BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH
Huỳnh Hồng Hạnh
Chuyên ngành : Lịch sử Việt Nam
Mã số : 60 22 54
LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS. NGÔ MINH OANH
Thành phố Hồ Chí Minh - 2008
CÁC CHỮ VIẾT TẮT
AFTA (Asean Free Trade Area) : Khu vực mậu dịch tự do ASEAN
DFID (Department for International Development) : Bộ Hợp tác phát triển quốc tế.
EU (European Union) : Liên minh Châu Âu.
FDI (Foreign Direct Investment) : Đầu tư trực
127 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1801 | Lượt tải: 1
Tóm tắt tài liệu Quan hệ Việt Nam - Vương Quốc Anh (1973 - 2004) (Vietnamland), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
tiếp của nước ngoài.
GSP (Generalized System of Preferences) : Hệ thống ưu đãi thuế quan chung.
NGO (Non-Government Organization) : Tổ chức phi chính phủ.
ODA (Official Development Aid) : Viện trợ phát triển chính thức.
UK (United Kingdom) : Vương quốc Anh.
WB (World Bank) : Ngân hàng thế giới.
WTO (World Trade Organization) : Tổ chức thương mại thế giới.
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Quan hệ hợp tác để phát triển là xu thế hiện nay của thế giới, cũng là nhu
cầu của các quốc gia. Các nền kinh tế, dù ở trình độ nào, đều phải tiến đến
nhau để trao đổi, học hỏi kinh nghiệm và hỗ trợ nhau.
Quan hệ giữa các nước lớn từ sau chiến tranh lạnh đến nay chứa đựng
những yếu tố phức tạp khó lường, cục diện thế giới vừa mâu thuẫn, vừa hợp
tác, vừa cạnh tranh sẽ tồn tại trong thời gian dài. Có nhiều nhân tố chủ quan
và khách quan thúc đẩy sự hợp tác, liên kết giữa các nước lớn những năm đầu
thế kỷ XXI, nhưng trong sâu xa quan hệ giữa họ vẫn chứa đầy mâu thuẫn,
xung đột và có ảnh hưởng hết sức to lớn đến đời sống chính trị, kinh tế, an
ninh quốc phòng của thế giới.
Đại hội X của Đảng Cộng sản Việt Nam xác định rõ đường lối đối ngoại
của nước ta là: “Chính sách đối ngoại rộng mở, đa phương hoá, đa dạng hoá
các quan hệ quốc tế. Việt Nam là bạn, đối tác tin cậy của các nước trong cộng
đồng quốc tế, tham gia tích cực vào tiến trình hợp tác quốc tế và khu vực”
[56, tr.38].
Việc cải thiện và thiết lập quan hệ bình thường với tất cả các nước lớn,
các trung tâm chính trị - kinh tế hàng đầu của thế giới trở thành một đòi hỏi
tất yếu và cấp bách của hoạt động đối ngoại Việt Nam. Nó cho phép đồng thời
phát triển quan hệ với các đối tác có thực lực và tiềm năng lớn trên nhiều lĩnh
vực, từ đây có thể tranh thủ thu hút vốn đầu tư, công nghệ, thị trường, kinh
nghiệm quản lý tiên tiến, đáp ứng yêu cầu nhanh chóng vượt ra khỏi tình
trạng khủng hoảng kinh tế kéo dài đã nhiều năm của Việt Nam, phá thế bị bao
vây cấm vận, chuẩn bị những tiền đề cần thiết cho thời kỳ đẩy mạnh công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Đường lối ngoại giao nhất quán đó không chỉ được Đảng và Nhà nước
Việt Nam vận dụng trong quan hệ với các nước trong khu vực mà còn vận
dụng trong quan hệ với các nước phát triển thuộc Liên hiệp Châu Âu (EU),
trong đó có Vương quốc Anh. Vương quốc Anh có một vai trò đặc biệt trong
EU. Từ cuối thập kỷ 90 của thế kỷ XX, Vương quốc Anh đã có những thay
đổi đối với Châu Âu. Sự thay đổi mang tính bước ngoặt của Vương quốc Anh
thể hiện ở Hội nghị thương đỉnh Anh – Pháp ở Saint Malo (12/1998), hai
nước đã đưa ra sáng kiến thành lập lực lượng quân sự riêng của Châu Âu.
Sáng kiến này đã trở thành tiền đề cho việc hình thành chính sách an ninh và
phòng thủ chung của EU.
Sau thời kỳ chiến tranh lạnh, trước xu thế phát triển của thế giới lấy kinh
tế làm trung tâm và xu thế toàn cầu hoá, EU nói chung và Vương quốc Anh
nói riêng bắt đầu nhận thấy khu vực Đông Nam Á, trong đó có Việt Nam, có
một tiềm năng hợp tác to lớn trong nhiều lĩnh vực. Trong tầm nhìn của mình,
Vương quốc Anh xem Việt Nam là một thị trường mới mẻ đầy hấp dẫn với
dân số đông, lực lượng lao động dồi dào, có học thức, đất nước lại đang
chuyển mình trong quá trình cải cách mở cửa, hội nhập…. Rõ ràng đối với
Vương quốc Anh, đây là một thị trường đầu tư, một địa chỉ hợp tác đầy hứa
hẹn. Với sự hiểu biết đó, Vương quốc Anh đã cùng với Việt Nam có những
bước đi chắc chắn trong quá trình hợp tác.
Về phía Việt Nam, đối với Vương quốc Anh, Việt Nam luôn coi trọng
quan hệ toàn diện với Vương quốc Anh, trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị,
lẫn văn hoá, xã hội, giáo dục đào tạo và khoa học kỹ thuật, để có nhiều điều
kiện trong việc tranh thủ nguồn vốn, tiếp thu công nghệ tiên tiến và kinh
nghiệm quản lý của Vương quốc Anh. Việt Nam đã có những nỗ lực to lớn
nhằm khắc phục khó khăn, từng bước gạt bỏ mọi trở ngại để cho mối quan hệ
giữa hai bên ngày càng có hiệu quả cao.
Trong bối cảnh đó, việc nghiên cứu mối quan hệ giữa Việt Nam với
Vương quốc Anh không chỉ mang ý nghĩa khoa học, mà còn đáp ứng yêu cầu
thực tiễn công tác đối ngoại của Việt Nam. Kết quả nghiên cứu cho phép
chúng ta rút ra những bài học kinh nghiệm, thấy được những khó khăn vướng
mắc trong quá khứ, để có những chủ trương chính sách đúng và có giải pháp
phù hợp nhằm phát huy thành tựu, thúc đẩy quan hệ hợp tác có hiệu quả lớn
trong hiện tại và tương lai.
Từ trước tới nay, việc nghiên cứu mối quan hệ này của các nhà nghiên
cứu Lịch sử Việt Nam hầu như chưa có. Nhu cầu phát triển đất nước đặt ra
nhiệm vụ cần phải tiếp cận các vấn đề liên quan đến quá trình hội nhập quốc
tế và khu vực mang tính lợi ích của Việt Nam một cách khách quan, tổng quát
trên những cơ sở khoa học thực sự, góp phần làm cơ sở cho việc hoạch định
chủ trương, chính sách, tiếp tục đưa quan hệ Việt Nam – Vương quốc Anh
ngày càng phát triển.
Từ ý nghĩa khoa học và thực tiễn nói trên, cùng với việc hơn 30 năm
thiết lập quan hệ ngoại giao giữa hai nước, chúng tôi quyết định chọn vấn đề:
“Quan hệ Việt Nam – Vương quốc Anh (1973 – 2004)” với mong muốn
đóng góp một phần nhỏ vào lĩnh vực nghiên cứu này. Trong bước chuyển
giao thế kỷ, tình hình quốc tế và khu vực có những chuyển biến mới, đòi hỏi
hai nước cần tăng cường hơn nữa mối quan hệ hợp tác giao lưu hữu nghị, vì
lợi ích của nhân dân mỗi nước, vì hoà bình và phát triển trong khu vực và trên
thế giới.
2. Lịch sử vấn đề
Theo hiểu biết của chúng tôi, đến nay hầu như chưa có công trình nào
của các nhà khoa học nghiên cứu về quan hệ của Việt Nam với Vương quốc
Anh, nhưng đã có một số sách xuất bản đề cập đến vấn đề quan hệ Việt Nam
– Vương quốc Anh trên lĩnh vực kinh tế được lồng ghép trong mối quan hệ
chung của khu vực EU và thế giới.
Ở trong nước, có một số công trình tiêu biểu như: “Quan hệ Việt Nam –
Liên minh Châu Âu” của tác giả Trần Thị Kim Dung, NXB Khoa học xã hội,
Hà Nội, 2000; “Thúc đẩy quan hệ thương mại - đầu tư giữa Liên hiệp Châu
Âu và Việt Nam trong những năm cuối thế kỷ XX - đầu thế kỷ XXI” của Bùi
Huy Khoát (chủ biên), NXB Khoa học xã hội, 2001; Luận án “Quan hệ Việt
Nam – Liên hiệp Châu Âu (1990 – 2004)” của tác giả Hoàng Thị Như Ý, Đại
học Sư phạm, TP Hồ Chí Minh, 2006; “Việt Nam và các nước Tây Bắc Âu
trong tình hình mới, Hội nhập quốc tế và giữ vững bản sắc” của tác giả
Nguyễn Dy Niên, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1995; “Chiến lược đối
ngoại của các nước lớn và quan hệ Việt Nam trong hai thập niên đầu thế kỷ
XXI” của PGS.TS Nguyễn Xuân Sơn, TS Nguyễn Văn Du, NXB Chính trị
Quốc gia, Hà Nội, 2006; “Các quốc gia và vùng lãnh thổ có quan hệ quốc tế
với Việt Nam” của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, NXB Thông tấn; “Quan hệ EU –
ASEAN trước ngưỡng cửa thế kỷ XXI. ASEAN những vấn đề và xu hướng”
của Bùi Huy Khoát, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội, 1997; “ASEM V – cơ hội
và thách thức trong tiến trình hội nhập Á – Âu” của Hoàng Lan Hoa, NXB Lý
luận chính trị; “Hoàn thiện chính sách và tổ chức thu hút FDI ở Việt Nam”
của Mai Ngọc Cường (chủ biên), NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2000;
“Hợp tác Á – Âu và vai trò của Việt Nam” của Nguyễn Duy Quý, NXB Chính
trị Quốc gia, Hà Nội, 2004; “Hợp tác ASEAN – EU: Tình hình và triển vọng.
ASEAN những vấn đề và xu hướng” của Nguyễn Thu Mỹ, NXB Khoa học xã
hội, 1997; “Quan hệ kinh tế thương mại Việt Nam – EU”, NXB Chính trị
Quốc gia, Hà Nội, 1995; “Thế giới sau chiến tranh lạnh và Châu Á – Thái
Bình Dương trong “Hội nhập quốc tế và giữ vững bản sắc”” của Trần Quang
Cơ, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1995; “Đổi mới kinh tế Việt Nam và
chính sách kinh tế đối ngoại”, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội, 1995….
Nhiều bài nghiên cứu viết về mối quan hệ Việt Nam – vương quốc Anh
cũng được đăng tải trên các tạp chí, các báo như: “Thúc đẩy quan hệ Việt
Nam – Anh” của Nguyên Thành, Thời báo Kinh tế Việt Nam, 24/5/2002;
“Quan hệ Việt – Anh phát triển” của Phong Hương, Tuần báo Quốc tế, số 44,
1996; “Mở rộng quan hệ Việt – Anh” của Hồng Phúc, Tuần báo Quốc tế, số
16, 1996; “Tương lai mở rộng hợp tác Việt – Anh”, Báo Nhân dân,
28/7/1993; “30 năm phát triển quan hệ Việt Nam – Anh quốc” của Bùi Việt
Hưng, Nghiên cứu Châu Âu, 2004; “Hợp tác đầu tư thương mại Việt – Anh
trong những năm gần đây” của Hoàng Xuân Hoà, Nghiên cứu quốc tế, số 34;
“Viện trợ phát triển chính thức của Anh cho Việt Nam” của Hoàng Xuân Hoà,
Nghiên cứu quốc tế, số 54; hoặc được lồng ghép trong mối quan hệ chung của
khu vực EU và thế giới như: “Quan hệ Việt Nam – EU”, Thông tấn xã Việt
Nam, 2003; “Thực trạng và triển vọng phát triển kinh tế giữa EU và Việt
Nam” của Trần Nguyễn Tuyên, Tạp chí Nghiên cứu Châu Âu, 2004; “Quan
hệ kinh tế Việt Nam – Liên minh Châu Âu: Hiện trạng và triển vọng” của
Nguyễn Quang Thuấn, Tạp chí Nghiên cứu Châu Âu, 2004; “Tổng quan về
hợp tác Việt Nam – EU năm 2002” của Đỗ Thị Lan Phương, Tạp chí Nghiên
cứu Châu Âu, 2002; “Trước thềm ASEM V, nhìn lại thực trạng và triển vọng
quan hệ hợp tác EU – ASEAN” của Ngô Minh Oanh, Tạp chí Nghiên cứu
Châu Âu, 2004; “Vị thế của Việt Nam trong quan hệ hợp tác kinh tế EU –
ASEAN” của Mai Hồng Nhung, Tạp chí Nghiên cứu Châu Âu, 2004; “Việt
Nam trong tiến trình hợp tác ASEM” của Nguyễn Văn Lịch, Tạp chí Nghiên
cứu Châu Âu, 2004; “Quan hệ thương mại giữa Việt Nam và EU” của
Nguyễn Thị Như Hà, Tạp chí Nghiên cứu Châu Âu, 2001; “Quan hệ Việt
Nam – Châu Âu” của Hoàng Hải, Tạp chí Nghiên cứu Châu Âu, 1996, số 7;
“Thương mại Việt Nam – EU: phát triển bền chặt”, Báo Đầu tư, 2/4/1998;
“Hợp tác Việt Nam – EU ngày càng mở rộng”, Báo Nhân dân, 11/2/1995;
“Quan hệ thương mại Việt Nam – EU thời gian gần đây”, Báo Ngoại thương,
1997; “Quan hệ Việt Nam – EU”, Báo Ngoại thương, 1996; “ASEM: Những
thành tựu và vấn đề” của Bùi Huy Khoát, Nghiên cứu Châu Âu, 2004; “Chiến
lược Châu Á mới của EU và vai trò của ASEM” của Bùi Huy Khoát, Nghiên
cứu Châu Âu, 2003; “Đông Nam Á trong chiến lược Châu Á mới của Liên
hiệp Châu Âu” của Bùi Huy Khoát, Nghiên cứu Châu Âu, 2005, số 62; “EU –
ASEAN: Những quan hệ đang được thúc đẩy” của Bùi Huy Khoát, Nghiên
cứu Châu Âu, 1995, số 3; “Việt Nam – Châu Âu: Một số vấn đề về thu hút
đầu tư trực tiếp nước ngoài” của Bùi Nhật Quang, Nghiên cứu Châu Âu,
1995, số 3; “Tiếp tục hỗ trợ Việt Nam: WB, Anh, Thụy Điển, Hà Lan”, Thời
báo Kinh tế Việt Nam, 2003; “ASEAN - Một đối tác chiến lược của Liên
minh Châu Âu” của Đặng Minh Đức, Nghiên cứu Châu Âu, 2003; “Đầu tư
của Liên minh Châu Âu tại Việt Nam”, Nghiên cứu Châu Âu, 1996, số 6;
“Tình hình chính trị - xã hội của EU hiện nay (2001 – 2005) và những tác
động đến Việt Nam” của Đinh Công Tuấn, Nghiên cứu Châu Âu, 2005, số 62;
“Đầu tư trực tiếp nước ngoài tại các nước đang phát triển từ 1980 đến nay: Xu
hướng vận động và các vấn đề cần giải quyết” của Đỗ Đức Bình, Những vấn
đề kinh tế thế giới, 1997, số 46; “Quan hệ thương mại và đầu tư EU – Châu
Á” của Đỗ Đức Mạnh, Nghiên cứu Châu Âu, 1995, số 4 & 5; “Mấy vấn đề về
vốn ODA vào Việt Nam của các nước Tây Bắc Âu” của Hoàng Hải, Nghiên
cứu Châu Âu, 1996, số 6; “EU và chiến lược đầu tư vào các nước trong khu
vực và Việt Nam” của Kim Ngọc, Nghiên cứu Châu Âu, 1995, số 1; “Việt
Nam – EU: Hợp tác kinh tế và thương mại” của Kim Ngọc, Những vấn đề
kinh tế thế giới, 1996, số 4; “Đầu tư nước ngoài vào Việt Nam, vị trí của
Châu Âu còn thấp nhưng đầy hứa hẹn” của Lê Mạnh Tuấn, Nghiên cứu Châu
Âu, 1995, số 1; “Toàn cầu hoá kinh tế - Một số tác động tới quá trình liên kết
kinh tế EU – ASEAN” của Nguyễn An Hà, Nghiên cứu Châu Âu, 2003;
“Quan hệ Việt Nam – EU năm 1997: Bước tiến vững chắc” của Nguyễn Đăng
Quế, Tuần báo quốc tế, 1997, số 42 và 52; “Tiến trình hợp tác Á – Âu và sự
tham gia của Việt Nam” của Nguyễn Quang Thuấn, Nghiên cứu quốc tế,
2004, số 59; “Vài nét về quan hệ EU - Việt Nam” của Nguyễn Thu Hà,
Nghiên cứu Châu Âu, 1996, số 3; “Tiếp xúc, giao lưu và phát triển văn hoá:
Quan hệ văn hoá giữa Việt Nam và thế giới” của Phạm Đức Dương, Nghiên
cứu Đông Nam Á, 1994, số 4; “Bối cảnh quốc tế mới và những vấn đề kinh tế
EU – ASEAN” của Trần Đình Thiên, Những vấn đề kinh tế thế giới, 2005, số
114; “Viện trợ phát triển chính thức của EU cho khu vực Đông Nam Á” của
Trần Hoàng Mai, Nghiên cứu Châu Âu, 1996, số 1; “Năm 1997 - Một bước
tiến mới vững chắc trong quan hệ hợp tác toàn diện giữa Việt Nam và EU”
của Trần Thị Kim Dung, Nghiên cứu Châu Âu, 1998; “Quan hệ thương mại
và đầu tư giữa Việt Nam và EU” của Từ Thanh Thủy, Những vấn đề kinh tế
thế giới, 1998, số 1; “Tăng cường hợp tác Á – Âu về đầu tư”, VN Express,
2003…. Ngoài ra, đề tài còn được thực hiện trên cơ sở tham khảo các nguồn
tài liệu sau đây:
Các văn kiện của Đảng, Nhà nước XHCN Việt Nam, các Hiệp định, văn
bản ký kết giữa hai nước, số liệu của Bộ Thương mại, Bộ Kế hoạch đầu tư,
Cục Thống kê, các tài liệu liên quan đến quan hệ Việt Nam – vương quốc
Anh lưu trữ ở Trung tâm lưu trữ Quốc gia II – TP.HCM, các bài viết đăng tải
trên tạp chí như Nghiên cứu lịch sử, Nghiên cứu Châu Âu, những vấn đề kinh
tế thế giới…, và các bài đăng trên các báo như Thông tấn xã, Nhân dân, Tuần
tin tức, Tuần báo quốc tế, Đầu tư, Sài Gòn Giải phóng…, các trang web của
nước Cộng hoà XHCN Việt Nam như: website của Đảng Cộng sản Việt Nam
(www.cpv.org.vn), Quốc hội Việt Nam (www.na.gov.vn), Bộ Văn hoá –
Thông tin (www.cinet.vnn.vn), Bộ Khoa học công nghệ và môi trường
(www.moste.gov.vn), Bộ Ngoại giao Việt Nam (www.mofa.gov.vn), Tổng
Cục thống kê (www.gso.gov.vn), Bộ Thương mại (www.mot.gov.vn)....
