Quan hệ Việt Nam - EU

Lời mở đầu Cùng với sự ra đời của đồng Euro, năm 1999 là một năm bản lề, đánh dấu sự chuyển mình của Liên hiệp Châu âu trước thềm thế kỷ mới. Sau một thời gian lưu thông trên mạng lưới giao dịch toàn cầu, mặc dù đang phải đối phó với một số khó khăn bước đầu, đồng Euro vẫn là một minh chứng cho vị thế kinh tế vững vàng của Liên hiệp Châu Âu (EU) trên thị trường thế giới. Thêm vào đó, quá trình nhất thể hoá về mặt chính trị và việc tìm kiếm một chính sách đối ngoại và an ninh chung, đặc biệt là

doc13 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1650 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Quan hệ Việt Nam - EU, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
kinh tế đối ngoại cũng đang đạt được những bước tiến đáng kể. Chính vì vậy, có thể khẳng định rằng Liên hiệp Châu Âu đang được tiếp sức trên con đường phát huy vai trò là một trong những việc quan trọng nhất chi phối quan hệ quốc tế. Trên thực tế, từ sau khi quan hệ ngoại giao giữa hai bên chính thức được thiết lập vào 11/1990, mối quan hệ VN - EU ngày càng phát triển mạnh mẽ và toàn diện trên nhiều lĩnh vực. Tuy nhiên, hiện nay mối quan hệ này đang gặp phải một số trở ngại cần khắc phục. Trước thực tế đó, Đảng và Nhà nước ta đã tiếp tục đẩy mạnh việc thực hiện chính sách kinh tế đối ngoại cởi mở đối với EU cũng như đối với từng nước của Liên minh. Để hoạch định một chính sách kinh tế đối ngoại hiệu quả hơn với những bước phát triển mới trong tương lai thì việc nhìn lại gần một thập kỷ mối quan hệ kinh tế Việt Nam - EU không chỉ là một việc mang tính thời sự mà còn là một việc cần thiết và rất bổ ích. I. Vài nét về quan hệ Việt nam - EU trước năm 1991 Trước 1975, EC (Cộng đồng Châu Âu)1 Đến 1993, sau khi Hiệp ước Maastricht có hiệu lực, EC được đổi thành EU (Liên minh Châu Âu), gồm 15 nước thành viên. chỉ có quan hệ với chính quyền miền Nam Việt Nam. Nghị định thư kèm theo Hiệp ước Roma về việc thành lập Cộng đồng kinh tế Châu Âu (1957) đã đưa miền Nam Việt Nam vào danh sách các nước được hưởng chế độ ưu đãi vì là thuộc địa cũ của Pháp. Sau 1975, quan hệ không chính thức giữa EC và Việt Nam dần được thiết lập dưới dạng viện trợ nhân đạo, trực tiếp hoặc thông qua các tổ chức quốc tế. Từ 1977, khi ta thực hiện đẩy mạnh quan hệ với các nước Tây Âu thì quan hệ giữa EC và Việt Nam dần được mở rộng, Việt Nam trở thành một trong những nước được EC viện trợ nhân đạo nhiều nhất (từ 1977 - 1978, viện trợ dưới hình thức này đã lên tới 100 triệu USD)2 Nghiên cứu Châu Âu số 3/1995, trang 56 . Cũng từ 1977, Việt Nam chính thức được hưởng qui chế GSP (hệ thống ưu đãi chung). Từ 1979, quan hệ Việt Nam - EC bị chững lại do việc Việt Nam giúp đỡ cách mạng Campuchia. Chính vì vậy trong thời gian này EC và các nước thành viên đã