Quan hệ Trung - Mỹ từ 2001 đến 2005 (Trung Quốc - Hoa Kỳ)

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH ___________________________ Nguyễn Phương Lan QUAN HỆ TRUNG – MỸ TỪ 2001 ĐẾN 2005 Chuyên ngành: Lịch sử thế giới Mã số: 60 22 50 LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS.LÊ PHỤNG HOÀNG Thành phố Hồ Chí Minh - 2007 MỞ ĐẦU 1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI VÀ MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU Thời kì chiến tranh lạnh đã chấm dứt. Cả thế giới bước vào những năm đầu của thế kỷ XXI với xu thế hịa bình, hợp tác. Tuy nhiên,

pdf99 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 2245 | Lượt tải: 1download
Tóm tắt tài liệu Quan hệ Trung - Mỹ từ 2001 đến 2005 (Trung Quốc - Hoa Kỳ), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
kỷ nguyên hịa bình thực sự cho tồn thể nhân loại trên hành tinh cĩ lẽ cịn khá lâu mới cĩ thể đạt đến. Những mâu thuẫn và xung đột sắc tộc, tơn giáo, nạn khủng bố quốc tế, rồi nội chiến, chiến tranh cục bộ… vẫn diễn ra gay gắt ở nhiều nơi. Quan hệ giữa các nước lớn từ sau chiến tranh lạnh đến nay vẫn chứa đựng nhiều yếu tố phức tạp khĩ lường, cục diện thế giới vừa mâu thuẫn, vừa hợp tác, vừa cạnh tranh sẽ tồn tại trong một thời gian dài. Cĩ nhiều nhân tố chủ quan và khách quan thúc đẩy sự hợp tác, liên kết giữa các nước lớn những năm đầu thế kỷ XXI, nhưng trong sâu xa quan hệ giữa họ vẫn chứa đầy mâu thuẫn, xung đột và cĩ ảnh hưởng hết sức to lớn đến đời sống chính trị, kinh tế, an ninh quốc phịng của thế giới. Trong đĩ, quan hệ Mỹ – Trung Quốc là một trong những mối quan hệ cĩ ý nghĩa quan trọng khơng chỉ ở tầm khu vực mà cịn cĩ ý nghĩa trên tồn cầu. Kể từ khi Chiến tranh lạnh kết thúc đến nay, Mỹ vẫn duy trì được ưu thế vượt trội và là cường quốc duy nhất cĩ ảnh hưởng chi phối ở cấp độ tồn cầu. Với tư cách là siêu cường thế giới duy nhất, trước mặt Mỹ khơng gặp phải thách thức quân sự –an ninh từ bất cứ nước lớn nào. Tuy nhiên, Mỹ lại đang đứng trước những đe dọa an ninh mới. Đĩ là việc khơng ngăn chặn được sự phổ biến vũ khí giết người hàng loạt; sự gia tăng của chủ nghĩa khủng bố quốc tế, tội phạm cĩ tổ chức…Đặc biệt, sự kiện 11/9/2001 đã cho thấy các nguy cơ, thách thức đối với an ninh Mỹ trở nên hết sức phức tạp và khĩ lường. Từ thực tế đĩ, chiến lược của Mỹ dưới thời Goerge W.Buse đã cĩ những điều chỉnh lớn, “chống khủng bố trở thành ưu tiên chiến lược, an ninh quân sự trở thành trụ cột hàng đầu, châu Á – Thái Bình Dương trở thành trọng điểm số 1”.[26, tr.297]. Với việc chuyển trọng điểm của Mỹ từ châu Âu sang châu Á – Thái Bình Dương, đối sách của Mỹ với Trung Quốc càng trở nên quan trọng hơn khi Trung Quốc vừa là đồng minh trong cuộc chiến chống khủng bố, giải quyết vấn đề khủng hoảng hạt nhân, vừa là đối tác cạnh tranh đáng gờm của Mỹ ở khu vực châu Á – Thái Bình Dương và cĩ thể cả trên thế giới. Về phía Trung Quốc, đây là quốc gia cĩ tiềm năng to lớn về nhiều mặt (cả về diện tích, dân số, sức mạnh kinh tế, chính trị, an ninh quốc phịng…). Sau nhiều năm cải cách mở cửa thành cơng, Trung Quốc bước vào thời kì sau Chiến tranh lạnh với thế và lực ngày càng gia tăng. Mục tiêu đối ngoại được đặt ra là : “sớm đưa Trung Quốc trở thành một cường quốc khu vực và