Ở ngoài nước, tiêu biểu như: Brian B., Coping with Contagion: Europe
and the Asian Financial Crisis, Asian Survey, May/June; Dent C.M., The
European Union and East Asia: Geo – Economic Diplomacy and Crisis
Management, Global Change: The Impact of Asia in the 21st Century,
Macmillan, London; Dent C.M., The European Union and East Asia: An
Economic Relationship, Routledge, London; Foreign Investment in Southest
Asia….
Nhìn chung, tài liệu về đề tài này là tương đối nhưng không tập trung,
những số liệu trích dẫn từ các nguồn nhiều lúc có sự chênh lệch, gây không ít
khó khăn trong quá trình tập hợp và phân loại tài liệu với khả năng có hạn của
người thực hiện đề tài.
3. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu, chúng tôi vận dụng những quan điểm của
chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và những quan điểm cơ bản
của Đảng Cộng sản Việt Nam về quan hệ quốc tế như là những cơ sở lý luận
cho nghiên cứu.
Chúng tôi sử dụng hai phương pháp chuyên ngành, đó là phương pháp
lịch sử và phương pháp logic. Đồng thời chúng tôi cũng sử dụng các phương
pháp liên ngành như phương pháp nghiên cứu kinh tế, phương pháp nghiên
cứu quan hệ quốc tế … và các phương pháp cụ thể như phân tích, tổng hợp,
thống kê.
Dựa vào phương pháp lịch sử, luận văn dựng lại toàn bộ quá trình lịch sử
quan hệ Việt Nam – Vương quốc Anh qua những sự kiện, dấu mốc và các giai
đoạn phát triển đa dạng của mối quan hệ dưới tác động của tình hình thế giới,
khu vực và sự phát triển, đổi mới chính sách đối ngoại của Đảng Cộng sản
Việt Nam.
Trên cơ sở của bức tranh lịch sử toàn cảnh, phương pháp logic vạch ra
bản chất của mối quan hệ Việt Nam – Vương quốc Anh nhằm rút ra những
đặc điểm, chiều hướng phát triển của mối quan hệ này.
4. Phạm vi và đối tượng nghiên cứu
* Phạm vi nghiên cứu:
+ Về phạm vi thời gian, giới hạn đề tài này chủ yếu từ năm 1973 đến
năm 2004. Tuy nhiên để làm rõ hơn mối quan hệ này, chúng tôi có đề cập đến
quan hệ Việt Nam – Vương quốc Anh giai đoạn trước năm 1973.
+ Về nội dung, đề tài đi sâu vào tìm hiểu mối quan hệ Việt Nam –
Vương quốc Anh giai đoạn 1973 – 2004 trên một số lĩnh vực: chính trị -
ngoại giao, kinh tế - thương mại, văn hoá – giáo dục, khoa học kỹ thuật…
* Đối tượng nghiên cứu:
Đề tài nghiên cứu mối quan hệ giữa Việt Nam – Vương quốc Anh trong
bối cảnh của tình hình thế giới và khu vực, sự điều chỉnh chiến lược, sách
lược, biện pháp cụ thể trong chính sách đối ngoại của Đảng Cộng sản Việt
Nam. Luận văn xem xét mối quan hệ này dưới góc độ Việt Nam với tư cách
là chủ thể của mối quan hệ và chủ thể của đối tượng nghiên cứu trong mối
quan hệ với Vương quốc Anh.
5. Đóng góp của luận văn
- Trên cơ sở phân tích và so sánh những tài liệu thu thập được, chúng tôi
cố gắng phục dựng lại bức tranh toàn cảnh quan hệ Việt Nam – Vương quốc
Anh từ năm 1973 đến năm 2004 trên các lĩnh vực hợp tác với những khó khăn
trở ngại, các vấn đề đã gặp phải trong phát triển quan hệ thời gian qua.
- Rút ra những nhận xét, bài học kinh nghiệm, dự báo những cơ hội và
thách thức, nêu lên triển vọng và xu thế phát triển của quan hệ hợp tác giữa
hai nước, từ đó đề xuất hướng giải quyết để thúc đẩy các quan hệ này trong
bối cảnh vượt qua tác động tiêu cực của khủng hoảng kinh tế khu vực, đưa đất
nước vào quỹ đạo phát triển ổn định, bền vững trong những thập niên đầu thế
kỷ XXI.
- Luận văn có thể là tài liệu tham khảo cho sinh viên khoa Lịch sử, Quan
hệ quốc tế….
6. Bố cục luận văn
Luận văn gồm: phần mở đầu, phần kết luận, danh mục tài liệu tham khảo
và phụ lục, phần nội dung chính được triển khai qua ba chương:
- Chương 1: Quan hệ Việt Nam – Vương quốc Anh từ năm 1973 đến
năm 1990.
- Chương 2: Quan hệ Việt Nam – Vương quốc Anh từ năm 1991 đến
năm 2004.
- Chương 3: Những cơ hội, thách thức và triển vọng của quan hệ Việt
Nam – Vương quốc Anh những thập niên đầu thế kỷ XXI.
Chương 1: QUAN HỆ VIỆT NAM – VƯƠNG QUỐC ANH
TỪ NĂM 1973 ĐẾN 1990
1.1. Khái quát về quan hệ Việt Nam – Vương quốc Anh trước năm 1973
1.1.1. Đôi nét về Vương quốc Anh
Vương quốc Anh (UK) nằm ở Bắc Đại Tây Dương, phía Tây Châu Âu,
được thành lập năm 1801, chiếm phần lớn quần đảo Anh. Đảo lớn nhất là
Great Britain gồm England, Scotland và Wales. Kế theo là đảo Ailen mà phía
bắc thuộc UK và phía nam là nước Cộng hoà Ailen. Ngoài ra còn có trên
4000 hòn đảo lớn nhỏ khác. Vương quốc Anh có khí hậu biển thất thường,
nhưng nhìn chung khí hậu ôn hoà với nhiệt độ trung bình ít khi quá 320C và
âm dưới 100C.
Vương quốc Anh có diện tích 243.000 km2, với số dân 59,756 triệu
người, đa số theo đạo Tin Lành (Anh giáo), nói tiếng Anh, và có thủ đô Luân
Đôn. Quốc khánh của Vương quốc Anh là ngày 11/6, kỷ niệm chính thức
ngày sinh Nữ hoàng Elizabeth II.
Vương quốc Anh theo chế độ quân chủ lập hiến, nguyên thủ quốc gia
nay là Nữ hoàng Elizabeth II, đồng thời là nguyên thủ quốc gia của nhiều
nước trong khối thịnh vượng chung do Vương quốc Anh đứng đầu.
Quốc hội Anh có hai viện, Hạ viện gọi là House of Commons và Thượng
viện là House of Lords. Nền chính trị là dân chủ nghị viện đa đảng, luôn luôn
do hai đảng lớn là Đảng Bảo thủ và Công đảng thay nhau cầm quyền từ 150
năm nay.
Kinh tế Anh chủ yếu dựa vào khu vực kinh tế tư nhân (chiếm 80% sản
lượng và 75% lao động). Chính sách kinh tế là tự do hoá thị trường, khuyến
khích hoạt động kinh doanh thông qua các biện pháp như tư nhân hoá và cải
cách thuế, duy trì tăng trưởng trên cơ sở thúc đẩy xuất khẩu và đầu tư. Vương
quốc Anh đứng thứ tư thế giới về GDP (sau Mỹ, Nhật, Đức), đứng thứ năm
về thương mại quốc tế (5,4%) và thứ ba về dịch vụ (chiếm 6,8%). Một số kết
quả khả quan trong phát triển kinh tế, đó là duy trì được tốc độ tăng trưởng
kinh tế tương đối cao so với các nước EU, thất nghiệp giảm mạnh, lạm phát
thấp…. Thương mại của Vương quốc Anh luôn đóng vai trò quan trọng của
nền kinh tế, đứng thứ tư về xuất khẩu và dịch vụ của thế giới, đạt 5,1%
thương mại thế giới [243].
Vương quốc Anh cũng là nước có nhiều tiềm năng về công nghệ cao, là
một trong những cường quốc thương mại và trung tâm tài chính lớn trên thế
giới, là một trong các nền kinh tế lớn nhất Tây Âu. Nông nghiệp có trình độ
cơ giới cao. Nước Anh có trữ lượng lớn về dầu mỏ, khí đốt tự nhiên, than đá,
các sản phẩm năng lượng thô chiếm 10% GDP. Các ngành dịch vụ, đặc biệt là
ngân hàng, bảo hiểm và các dịch vụ kinh doanh khác cũng chiếm tỷ lệ lớn
trong GDP [260].
Trong quá khứ, Vương quốc Anh là đế quốc có nhiều thuộc địa, hiện
Vương quốc Anh vẫn là nước đứng đầu Khối thịnh vượng chung gồm 48
nước và còn nhiều ảnh hưởng đến các nước thuộc địa, phụ thuộc cũ. Vương
quốc Anh là thành viên quan trọng trong khối NATO, thành viên trong EU.
Vương quốc Anh có quan hệ ngoại giao với 165 nước. Vị trí của Vương quốc
Anh là cường quốc thương mại và nằm giữa hệ thống các liên minh như Liên
hiệp Châu Âu, NATO, Liên Hiệp quốc, Khối thịnh vượng chung và G8, đồng
thời tiếp tục hợp tác chặt chẽ với hai bờ Đại Tây Dương nhằm xây dựng một
Châu Âu ổn định hơn, an toàn hơn [243]. Từ cuối năm 1997, chính phủ Anh
đã nhiều lần tuyên bố sẵn sàng tham gia tích cực vào tất cả các hoạt động hội
nhập do EU và vấn đề về việc Vương quốc Anh gia nhập Liên minh tiền tệ
Châu Âu (EMU) chỉ là thời gian [71, tr.35].
Trong quá trình thực hiện chính sách thương mại quốc tế, chính phủ Anh
đã thiết lập một hệ thống các ban xúc tiến xuất khẩu. Chính nhờ hệ thống này
mà hầu hết các doanh nghiệp của Vương quốc Anh đều thu thập được một
cách chính xác các thông tin về sự biến động thị trường, giá cả, thiết lập được
mạng lưới buôn bán xuyên quốc gia.
Một trong những sáng kiến mới của chính phủ Anh trong việc thực hiện
chiến lược phát triển thương mại quốc tế là thu hút các nhà lãnh đạo các công
ty, tập đoàn lớn của Vương quốc Anh tham gia vào các hoạt động kinh tế đối
ngoại. Các đối tác thương mại hàng đầu của Vương quốc Anh từ trước tới nay
vẫn là các nước thành viên trong EU với tỷ trọng chiếm 55% toàn bộ xuất
khẩu. Các bạn hàng thương mại chính của Vương quốc Anh trong khối nước
này vẫn là Đức, Pháp và Hà Lan. Khối lượng mậu dịch của Vương quốc Anh
với các nước xuất khẩu dầu mỏ cũng thường xuyên đạt mức tăng trưởng khá
cao và ổn định, chủ yếu do xuất khẩu của Vương quốc Anh tăng, giai đoạn
1995 – 2000 tăng bình quân đạt hơn 20% [71, tr.38, 39].
Viện trợ phát triển chính thức (ODA – Official Development Aid) được
coi là một trong những phương tiện quan trọng của chính sách đối ngoại của
Vương quốc Anh, là yếu tố quan trọng để phát huy vai trò quốc tế của Vương
quốc Anh. Hơn nữa, Vương quốc Anh còn coi viện trợ kinh tế là công cụ chủ
chốt để giành vị trí, ảnh hưởng của mình trong xã hội quốc tế và phục vụ tốt
nhất cho lợi ích của Vương quốc Anh.