ngừng hoặc giảm đáng kể viện trợ cho Việt Nam. Tuy nhiên, đến cuối những năm 80, sau khi Việt Nam thực hiện công cuộc đổi mới, quan hệ Việt Nam - EC đã được cải thiện rõ rệt. Hai bên đã nối lại các cuộc tiếp xúc, EC đã gia tăng viện trợ nhân đạo trở lại cho Việt Nam, quan hệ thương mại cũng bắt đầu được thiết lập. Năm 1980, ta xuất sang EC 12,37 triệu ecu3 1 ecu = 1,1USD , năm 1986 con số này là 40,9 triệu ecu và 1989 là 66 triệu ecu4 Hợp tác kinh tế thương mại với EU - Uỷ ban kế hoạch N2, HN 6/95, trang 112 . Từ năm 1989, khi Việt Nam bắt đầu rút quân khỏi Campuchia thì việc thiết lập quan hệ ngoại giao Việt Nam - EC không còn là một thực tế xa vời nữa. Từ 1990, quan hệ Việt Nam - EC đã có những bước tiến liên tục và quan trọng. 17/5/1990, Nghị viện Châu Âu ra nghị quyết ghi nhận cải cách ở Việt Nam và tỏ ý mong muốn cộng đồng cấp viện trợ và thiết lập quan hệ thương mại chính thức với Việt Nam. 22/10/1990, hội nghị Ngoại thương 12 nước EC đã quyết thiết lập quan hệ ngoại giao chính thức với Việt Nam. Như vậy, trước 1991, quan hệ Việt Nam - EC tuy đã được thiết lập qua con đường không chính thức nhưng chưa phát triển trên bình diện rộng. Chỉ từ 1991, trên cơ sở phân tích đánh giá đúng đắn về tình hình khu vực và thế giới, Việt Nam mới thực hiện một chính sách KTĐN cởi mở, hiệu quả hơn với EC. Do vậy, việc đánh giá đúng tình hình thế giới và các xu thế trong quan hệ quốc tế có vai trò rất quan trọng trong việc hoạch định chính sách đối ngoại cũng như chính sách KTĐN của mỗi quốc gia. II. Quan hệ kinh tế đối ngoại Việt Nam - EU. 1. Vấn đề viện trợ : Trước khi Hiệp định khung EU - Việt Nam được ký kết, trong những năm 1990 - 1995, lượng viện trợ của EU dành cho ta là rất lớn nhưng chỉ tập trung chủ yếu trong các khoản viện trợ nhân đạo. Sau khi viện trợ 7 triệu USD giúp người lao động Việt Nam từ Irac về nước trong cuộc chiến tranh vùng vịnh 1990, EU bắt đầu thực hiện chương trình giúp những người Việt Nam ra đi bất hợp pháp hồi hương và tái hòa nhập. Giai đoạn đầu của chương trình này được thực hiện chủ yếu ở Hải Phòng, Quảng Ninh, Thành Phố Hồ Chí Minh vào đầu 1991 với số vốn 12,5 triệu ecu, nhằm trợ giúp cho gần 5000 người Việt Nam hồi hương, xây dựng cơ sở dạy nghề, tạo việc làm để họ nhanh chóng tái hoà nhập. Từ 2/1992, hai bên đã ký văn bản thoả thuận giai đoạn hai của chương trình với số vốn khoảng 102,5 triệu ecu và mở rộng ra khoảng 18 tỉnh thành phố5 Tạp chí nghiên cứu Châu Âu, 3/1995, trang 56 . Mục tiêu của giai đoạn này là đưa khoảng 80000 người trở về và đào tạo nghề nghiệp cho khoảng 28000 người hồi hương. Ngoài các khoản viện trợ nhân đạo, EU còn phối hợp với Việt Nam thực hiện chương trình quốc tế cộng đồng ECIP. Đây là chương trình hợp tác qui mô đầu tiên giữa hai bên dưới sự phối hợp của Cao