấn đề trong phạm vi quốc gia và quốc tế, tính gián tiếp của phương pháp tác động do đó phải có một bộ máy quản lý tinh xảo, hoạt động có hiệu lực và hiệu quả. Quản lý nhà nước nhằm mục tiêu phát triển lấy hiệu quả kinh tế xã hội làm chính, bởi vậy mục tiêu đặt ra trong quản lý kính tế quốc dân là mục tiêu kinh tế xã hội, hiệu quả kinh tế xã hội được xem như là tiêu chuẩn của mục tiêu trên. Hiệu quả được hiểu theo hai nội dung sau: Thứ nhất, lỗ hoặc lãi của một doanh nghiệp, một nganh hay một khu vực kinh tế chưa phải là lỗ hoặc lãi của toàn bộ nên kinh tế quốc dân mà hiệu quả kinh tế phải xét trong phạm vi toàn bộ nên kinh tế quốc dân. Thứ hai, hiệu quả tổng hợp không chỉ là hiệu quả kinh tế mà còn là hiệu quả chính trị, xã hội, văn hoá và môi trường. Quản lý nhà nước là quản lý đa mục tiêu. Về cơ bản, mục đích trong quản lý doanh nghiệp là tối đa hoá lợi nhuận, còn mục đích trong quản lý nhà nước là tối đa hoá phúc lợi quốc gia. Bởi vậy, mục tiêu quản lý của nhà nước không chỉ dừng lại ở mục tiêu tăng trưởng kinh tế mà còn phải tính đến hàng loạt các mục tiêu khác như công bằng xã hội, phát triển văn hoá, ổn định và nâng cao đời sống, xoá đói giảm nghèo và vấn đề về môi trường. Thực chất quản lý nhà nước là quản lý con người và các quan hệ xã hội nhằm giúp định hướng cho các hoạt động được diễn ra theo đúng quy luật cơ chế thị trường. Đó là cả một khoa học và nghệ thuật quản lý của nhà nước. Các chức năng chủ yếu của quản lý Nhà nước đối với các Công ty phát hành 2.1. Khuyến khích tạo điều kiện cho các CTPHCK phát triển Nhằm tạo lập môi trường thuận lợi cho hoạt động sản suất kinh doanh và hỗ trợ thúc đẩy sự phát triển. Muốn các tổ chức, Công ty phát triển tốt trong điều kiện kinh tế thị trường còn non kém như hiện nay thì nhà nước cần có các chính sách hay giải pháp thích hợp tạo nền thuận lợi khuyến khích sự phát triển đối với các Công ty phát hành chứng khoán như: Duy trì ổn định kinh tế vĩ mô tạo ra sự tin tưởng cho các chủ thể kinh tế vào tương lai, tránh cho nền kinh tế khỏi những cuộc khủng hoảng làm ảnh hưởng tới các doanh nghiệp kinh doanh; Giữ vững ổn định chính trị tạo điều kiện yên tâm cho các nhà đầu tư cũng như nhà phát hành chứng khoán; Đưa ra các chính sách ưu đãi hoặc hỗ trợ khi các Doanh nghiệp gặp khó khăn; Bên cạnh đó cần bảo đảm ổn định xã hội tạo môi trường văn hoá lành mạnh, ổn định thuận lợi cho hoạt động của các chủ thể kinh tế trên thị trường là Nhà nước đã thực hiện vai trò kinh tế của mình đối với quá trình tăng trưởng và phát triển kinh tế đất nước. Định hướng phát triển thị trường chứng khoán Xã hội càng phát triển, con người càng được tự do hơn trong hành động thì chức năng định hướng càng giữ vai trò quan trọng. Trong việc quản lý nhà nước việc định hướng đúng giúp đất nước đối phó được với mọi sự không ổn định trong nước cũng như khu vực và thế giới. Định hướng theo nghĩa rộng bao gồm cả định ra đường lối phát triển và thiết lập kế hoạch ngắn hạn, trung hạn và dài hạn cho sự phát triển. Do vậy chức năng định hướng còn được gọi là chức năng hoạch định. Chất lượng của định hướng tạo điều kiện cho việc thực hiện các chức năng còn lại của quản lý và quyết định toàn bộ quá trình quản lý của Nhà nước. Cho nên sự quản lý của nhà nước đối với các Công ty phát hành chứng khoán có đúng đắn hay không còn tuỳ thuộc vào chức năng định hướng đúng hay sai. Tạo khuôn khổ pháp luật cho các Công ty phát hành Pháp luật theo nghĩa rộng là tổng thể các quy phạm pháp luật do Nhà nước ban hành hoặc thừa nhận, thể hiện ý trí của giai cấp công nhân và nhân dân lao động nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình tổ chức quản lý và trong hoạt động kinh doanh giữa các chủ thể với nhau và các