Với những chính sách và phương thức mới về hợp tác phát triển được
thực hiện từ sau năm 1997, tỷ lệ ODA trong tổng thu nhập quốc dân (GNP)
của Vương quốc Anh đã tăng lên đáng kể. Năm 1998, Vương quốc Anh dành
2,315 tỷ bảng Anh (tương đương với 3,7 tỷ USD) cho nguồn vốn ODA,
chiếm 0,27% GNP. Và đến năm 2001, Vương quốc Anh đã tăng mức ODA
lên tới 3,22 tỷ bảng Anh (tương đương với 5,15 tỷ USD), chiếm 0,3% GNP
của Vương quốc Anh, trong đó 71% dành cho các chương trình ODA song
phương tại những nước nghèo, có thu nhập thấp. Đồng thời, chính phủ Anh
cam kết sẽ tăng chi nguồn vốn ODA nhằm góp phần xoá đói giảm nghèo ở
các quốc gia đang phát triển. Theo Bộ Hợp tác phát triển quốc tế (DFID –
Department for International Development), ngân sách dành cho ODA sẽ tăng
bình quân trên 8%/năm, đưa ODA ở Vương quốc Anh từ mức 3,4 tỷ bảng
Anh trong giai đoạn 2002 – 2003 lên gần 4,6 tỷ bảng Anh trong giai đoạn
2005 – 2006 (xem phụ lục 2, bảng 1, tr.98) [72, tr.25].
Vương quốc Anh đang đẩy mạnh quan hệ với các nước ASEAN và khu
vực Á. Đây là khu vực Vương quốc Anh có nhu cầu củng cố vai trò và vị trí
của mình. Năm 1973, Vương quốc Anh gia nhập EEC (nay là Liên hiệp Châu
Âu – EU), và thiết lập quan hệ ngoại giao với khu vực Đông Nam Á, đặc biệt
là với Việt Nam, một thị trường đầu tư đầy hấp dẫn.
1.1.2. Khái quát về quan hệ Việt nam – Vương quốc Anh trước năm 1973
Quan hệ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà – Vương quốc Anh:
Năm đầu tiên sau Cách mạng tháng Tám (1945), thế nước vô cùng khó
khăn, Việt Nam bị đe dọa bởi các thế lực ngoại bang. Vương quốc Anh mang
danh nghĩa đồng minh vào giải giáp quân Nhật (6/9/1945). Thực dân Pháp tìm
cách trở lại cai trị nước ta. Tuy nhiên thời thế lúc bấy giờ đã khác, đứng trước
các thế lực ngoại bang là một xứ Đông Dương đã nhận thức được sức mạnh
của chính mình và quyết tâm đứng lên giành độc lập. Với Việt Nam, đường
lối đối ngoại của chính phủ cũng là ước nguyện của hàng triệu dân quyết
“đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự
do và độc lập ấy” [116, tr.4] như trong bản Tuyên ngôn độc lập mà Chủ tịch
Hồ Chí Minh đọc tại quảng trường Ba Đình (Hà Nội) ngày 2/9/1945. Với
chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ chấn động địa cầu và bản Hiệp định
Geneva, đánh dấu sự chấm hết của Pháp sau gần một thập kỷ đô hộ, giải
phóng hoàn toàn miền Bắc, đưa cách mạng Việt Nam chuyển qua một giai
đoạn mới, giai đoạn xây dựng miền Bắc theo con đường xã hội chủ nghĩa và
tiến hành cách mạng giải phóng dân tộc ở miền Nam, hoàn thành độc lập dân
tộc, dân chủ và thống nhất đất nước, “Thắng lợi mới làm cho tình hình nước
ta đổi mới tức là từ chiến tranh chuyển sang hoà bình. Nhưng để giành lấy
hoà bình toàn diện và lâu dài, chúng ta cần phải ra sức đấu tranh…. Nhiệm vụ
chung của chúng ta hiện nay là: thi hành đúng đắn Hiệp định đình chiến, đấu
tranh để giữ gìn và củng cố hoà bình, để thực hiện thống nhất, hoàn thành độc
lập và dân chủ trong toàn quốc” [115, tr.339]. Vì vậy, sau khi giành được
chính quyền và tuyên bố độc lập, Ban Thường vụ Trung ương Đảng quan tâm
sâu sắc đến việc đề cao vị trí của Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, giành thế hợp
pháp cho chính quyền mới, tranh thủ sự công nhận quốc tế.
Việt Nam trong thời kỳ chiến tranh chống Mỹ (1954 – 1975), chỉ tập
trung toàn bộ sức người, sức của và mọi chính sách cho sự nghiệp giải phóng
dân tộc, tranh thủ mọi sự giúp đỡ quốc tế về chính trị và vật chất cho sự
nghiệp này, vì thế, Việt Nam chưa có sự hoạch định chính sách rõ ràng và cụ
thể đối với Vương quốc Anh, chỉ có mối quan hệ song phương giữa Việt Nam
Cộng hoà (chính quyền miền Nam Việt Nam) với Vương quốc Anh.
Quan hệ Việt Nam Cộng hoà – Vương quốc Anh:
* Về ngoại giao: có thể điểm qua các sự kiện như chuyến thăm Vương
quốc Anh của ông Lê Văn Đồng (1957) [203], phái đoàn Việt Nam Cộng hoà
sang Vương quốc Anh để quan sát về kinh tế, thương mại (1958, 1959) [199,
200], Việt Nam Cộng hoà tham dự triển lãm tiểu công nghệ tại London
(Vương quốc Anh) (1959) [201, tr.2] - triển lãm không những là một dịp tốt
để giới thiệu với dân chúng của Vương quốc Anh đồ thủ công nghệ Việt
Nam, mà còn có ý nghĩa làm tăng cường mối giao hảo giữa Việt Nam Cộng
hoà và Vương quốc Anh.
Về phía Vương quốc Anh, phải kể đến chuyến thăm Việt Nam Cộng hoà
của Hầu tước Lord Reading (1956 – 1957) [204], ông Raymond Woodward -
đại diện cho Liên đoàn kỹ nghệ Anh (Federation of British Industries) sang
viếng thăm Việt Nam Cộng hoà với mục đích khảo sát tình hình kinh tế và
thương mại của Việt Nam Cộng hoà (1957) [194], Đài Vô tuyến truyền hình
BBC - một cơ quan do chính phủ Anh trợ cấp sang Việt Nam Cộng hoà quay
phim về các thực hiện của chính phủ Việt Nam Cộng hoà trong mọi ngành
hoạt động quốc gia để chiếu trong chương trình Panorama của đài BBC giúp
phổ biến sự hiểu biết Việt Nam Cộng hoà tại Vương quốc Anh (8/1959)
[196], phái đoàn Nghị sĩ Anh viếng thăm Việt Nam Cộng hoà (1959) [195],
ông J.K.Thompson – Giám đốc Văn phòng viện trợ Kế hoạch Colombo tới
thăm Việt Nam Cộng hoà (1960) [197], Thứ trưởng thương mại Anh - nghị sĩ
Erroll sang viếng thăm Việt Nam Cộng hoà (1961) với mục đích nghiên cứu
với chính phủ Việt Nam Cộng hoà các phương pháp tăng cường giao dịch
thương mại giữa Việt Nam Cộng hoà và Vương quốc Anh, chuyến thăm Việt
Nam Cộng hoà của ông Lord Bridges - Chủ tịch Hội đồng Văn hoá Anh
(British Council) (1961), ông R.A.Nottage - Viện trưởng Viện Hành chính
Hoàng gia Anh qua thăm Học viện Quốc gia Hành chính Việt Nam (1961)
[198, tr.77, 100, 103], đặc biệt chuyến thăm Việt Nam Cộng hoà của Thứ
trưởng ngoại giao Anh – Kershaw (1970) - trở về Luân Đôn sau chuyến thăm
Việt Nam Cộng hoà, Thứ trưởng ngoại giao Anh đã thúc giục các kỹ nghệ gia
Anh nên quan tâm hơn về việc giao thương với Việt Nam Cộng hoà, bởi vì
theo Thứ trưởng ngoại giao Anh, Việt Nam Cộng hoà có thể trở thành một thị
trường rất quan trọng trong tương lai [206, tr.4].
* Trong quan hệ thương mại:
Từ năm 1960 – 1962, Việt Nam Cộng hoà xuất khẩu một số mặt hàng là
cao su, trà và nhập khẩu của Vương quốc Anh hàng tiêu dùng, phụ tùng thay
thế và nguyên liệu sản xuất [xem phụ lục 2, bảng 2 & 3, tr.98, 99].
Năm 1960, việc xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam Cộng hoà sang Vương
quốc Anh bắt đầu phát triển, và qua năm 1962, lại phát triển thêm nữa, nhờ thị
trường Anh tiêu thụ cao su của Việt Nam Cộng hoà nhiều hơn (5.573 tấn, trị
giá 128 triệu đồng năm 1960, 12.840 tấn, trị giá 231 triệu đồng năm 1961 và
13.287 tấn, trị giá 254 triệu đồng năm 1962). Trà của Việt Nam Cộng hoà bán
qua Vương quốc Anh cũng càng ngày càng nhiều: 28 triệu đồng năm 1960, 46
triệu đồng năm 1961 và 52 triệu đồng năm 1962 [202, tr.14].
Về hàng nhập khẩu từ Vương quốc Anh, Việt Nam Cộng hoà nhập giấy
và công phẩm bằng giấy nhiều hơn mọi năm: 20 triệu đồng năm 1962 so với 4
triệu đồng năm 1961 và 1960 [202, tr.26].
+ Những cơ sở kinh tế lớn nhất của Vương quốc Anh tại miền Nam Việt
Nam gồm có:
Hai nhà Ngân hàng “The Chartered Bank” và “The Honkong and
Shanghai Banking Corporation”. Hai cơ sở tín dụng này giúp một phần quan
trọng vào các nghiệp vụ xuất nhập khẩu của Việt Nam Cộng hoà và cũng góp
phần vào các công cuộc phát triển kỹ nghệ của Việt Nam Cộng hoà. Cả hai
đều thuộc về một tổ hợp ngân hàng thiết lập vào năm 1961 với sự tham gia
của các ngân hàng Việt Nam Cộng hoà và ngoại quốc khác, nhằm mục đích
thúc đẩy công cuộc kỹ nghệ hoá ở miền Nam Việt Nam.
Công ty Shell Việt Nam, ._.trong đó vốn của Vương quốc Anh chiếm phần
lớn. Công ty này đứng hàng đầu về cung cấp sản phẩm dầu hoả cho Việt Nam
Cộng hoà, tiếp liệu 64% tổng số nhu cầu của Việt Nam Cộng hoà. Công ty
Shell Việt Nam đã cùng với công ty Esso ký kết với chính phủ Việt Nam
Cộng hoà một khế ước vào tháng 4/1962 để xây dựng một nhà máy lọc dầu
gần Nha Trang.
Hãng thuốc điếu MIC, với 50% vốn của Vương quốc Anh, mỗi tháng sản
xuất 150 triệu điếu thuốc. Công ty này còn góp phần vào việc phát triển trồng
thuốc lá Virginia ở miền Trung và đã đạt được nhiều kết quả tốt.
Ngoài ra, có nhiều công ty lớn khác của Vương quốc Anh có đặt chi
điếm ở miền Nam Việt Nam hoặc do các hãng Việt Nam hoặc Pháp làm đại
diện tại Việt Nam Cộng hoà. Vương quốc Anh không cấp viện trợ kinh tế cho
Việt Nam Cộng hoà, nhưng có một số chuyên viên Anh giúp Việt Nam Cộng
hoà trong khuôn khổ Kế hoạch Colombo [202, tr.14, 26].
Năm 1970, hãng Mranders Tam (Vương quốc Anh) đề nghị dự án xây
nhà máy phân bón tại Vũng Tàu với hình thức đầu tư quốc doanh [207, tr.14].
* Về chính sách viện trợ:
Viện trợ của Vương quốc Anh cho Việt Nam Cộng hoà từ năm 1964 –
1969 là trên 7 triệu Mỹ kim, năm 1970 là 908.020 Mỹ kim, năm 1971 là
391.000 Mỹ kim và 408.595 Mỹ kim trong năm 1972. Trong năm 1961,
Vương quốc Anh gửi một phái bộ cố vấn về hành chính và chính trị qua Việt
Nam Cộng hoà do Sir Robert Thompson lãnh đạo [206, tr.158]. Ngày
21/12/1972, một thoả ước giữa Vương quốc Anh và Việt Nam Cộng hoà được
ký kết theo đó chính phủ Anh thuận cấp cho Việt Nam Cộng hoà một tín dụng
không lời 1 triệu Anh kim (tương đương 2.400.000 Mỹ kim) để tài trợ các dự
án điện nước [206, tr.147].
* Về lĩnh vực y tế:
Từ năm 1966, Vương quốc Anh gửi một phái bộ y tế sang giúp bệnh viện
Nhi Đồng ở Sài Gòn gồm bác sĩ chuyên khoa và y tá [205, tr.10].
* Trong lĩnh vực văn hoá giáo dục:
Hàng năm một số sinh viên ở miền Nam Việt Nam được học bổng tu
nghiệp của Kế hoạch Colombo hay của British Council. Từ năm 1965 – 1968
có 47 học bổng, trong năm 1969 có 14 học bổng và năm 1970 có 23 học
bổng. Chính phủ Anh hàng năm cấp cho Việt Nam Cộng hoà 30 học bổng
dành cho công chức tu nghiệp.
Ngoài ra, Vương quốc Anh còn xây hai trường tiểu học tại Sài Gòn, biếu
các dụng cụ phòng thí nghiệm và sách vở cho các phân khoa Đại học [205,
tr. 10].
Đế quốc Mỹ ngày càng sa lầy và bế tắc ở Việt Nam. Nhất là từ sau cuộc
Tổng tiến công Mậu thân 1968, nhiều nước Tây, Bắc Âu ngày càng có thái độ
chuyển biến nhất định đối với Việt Nam Dân chủ Cộng hoà theo hướng thực
tế hơn và tích cực hơn, trong đó có nhiều vị trong chính giới Anh đã đồng tình
và ủng hộ cuộc chiến đấu chính nghĩa của nhân dân Việt Nam [208, tr.4]. Vào
tháng 9/1970, một phái đoàn của Tổng công đoàn Anh (TUC) qua thăm Hà
Nội và tháng 10/1970, bà Nguyễn Thị Bình sang viếng thăm Luân Đôn
[203, tr.7].
Hiệp định Paris (1/1973) là một dấu mốc cực kỳ quan trọng trong quan
hệ giữa Việt Nam với các nước EU nói chung và Vương quốc Anh nói riêng,
vì từ thời điểm đó, hầu hết các nước EU và Vương quốc Anh đã có nhận thức
khác về tình hình Việt Nam. Khi Mỹ buộc phải rút quân đội ra khỏi miền
Nam Việt Nam, thì vấn đề sẽ chỉ còn là công việc nội bộ giữa hai miền Nam -
Bắc Việt Nam. Do vậy, thái độ của các nước EU và Vương quốc Anh đối với
Việt Nam Dân chủ Cộng hoà ngày càng thực tế và tích cực. Tháng 2/1973,
phái đoàn Đảng Lao động Anh do ông James Callaghan dẫn đầu sang viếng
thăm Việt Nam Dân chủ Cộng hoà [206, tr.149].
Đầu những năm 70, một số nước EU và đặc biệt là Vương quốc Anh đã
thiết lập quan hệ ngoại giao với Việt Nam (9/1973) [46, tr.94].