uỷ Liên Hiệp Quốc về người tị nạn với tổng số trên là 36 triệu ecu.6 Các đối tác hợp tác phát triển của Việt Nam - Hồ sơ các chương trình phát triển - Bộ kế hoạch và đầu tư hợp tác với chương trình phát triển của LHQ, HN 11/1997, tr 3 Chương trình này đã ra nhiều hoạt động, trong đó có 4 lĩnh vực chính là tín dụng, đào tạo,dự án nhỏ và y tế. Tuy nhiên, từ những năm gần đây, các khoản viện trợ của EU cho Việt Nam chuyển dần từ hình thái viện trợ nhân đạo sang chú trọng hơn vào các khoản viện trợ cho phát triển, bao gồm hợp tác phát triển (phát triển nông thôn miền núi, môi trường, y tế) và hợp tác kinh tế (cơ sở hạ tầng, hỗ trợ cải cách kinh tế và hành chính, hỗ trợ hội nhập). Trên thực tế mặc dù đã có những biến dạng trong khu vực Đông Nam á và những khó khăn kinh tế trong nội bộ EU nhưng các khoản viện trợ phát triển ODA của EU cho Việt Nam là không ngừng tăng lên. Năm 1996, các dự án sử dụng ODA của EU đang được thực hiện ở Việt Nam có giá trị 140tr ecu, mức ODA dành cho ta trung bình hàng năm tăng từ 32tr lên 52tr ecu mỗi năm7 Quan hệ VN - EU - Trung tâm hợp tác nghiên cứu QT (CIES), HN, 10/96, trang 79 . Khoản viện trợ không hoàn lại của EU cho các dự án lớn của Việt Nam tăng gấp đôi so với 1995 và EU trở thành tổ chức đa phương viện trợ không hoàn lại nhiều nhất cho Việt Nam trong những năm gần này. Năm 1997, EU thông qua 7 dự án viện trợ cho Việt Nam tập trung cho hai ngành chủ chốt là phát triển nông thôn bằng cách tăng cường xoá đói giảm nghèo và lĩnh vực y tế. Trong lĩnh vực y tế, EU có dự án chống sốt rét trị giá hơn 10 triệu USD và một dự án tổng thể giúp Việt Nam cải tạo hệ thống y tế với tổng giá trị là 30tr USD8 Guide de'Unior Eu rope'ence - Conseil re'gional de la R'egior du Nord - Pas de Calais, 1997, page 124 EU cũng có hai dự án phát triển nông thôn tại các tỉnh miền núi phía Bắc (Sơn la, Cao Bằng, Bắc Cạn, Lai Châu) trị giá 50tr USD9 Tạp chí nghiên cứu Châu Âu, 3/1998, trang 58 , một dự án bảo tồn lâm nghiệp xã hội ở Nghệ An, và một dự án mở rộng hệ thống bảo tồn thiên nhiên ở Việt Nam. Ngoài ra, chương trình trợ giúp kỹ thuật EURO TAP VIET được bắt đầu từ 1994 nhằm tài trợ cho các lĩnh vực bảo hiểm xã hội, quyền sở hữu trí tuệ, bảo hộ hoạt động đầu tư, tiêu chuẩn hoá chất lượng, nâng cấp thông tin, ngân hàng, tín dụng... tạo điều kiện cho Việt Nam chuyển nhanh sang nền kinh tế thị trường vẫn tiếp tục được thực hiện và phát huy hiệu quả. Các khoản viện trợ của EU có ý nghĩa to lớn đối với sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước. Nhất là từ giữa những năm 90, khi mà viện trợ của EU tập trung chủ yếu trong lĩnh vực viện trợ phát triển nhằm tạo cho Việt Nam một sức mạnh kinh tế, quản lý, giáo dục... để hội nhập với thế giới và khu vực. Do đó, viện trợ EU không chỉ là khoản viện