cơ quan quản lý nhà nước. Trong nền kinh tế thị trường để phát triển mạng lưới các hoạt động và các mối quan hệ phức tạp sẽ trở nên cực kỳ khó khăn nếu không có các luật chơi rõ ràng, sòng phẳng và có thể dự đoán được. Nhưng luật chơi trong các hoạt động kinh tế này phải là mối quan tâm chủ yếu của Nhà nước vì chỉ có Nhà nước mới có thể đưa ra và buộc các tổ chức, cá nhân chấp hành nghiêm chỉnh các luật chơi đó. Bằng luật pháp nhà nước điều chình hành vi kinh doanh phát hành chứng khoán, xác định hành vi nào là hành vi kinh doanh hợp pháp, hành vi nào là hành vi kinh doanh phi pháp. Luật pháp tạo ra luật chơi cho các chủ thể kinh doanh trên thị trường. Trên sân bóng thiếu luật chơi hoặc luật chơi chưa hoàn thiện các cầu thủ không thể chơi bóng được, trong các hoạt động kinh doanh phát hành cũng vậy. Khi đã có luật chơi rõ ràng rồi thì buộc các chủ thể tham gia phải tuân theo nó để tạo ra một sân chơi bình đẳng, công bằng. Do đó Nhà nước đã ban hành các văn bản hướng dẫn cũng như các điều luật buộc các chủ thể phát hành chứng khoán phải tuân theo những quy định của pháp luật đã đề ra. Điều chỉnh sai lệch trong chính sách quản lý của nhà nước Quá trình điều chỉnh thường gặp phải các tác động đột biến, làm cho đối tượng đi chệnh quỹ đạo dự kiến và chủ thể phải tác động thêm để san bằng các sai lệch đó. Việc thực hiện những tác động thêm này gọi là điều chỉnh. Trong mọi trường hợp có thể xảy ra các sai lệch là điều khó có thể tránh khỏi nhất là trong giai đoạn nền kinh tế luôn biến động như thế này cho nên sự cần thiết của việc điều chỉnh là tất yếu, cũng như các chính sách quản lý của Nhà nước chỉ đúng ở giai đoạn này song trong tương lai nó có thể không còn thích hợp nữa do đó cần điểu chỉnh lại cho phù hợp, Như vậy thì nền kinh tế mới tồn tại và phát triển lâu dài được. Có các phương pháp điều chỉnh sau: + Phương pháp khử nhiễu + Phương pháp bồi thường nhiễu + Phương pháp san bằng sai lệch + Phương pháp chấp nhận sai lệch Nghị định 48 Chính phủ ban hành các Công ty phát hành chứng khoán vốn điều lệ phải từ 10 tỷ đồng trở lên. Sau này Nghị định 144 Chính phủ đã điều chỉnh lại vốn điều lệ chỉ cần từ 5 tỷ trở lên là được, 8 văn bản hướng dẫn của Nghị định lần lượt được ban hành góp phần tạo nên một hành lang pháp lý hoàn chỉnh phù hợp với thực tiễn phát triển của thị trường. Điều chỉnh như vậy nhằm phù hợp với nền kinh tế Việt Nam và khuyến khích các Công ty phát hành chứng khoán phát triển mở rộng thị trường chứng khoán Việt Nam. Phần 2: Thực trạng Quản lý Nhà nước đối với các Công ty phát hành chứng khoán ở việt nam hiện nay tình hình thực trạng các công ty phát hành hiện nay Những thuận lợi Phát hành chứng khoán sẽ tạo ra hình ảnh đẹp và sự nổi tiếng của Công ty, nhờ vậy công ty sẽ dễ dàng hơn và tốn ít chi phí hơn trong việc huy động vốn qua phát hành trái phiếu, cổ phiếu ở những lần sau. Thêm vào đó, khách và nhà cung ứng của công ty thường cũng trở thành cổ đông của công ty và do vậy công ty sẽ rất có lợi trong việc mua nguyên liệu và tiêu thụ sản phẩm. Phát hành chứng khoán ra công chúng sẽ làm tăng giá trị tài sản ròng, giúp công ty có được nguồn vốn lớn và có thể vay vốn của ngân hàng với lãi suất ưu đãi hơn cũng như các điều khoản về tài sản cầm cố sẽ ít phiền hơn. Ví dụ như các cổ phiếu của các công ty đại chúng dễ dàng được chấp nhận là tài sản cầm cố cho các khoản vay ngân hàng. Ngoài ra, việc phát hành chứng khoán ra công chúng cũng giúp công ty trở thành một ứng cử viên hấp dẫn hơn đối với các công ty nước ngoài với tư cách làm đối tác liên doanh. Phát hành chứng khoán giúp công ty có thể thu hút và duy trì đội ngũ nhân viên giỏi bởi vì khi chào bán chứng khoán ra công chúng, công ty bao giờ cũng dành