1.2. Quan hệ Việt Nam – Vương quốc Anh từ năm 1973 đến năm 1990
Từ giữa những năm 1970, quan hệ giữa Việt Nam Cộng hoà và Vương
quốc Anh vẫn tiếp tục. Năm 1974, Vương quốc Anh cung cấp cho Việt Nam
Cộng hoà một tín dụng không lời tương đương 384.000 Mỹ kim [209].
Sau khi giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước, uy tín của
Việt Nam được nâng cao trên trường quốc tế. Một nước Việt Nam thống nhất
có tiềm năng phát triển kinh tế và là một nhân tố mới, quan trọng ở Đông
Nam Á là đối tác mà nhiều nước trên thế giới tính đến trong quan hệ quốc tế
của họ. Các nước EU, đặc biệt là Vương quốc Anh ngày càng quan tâm đến vị
trí và vai trò của Việt Nam, một quốc gia độc lập và có chủ quyền.
Trên lĩnh vực ngoại giao, Việt Nam và Vương quốc Anh thiết lập quan
hệ ngoại giao cấp đại sứ ngày 11/9/1973. Đại sứ Anh – John Fawcett đã gặp
gỡ hầu hết các lãnh tụ cao cấp của Việt Nam Dân chủ Cộng hoà như Lê Duẩn,
Trường Chinh, Phạm Văn Đồng, Lê Thanh Nghị (1975) và theo nhận xét của
ông thì Việt Nam dành ưu tiên cho việc phát triển kinh tế [210, tr.110].
Trên lĩnh vực hợp tác phát triển, Vương quốc Anh dành cho Việt Nam
nhiều viện trợ nhân đạo quan trọng bằng lương thực, thuốc men [209].
Thế nhưng tình hình diễn biến xấu đi từ cuối năm 1978, làn sóng công
kích Việt Nam chung quanh vấn đề người di tản bằng thuyền, vấn đề Việt
Nam vào Campuchia (1979) giúp đỡ nhân dân nước này lật đổ chế độ diệt
chủng. Các thế lực thù địch tuyên truyền xuyên tạc sự thật nên đã ảnh hưởng
tiêu cực đến mối quan hệ Việt Nam – Vương quốc Anh, do đó quan hệ giữa
hai bên không những không phát triển mà còn trải qua một khúc quanh lạnh
nhạt. Bên cạnh đó, Việt Nam đang phải đối mặt với rất nhiều khó khăn mà
trước hết phải kể đến sự cấm vận của Mỹ đã kéo theo hàng loạt nước, tổ chức
(trong đó có Quỹ tiền tệ quốc tế và Ngân hàng thế giới) không cho Việt Nam
vay tiền. Ngoại giao của Việt Nam với các nước trong khu vực cũng ở mức
báo động vì vấn đề Campuchia.
Trước thực trạng đất nước khủng hoảng, đòi hỏi Đảng ta phải đổi mới
trong mọi lĩnh vực hoạt động. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng
Cộng sản Việt Nam (12/1986) đã khởi xướng công cuộc đổi mới toàn diện đất
nước. Đảng và Nhà nước Việt Nam đã tiến hành thực hiện thành công một số
hoạt động đối ngoại như ban hành luật đầu tư nước ngoài (1987) nhằm thu hút
vốn, công nghệ và kinh nghiệm của tư bản nước ngoài, rút hết quân đội khỏi
Campuchia (9/1989) [25, tr.331], cải thiện quan hệ với ASEAN làm cho tình
hình khu vực hoà dịu hơn, thực hiện bước đầu đối thoại với Hoa Kỳ để xích
lại gần nhau hơn.
Trên cơ sở đó, Việt Nam từng bước cải thiện quan hệ với các nước EU
nói chung và với Vương quốc Anh nói riêng. Quan hệ Việt Nam – Vương
quốc Anh đóng băng cho đến năm 1987 mới được nối lại và thực sự khởi sắc
vào những năm đầu thập niên 90 của thế kỷ XX. Các công ty của Vương quốc
Anh vào Việt Nam sớm (1988 – 1989) nhưng thời gian đầu chủ yếu tập trung
vào dầu khí (70% tổng đầu tư) [258].
Như vậy, từ năm 1973 đến năm 1990, quan hệ Việt Nam – Vương quốc
Anh nhìn chung chưa thực sự trở thành đối tác của nhau, chỉ với mức độ dè
dặt cẩn trọng và thường hợp tác trên lĩnh vực mang tính hỗ trợ nhân đạo nhằm
thăm dò thị trường. Vào cuối thập kỷ 80, khi Việt Nam giành được những
thành tựu quan trọng bước đầu trong việc thực hiện chính sách đổi mới và mở
cửa hội nhập với cộng đồng quốc tế, trong điều kiện mới, với những chuyển
biến tích cực từ phía Việt Nam cũng như sự tác động từ bên ngoài, Vương
quốc Anh ngày càng chú ý quan tâm hơn tới Việt Nam và coi việc thúc đẩy
quan hệ với Việt Nam là một ưu tiên trong đường lối đối ngoại ở Châu Á.
Những lợi thế của Việt Nam như vị trí địa - chiến lược quan trọng, nguồn lao
động trẻ, dồi dào, nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú… là mặt mạnh của
Việt Nam trong hợp tác với Vương quốc Anh. Cộng đồng người Việt Nam
sinh sống ở Vương quốc Anh có khả năng đóng vai trò quan trọng là “cầu
nối” tăng cường quan hệ. Mở rộng và tăng cường quan hệ với Vương quốc
Anh giúp Việt Nam khai thác được nguồn vốn, công nghệ, thị trường và
phương pháp quản lý hiện đại từ Vương quốc Anh, những lĩnh vực mà Vương
quốc Anh có nhiều kinh nghiệm quý báu và tiềm năng to lớn là chuyển giao
công nghệ hiện đại, đầu tư sản xuất công nghiệp, phát triển nông nghiệp, nông
thôn, văn hoá – giáo dục, y tế, đào tạo nguồn nhân lực, xoá đói giảm nghèo,
bảo vệ môi trường, hội nhập kinh tế khu vực, quốc tế. Việt Nam nhìn thấy ở
Vương quốc Anh những điều kiện thuận lợi như vậy và Vương quốc Anh
cũng tìm thấy ở Việt Nam một thị trường rộng lớn, một môi trường đầu tư hấp
dẫn. Đó là những nhân tố góp phần thúc đẩy quan hệ Việt Nam – Vương quốc
Anh ngày càng tăng cường và mở rộng trên mọi lĩnh vực.
Tiểu kết chương 1
Điểm nổi bật trong quan hệ của Việt Nam với Vương quốc Anh giai
đoạn trước năm 1975 gắn với diễn biến của sự nghiệp đấu tranh giải phóng
dân tộc, thống nhất đất nước của nhân dân Việt Nam. Nhìn chung, cho tới
năm 1975, trong chính sách của mình, cả Việt Nam lẫn Vương quốc Anh với
tư cách là một thực thể kinh tế - chính trị đều chưa coi nhau là đối tác, và vì
thế mức độ quan hệ hầu như không có, hoặc nếu có thì cũng hết sức hạn chế.
Giai đoạn cuối năm 1970 – 1980, quan hệ giữa Việt Nam – Vương quốc
Anh bị tác động tiêu cực bởi sự kiện Campuchia. Năm 1986, Đại hội Đảng
Cộng sản Việt Nam lần thứ VI đề ra chính sách đổi mới, chuyển hướng nền
kinh tế nước ta từ kế hoạch tập trung, bao cấp sang nền kinh tế thị trường và
thực hiện chính sách mở cửa, “Tư tưởng chỉ đạo của kế hoạch và các chính
sách kinh tế là giải phóng mọi năng lực sản xuất hiện có, khai thác mọi khả
năng tiềm tàng của đất nước và sử dụng có hiệu quả sự giúp đỡ quốc tế để
phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất đi đôi với xây dựng và củng cố quan
hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa” [53, tr.47]. Năm 1987, Việt Nam ban hành luật
đầu tư nước ngoài, tạo nên những điều kiện và tiền đề quan trọng cho quan hệ
giữa Việt Nam với các nước thành viên EU nói chung và với Vương quốc
Anh nói riêng. Các nhà đầu tư của Vương quốc Anh có mặt tại Việt Nam
ngay từ năm đầu ban hành luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam (1988) dưới
hình thức các hợp đồng phân chia sản phẩm dầu khí (PSC).
Qua mấy năm thực hiện chính sách đổi mới (1986 – 1990), Việt Nam đã
đạt được một số thành tựu quan trọng, bước đầu mở cửa và hội nhập với cộng
đồng quốc tế, làm cho bộ mặt đất nước thay đổi nhanh chóng. Quan hệ giữa
Việt Nam với Vương quốc Anh cũng được mở rộng đáng kể.
Chương 2 : QUAN HỆ VIỆT NAM – VƯƠNG QUỐC
ANH TỪ NĂM 1991 ĐẾN 2004
2.1. Giai đoạn 1991 – 1995
2.1.1. Tình hình quốc tế và khu vực
2.1.1.1. Tình hình quốc tế
Chủ nghĩa xã hội ở Đông Âu và Liên Xô sụp đổ trong những năm 1989 –
1991 là sự kiện đặc biệt quan trọng trong đời sống chính trị, tác động trực tiếp
và sâu xa đến toàn bộ cục diện thế giới. Cùng với sự tan rã này là một cuộc
chạy đua quyền lực mới giữa các nước và các nhóm nước nhằm xác lập vị trí
và vai trò của mình trên trường quốc tế. Xu hướng đa cực hoá chính trị dần
hình thành và đang trở nên phổ biến trong thế giới đương đại.
Các nước lớn chuyển hướng hoặc điều chỉnh chiến lược, chú trọng phát
triển nội lực, tăng cường cạnh tranh và chạy đua kinh tế. Về đối nội, các nước
này tích cực đẩy mạnh các chương trình “chấn hưng kinh tế”, “cải cách mở
cửa”…. Về đối ngoại, họ đi vào hoà hoãn, cải thiện quan hệ từng đôi một, vừa
hợp tác vừa đấu tranh, kiềm chế lẫn nhau.
Sau thời kỳ chiến tranh lạnh, những điểm nóng, các cuộc chiến tranh cục
bộ, những xung đột, tranh chấp… vẫn còn tồn tại, nhưng xu thế từ đối đầu
chuyển sang đối thoại, vừa đấu tranh vừa hợp tác để phát triển bắt đầu chiếm
ưu thế. Quan niệm về thế và lực cũng dần thay đổi, bên cạnh quân sự, sức
mạnh kinh tế và khoa học công nghệ được đề cao. Quá trình này tạo điều kiện
cho các nước có những bước nhảy vọt trong sự phát triển kinh tế và đời sống
xã hội theo hướng công nghiệp hoá - hiện đại hoá.
Bên cạnh đó, quá trình toàn cầu hoá và quốc tế hoá đang trở thành “xu
thế khách quan, lôi cuốn các nước, bao trùm hầu hết các lĩnh vực, vừa thúc
đẩy hợp tác vừa tăng sức ép cạnh tranh và tính tuỳ thuộc lẫn nhau giữa các
nền kinh tế” [55, tr.157]. Bước phát triển cao của nền kinh tế thế giới với sự
tự do hoá thương mại, đầu tư dịch vụ, chuyển giao công nghệ, lao động trên
phạm vi toàn cầu đã thúc đẩy các quan hệ, giao dịch song phương, đa phương
và tăng cường sự liên kết giữa các quốc gia, các khu vực trên toàn thế giới.
Trong bối cảnh quốc tế đang diễn biến hết sức phức tạp, việc đánh giá
một cách nghiêm túc và đúng đắn tình hình quốc tế, xem xét và điều chỉnh
chính sách đối nội - đối ngoại của mỗi quốc gia, dân tộc là một yêu cầu hết
sức quan trọng và cần thiết.
2.1.1.2. Tình hình khu vực
Châu Á nói chung và khu vực Đông Nam Á nói riêng vào những năm
đầu thập niên 90 có nhiều biến chuyển tích cực về mọi mặt. Lần đầu tiên
trong lịch sử từ sau chiến tranh thế giới thứ hai, Đông Nam Á trải qua một
thập niên phát triển năng động trong cuộc hành trình vào thiên niên kỷ mới
với những bước tiến triển lớn đầy hứa hẹn. Với việc ký Hiệp định Paris về
Campuchia (10/1991), quan hệ giữa hai nhóm nước ASEAN và Đông Dương
thay đổi cơ bản, chuyển từ trạng thái đối đầu sang đối thoại, thúc đẩy hoà
bình, hữu nghị và hợp tác [25, tr.322].
Đối với Việt Nam, đến đầu những năm 1990, tình hình trong nước vô
cùng khó khăn. Mặc dù chúng ta đã đạt được những thành tựu bước đầu rất
quan trọng trong công cuộc đổi mới, song Việt Nam vẫn chưa hoàn toàn thoát
khỏi cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội. Trong quan hệ quốc tế, Việt Nam vẫn
bị Mỹ thi hành chính sách cấm vận, bao vây về kinh tế, đồng thời chưa có
được quan hệ hoàn toàn bình thường với các nước. Hơn nữa, do Liên Xô và
CNXH ở Đông Âu tan rã, chỗ dựa vững chắc về chính trị và kinh tế trước đây
nay không còn nữa, thị trường truyền thống của Việt Nam bất ngờ bị thu hẹp,
nguồn viện trợ cũng không còn.
Nhưng do nhận thức được sự biến chuyển của tình hình thế giới - sự tan
rã của trật tự thế giới hai cực, quá trình quốc tế hoá phụ thuộc lẫn nhau đang
tăng lên mạnh mẽ, đồng thời cũng do sự đòi hỏi bức thiết của tình hình trong
nước phải phá thế bị cấm vận, Đại hội Đảng lần thứ VII (1991) đã đề ra chính
sách đa phương hoá, đa dạng hoá quan hệ quốc tế, nhằm có thêm bạn bè,
tranh thủ thêm nguồn vốn, công nghệ cho sự phát triển kinh tế của nước ta.
Đại hội VII đã tuyên bố: Việt Nam muốn là bạn với tất cả các nước trong
cộng đồng thế giới, phấn đấu vì hoà bình, độc lập và phát triển [54, tr.147].
Văn kiện Đại hội VII nêu rõ “chúng ta chủ trương hợp tác bình đẳng và cùng
có lợi với tất cả các nước, không phân biệt chế độ chính trị - xã hội khác
nhau, trên cơ sở các nguyên tắc cùng tồn tại hoà bình” [54, tr.88].
Chính việc Việt Nam thực hiện chính sách mở cửa đã diễn ra trùng hợp
với làn sóng đang lan toả của xu hướng khu vực hoá và toàn cầu hoá, trong sự
phụ thuộc lẫn nhau giữa các nền kinh tế, Việt Nam đã thực sự trở thành một
khu vực quan trọng và là thị trường bổ sung vào cơ cấu kinh tế của những
nước có trình độ phát triển cao hơn.
Quan hệ giữa Việt Nam đối với phần lớn các nước tư bản và công nghiệp
phát triển từng bước cải thiện từ giữa những năm 1980, sau khi Việt Nam bắt
đầu công cuộc đổi mới, phát triển mạnh mẽ và tích cực sau khi cuộc xung đột
Campuchia được giải quyết bằng giải pháp thương lượng.