trợ lớn nhất mà Việt Nam nhận được từ nước ngoài, kể từ sau sự sụp đổ của Liên Xô mà còn có ý nghĩa hết sức quan trọng và có tác dụng lâu dài và bền vững đối với nền kinh tế còn rất non trẻ của chúng ta. 2. Hợp tác trong lĩnh vực đầu tư: Cho đến 1995, đã có tới 11 nước thành viên (trong tổng số 15) của EU có dự án đầu tư tại Việt Nam. Tính đến 7/1995, đã có 168 dự án đầu tư của EU được cấp giấy phép với tổng số vốn hơn 2,3 tỉ USD chiếm 12% tổng vốn đầu tư của tất cả các dự án nước ngoài đang hoạt động ở Việt Nam, trong đó có 1,4 tỉ USD đã được thực hiện10 Báo cáo hội thảo "Khả năng hợp tác VN - EU" - Trung tâm hợp tác nghiên cứu Quốc tế và Vụ QHQT, Bộ KHCN và MT, HN 1996 . Tuy nhiên, hiệp định khung được ký kết vào giữa năm 1995 đã làm cơ sở pháp lý để Việt Nam tiếp tục ký hàng loạt Hiệp định khuyến khích và bảo hộ đầu tư với các nước thành viên EU, góp phần đẩy nhanh lượng vốn đầu tư toàn Liên minh vào Việt Nam. Trong năm 1996, đã có hơn 326 dự án được cấp giấy phép với số vốn đăng ký là 8538 triệu USD, tăng 19,3% so với 1995 và trong 1997, tổng vốn đầu tư của các nước thành viên EU và vào Việt Nam đạt 32% tổng đầu tư nước ngoài ở Việt Nam. Tính đến hết 2/1998, vốn đăng ký của các nước EU đã lên tới 3,6 tỷ USD11 Tạp chí "Những vấn đề kinh tế thế giới", số 1 năm 1998, trang 17 . Trong các nhà đầu tư EU vào Việt Nam thì Pháp đang dẫn đầu danh sách và đứng thứ 8 trong các nhà đầu tư nước ngoài ở Việt Nam12 Theo (6), trang 5 . Nước Đức về phần mình, cũng đang thực hiện các dự án thăm dò trên các lĩnh vực viễn thông, sản xuất và lắp ráp xe tải, xi măng,... nhưng số vốn đầu tư của Đức tại Việt Nam chỉ đạt mức: 30,5tr USD trong năm 199513 Đầu tư nước ngoài ở một số nước Đông Nam á - NXB KHXH, HN 1997, tr 74 . Cùng với thái độ còn dè dặt, các nhà đầu tư Anh cũng đang khảo sát, môi trường đầu tư ở Việt Nam. Tuy nhiên, đến 1995, số vốn đầu tư của Anh đã lên tới 345trUSD14 Đầu tư nước ngoài ở một số nước Đông Nam á - NXB KHXH, HN 1997, tr 74 , một con số tương đối lớn so với các nhà đầu tư Châu Âu khác. Mặt khác, trong 1,5 tỉ USD của Hồng Kông đầu tư vào Việt Nam thì đã có đến 35% là của Anh và trong tổng số vốn đầu tư của Singapore ở Việt Nam thì 20% là của các nhà đầu tư Anh15 Tạp chí nghiên cứu Châu Âu, 1/1995, tr 59 . Các dự án khác của các nước thành viên còn lại chủ yếu mang tính chất thăm dò và có quy mô nhỏ. Về phần mình, một số tổ chức kinh tế Việt Nam cũng bước đầu đầu tư vào thị trường Châu Âu, nhưng do một số điều kiện khách quan và chủ quan, con số này còn quá ít ỏi. Toàn bộ các dự án đầu tư trực tiếp của Việt Nam vào Châu Âu đều được áp dụng dưới hình thức xí nghiệp liên doanh và tập trung vào lĩnh vực khai thác chế biến thủy sản, dịch vụ hàng hải và dịch vụ thương mại. Trong đó có thể kể đến dự án "Fareast