thế giới trong một thế giới đa cực, đa trung tâm; phải đĩng vai trị lãnh đạo ở khu vực châu Á – Thái Bình Dương và trên thế giới trong tương lai khơng xa. Để đạt được mục tiêu chiến lược trên, Trung Quốc phải tập trung thực hiện hai mục tiêu cơ bản: Thứ nhất, tiếp tục tăng cường sức mạnh quốc gia tổng hợp cũng như từng mặt kinh tế, chính trị, quân sự, văn hĩa. Thứ hai, tăng vị thế quốc tế và mở rộng ảnh hưởng quốc tế của Trung Quốc. Đối với khu vực châu Á – Thái Bình Dương, Trung Quốc muốn xây dựng một khu vực hịa bình, ổn định, khơng để điểm nĩng trở thành xung đột vũ trang, đồng thời tăng cường ảnh hưởng chi phối của Trung Quốc ở khu vực, trước hết ở Đơng Á và sớm đưa Đài Loan thống nhất đại lục”. [26, tr.310- 311]. Và trong chính sách đối ngoại của mình, Trung Quốc coi quan hệ ổn định với Mỹ cĩ ý nghĩa chiến lược quan trọng. Như vậy, với sự sụp đổ của Liên Xơ tạo ra thực tế Mỹ là siêu cường duy nhất trên thế giới, đồng thời tạo ra cho Trung Quốc cơ hội để vươn lên trở thành một cường quốc tồn diện. Trong khi Nga cịn gặp nhiều khĩ khăn ở trong nước, Nhật Bản chưa trở thành một cường quốc chính trị trong một tương lai gần, rõ ràng Mỹ và Trung Quốc sẽ là các nước đĩng vai trị chủ yếu đối với các vấn đề của thế giới, đặc biệt ở khu vực châu Á – Thái Bình Dương. Như Đặng Tiểu Bình nhận định:”Quan hệ Trung – Mỹ tốt hay xấu, phát triển hay thối trào khơng những cĩ ảnh hưởng rất lớn đến quan hệ kinh tế, thương mại, và cả các lĩnh vực khác giữa hai nước, mà cịn tác động đến sự ổn định và hịa bình của khu vực và thế giới”.[25, tr.125]. Xuất phát từ mục đích tìm hiểu về hai cường quốc Mỹ và Trung Quốc, hai nước lớn trong một trật tự thế giới đa cực đang hình thành, đặc biệt là tìm hiểu về mối quan hệ Trung – Mỹ trong bối cảnh thế giới mới, tơi đã chọn đề tài “Quan hệ Trung – Mỹ từ năm 2001 đến 2005” để thực hiện luận văn cao học. Đây là những năm đầu tiên của thế kỷ mới, cả Mỹ và Trung Quốc đều cĩ những đối sách quan trọng để thích ứng với tình hình thế giới trong xu thế mới. Việc nghiên cứu đề tài khơng chỉ cĩ ý nghĩa khoa học mà cịn mang ý nghĩa thực tiễn. Đây là thời điểm Việt Nam mở rộng cửa với thế giới bên ngồi, việc nghiên cứu hai cường quốc lớn ở khu vực châu Á – Thái Bình Dương chắc chắn sẽ giúp chúng ta rút ra những bài học kinh nghiệm cần thiết trong quan hệ quốc tế, gĩp phần quan trọng trong cơng cuộc xây dựng và phát triển đất nước hiện nay. Đề tài cũng sẽ gĩp phần bổ sung những tư liệu cần thiết cho tơi để phục vụ cho việc giảng dạy Lịch sử ở Trường phổ thơng trong phần Quan hệ quốc tế. 2. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU CỦA ĐỀ TÀI Để đảm bảo tính hệ thống và lơgic của vấn đề, trong chương 1, luận văn sẽ trình bày khái quát những thăng trầm trong quan hệ Trung – Mỹ từ khi nước Cộng hịa nhân dân Trung Hoa ra đời năm 1949 cho đến năm 2000. Nội dung chương 2 trình bày vấn đề nghiên cứu chính của luận văn, đĩ là mối quan hệ giữa Trung Quốc và Mỹ trên các lĩnh vực kinh tế- thương mại, chính trị- an ninh từ năm 2001 đến 2005. Quan hệ kinh tế – thương mại là một phần trong bài tốn quan hệ Trung – Mỹ, nhưng lại đĩng vai trị vơ cùng quan trọng. Ngày 11 tháng 12 năm 2001 Trung Quốc chính thức gia nhập WTO. Việc giúp Trung Quốc gia nhập WTO