Các nước Tây, Bắc Âu có nền kinh tế lớn mạnh, khoa học công nghệ
hiện đại. Liên minh Châu Âu (EU) là một trong ba trung tâm kinh tế, chính
trị, văn hoá lớn hàng đầu của thế giới, có vai trò và tiếng nói ngày càng quan
trọng trong đời sống chính trị, kinh tế thế giới. Trong thời kỳ đổi mới, Đảng
và Nhà nước Việt Nam chủ trương đẩy mạnh việc cải thiện quan hệ với các
nước Tây, Bắc Âu, tăng cường và mở rộng quan hệ hợp tác nhiều mặt với các
nước này trên cơ sở bình đẳng và hợp tác cùng có lợi. Chủ trương này đã
được các nước trong khu vực Tây, Bắc Âu đáp ứng vì nó phù hợp với lợi ích
của các bên.
Việt Nam tích cực triển khai các hoạt động đối ngoại nhằm thúc đẩy sự
hợp tác kinh tế, văn hoá, thương mại, khoa học - kỹ thuật với liên minh Châu
Âu cũng như các nước tại Tây, Bắc Âu, tranh thủ thu hút đầu tư của các nước
có tiềm năng lớn về vốn và công nghệ để phục vụ phát triển kinh tế, công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, đồng thời từng bước mở rộng quan hệ hữu
nghị, văn hóa, du lịch giữa nhân dân Việt Nam và nhân dân các nước Tây,
Bắc Âu, đặc biệt là Vương quốc Anh, một nước ngày càng có vị trí và vai trò
quan trọng trong EU.
2.1.2. Quan hệ Việt Nam – Vương quốc Anh (1991 – 1995)
Do thấy rõ tiềm năng phát triển của Việt Nam, Vương quốc Anh đã đẩy
mạnh quan hệ với Việt Nam. Việt Nam được coi là một thị trường có tiềm
năng to lớn, giàu tài nguyên và nhân công kỹ thuật, nguồn lao động dồi dào.
Với những điều kiện sẵn có ở Việt Nam nói riêng và Đông Nam Á nói chung,
Vương quốc Anh cũng như EU sẽ có lợi thế nhất định trong việc tăng cường
mối quan hệ của mình với Việt Nam và khu vực để cạnh tranh với Nhật và
Mỹ.
2.1.2.1. Lĩnh vực chính trị - ngoại giao
Trong nửa đầu thập niên 90, nhiều đợt trao đổi đoàn giữa hai nước diễn
ra thường xuyên, liên tục, trở thành một trong những hoạt động mang tính
thường niên không thể thiếu, từ đó mở ra triển vọng hợp tác tốt đẹp cho các
lĩnh vực khác.
Về phía Việt Nam, có các chuyến thăm Vương quốc Anh của Thủ tướng
Võ Văn Kiệt (7/1993) [260] - chuyến thăm chính thức đầu tiên của Thủ tướng
Việt Nam sau 20 năm kể từ ngày hai nước thiết lập quan hệ ngoại giao, đánh
dấu một mốc quan trọng trong quan hệ hữu nghị hợp tác giữa hai nước,
chuyến thăm của Chủ tịch Quốc hội Nông Đức Mạnh (10/1993) [25, tr.361] -
nhằm phát triển quan hệ hợp tác giữa Quốc hội hai nước….
Về phía Vương quốc Anh, có các chuyến thăm Việt Nam của Bộ trưởng
Ngoại giao Vương quốc Anh Doglas Head (1994) – hai bên ký thoả thuận
viện trợ tài chính theo đó chính phủ Anh cho Việt Nam vay 50 triệu bảng Anh
với điều kiện ưu đãi để thực hiện một số dự án ưu tiên tại Việt Nam, chuyến
thăm của công chúa Hoàng gia Anh Anne (1994) – trong các cuộc tiếp công
chúa, các vị lãnh đạo Việt Nam đã đánh giá cao sự giúp đỡ của Quỹ cứu trợ
Nhi đồng Anh do công chúa làm Chủ tịch đối với Việt Nam đặc biệt đối với
trẻ em và phụ nữ trong các lĩnh vực y tế, giáo dục, phát triển nông thôn,
chuyến thăm của Bộ trưởng Tài chính Anh Kennét Clắccơ (1995) - thảo luận
vấn đề tài trợ vốn ODA cho Việt Nam, chuyến thăm của Bộ trưởng Thương
mại và Công nghiệp Anh P.L.Phơrâygiơ (1995) - thảo luận về dự án thăm dò
dầu khí Nam Côn Sơn của công ty BP [260].
Những cuộc đi thăm và tiếp xúc cấp cao của hai bên đã tạo ra những cơ
sở chính trị quan trọng thúc đẩy sự phát triển các mối quan hệ hợp tác đa dạng
trong nhiều lĩnh vực giữa Việt Nam và Vương quốc Anh.
Do nhận thức sâu sắc nhiệm vụ ngoại giao là để phục vụ thiết thực cho
sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá nên các hoạt động chính trị đối ngoại
của Đảng, Chính phủ và Quốc hội Việt Nam đều tập trung vào các quan hệ
hợp tác kinh tế, thương mại, văn hoá, khoa học kỹ thuật với Vương quốc Anh.
Việt Nam đã ký với Vương quốc Anh các Thoả thuận và Hiệp định như
Chương trình trợ giúp kỹ thuật cho Việt Nam (10 triệu bảng cho 13 dự án
nghiên cứu khả thi về sửa chữa hệ thống cầu trên quốc lộ 1A) ký tháng
7/1993; Chương trình hồi hương người Việt Nam ra đi bất hợp pháp sang
Hồng Kông (100 triệu USD thông qua EU cho giai đoạn 1991 – 1992); Thoả
thuận giải quyết nợ song phương (xoá 50% nợ, còn nợ 10,4 triệu bảng Anh)
ký tháng 10/1994; Hiệp định tránh đánh thuế hai lần ký ngày 9/4/1994; Thoả
thuận về quy chế chuyên gia tư vấn kỹ thuật ký năm 1995 [260].
Và với kết quả của những chuyến thăm này, có thể nói Việt Nam đã
thành công trong việc thiết lập quan hệ ngoại giao, trên cơ sở đó xây dựng
được mối quan hệ toàn diện trên mọi lĩnh vực hai bên cùng có lợi.
Sự giao lưu thăm viếng lẫn nhau giữa những người lãnh đạo cấp cao đã
mang lại những kết quả quan trọng mà trước hết nhằm thể hiện quyết tâm đưa
quan hệ song phương tiến thêm một bước, phù hợp với mong muốn và khả
năng cũng như tình hữu nghị, gắn bó giữa hai dân tộc.
Kết quả này hoàn toàn không phải là điều bất ngờ, vì nó diễn ra đúng vào
thời điểm Việt Nam đang triển khai những định hướng đối ngoại đa dạng hoá,
đa phương hoá, nhằm tạo ra những tiền đề và động lực mới góp phần ổn định,
phát triển kinh tế xã hội, đồng thời mang lại những chuyển biến tích cực trong
quan hệ Việt Nam với các nước trên thế giới. Thành tích này được xem như là
sự khởi đầu tốt đẹp đối với Việt Nam trong việc hoà nhập với cộng đồng quốc
tế, chính thức chấm dứt sự cô lập kéo dài đối với Việt Nam, xác lập sự thay
đổi đất nước theo hướng kinh tế thị trường.
Xét trong bối cảnh khu vực, sự giao lưu thăm viếng giữa những người
lãnh đạo các cấp của hai quốc gia không chỉ tạo ra những thuận lợi và triển
vọng tốt đẹp cho quan hệ hai nước, mà đứng về khía cạnh nào đó còn làm cho
bầu không khí chính trị giữa Việt Nam và các nước khác trong khu vực dễ
chịu hơn rất nhiều. Như vậy, từ mối quan hệ chính trị cởi mở này, quan hệ hai
nước trên các lĩnh vực kinh tế, tài chính, văn hoá giáo dục, khoa học kỹ thuật,
hành chính cũng có những bước phát triển đáng kể.
Nhìn chung, các cuộc gặp gỡ trao đổi giữa Việt Nam và Vương quốc
Anh đã tạo ra bầu không khí chính trị thuận lợi và những điều kiện về khung
pháp lý để đi đến đạt được nhiều thoả thuận có ý nghĩa cho mối quan hệ hai
bên bước sang một thời kỳ mới với những chất lượng và hiệu quả cao hơn,
thúc đẩy quan hệ trên các lĩnh vực kinh tế, văn hoá, khoa học kỹ thuật phát
triển.
2.1.2.2. Lĩnh vực kinh tế - thương mại
Trên cơ sở mở rộng quan hệ ngoại giao, thực hiện đường lối kinh tế đối
ngoại, đặc biệt đối với Vương quốc Anh cùng với các chuyến thăm cấp chính
phủ, nhiều cơ hội hợp tác đã mở ra, thúc đẩy mậu dịch song phương.
Vương quốc Anh và Việt Nam không có bề dày lịch sử trong quan hệ
hợp tác trong khi các nhà đầu tư Anh lại nổi tiếng về sự thận trọng, tính toán
kỹ càng trước khi quyết định đầu tư vào bất cứ đâu. Do đó trong những năm
đầu Việt Nam thực hiện chính sách mở cửa, trong khi các nước khác ồ ạt thiết
lập quan hệ thương mại - đầu tư với Việt Nam thì Vương quốc Anh gần như
chỉ là quan sát viên (tổng kim ngạch hai chiều giữa hai nước chỉ đạt 13,3 triệu
bảng Anh vào năm 1991) [90, tr.121].
Cho đến năm 1993, sau khi Thủ tướng Việt Nam thăm chính thức nước
Anh và Ngoại trưởng Anh – Doglas Head sang thăm Việt Nam năm 1994 thì
quan hệ kinh tế giữa hai nước mới phát triển mạnh. Năm 1993, chính phủ Anh
đã tháo bỏ bảo hiểm tín dụng xuất khẩu đối với Việt Nam sau 12 năm gián
đoạn, hàng Việt Nam xuất khẩu vào Vương quốc Anh được hưởng chế độ ưu
đãi về thuế quan (GSP) như các nước phát triển khác. Về thương mại, kim
ngạch xuất - nhập khẩu giữa hai nước năm 1994 – 1995 tăng vọt so với những
năm trước. Năm 1994, tổng kim ngạch hai chiều đạt 130 triệu bảng Anh, tăng
3 lần so với năm 1992 [90, tr.121, 122].
Trong 5 năm qua (1991 – 1995), xuất khẩu của Việt Nam sang Vương
quốc Anh tăng từ 18 – 25%/năm, với những mặt hàng chủ yếu như giày dép
(53%), dệt may (12%), chè và cà phê (8%), gạo (8%), thuỷ sản (3%), cao
su…. Những mặt hàng nhập khẩu chủ yếu từ Vương quốc Anh là hàng gia
công chế biến và thiết bị công nghiệp (38%), hoá chất (21%), thiết bị viễn
thông (6%), thuốc lá (3%)… [258].
Chính sách thương mại của Vương quốc Anh đối với Việt Nam là Vương
quốc Anh lấy thúc đẩy quan hệ buôn bán giữa hai bên làm nền tảng cho phát
triển quan hệ hợp tác. Sự phát triển quan hệ trong thương mại cũng sẽ phụ
thuộc rất nhiều vào việc hợp tác phát triển đầu tư giữa Vương quốc Anh và
Việt Nam.
2.1.2.3. Lĩnh vực hợp tác đầu tư và phát triển
* Những lợi thế của Việt Nam trong thu hút đầu tư nước ngoài:
Vị trí địa lý:
Việt Nam nằm ở gần trung tâm vùng Đông Nam Á, là vùng có tốc độ
tăng trưởng cao của thế giới, bình quân mỗi nước ở khu vực này có mức tăng
trưởng kinh tế hàng năm đạt 6 – 7% [101, tr.10], mở rộng ra là vùng Châu Á
– Thái Bình Dương đang phát triển năng động. Vị trí này một mặt tạo bối
cảnh thuận lợi cho nước ta trong quá trình hội nhập với khu vực và thế giới,
mặt khác tạo ra những thách thức mới rất lớn cho nền kinh tế trong nước, cho
việc hoạch định các chính sách đối ngoại để vừa hội nhập vừa hợp tác và cạnh
tranh có hiệu quả trên thị trường quốc tế và khu vực.
Việt Nam nằm trên các tuyến đường hàng hải quốc tế từ Nga, Trung
Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc sang khu vực Đông Nam Á, Trung Đông, Châu
Phi. Dọc bờ biển nước ta, nhiều nơi có khả năng xây dựng các cảng nước sâu:
cảng Hải Phòng, Đà Nẵng, Dung Quất, cảng Sài Gòn…, nhất là vùng từ Nam
Trung bộ trở vào là nơi có khí hậu tốt, ít bão, tàu bè có thể cập bến an toàn
quanh năm.
Việt Nam có đường biên giới trên bộ khoảng 4.500 km với các nước
láng giềng. Dọc biên giới có nhiều cửa khẩu, thuận lợi cho việc buôn bán giao
lưu bằng đường bộ. Việt Nam nằm ở đầu mút của con đường Xuyên Á, nhờ
vậy việc giao lưu buôn bán với các nước láng giềng càng trở nên tấp nập hơn.
Việt Nam còn nằm ở vị trí trung chuyển của nhiều tuyến hàng không
quốc tế từ Châu Á sang Châu Âu. Đặc biệt sân bay quốc tế Tân Sơn Nhất ở
vào vị trí lý tưởng, cách đều các thủ đôvà thành phố quan trọng trong khu
vực. Bên cạnh đó việc nâng cấp các sân bay quốc tế Nội Bài, Tân Sơn Nhất,
Đà Nẵng, khôi phục các sân bay nội địa và mở thêm nhiều tuyến bay quốc tế
cho phép nước ta mở rộng hoạt động buôn bán, du lịch quốc tế, dịch vụ vận
chuyển bằng đường hàng không, tạo nhiều điều kiện thuận lợi cho việc thu
hút vốn đầu tư nước ngoài và hoạt động có hiệu quả hơn.
Tài nguyên thiên nhiên:
Tài nguyên thiên nhiên nước ta là nguồn vật chất quan trọng cho việc
phát triển các ngành nông, lâm nghiệp, thuỷ sản, công nghiệp khai thác…
nhằm cung cấp nguồn hàng cho xuất khẩu.
Điều kiện đất đai, khí hậu nhiệt đới ẩm gió mùa phân hoá đa dạng theo
không gian và theo mùa đã tạo điều kiện để nước ta phát triển có hiệu quả một
nền nông nghiệp nhiệt đới và cận nhiệt đới như: cao su, cà phê, dừa, điều, hồ
tiêu, mía, thuốc lá, chè, hồi… có giá trị xuất khẩu cao. Thêm vào đó, Việt
Nam có đường bờ biển dài 3260 km, nhiều đầm phá, ao, hồ, có nhiều ngư
trường lớn nên rất phong phú về nguồn thuỷ hải sản, đặc biệt là tôm, mực và
một số loài cá có giá trị xuất khẩu cao.
Tài nguyên khoáng sản có một số loại có trữ lượng khá, chất lượng tốt.
Đặc biệt là dầu khí ở vùng thềm lục địa với tổng trữ lượng khoảng 10 tỷ tấn
dầu, hàng trăm tỷ m3 khí. Ngoài ra, Việt Nam còn có nhiều khoáng sản có giá
trị khác: than đá, kim loại đen, màu, phi kim loại, khoáng sản làm vật liệu xây
dựng [101, tr.11].
Tài nguyên rừng tuy đã bị suy giảm nhiều, nhưng gỗ quý là nguồn hàng
xuất khẩu có giá trị. Ngoài ra còn có các lâm sản khác: tre, nứa, song, mây
làm nguyên liệu cho ngành thủ công mỹ nghệ truyền thống đã chiếm lĩnh thị
trường nhiều nước trên thế giới.
Có thể nói rằng, do nước ta bước vào công nghiệp hoá chậm hơn nên
nguồn tài nguyên tính trên đầu người còn cao hơn một số nước trong khu vực.