shipping and trading" giữa Liên hiệp hàng hải Việt Nam với công ty Chemex của Anh, dự án xuất khẩu chè giữa công ty xuất nhập khẩu và đầu tư phát triển chè Việt Nam với công ty R.E.A Holding PLC của Anh, dự án xuất khẩu nông sản thực phẩm giữa công ty xuất nhập khẩu Vinalimex của Việt Nam với công ty Vietthai LTD của Pháp. Tuy nhiên, một thực tế đáng tiếc là các công ty của Việt Nam chưa tìm được chỗ đứng trong thị trường đầu tư ở Châu Âu. Lý do không phải là ở chỗ quan hệ Việt Nam - EU chưa đủ mật thiết, mà lý do chính ở đây là trên thực tế, các công ty của Việt Nam chưa có đủ thực lực để hoạt động có hiệu quả ở thị trường đầu tư rộng lớn này. Như vậy, có thể thấy rằng các nhà đầu tư Châu Âu đã không ngừng tăng cường các dự án ở Việt Nam, nhưng thái độ còn khá dè dặt và lượng vốn chưa nhiều. "Các doanh nghiệp vừa và nhỏ vốn là mô hình phát triển năng động nhất ở Châu Âu vẫn chưa tìm được chỗ đứng cho mình tại Việt Nam"16 Lời phát biểu của đại diện EU trong cuộc Hội thảo "Môi trường đầu tư ở VN", Bộ kế hoạch và Đầu tư, 12/1996. . Tuy nhiên, một điều đáng mừng là chất lượng đầu tư của EU vào Việt Nam lại khá cao, bởi lẽ các nhà đầu tư EU chú trọng đến đầu tư vào cải thiện dây chuyền sản xuất, do vậy, có ý nghĩa lâu dài và bền vững cho sự phát triển của Việt Nam. Đó chính là điều mà Việt Nam chưa tìm thấy được ở các nhà đầu tư Châu á vốn chỉ chú trọng đến các lĩnh vực đầu tư sinh lợi trước mắt như du lịch và dịch vụ. 3. Trao đổi thương mại hai chiều: Ngay sau khi quan hệ ngoại giao giữa Việt Nam và EU được thiết lập, trao đổi thương mại giữa hai bên đã không ngừng tăng lên. Từ đầu những năm 90, kim ngạch nhập khẩu hàng hoá đến từ EU của Việt Nam đã là một con số không nhỏ. Nếu như năm 1990 đạt 87,2tr USD thì 1992 đã là 311,7 triệu USD, tốc độ nhập khẩu tăng bình quân thời kỳ này là 7,8% một năm17 Hợp tác kinh tế và thương mại với EU, Uỷ ban kế hoạch nhà nước, 11/1995, trang 101 . Sự hiện diện của hàng hoá đến từ các nước EU ngày càng có vị trí quan trọng trong hoạt động nhập khẩu của Việt Nam. Cho đến 1995, Việt Nam đã nhập hàng hoá của 8 nước thành viên EU là Anh, Pháp, Đức, ý, Hà Lan, Bỉ, Đan Mạch, Hy Lạp. Nhưng trong thực tế, khối lượng nhập khẩu tập trung chủ yếu vào 3 nước Pháp, Đức và Hà Lan, chiếm 86,5% giá trị xuất khẩu của EU sang Việt Nam18 Hợp tác kinh tế và thương mại với EU, Uỷ ban kế hoạch nhà nước, 11/1995 trang 139 - 141 . Việt Nam chủ yếu nhập từ EU các sản phẩm công nghiệp cao: thiết bị, máy móc, hoá chất, sắt thép và thành phẩm các loại. Về phần mình, Việt Nam coi EU là một thị trường trọng điểm tại Châu Âu sau khi thị trường truyền thống Việt Nam ở Liên Xô và đông Âu không còn nữa. Năm 1989, kim gạch xuất khẩu của Việt Nam sang EU đạt 9,7 triệu USD thì năm 1992 đã lên tới 198,9 triệu USD riêng 