một tỷ lệ chứng khoán nhất định để bán cho nhân viên của mình. Với quyền mua cổ phiếu, nhân viên của công ty sẽ trở thành cổ đông, và được hưởng lãi trên vốn thay vì thu nhập thông thường. Điều này đã làm cho nhân viên của công ty làm việc có hiệu quả hơn và coi sự thành bại của công ty thực sự là thành bại của mình. Phát hành chứng khoán công ty có cơ hội tốt để xây dựng một hệ thống quản lý chuyên nghiệp cũng như xây dựng được một chiến lược phát triển rõ ràng. Công ty cũng dễ dàng hơn trong việc tìm người thay thế, nhờ đó mà tạo ra tính liên tục trong quản lý. Bên cạnh đó, sự hiện diện của các uỷ viên quản trị không trực tiếp tham gia điều hành công ty cũng giúp tăng cường kiểm tra và cân đối trong quản lý và điều hành công ty. Làm tăng chất lượng và độ chính xác của các báo cáo của công ty bởi vì các báo cáo của công ty phải được lập theo tiêu chuẩn chung do cơ quan quản lý quy định. Chính điều này làm cho việc đánh giá và so sánh kết quả hoạt động của công ty được thực hiện dễ dàng và chính xác hơn. Những khó khăn Phát hành cổ phiếu ra công chúng làm phân tán quyền sở hữu và có thể làm mất quyền kiểm soát công ty của các cổ đông sáng lập do hoạt động thôn tính công ty. Bên cạnh đó cơ cấu quyền sở hữu của công ty luôn bị biến động do chịu ảnh hưởng của các giao dịch cổ phiếu hàng ngày. Chí phí phát hành chứng khoán ra công chúng cao, thường chiếm từ 8-10% khoản vốn huy động, bao gồm các chi phí bảo lãnh phát hành, phí tư vấn pháp luật, chi phí in ấn, phí kiểm toán, chi phí niêm yết... Ngoài ra hàng năm công ty cũng phải chịu thêm các khoản chi phí phụ như chi phí kiểm toán các báo cáo tài chính, chi phí cho việc chuẩn bị tài liệu nộp cho cơ quản lý nhà nước về chứng khoán và chi phí công bố thông tin định kỳ. Bên cạnh đó công ty phát hành chứng khoán phải tuân thủ một chế độ công bố thông tin rộng rãi, nghiêm ngặt và chịu sự giám sát chặt chẽ hơn so với các công ty khác. Hơn nữa việc công bố các thông tin về doanh thu, lợi nhuận, vị trí cạnh tranh, phương thức hoạt động, các hợp đồng nguyên liệu, cũng như nguy cơ bị rò rỉ thông tin mật ra ngoài có thể đưa công ty vào vị trí cạnh tranh bất lợi. Đội ngũ cán bộ quản lý công ty phải chịu trách nhiệm lớn hơn trước công chúng. Ngoài ra do quy định của pháp luật việc chuyển nhượng vốn cổ phần của họ thường bị hạn chế. ở nước ta hiện nay hình thức phát hành bán trực tiếp cho các nhà đầu tư cuối cùng là phổ biến nhất, các công ty cổ phần mới thành lập phát hành cổ phiếu lần đầu hoặc phát hành bổ sung đều thực hiện bằng cách thông báo trực tiếp đến các nhà đầu tư, để họ đăng ký mua cổ phần, sau khi số lượng đã đăng ký đủ thì tổ chức đại hội cổ đông và tiến hành các bước chuẩn bị cho phát hành cổ phiếu, với hình thức này công ty phát hành sẽ giảm được chi phí trung gian, nhưng thực tế việc huy động vốn chậm. Do việc tiếp cận với TTCK còn rất là mới mẻ nên các Công ty phát hành chứng khoán ở Việt Nam hiện nay chủ yếu chỉ phát hành cổ phiếu bởi hình thức tham của nó đơn giản và dễ hiểu hơn so với trái phiếu, mà nguồn huy động vốn cũng dễ dàng không gây áp lực cho đơn vị phát hành về tính thanh khoản trả nợ khi đáo hạn. Việc phát hành trái phiếu chủ yếu do Chính phủ và các Ngân hàng phát hành để tạo nguồn vốn thu cho ngân sách, hạn chế lượng tiền nhàn rỗi trong dân chúng với mục đích đưa tiền vào lưu thông làm giảm tỷ lệ lạm phát, tăng nguồn vốn đầu tư, giải quyết công ăn việc làm cho nhân dân lao động. Thực trạng sự quản lý nhà nước đối với các công ty phát hành Hiện nay ở nước ta việc phát hành chứng khoán bị chi phối bởi Luật Công ty năm 1990, trong các Điều khoản 32, 35, 36 quy định n._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc30033.doc
Tài liệu liên quan