Đó là một lợi thế so sánh để nước ta tham gia vào phân công lao động quốc
tế, đẩy mạnh việc thu hút nguồn vốn đầu tư trực tiếp của nước ngoài.
Dân cư - nguồn lao động:
Đây là thế mạnh của Việt Nam, cho đến nay dân số nước ta khoảng 80
triệu người. Lực lượng lao động dồi dào, có những phẩm chất đáng quý như
cần cù, có khả năng tiếp thu trình độ khoa học, kỹ thuật, công nghệ ngày càng
cao, giá nhân công lại rẻ. Nhân dân Việt Nam có nhiều nghề truyền thống
(chế biến lương thực, thực phẩm, thủ công nghiệp). Đây là điều kiện thuận lợi
để phát triển ngành hàng sử dụng nhiều lao động: công nghiệp nhẹ (dệt, may,
giày da), tiểu thủ công nghiệp, chế biến lương thực thực phẩm và hợp tác với
nước ngoài để sản xuất các mặt hàng xuất khẩu có chất lượng đáp ứng các thị
trường khó tính.
Bên cạnh đó, thị trường Việt Nam còn là một thị trường dễ tính và giàu
tiềm năng. Đây là một cơ hội cho các đối tác trong khu vực cũng như trên thế
giới đẩy mạnh hợp tác buôn bán với Việt Nam.
Chính yếu tố thị trường nội địa và lợi thế so sánh về giá lao động rẻ đã có
sức hấp dẫn nhất định đối với việc thu hút các dự án đầu tư nước ngoài.
Cơ sở hạ tầng kỹ thuật:
Sau nhiều năm xây dựng đất nước, kinh tế quốc doanh – thành phần kinh
tế chủ đạo đã tạo nên một cơ sở vật chất kinh tế to lớn đặt nền tảng cho phát
triển kinh tế của cả nước nói chung, cho ngành kinh tế đối ngoại nói riêng.
Sự phát triển của cơ sở hạ tầng giao thông vận tải, thông tin liên lạc và
việc cung cấp điện có ảnh hưởng rất lớn đến khả năng phát triển kinh tế đối
ngoại. Sự phát triển các ngành hàng hải, hàng không với hệ thống cảng biển,
sân bay được nâng cấp, hiện đại hoá là điều kiện cho phép nâng cao hiệu quả
và mở rộng hoạt động ngoại thương, các khu công nghiệp, khu chế xuất, khu
công nghệ cao đang được chú trọng xây dựng và một số đã đi vào hoạt động,
việc phát triển đi trước một bước các công trình cơ sở hạ tầng ở các địa bàn
kinh tế trọng điểm đã, đang và sẽ là tiền đề quan trọng thúc đẩy đầu tư nước
ngoài của Việt Nam hiện đang trong giai đoạn hoàn thiện nhằm tạo điều kiện
thuận lợi nhất cho các nhà đầu tư nước ngoài hoạt động có hiệu quả tại Việt
Nam, trong đó có Vương quốc Anh - một thị trường nổi tiếng khó tính và thận
trọng.
Trong quá trình công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước, vốn đầu tư là
tối cần thiết đối với sự tăng trưởng kinh tế, đặc biệt là ở các nước đang phát
triển nói chung và Việt Nam nói riêng, nhất là các nước này lại đang ở trong
tình trạng thiếu vốn gay gắt. Từ một đất nước sản xuất nông nghiệp là chủ yếu
và lại là nền sản xuất nhỏ, thực chất của việc thiếu vốn đối với Việt Nam là
thiếu tư liệu sản xuất, do không đủ ngoại tệ để nhập từ nước ngoài. Trên thực
tế, vốn nước ngoài vào Việt Nam tăng nhanh dưới hai hình thức chủ yếu, đó
là viện trợ chính thức và đầu tư trực tiếp của nước ngoài cùng với vốn ODA
của Châu Âu và Liên Hiệp Quốc. Luật đầu._., T.8, tr.434, 437, 439.
53. Đảng Cộng sản Việt Nam, (1987), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc
lần VI, NXB Sự thật, Hà Nội, tr.81, 47.
54. Đảng Cộng sản Việt Nam, (1991), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc
lần VII, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tr.147, 88.
55. Đảng Cộng sản Việt Nam, (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc
lần IX, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tr.64, 157.
56. Đảng Cộng sản Việt Nam, (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc
lần X, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tr.38.
57. Đầu tư của Liên minh Châu Âu tại Việt Nam, (1996), Nghiên cứu Châu
Âu, số 6, tr.52 – 54.
58. Đinh Quý Độ, (2003), Chính sách thương mại của Mỹ, EU, Nhật Bản,
Những xu hướng điều chỉnh chủ yếu, Những vấn đề kinh tế thế
giới (1).
59. Đổi mới kinh tế Việt Nam và chính sách kinh tế đối ngoại, (1995), NXB
Khoa học xã hội, Hà Nội.
60. Đặng Minh Đức, (2003), ASEAN - Một đối tác chiến lược của Liên minh
Châu Âu, Nghiên cứu Châu Âu.
61. Nguyễn Hoàng Giáp, (2005), Phát triển quan hệ với các nước lớn trong
chính sách đối ngoại đổi mới của Đảng và Nhà nước ta, Nghiên
cứu quốc tế, số 61, tr.30 – 38.
62. Lý Thu Hà, Vốn ODA và FDI trong nông nghiệp, Thời báo kinh tế Việt
Nam, số 91, 12/11/1997, tr.6.
63. Nguyễn An Hà, (2003), Toàn cầu hoá kinh tế - một số tác động tới quá
trình liên kết kinh tế EU – ASEAN, Nghiên cứu Châu Âu.
64. Nguyễn Thị Như Hà, (2001), Quan hệ thương mại giữa Việt Nam và EU,
Nghiên cứu Châu Âu.
65. Nguyễn Thu Hà, (1996), Vài nét về quan hệ EU - Việt Nam, Nghiên cứu
Châu Âu, số 3, tr.56 – 59.
66. Hoàng Hải, (1996), Mấy vấn đề về vốn ODA vào Việt Nam của các nước
Tây, Bắc Âu, Nghiên cứu Châu Âu, số 6, tr.46 – 49.
67. Hoàng Hải, (1996), Quan hệ Việt Nam – Châu Âu năm 1995, Nghiên
cứu Châu Âu, số 7.
68. Thanh Hải, Để tương xứng với tiềm năng sẵn có, Báo Đầu tư,
23/10/1997, tr.5.
69. Hoàng Lan Hoa, ASEM V – Cơ hội và thách thức trong tiến trình hội
nhập Á – Âu, NXB Lý luận chính trị.
70. Hoàng Xuân Hoà, Hợp tác đầu tư - thương mại Việt – Anh trong những
năm gần đây, Nghiên cứu quốc tế, số 34.
71. Hoàng Xuân Hoà, Chiến lược phát triển thương mại quốc tế của Anh
trong những năm gần đây, Nghiên cứu quốc tế, số 44.
72. Hoàng Xuân Hoà, Viện trợ phát triển chính thức của Anh cho Việt Nam,
Nghiên cứu quốc tế, số 54.
73. Hoàng Xuân Hoà, (2000), “Vai trò của EU đối với sự phát triển thương
mại Việt Nam”, Nghiên cứu Châu Âu, số 2.
74. Học viện quan hệ quốc tế, (2001), Tình hình quốc tế và chính sách đối
ngoại của Việt Nam, Q.1, Hà Nội.
75. Học viện quan hệ quốc tế, (2002), Tình hình quốc tế và chính sách đối
ngoại của Việt Nam, Q.2 & 3, Hà Nội.
76. Học viện quan hệ quốc tế, (1995), Liên minh Châu Âu – EU, NXB Chính
trị quốc gia, Hà Nội.
77. Học viện quan hệ quốc tế, 50 năm ngoại giao Việt Nam dưới sự lãnh đạo
của Đảng Cộng sản Việt Nam, Tập tài liệu hội thảo khoa học,
22/8/1995, Hà Nội.
78. Hỏi đáp về tình hình thế giới và chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà
nước ta, (1997), NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.350.
79. Hợp tác kinh tế và thương mại với EU, (1995), Uỷ ban kế hoạch nhà
nước, Hà Nội, tr.236.
80. Khắc Huỳnh, (2005), Ngoại giao Việt Nam trong thời kỳ kháng chiến
chống Mỹ cứu nước 1954 – 1975, Nghiên cứu Lịch sử, số 4,
tr.12 – 25.
81. Bùi Việt Hưng, (2004), 30 năm phát triển quan hệ Việt Nam – Anh quốc,
Nghiên cứu Châu Âu.
82. Hồ Thanh Hương, (2001), Nền kinh tế Anh trong thế kỷ XX và triển
vọng, Nghiên cứu Châu Âu.
83. Phong Hương, (1996), Quan hệ Việt – Anh phát triển, Tuần báo quốc tế,
số 44, tr.5.
84. Jean Baptiste Duroselle, Lưu Đoàn Huynh và Quách ngọc Bảo dịch, Lịch
sử ngoại giao từ 1919 đến ngày nay, Học viện quan hệ quốc tế,
10/1994, Hà Nội.
85. Tuấn Khánh, Ủng hộ những nỗ lực cải cách của Việt Nam, Thời báo
kinh tế Việt Nam, 1/2/2002.
86. Phạm Thanh Khiết, (2005), Thành tựu kinh tế Việt Nam 30 năm
(1975 – 2005), Sinh hoạt lý luận, số 70, tr.3 – 9.
87. Bùi Huy Khoát, (2004), ASEM: Những thành tựu và vấn đề, Nghiên cứu
Châu Âu.
88. Bùi Huy Khoát, (2003), Chiến lược Châu Á mới của EU và vai trò của
ASEM, Nghiên cứu Châu Âu.
89. Bùi Huy Khoát, (2005), Đông Nam Á trong Chiến lược Châu Á mới của
Liên hiệp Châu Âu, Nghiên cứu Châu Âu, số 62, tr.14 – 16.
90. Bùi Huy Khoát (chủ biên), (2001), Thúc đẩy quan hệ thương mại - đầu
tư giữa Liên hiệp Châu Âu và Việt Nam trong những năm cuối thế
kỷ XX - đầu thế kỷ XXI, NXB Khoa học xã hội.
91. Bùi Huy Khoát, (1995), EU – ASEAN: Những quan hệ đang được thúc
đẩy, Nghiên cứu Châu Âu, số 2, tr.1 – 8.
92. Bùi Huy Khoát, (1995), Hợp tác thương mại - đầu tư EU – ASEAN,
Nghiên cứu Châu Âu, số 3, tr.6 – 10.
93. Bùi Huy Khoát, (1997), Quan hệ EU – ASEAN trước ngưỡng cửa thế kỷ
XXI. ASEAN những vấn đề và xu hướng, NXB Khoa học xã hội, Hà
Nội, tr.284 – 295.
94. Đỗ Như Khuê và Nguyễn Thị Loan Anh, (1997), Quan hệ kinh tế thương
mại giữa Việt Nam và ASEAN, Thống kê, Hà Nội.
95. Trần Hoàng Kim, (1995), Kinh tế Việt Nam chặng đường 1945 – 1995
và triển vọng năm 2000, NXB Thống kê.
96. Kinh tế - xã hội, các số năm 2002 – 2003, Trung tâm Thông tin - Bộ Kế
hoạch và Đầu tư.
97. Kinh tế xã hội, Quan hệ hợp tác Việt Nam – EU: hiện tại và tương lai,
25/1/1997, tr.26 – 31.
98. Kinh tế xã hội, Sách lược Châu Á mới của EU, 27/1/1996, tr.31 – 32.
99. Lê Linh Lan, (2005), Quá trình bình thường hoá quan hệ Việt - Mỹ: kinh
nghiệm và bài học, Nghiên cứu quốc tế, số 61, tr.19 – 29.
100. Trần Quang Lâm, Nguyễn Khắc Thân, (2000), Hội nhập kinh tế Việt
Nam – ASEAN, NXB Thống kê, Hà Nội.
101. Trần Thị Hồng Lê, (2004), Đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam
từ năm 1988 đến nay, Khoá luận tốt nghiệp, Đại học Sư phạm.
102. Nguyễn Văn Lịch, (2004), Việt Nam trong tiến trình hợp tác ASEM,
Nghiên cứu Châu Âu.
103. Hoàng Xuân Long, (1991), Quan hệ thị trường trong quá trình đổi mới
cơ chế kinh tế ở Việt Nam, Học viện Nguyễn Ái Quốc, Hà Nội.
104. Võ Đại Lược - Tạ Kim Ngọc, (1996), Các khối kinh tế và mậu dịch trên
thế giới, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
105. Võ Đại Lược, (1997), Đầu tư trực tiếp nước ngoài trong quá trình công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, Những vấn đề kinh tế thế giới,
số 47, tr.9 – 15.
106. Đinh Xuân Lý, (2003), Quá trình Việt Nam hội nhập khu vực Châu Á –
Thái Bình Dương theo đường lối đổi mới của Đảng, NXB Chính
trị Quốc gia, Hà Nội, tr.59.
107. Đinh Xuân Lý, (2005), Tư tưởng Hồ Chí Minh về đối ngoại và sự vận
dụng của Đảng trong thời kỳ đổi mới, NXB Chính trị Quốc gia,
Hà Nội.
108. Trần Hoàng Mai, (1996), Viện trợ phát triển chính thức của EU cho
khu vực Đông Nam Á, Nghiên cứu Châu Âu, số 1, tr.13 – 20.
109. Bùi Đức Mãn, Lịch sử các nước trên thế giới - Lược sử nước Anh,
NXB Thành phố Hồ Chí Minh.
110. Đỗ Đức Mạnh, (1995), Quan hệ thương mại và đầu tư EU – Châu Á,
Nghiên cứu Châu Âu, số 4 & 5, tr.18 – 21.
111. Marisol Touraime, Các cường quốc thế giới mới, Tài liệu phục vụ
nghiên cứu, Viện Thông tin khoa học xã hội, TN 96 – 21.
112. Hồ Chí Minh, Báo cáo tại Hội nghị chính trị đặc biệt, Toàn tập, T.11,
tr.228.
113. Hồ Chí Minh biên niên tiểu sử, T.3, (1993), NXB Chính trị quốc gia,
Hà Nội.
114. Hồ Chí Minh toàn tập, (1995), T.4, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
115. Hồ Chí Minh, (2000), Lời kêu gọi nhân dịp kỷ niệm Cách mạng Tháng
Tám và ngày Quốc khánh, Toàn tập, T.7, NXB Chính trị quốc gia,
Hà Nội, tr.339.
116. Hồ Chí Minh, Tuyên ngôn độc lập, Toàn tập, T.4, tr.4.
117. Trọng Minh, (2004), Thế giới năm 2004: Tình hình và dự báo, Nghiên
cứu quốc tế, số 56.
118. Nguyễn Thu Mỹ (chủ biên), (1998), ASEAN hôm nay và triển vọng
phát triển trong thế kỷ XXI, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
119. Nguyễn Thu Mỹ, (1997), Hợp tác ASEAN – EU: Tình hình và triển
vọng, ASEAN những vấn đề và xu hướng, NXB Khoa học xã hội,
tr.185 – 284.
120. Phan Doãn Nam, (2004), Những xu hướng chủ yếu của quan hệ quốc tế
hiện nay và 15 – 20 năm tới, Nghiên cứu quốc tế, số 57.
121. Phan Doãn Nam, (2004), Thế giới năm 2004: Một số dự báo, Nghiên
cứu Châu Âu.
122. Kim Ngọc, (1997), Đầu tư vào Việt Nam đang bị cạnh tranh gay gắt,
Đầu tư, số 280, tr.5.