8 tháng đầu năm 1993, sau khi hiệp định không được ký tắt thì xuất khẩu dệt may của Việt Nam sang EU đạt 180,2 triệu USD gần bằng giá trị xuất khẩu của cả năm 1992. Con số này tăng đến 285 triệu USD 1994 và đạt 300 triệu USD19 Những điều cần biết về thị trường EU, NXB HCQG, HN 96, trang 19- 23 . Sau 1995, Hiệp định khung đã được ký kết, tạo khuôn khổ pháp lý thúc đẩy trao đổi thương mại giữa hai bên. Hiệp định khung ghi rõ: EU sẽ đảm bảo các điều kiện khuyến khích gia tăng phát triển đầu tư và thương mại hai chiều vì lợi ích chung, đồng thời danh cho nhau chế độ tối huệ quốc về thương mại. Đồng thời, trong chiến lược 1996 - 2000, EU cũng cam kết sẽ tạo điều kiện thuận lợi để phát triển mậu dịch hai chiều và hợp tác chặt chẽ với Việt Nam trong việc giải quyết các vụ việc nảy sinh (kiểm soát nguồn gốc hàng hoá, kiểm tra chất lượng sản phẩm, chống gian lận thương mại...). Trên thực tế, sau khi hiệp định khung và chiến lược 1996 - 2000 có hiệu lực, kim ngạch buôn bán giữa Việt Nam và EU không ngừng tăng lên. Năm 1997, thương mại hai chiều đạt 2,8 tỷ USD, tăng 30% so với năm 1994, 7 lần so với năm 1991, 14 lần so với năm 1990. Trao đổi thương mại năm 1998 lại tăng 20% so với năm 1997, trong đó, hàng dệt may đạt 700trUSD, chiếm 40% tổng kim ngạch xuất khẩu dệt may của ta ra nước ngoài20 Tạp chí VN và ĐNA ngày nay, số 21 tháng 11/1998, trang 4 . Sang 1999, giá trị xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam sang EU sẽ lại càng tăng lên sau khi Hiệp định dệt may 1998 - 2000 được ký kết, có hiệu lực từ tháng 12/1998. Hiệp định này cho phép giảm số lượng hàng chịu sự quản lý bằng hạn ngạch từ 54 xuống 29 loại. Đồng thời, hạn ngạch các chủng loại mà Việt Nam có nhu cầu xuất khẩu sẽ tăng trong khoảng 25 - 30%, tỷ lệ dồn hạn ngạch qui định cho các chủng loại xuất khẩu ít sang các chủng loại xuất khẩu nhiều tăng từ 12 đến 17%, Việt Nam có thể sử dụng phần hạn ngạch không sử dụng hết của các nước ASEAN tới mức 10% hạn ngạch của Việt Nam và EU sẽ không phân biệt đối xử giữa doanh nghiệp Việt Nam với doanh nghiệp có vốn EU trong phân bố hạn ngạch. Ngoài Hiệp định hàng dệt may mới được ký kết, EU cũng đã xếp hàng thuỷ sản của Việt Nam vào nhóm 1 - hàng hoá của các nước thường xuyên xuất khẩu vào EU. Với những hiệp định thương mại đã ký kết, EU trở thành bạn hàng thứ hai về kim ngạch tiêu thụ hàng xuất khẩu của Việt Nam và hiện nay, Việt Nam đang xuất siêu sang thị trường EU, chủ yếu là hàng tiêu dùng, đồ dệt may, giầy dép, nông sản, thuỷ sản, than đá và thủ công mỹ nghệ. Trong các nước EU thì Pháp, Đức, Anh và Hà Lan là những bạn hàng lớn nhất, thu hút 90% hàng hoá của Việt Nam xuất sang toàn Liên minh21 Hợp tác kinh tế và Thương mại với EU, UB kế hoạch nhà nước, 11/1995, trang 101 . Tuy nhiên, giá trị xuất khẩu