là định hướng chính sách kinh tế cĩ tầm quan trọng hàng đầu đối với Mỹ. Mục tiêu của Mỹ là đưa Trung Quốc vào sân chơi chung của thương mại tồn cầu và chiếm lĩnh được nhiều hơn thị trường Trung Quốc. Đối với Trung Quốc thì đây là cơ hội để tăng cường vị thế chính trị của mình cũng như tăng cường lợi ích kinh tế. Luận văn sẽ tìm hiểu Mỹ và Trung Quốc sẽ phát huy những lợi ích đạt được của mình như thế nào. Vấn đề thứ hai trong quan hệ kinh tế – thương mại Trung – Mỹ mà luận văn đề cập đĩ là sự thâm hụt thương mại của Mỹ với Trung Quốc ngày càng tăng (từ 29,51 tỷ USD năm 1994 lên 83,83 tỷ USD năm 2000; 103,6 tỷ năm 2002 và 114,09 tỷ năm2003; 200 tỷ năm 2005). Việc giải quyết bài tốn thâm hụt thương mại được dự báo sẽ là vấn đề nan giải nhất trong quan hệ Trung – Mỹ năm 2006. Quan hệ chính trị –an ninh : Cả Trung Quốc và Mỹ bước vào những năm đầu thế kỷ XXI đều cĩ những thay đổi về chiến lược đối ngoại, đặc biệt trong mối quan hệ Trung – Mỹ. Cả hai đều nhận thức được tầm quan trọng của việc duy trì mối quan hệ ổn định giữa hai nước. Đặc biệt ở khu vực châu Á – Thái Bình Dương khi mà chưa cĩ được một cơ chế an ninh tồn diện và hiệu quả, khi mà các nước lớn khác như Nga, Nhật Bản, An Độ đều đang muốn tăng cường ảnh hưởng thì hợp tác Mỹ – Trung được cả hai nhận thức là một tiền đề quan trọng để đảm bảo lợi ích chiến lược của cả hai bên. Bên cạnh đĩ, trong việc giải quyết một số vấn đề tồn cầu (khủng bố quốc tế, khủng hoảng hạt nhân…) cả hai bên đều cần đến sự phối hợp, hợp tác của nhau. Luận văn sẽ lần lượt trình bày chiến lược đối ngoại của từng nước trong những năm 2001-2005 nêu bật sự hợp tác cũng như phân tích những điểm khác biệt gây nên những mâu thuẫn trong quan hệ Trung –Mỹ. Và trong chương 3, luận văn đề cập đến những dự báo về chiều hướng phát triển quan hệ Trung – Mỹ ra sao trong tương lai, đặc biệt là tác động của nĩ đối với khu vực châu Á – Thái Bình Dương. 3. LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU VẤN ĐỀ Quan hệ Trung – Mỹ là vấn đề được các nhà nghiên cứu rất quan tâm, sau đây là một số cơng trình nghiên cứu trong những năm gần đây: Năm 2001, trong bản thảo “Lịch sử quan hệ quốc tế từ sau 1945 đến nay “của tác giả Lê Vinh Quốc ( chủ biên) – Lê Phụng Hồng, đã trình bày khái quát lịch sử quan hệ Trung Quốc – Hoa Kỳ với những bước thăng trầm trong 3 giai đoạn: 1949-1971, 1971- 1975 và từ 1976 trở về sau. Đặc biệt là vấn đề Đài Loan được xem là trung tâm cho mối quan hệ Trung – Mỹ. Kết thúc Chiến tranh lạnh, Mỹ vẫn giữ vai trị số 1 thế giới, Trung Quốc nổi lên với vai trị nước lớn, trở thành đối thủ cạnh tranh của Mỹ. Rất nhiều những bài nghiên cứu về chiến lược đối ngoại của cả Mỹ và Trung Quốc. Năm 2003, cuốn sách “Quan hệ quốc tế “của Học viện Chính trị quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh đã đánh giá những nhân tố chi phối chính sách đối ngoại của các nước lớn thời kì sau Chiến tranh lạnh. Đối với Mỹ, dù ở vị thế siêu cường thế giới duy nhất, trước mắt Mỹ khơng gặp phải thách thức quân sự từ bất kỳ nước lớn nào, nhưng Mỹ lại đang đứng trước những đe dọa an ninh mới. Quyển sách đã cung cấp những điều chỉnh trong chiến lược đối ngoại qua 3 đời Tổng thống sau Chiến tranh lạnh để đối phĩ với những đe dọa mới. Đối với