123. Kim Ngọc, (1996), Vào Việt Nam làm ăn là một mệnh lệnh kinh tế, Việt
Nam - Đầu tư nước ngoài, số 171.
124. Kim Ngọc, (2001), Kinh tế thế giới thế kỷ XX và triển vọng những thập
kỷ đầu thế kỷ XXI, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
125. Kim Ngọc (chủ biên), (2003), Kinh tế thế giới 2002 – 2003: Đặc điểm
và triển vọng, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
126. Kim Ngọc (chủ biên), (2004), Kinh tế thế giới 2003 – 2004: Đặc điểm
và triển vọng, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.22.
127. Kim Ngọc, (1995), EU và chiến lược đầu tư vào các nước trong khu
vực và Việt Nam, Nghiên cứu Châu Âu, số 1, tr.29 – 36.
128. Kim Ngọc, (1996), Việt Nam – EU: Hợp tác kinh tế và thương mại,
Những vấn đề kinh tế thế giới, số 4, tr.65 – 70.
129. Phùng Xuân Nhạ, (1997), Một số đặc điểm của lý thuyết đầu tư nước
ngoài trực tiếp ở các nước đang phát triển, Những vấn đề kinh tế
thế giới, số 46, tr.32 – 37.
130. Trần Nhâm (chủ biên), (1997), Có một Việt Nam như thế: Đổi mới và
phát triển, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
131. Mai Hồng Nhung, (2004), Vị thế của Việt Nam trong quan hệ hợp tác
kinh tế EU – ASEAN, Nghiên cứu Châu Âu.
132. Những điểm cần lưu ý về đầu tư thương mại với EU - Việt Nam,
(1995), Hợp tác kinh tế và thương mại với EU, Hà Nội.
133. Nguyễn Dy Niên, (1995), Việt Nam và các nước Tây Bắc Âu trong tình
hình mới, Hội nhập quốc tế và giữ vững bản sắc, NXB Chính trị
quốc gia, Hà Nội, tr. 19 – 26.
134. Tôn Nữ Thị Ninh và Vụ tổ chức quốc tế Bộ Ngoại giao, Các vấn đề
toàn cầu, Các tổ chức quốc tế và Việt Nam, NXB Chính trị quốc
gia, Hà Nội.
135. Vũ Dương Ninh (chủ biên), (2004), Việt Nam – ASEAN: Quan hệ song
phương và đa phương, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
136. Vũ Dương Ninh, (2000), Thành tựu và thử thách trong quan hệ đối
ngoại thời đổi mới, Lịch sử Đảng, tr.23.
137. Vũ Dương Ninh, (2003), Sự khác biệt văn hoá - yếu tố thúc đẩy hay
cản trở quan hệ ASEAN – EU, Nghiên cứu Châu Âu.
138. Ngô Minh Oanh, (2004), Trước thềm ASEM V, nhìn lại thực trạng và
triển vọng quan hệ hợp tác EU – ASEAN, Nghiên cứu Châu Âu, số
59, tr.29 – 34.
139. Perkings Dexter, Nguyễn Ngọc Nhạ dịch, (1968), Ngoại giao trong thời
đại mới, S.
140. Hồng Phúc, Mở rộng quan hệ Việt – Anh, Tuần báo quốc tế, số 16, tr.5.
141. Đỗ Thị Lan Phương, (2002), Tổng quan về hợp tác Việt Nam – EU năm
2002, Nghiên cứu Châu Âu.
142. Quan điểm mácxít về một số lý thuyết quan hệ quốc tế của các nước
phương Tây hiện nay, (2002), NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
143. Quan hệ kinh tế thương mại Việt Nam – EU, (1995), NXB Chính trị
quốc gia, Hà Nội.
144. Quản lý dự án - Bộ Kế hoạch đầu tư, (2000), Tổng kết FDI tại
Việt Nam.
145. Bùi Nhật Quang, (1995), Việt Nam – Châu Âu: Một số vấn đề về thu
hút đầu tư trực tiếp nước ngoài, Nghiên cứu Châu Âu, số 3,
tr.60 – 64.
146. Quân đội nhân dân Việt Nam - Tổng cục chính trị, (2001), Quan hệ
quốc tế, NXB Quân đội nhân dân, Hà Nội.
147. Nguyễn Duy Quý, (2004), Hợp tác Á – Âu và vai trò của Việt Nam,
NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
148. Nguyễn Duy Quý, (2002), Thế giới trong hai thập niên đầu thế kỷ XXI,
NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
149. Nguyễn Duy Quý, (2001), Tiến tới một ASEAN hoà bình, ổn định và
phát triển bền vững, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
150. Nguyễn Đăng Quế, (1997), Quan hệ Việt Nam – EU 1997: Bước tiến
vững chắc, Tuần báo quốc tế, số 42 & 52, tr.3 & 7.
151. Hùng Sơn, (1994), Vài suy nghĩ về tình hình quốc tế và hoạt động đối
ngoại của Việt Nam năm 1993, Nghiên cứu quốc tế, số 3, tr.3 – 8.
152. Nguyễn Xuân Sơn (chủ biên), (1997), Trật tự thế giới thời kỳ chiến
tranh lạnh, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
153. PGS.TS Nguyễn Xuân Sơn, TS Nguyễn Văn Du, (2006), Chiến lược
đối ngoại của các nước lớn và quan hệ Việt Nam trong hai thập
niên đầu thế kỷ XXI, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
154. Nguyễn Xuân Sơn, Thái Văn Long, (1997), Chính sách đối ngoại của
các nước ASEAN, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
155. Tài liệu tham khảo đặc biệt, VNTTX các số năm 1997 & 1998.
156. Tài liệu của phái đoàn Uỷ ban Châu Âu tại Việt Nam, Cộng đồng Châu
Âu và Việt Nam.
157. Tài liệu tham khảo đặc biệt, Hợp tác Việt Nam – Liên minh Châu Âu,
28/10/1994.
158. Tài liệu tham khảo đặc biệt, (1996), Quan hệ EU – ASEAN, số 157,
tr.3 – 4.
159. Tài liệu tham khảo đặc biệt, (1995), Quan hệ Việt Nam – Liên minh
Châu Âu, số 165, tr.3 – 5.
160. Tạp chí Những vấn đề kinh tế thế giới, số 42 & 51, tr.47 & 34.
161. Tạp chí Ngoại thương các năm 1998 – 2001.
162. Lưu Quý Tân, (1997), Châu Á: Hành trang vào thế kỷ XXI, Nghiên cứu
quốc tế, số17, tr.13 – 17.
163. Thái Tân, (1996), Mấy vấn đề về sự điều tiết nông nghiệp chung của
EU, Nghiên cứu Châu Âu, số 3 & 4, tr.28 – 31.
164. Nguyễn Văn Tận, (2004), Thử nhận diện vai trò của ASEM trong
những năm đầu của thế kỷ XXI, Nghiên cứu Châu Âu, số 59,
tr.25 – 28.
165. Nguyễn Anh Thái, (1998), Lịch sử thế giới hiện đại (1917 – 1995),
NXB Giáo dục, Hà Nội.
166. Nguyễn Cơ Thạch, (1998), Thế giới trong 50 năm qua và thế giới trong
25 năm tới, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
167. Nguyễn Cơ Thạch, (1990), Những chuyển biến trên thế giới và tư duy
mới của chúng ta, Tạp chí quan hệ quốc tế.
168. Nguyễn Huy Thám, (1997), FDI trong phát triển kinh tế đối ngoại ở
Việt Nam: Thực trạng và giải pháp, Những vấn đề kinh tế thế giới,
số 48, tr.25 – 29.
169. Nguyên Thành, Thúc đẩy quan hệ Việt Nam – Anh, Thời báo kinh tế
Việt Nam, 24/5/2002.
170. Phạm Đức Thành (chủ biên), (1998), Việt Nam – ASEAN cơ hội và
thách thức, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
171. Nguyễn Xuân Thắng, (2005), Những vấn đề kinh tế thế giới, Nghiên
cứu quốc tế, số 113, tr.56 – 66.
172. Trần Đình Thiên, (2005), Bối cảnh quốc tế mới và những vấn đề kinh tế
EU – ASEAN, Những vấn đề kinh tế thế giới, số 114, tr.3 – 10.
173. Thông tấn xã Việt Nam, (2003), Quan hệ Việt Nam – EU.
174. Thông tấn xã Việt Nam, Tình trạng kinh tế Việt Nam, Tài liệu tham
khảo đặc biệt, 25/10/1993, tr.2.
175. Thông tấn xã Việt Nam, (1993), Về các nước tài trợ cho Việt Nam, Tài
liệu tham khảo đặc biệt, số 264, tr.1 – 2.
176. Thông tấn xã Việt Nam, Tài liệu tham khảo đặc biệt, 17/2/2001.
177. Thông tấn xã Việt Nam, (1998), Tin kinh tế hàng ngày.
178. Thông tin kinh tế - xã hội, số 12/2000.
179. Thông tin tham khảo, (2000), Tác động phục hồi kinh tế của các nước
trong khu vực đối với Việt Nam, phụ bản tạp chí sổ tay xây dựng
Đảng, số 1, tr.1 – 10.
180. Thông tin tham khảo, (2001), Quan hệ Việt Nam – khu vực, phụ bản tạp
chí sổ tay xây dựng Đảng, số 5, tr.1 – 9.
181. Thời báo kinh tế Việt Nam các năm 2000, 2001.
182. Thời báo kinh tế Việt Nam, (2003), Tiếp tục hỗ trợ Việt Nam: WB, Anh,
Thụy Điển, Hà Lan.
183. Võ Thanh Thu, (2003), Quan hệ kinh tế quốc tế, Thống kê, Hà Nội.
184. Nguyễn Quang Thuấn, (2004), Quan hệ kinh tế Việt Nam – Liên minh
Châu Âu: Hiện trạng và triển vọng, Nghiên cứu Châu Âu.
185. Nguyễn Quang Thuấn, (2004), Tiến trình hợp tác Á – Âu và sự tham
gia của Việt Nam, Nghiên cứu quốc tế, số 59, tr.18 – 23.
186. Từ Thanh Thuỷ, (1998), Quan hệ thương mại và đầu tư giữa Việt Nam
và EU, Những vấn đề kinh tế thế giới, số 1, tr.30 – 35.
187. Tin kinh tế hàng ngày, Quan hệ kinh tế Việt Nam – EU, 9/4/1998,
tr.1–2.
188. Trần Trọng Toàn, (1997), Triển vọng kinh tế Châu Á trong thế kỷ XXI
và vai trò của AFTA, Nghiên cứu quốc tế, số 18, tr.9 – 13.
189. Tổng cục thống kê, (1997), Niên giám thống kê năm 1996, NXB Thống
kê, Hà Nội.
190. Tổng cục thống kê, (2003), Niên giám thống kê năm 2000, NXB Thống
kê, Hà Nội.
191. Tổng cục thống kê, (2003), Niên giám thống kê năm 2001, NXB Thống
kê, Hà Nội.
192. Tổng cục thống kê, (2003), Niên giám thống kê năm 2002, NXB Thống
kê, Hà Nội.
193. Tổng cục thống kê, (2003), Tình hình kinh tế xã hội 2001 – 2003, Hà
Nội.
194. Trung tâm lưu trữ quốc gia II, Đệ nhất Cộng hoà, (1957), Hồ sơ về việc
các cá nhân cao cấp của Anh viếng thăm Việt Nam, HS 8730.
195. Trung tâm lưu trữ quốc gia II, Đệ nhất Cộng hoà, (1959), Hồ sơ về việc
phái đoàn Nghị sĩ Anh viếng thăm Việt Nam, HS 8943.
196. Trung tâm lưu trữ quốc gia II, Đệ nhất Cộng hoà, (1959), Hồ sơ về việc
phái đoàn, cá nhân nước Anh viếng thăm Việt Nam, HS 8944.
197. Trung tâm lưu trữ quốc gia II, Đệ nhất Cộng hoà, (1960), Hồ sơ các
phái đoàn cá nhân Hoàng gia Anh viếng thăm Việt Nam, HS 9071.
198. Trung tâm lưu trữ quốc gia II, Đệ nhất Cộng hoà, (1961), Hồ sơ các
phái đoàn cá nhân Anh viếng thăm Việt Nam, HS 9182.
199. Trung tâm lưu trữ quốc gia II, Đệ nhất Cộng hoà, (1958), Hồ sơ về việc
cử phái đoàn Việt Nam đi Anh để quan sát về kinh tế, HS 11.034.
200. Trung tâm lưu trữ quốc gia II, Đệ nhất Cộng hoà, (1959), Hồ sơ về việc
Việt Nam cử phái đoàn sang Anh quan sát về kinh tế, lý tài,
thương mại, HS 11.974.
201. Trung tâm lưu trữ quốc gia II, Đệ nhất Cộng hoà, (1959), Hồ sơ về việc
Việt Nam tham dự triển lãm tiểu công nghệ tại London (Anh), HS
12.250.
202. Trung tâm lưu trữ quốc gia II, Đệ nhất Cộng hoà, (1962), Tài liệu của
Bộ Kinh tế về việc quan hệ thương mại giữa Việt Nam với Đại
Hàn, thị trường chung Châu Âu, Anh, HS 14.808.
203. Trung tâm lưu trữ quốc gia II, Đệ nhất Cộng hoà, (1957), Hồ sơ về việc
ông Lê Văn Đồng thăm Bộ Lao động Anh quốc, HS 16.485.
204. Trung tâm lưu trữ quốc gia II, Đệ nhất Cộng hoà, (1956 – 1957), Hồ sơ
về chương trình cuộc thăm viếng VNCH của Hầu tước Lord
Reading (Anh), HS 21.849.
205. Trung tâm lưu trữ quốc gia II, Đệ nhị Cộng hoà, (1970), Hồ sơ về bang
giao Việt – Anh, HS 1978.
206. Trung tâm lưu trữ quốc gia II, Đệ nhị Cộng hoà, (1970), Hồ sơ về việc
các cá nhân Anh viếng thăm Việt Nam, HS 2146.
207. Trung tâm lưu trữ quốc gia II, Đệ nhị Cộng hoà, (1970), Phúc trình của
Bộ Kinh tế về việc hãng Mranders Tam (Anh quốc) đề nghị dự án
xây dựng Nhà máy phân bón tại Vũng Tàu, HS 2530.
208. Trung tâm lưu trữ quốc gia II, Phủ Thủ tướng, (1969), Bà Nguyễn Thị
Bình tiếp xúc với nhiều giới tại Anh quốc, HS 3469.
209. Trung tâm lưu trữ quốc gia II, Phủ Thủ tướng, (1974), Tập tài liệu của
Bộ Ngoại giao về chính sách ngoại giao VNCH, HS 20.834.
210. Trung tâm lưu trữ quốc gia II, Phủ Thủ tướng, (1968 – 1975), Hồ sơ về
tình hình chính trị và quan hệ bang giao Anh quốc với VNCH, HS
21.001.
211. Trung tâm thông tin phát triển Việt Nam, (2003), Việt Nam: Quan hệ
đối tác phục vụ phát triển: Báo cáo không chính thức tại Hội nghị
nhóm tư vấn các nhà tài trợ cho Việt Nam, Hà Nội.
212. Nguyễn Mạnh Tuân, (2001), Các nguồn vốn nước ngoài ở Việt Nam,
thực trạng và những khuyến nghị chính sách, Những vấn đề kinh
tế thế giới, số 70, tr.45 – 51.
213. Đinh Công Tuấn, (2002), Hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài của
EU thời gian 1992 – 2000, Nghiên cứu Châu Âu, số 4.