của Việt Nam vào EU vẫn chưa thực sự đáng kể. Mới chỉ chiếm 2% tổng kim ngạch buôn bán ngoài khối của các nước EU22 Tình hình xuất nhập khẩu của VN từ 1991 - 1996, Bộ Thương mại, HN 1997, trang 57 . Mặt khác, hàng của ta xuất sang chủ yếu là hàng thô, nguyên liệu, nông lâm hải sản trong khi hàng nhập từ EU chủ yếu là thành phẩm với giá cả cao hơn. Hơn nữa, hạn ngạch EU dành cho ta còn thấp, lại luôn đi kèm với yêu cầu phía Việt Nam mở rộng hơn nữa thị trường nội địa cho các sản phẩm của EU (rượu, thuốc tây), giảm hàng rào thuế quan và phi thuế quan nhằm giảm thâm hụt thương mại của EU đối với ta và yêu cầu phía Việt Nam tạo điều kiện để EU thành lập một số công ty bảo hiểm 100% vốn EU tại Việt Nam. Đồng thời EU cũng lo ngại ta dành cho Mỹ những ưu đãi hơn để thúc đẩy bình thường hoá quan hệ thương mại Việt - Mỹ, do đó ta có thể phân biệt đối xử với các công ty của EU. Để xoá bỏ những lo ngại trên của phía EU, Việt Nam chủ trương tuyên truyền để bạn hiểu được rằng sẽ không có phân biệt đối xử giữa các công ty EU và các công ty Mỹ, đồng thời cải cách một số qui định về tài chính ngân hàng để phù hợp với thông lệ quốc tế và không gây tổn thất cho các công ty của EU. Mặt khác, ta phải tiếp tục duy trì những ưu đãi mà hiện nay EU đang dành cho ta bằng cách tận dụng hệ thống GSP và đề nghị EU dành ưu đãi hơn nữa cho ta trong việc xuất khẩu những mặt hàng truyền thống của Việt Nam sang EU. Tóm lại, dù trong hoạt động trao đổi thương mại Việt Nam - EU vẫn còn những nghi ngại nhưng trên thực tiễn, quan hệ thương mại với EU đã giúp Việt Nam tiêu thụ được những mặt hàng xuất khẩu thế mạnh của mình. Nhất là trong khi quan hệ thương mại giữa Việt Nam và Mỹ lại chưa tiến triển và những mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam lại gặp sự cạnh tranh khá gay gắt của các nước ASEAN, là những nước vốn có cơ cấu hàng xuất khẩu giống cơ cấu hàng xuất khẩu của ta. Với những chính sách đúng đắn và hiệu quả của Đảng và Nhà nước, chúng ta sẽ thu được những thành tựu mới trong việc thúc đẩy và triển khai mối quan hệ hợp tác với EU trong thời gian tới. Lời kết Ngày nay, xu thế toàn cầu hoá và những biến đổi trong quan hệ quốc tế sau chiến tranh lạnh đang mở ra cho Việt Nam những cơ hội mới và những thách thức không nhỏ. Do đó, hoạch định một chính sách kinh tế đối ngoại sao cho đúng đắn, phù hợp với những thay đổi của đất nước, khu vực và thế giới là một nhiệm vụ vô cùng quan trọng của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta. Dựa trên những điều kiện thuận lợi do hoàn cảnh đất nước, khu vực và quốc tế đem lại, kết hợp với sự song trùng về lợi ích giữa Việt Nam và EU trong việc thiết lập và phát triển mối quan hệ đối tác hai bên cùng có lợi. Mối quan hệ này đã được thể chế hoá thông qua các Hiệp định hợp tác