214. Đinh Công Tuấn, (2005), Tình hình chính trị - xã hội của EU hiện nay
(2001 – 2005) và những tác động đến Việt Nam, Nghiên cứu Châu
Âu, số 62, tr.17 – 25.
215. Hoàng Anh Tuấn, (2005), Một số khía cạnh chính trị và an ninh của
cộng đồng Đông Á, Nghiên cứu quốc tế, số 61, tr.39 – 52.
216. Lê Mạnh Tuấn, (1995), Đầu tư nước ngoài vào Việt Nam, vị trí của
Châu Âu còn thấp nhưng đầy hứa hẹn, Nghiên cứu Châu Âu, số 1,
tr.59 – 64.
217. Nguyễn Anh Tuấn, (2005), Tác động của FDI tới quan hệ kinh tế quốc
tế, thực tiễn ở một số nước đang phát triển và Việt Nam, Bộ Ngoại
giao, Hà Nội.
218. Trần Nguyễn Tuyên, (2004), Thực trạng và triển vọng phát triển kinh
tế giữa EU và Việt Nam, Nghiên cứu Châu Âu.
219. Tư liệu khoa học của Trung tâm hợp tác nghiên cứu Châu Âu (CESC).
220. Văn kiện Đại hội III, (1996), NXB Sự thật, Hà Nội, tr.120.
221. Vietnam Economics New tháng 4/2000.
222. VN Express, (2003), Tăng cường hợp tác Á – Âu về đầu tư.
223. Nguyễn Trọng Xuân, (1997), Chính sách đầu tư trực tiếp nước ngoài
của các nước ASEAN và đổi mới chính sách đầu tư trực tiếp nước
ngoài của Việt Nam, Những vấn đề kinh tế thế giới, số 49,
tr.46 – 53.
224. Hoàng Thị Như Ý, (2006), Quan hệ Việt Nam – Liên hiệp Châu Âu
(1990 – 2004), Luận án Tiến sĩ, Đại học Sư phạm.
Tiếng Anh
225. Brian B., Coping with Contagion: Europe and the Asian Financial
Crisis, Asian Survey, May/June.
226. Dent C.M., The European Union and East Asia: Geo – Economic
Diplomacy and Crisis Management, Global Change: The Impact
of Asia in the 21st Century, Macmillan, London.
227. Dent C.M., The European Union and East Asia: An Economic
Relationship, Routledge, London.
228. Foreign Investment in Southest Asia.
229. Ian Manner & Richard G.Witman, The Foreign policies of European
Union Member States, Manchester University Press.
230. Uỷ ban Châu Âu, ASEM: Enhancing the Multilateral Option in
International Relations – Tom Roe, ASEM
Counsellor/Coordinator, Brussell.
231. World Economics report 10/1999.
Website
232. Anh cam kết viện trợ 450 triệu USD cho Việt Nam/ TTXVN// Website
Bộ Ngoại giao:
60920083010.-2006.-22/6.
233. Anh sẽ tiếp tục giúp Việt Nam sau khi gia nhập WTO/ TTXVN//
Website Bộ Ngoại giao:
50628140259.-2005.-29/6.
234. Chủ tịch Hạ viện Anh M.Martin tiếp Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Văn
An/ TTXVN// Website Bộ Ngoại
giao:
1/ns050324094945.-2005.-25/3.
235. Chủ tịch Trần Đức Lương hội đàm với Thủ tướng Anh T.Blair/
TTXVN// Website Bộ Ngoại giao:
5/9.
236. Đối tác đầy tiềm năng: Về quan hệ hợp tác Việt – Anh, theo Báo Đầu
tư:
610052739/view.-2006.-5/10.
237.
238.
239.
240.
241.
242.
243.
244.
245.
246.
247. Hoạt động của Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Văn An tại Anh/ TTXVN//
Website Bộ Ngoại giao:
.-
2005 .- 25/3
248. Hội Anh - Việt gây quỹ ủng hộ nạn nhân chất độc da cam//
6103349.-2005.- 07/12.
249. Kim ngạch xuất nhập khẩu giữa Việt Nam và Anh quốc/ Bộ Thương
mại//
tRootNode.target.n162.uP .- 2005 .- 26/07.
250. Những ngày Việt Nam tại Vương quốc Anh thành công tốt đẹp: Bộ
trưởng Võ Hồng Phúc trả lời phỏng vấn của phóng viên báo Nhân
Dân//
092035.- 2006.- 09/10.
251. Phát triển quan hệ thương mại Việt Nam - Vương quốc Anh - Kim
ngạch buôn bán hai chiều có thể tăng trên 30% //
.- 2004 .- 04/05.
252. Quan hệ thương mại Việt Nam - Vương quốc Anh năm 2005 / Bộ
Thương mại. Vụ Châu Âu // .- 2006 .-
13/01.
253. Số liệu xuất nhập khẩu giữa Việt Nam và Anh 8/2004 //
tNode.target.n162.uP .- 2004 .- 28/10.
254. Thông cáo báo chí: khoá học về công tác phát ngôn, đối ngoại cho các
cán bộ của Việt Nam do Vụ Thông tin Báo chí, Bộ Ngoại giao
Việt Nam phối hợp với Đại sứ quán Liên hiệp Vương quốc Anh và
Bắc Ailen tại Hà Nội tổ chức
// .-
06/01.
255. Thúc đẩy quan hệ Việt - Anh trên nhiều lĩnh vực/ TTXVN// Website
Bộ Ngoại giao:
60606085704 .- 2006 .- 14/06.
256. Tình hình kinh tế Vương quốc Anh và quan hệ thương mại Việt – Anh
2005//
utRootNode.target.n106.uP_root=root&cmd=item&ID=1264.-
2006 .- 10/01.
257. Tình hình thương mại Việt Nam - Anh quốc qua những con số / Bộ
Thương mại. Vụ Châu Âu // .- 2004 .-
22/11.
258. Tóm tắt quan hệ Việt Nam - Vương quốc Anh: Trích từ Thông tin cơ
bản về Vương quốc Anh và Bắc Ailen / Bộ Ngoại giao Việt Nam//
0710231.
259. Tổng hợp về kim ngạch xuất nhập khẩu hàng hoá giữa Việt Nam và
Anh quốc/ Bộ Thương mại//
tNode.target.n106.uP_root=root&cmd=item&ID=652.-2005.-31/3.
260. Tổng quan quan hệ hữu nghị Việt Nam - Anh / Bộ Ngoại giao //
.- 2005 .- 21/03.
261. Việt Nam coi trọng quan hệ hợp tác với Vương quốc Anh / TTXVN //
lt.aspx.
262. Việt Nam muốn thu hút các nhà đầu tư Anh / TTXVN //
60606090749 .- 2006 .- 14/06.
263. Việt Nam phát triển quan hệ với Anh về kinh tế, giáo dục / TTXVN
//
s050318092849/view .- 2005 .- 24/03.
264. Việt Nam - Anh ký Bản ghi nhớ về các vấn đề di cư / TTXVN //
41029153957 .- 2004 .- 04/11.
265. Việt Nam thúc đẩy quan hệ hợp tác với Anh / TTXVN //
70308100137 .- 2007 .- 12/03.
266. Website của Bộ Khoa học Công nghệ và Môi trường:
www.moste.gov.vn.
267. Website Bộ Văn hoá- Thông tin: www.cinet.vnn.vn.
268. Website Đảng Cộng sản Việt Nam: www.cpv.org.vn.
269. Website Quốc hội Việt Nam: www.na.gov.vn.
270. Webstie Tổng Cục Thống kê: www.gso.gov.vn.
PHỤ LỤC
PHỤ LỤC 1
Quốc huy Vương quốc Anh
Quốc kỳ Vương quốc Anh
Công chúa Hoàng gia Vương quốc
Anh thăm Việt Nam (2002).
PHỤ
* Kế hoạch ngân sách chi cho ODA (giai đoạn 20
tri
2002 - 2003 2003 - 2004 2004 - 2005 2005 - 2006
LỤC 2
BẢNG 1
02 – 2006):
Đơn vị: ệu bảng Anh.
Chỉ tiêu
Tổng chi cho
3420 3669 4131 4902
ODA
OD P
(%)
0,32 0,33 0,35 0,40
A/GN
Nguồn:
t Nam đã xuất cảng sang Vương quốc
Anh trong 3 năm: 1960, 1961 và 1962:
Hàng hoá 1960 1961 1962
BẢNG 2
* Bảng thống kê các hàng hoá Việ
1.000 VN$
G
Cao su
Lông vịt
128.434
28.412
317
46.048
309
-----------------
------------------
ạo và tấm
Trà
7.361
2.706
231.355
253.967
52.151
Tổng cộng 164.678 280.704 306.819
Nguồn: Trung tâm Lưu trữ quốc gia II, Hồ sơ số 14.808, tr.14.
BẢNG 3
* Bảng các chi tiết về các số hàng hoá Anh nhập cảng vào Việt Nam
trong 3 năm: 1960, 1961 và 1962:
Sản phẩm 1960 1961 1962
1.000 VN$
Xe hơi
Máy móc
Công phẩm bằng kim khí
Hoá phẩm
Dược phẩm
Kim khí thông thường
Giấy và công phẩm bằng giấy
Rượu mạnh
Hàng toàn tơ
Các sản phẩm khác
87.918
64.200
6.775
6.145
5.816
16.323
3.953
3.915
2.972
15.075
74.687
67.068
32.623
4.663
7.201
15.667
4.205
8.117
2.316
27.842
35.223
38.755
18.182
1.844
4.317
352
20.530
3.213
1.642
35.197
Tổng cộng
Tỷ lệ đối với tổng giá nhập cảng của
VN
233.092
2,8%
264.389
3%
159.255
1,7%
Nguồn: Trung tâm Lưu trữ quốc gia II, Hồ sơ số 14.808, tr. 26.
BẢNG 4
* Trao đổi thương mại Việt Nam – Anh (1997 – 2003, đơn vị: triệu
USD).
1997 1998 1999 2000 2001 2002 2003
Kim ngach hai
chiều
269 311,7 384,7 478,6 518 746,4 860
XK sang Anh 194,4 243,7 305,5 385,4 511,6 579,8 755
NK từ Anh 74,6 68 79,2 93,2 176,6 166,6 217
Nguồn: preview.
BẢNG 5
* Tổng quan Ngoại thương Anh (giai đoạn 1971 – 2002):
TT 1971-1980 1981-1990 1991-2000
1 - Kim ngạch xuất khẩu (tỷ USD)
- Tỷ trọng % GDP
- Tốc độ tăng kim ngạch xuất
khẩu (% so với kỳ trước)
52.29
19.3
19.2
120.70
18.9
5.8
227.06
20.2
5.2
2 - Kim ngạch nhập khẩu (tỷ USD)
- Tỷ trọng % GDP
- Tốc độ tăng kim ngạch nhập
khẩu (% so với kỳ trước)
60.75
22.4
18.9
140.69
22.1
7.3
254.89
22.6
4.7
3 Cán cân xuất nhập khẩu (tỷ USD) -8.46 -19.99 -27.83
Nguồn: Kinh tế tài chính thế giới, Viện nghiên cứu tài chính, NXB Tài
chính Hà Nội, tháng 2/2000.
BẢNG 6
* Kim ngạch xuất - nhập khẩu Việt Nam – Anh (Đơn vị: triệu USD):
Năm
1995
1996
1997
1998
1999
2000
2001*
KNXNK
XK
NK
XK
NK
XK
NK
XK
NK
XK
NK
XK
NK
XK
NK
Anh (1)
74,6
50,7
125,1
83,7
265,2
103,9
335,8
96,4
421,2
96,5
479,3
150,5
416,7
140,1
Tỷ trọng
(1)/EU
10.36 7.64 13.89 7.33 16.42 7.92 16.15 7.68 16.85 9.08 15.49 11.94 17.61 11.04
Nguồn: - Niên giám thống kê 1999 – 2000
- Phái đoàn đại diện Uỷ ban Châu Âu tại Hà Nội
- Ngoại thương tháng 10/1999, 4/2000, 3/2001, số 36/2001, tr.9
- (*): 10 tháng đầu năm 2001.
BẢNG 7
* Tổng hợp về kim ngạch xuất nhập khẩu hàng hoá giữa Việt Nam và
Vương quốc Anh:
2001 2002 2003 2004
VN XK 492,121 532,958 641,156 750,144
VN NK 090,442 079,970 100,640 105,226
Tổng KN 582,543 612,928 741,796 855,370
1. Năm 2001, tổng kim ngạch XNK đạt 582,543 triệu GBP tăng 13,39% so với năm 2000,
trong đó XK tăng 17%, NK giảm 3%.
2. Năm 2002, tổng kim ngạch XNK đạt 612,928 triệu GBP tăng 5,2% so với năm 2001, trong
đó XK tăng 8,29%, NK giảm 11,5% .
3. Năm 2003, tổng kim ngạch XNK đạt 741,805 triệu GBP tăng 21% so với năm 2002, trong
đó XK tăng 20,3%, NK tăng 25%.
4. Năm 2004, tổng kim ngạch XNK đạt 855,370 triệu GBP tăng 15,3% so với 12 tháng đầu
năm 2003, trong đó XK tăng 17%, NK tăng 4,5%.
* Những mặt hàng, nhóm hàng XK vào Vương quốc Anh có kim ngạch khá trong năm 2004 vừa
qua gồm:
Số TT Mã H.hoá Tên hàng Trị giá (tr.GBP)
1 64011010 Giầy, giầy vải, dép đi trong nhà 420,184
2 94033011 Đồ gỗ nói chung 062,646
3 61011090 Quần áo, quần áo thể thao 058,937
4 87120030 Xe đạp 041,170
5 09011100 Cà phê 016,654
6 94013090 Đệm 015,976
7 03011010 Hải sản 015,650
8 69091200 Gốm 014,750
9 08013200 Hạt điều 011,433
10 62121090 Áo nịt các loại 005,067
Nguồn:
md=item&ID=652.
PHỤ LỤC 3
Tình hình thương mại Việt Nam – vương quốc Anh qua những con số:
* Xuất nhập khẩu 9 tháng Việt Nam – vương quốc Anh theo số liệu của
Hải quan Anh:
- Việt Nam xuất khẩu 566.340.726 bảng Anh tăng 13,7% so với 8 tháng
đầu năm 2004.
- Việt Nam nhập khẩu 79.096.624 bảng Anh tăng 17,68% so với 8 tháng
đầu năm 2004.
Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu 9 tháng 645.437.350 bảng Anh, trong đó
xuất khẩu tăng 21,98%; nhập khẩu tăng 0,03%.
* Nguồn: Tình hình thương mại Việt Nam – Anh quốc qua những
con số/ Bộ Thương mại. Vụ Châu Âu //
22/11.
PHỤ LỤC 4
VIỆT NAM – VƯƠNG QUỐC ANH VÀ BẮC AILEN KÝ HIỆP
ĐỊNH BẢO HỘ ĐẦU TƯ
Ngày 1/8/2002, tại Hà Nội, Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Trần Xuân
Giá và ngài Mac Mclachlan, Đại biện lâm thời Đại sứ quán Liên hiệp Vương
quốc Anh và Bắc Ailen tại Việt Nam đã ký Hiệp định Khuyến khích và Bảo
hộ đầu tư giữa hai nước.
Theo Hiệp định, mỗi bên cam kết dành cho nhà đầu tư của bên kia sự đối
xử công bằng, thoả đáng trong hoạt động đầu tư tại mỗi nước; không tiến
hành trưng thu, quốc hữu hoá tài sản của nhà đầu tư, cho phép nhà đầu tư
chuyển vốn, lợi nhuận, thu nhập hợp pháp ra nước ngoài và thiết lập cơ chế
giải quyết tranh chấp phù hợp với thông lệ quốc tế.
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LA7281.pdf