được ký kết và được triển khai một cách có hiệu quả trên các lĩnh vực của đời sống xã hội đặc biệt lĩnh vực kinh tế đối ngoại. Có thể khẳng định rằng một chính kinh tế đối ngoại đúng đắn, phù hợp, Việt Nam không những đã thiết lập và triển khai một cách có hiệu quả mối quan hệ hợp tác kinh tế (hữu nghị) với EU mà còn tạo dựng mối quan hệ này thành một nhân tố tích cực cho công cuộc xây dựng đất nước của Việt Nam trước ngưỡng cửa thế kỷ 21. Tài liệu tham khảo I/ Sách: 1. Các đối tác hợp tác phát triển của Việt Nam. Hồ sơ các chương trình phát triển. Bộ kế hoạch và đầu tư hợp tác với chương trình phát triển của LHQ, Hà Nội 1997. 2. Đầu tư nước ngoài ở một số nước Đông Nam á, NXB KHXH, Hà Nội 1997. 3. Hỏi đáp về tình hình thế giới và chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta. Học viện Chính trị quốc gia, Hà Nội 1997. 4. Hợp tác kinh tế và thương mại với EU. Uỷ ban kế hoạch nhà nước, Hà Nội 1995. 5. Liên minh Châu Âu. Học viện QHQT, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội 1995. 6. Những điều cần biết về thị trường EU, NXB Hành chính quốc gia, Hà Nội 1996. 7. Quan hệ Việt Nam - EU. Trung tâm hợp tác nghiên cứu quốc tế (CIES), Hà Nội 1996. 8. Tình hình xuất nhập khẩu của Việt Nam từ 1991 - 1996. Bộ Thương mại, Hà Nội 1997. II/ Bài phát biểu, biên bản hội thảo: 9. Hội thảo" Môi trường đầu tư ở Việt Nam". Bộ kế hoạch và Đầu tư, HN 12/96. 10. Hội thảo "Khả năng hợp tác Việt Nam - EU". Trung tâm hợp tác nghiên cứu quốc tế và Vụ QHQT, Bộ KHCN và MT, HN 10/1996. 11. Phát biểu của Thứ trưởng Ngoại giao Việt Nam Chu Tuấn Cáp tại cuộc gặp đại sứ các nước thành viên EU tại Hà Nội ngày 26/11/1998. III/ Tạp chí: 12. Bước phát triển mới trong quan hệ Việt Nam - EU. Tài liệu TKĐB 27/6/1998. 13. Các TCPCP của Anh hoạt động tài trợ tại Việt Nam trong 1997 - 1998. Nguyễn Đức Uyên, tạp chí nghiên cứu Châu Âu, số 3/1998. 14. Chiến lược của các doanh nghiệp Châu Âu hướng về Châu á. J.R. Chaponnierein, tạp chí Nghiên cứu Châu Âu số 1/1997. 15. Đầu tư của nước ngoài tại Việt Nam, vị trí của Châu Âu còn thấp nhưng đầy hứa hẹn. Lê Mạnh Tuấn, tạp chí Nghiên cứu Châu Âu số 1/1995. 16. Đầu tư của Liên minh Châu Âu tại Việt Nam. Hoàng Hải, tạp chí Nghiên cứu Châu Âu số 12/1996. 17. EU - ASEAN những quan hệ đang được thúc đẩy. Bùi Huy Khoát, tạp chí Nghiên cứu Châu Âu số 2/1995. 18. EU tài trợ vốn cho doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Việt Nam. Nguyễn Thị Thanh Vân, tạp chí NC Châu Âu số 3/1998. 19. Tác động của tiến trình liên kết Châu Âu đối với Việt Nam. Bùi Huy Khoát, tạp chí NC Châu Âu số 1/1999. 20. Hiệp định hợp tác thương mại Việt Nam - EU một bước ngoặt lịch sử. Lê Khanh, tạp chí NC Châu Âu số 3/1995. ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docR0133.doc
Tài liệu liên quan