Trung Quốc, các tác giả trình bày những nội dung chủ yếu trong chính sách đối ngoại của Trung Quốc nhằm thực hiện mục tiêu cụ thể là: sớm đưa Trung Quốc trở thành một cường quốc khu vực và thế giới trong một thế giới đa cực, đa trung tâm; phải đĩng vai trị lãnh đạo ở khu vực châu Á – Thái Bình Dương và trên thế giới trong tương lai khơng xa. Trong cuốn sách “Chính sách đối ngoại Hoa Kỳ: Động cơ của sự lựa chọn trong thế kỷ XXI’ của Bruce W. Jentleson, ấn hành năm 2000 đã đi sâu phân tích một số nội dung cơ bản của quá trình hoạch định chính sách mới, cũng như những lựa chọn và thách thức đang đặt ra cho chính sách đối ngoại Mỹ trong thế kỷ XXI; qua đĩ làm rõ mục tiêu và động cơ lưạ chọn, những thay đổi và điều chỉnh trong chính sách đối ngoại Mỹ trước diễn biến mới của tình hình. Trong đĩ quan hệ với Trung Quốc trên nhiều lĩnh vực được đặt ra, cân nhắc với những lựa chọn quyền lực, hịa bình, thịnh vượng hay các nguyên tắc nhằm đạt được lợi ích quốc gia của Mỹ. Năm 2003, với tiêu đề :”Quan hệ Mỹ – Trung: đối tác chiến lược hay đối thủ chiến lược? “, nghiên cứu của thạc sĩ Phạm Cao Phong đã đề cập đến việc xác định thực chất của quan hệ Trung – Mỹ qua việc tìm hiểu vị trí của Trung Quốc và Mỹ trong chính sách đối ngoại của mỗi nước. Hai nước xác dịnh nhau là bạn hay là thù, từ đĩ sẽ xác định những nhân tố thuận và khơng thuận chi phối quan hệ Trung – Mỹ: lợi ích chi phối quan hệ Trung – Mỹ, trong các lợi ích đĩ, lợi ích nào là lâu dài, lợi ích nào là ngắn hạn; đặc điểm quan hệ hai nước là gì, quan hệ hai nước cĩ thể cĩ những hợp tác về chiến lược như trong thập kỷ 1970 và 1980 hay khơng, nếu khơng thì hai nước cĩ thể hợp tác với nhau đến mức độ nào, nếu hai nước cạnh tranh nhau thì mức độ nghiêm trọng sẽ đến đâu. Năm 2004, nhân dịp kỷ niệm 55 năm thành lập nước CHND Trung Hoa, kỷ yếu hội thảo “Cộng hịa nhân dân Trung Hoa- 55 năm xây dựng và phát triển” đã tập hợp rất nhiều bài viết về những thành tựu trong cơng cuộc cải cách, mở cửa, hiện đại hĩa, về quá trình vận động đầy khĩ khăn nhiều thăng trầm của Trung Quốc trong bối cảnh quốc tế cĩ nhiều biến động. Đây sẽ là những bài học kinh nghiệm lịch sử và gợi mở những dự báo về tương lai cho chính chúng ta. Một trong những vấn đề trong quan hệ Trung –Mỹ được các nhà nghiên cứu quan tâm đĩ chính là cả hai quốc gia cùng bắt tay tham gia giải quyết các vấn đề an ninh ở khu vực châu Á – Thái Bình Dương. Năm 2004, bài viết “Chu kì hịa dịu mới trong quan hệ Mỹ – Trung sau sự kiện 11-9: cơ sở và triển vọng” của Thạc sĩ Lê Linh Lan đăng trong tạp chí Nghiên cứu quốc tế số 55 đã bàn về sự điều chỉnh sách lược từ cả hai phía Mỹ và Trung Quốc sau sự kiện 11- 9. Điều đặt ra là quan hệ Trung – Mỹ: cải thiện lâu dài hay nhất thời? Theo tác giả, xét từ gĩc độ cạnh tranh chiến lược, khi cuộc đấu tranh chống khủng bố lắng xuống thì Trung Quốc vẫn là đối thủ chủ yếu của Mỹ ở khu vực. Sự thỏa hiệp chiến lược giữa Mỹ và Trung Quốc vẫn là một viễn cảnh xa vời. Hiện nay, trong khi Mỹ đang bận rộn với chiến dịch chống khủng bố, Trung Quốc đang tập trung sức lực cho phát triển kinh tế và hiện đại hĩa quân đội thì quan hệ hai nước tạm thời ở trong một tình trạng ổn định tương đối. Cũng đồng quan điểm, trong bài “Những nét chính trong chiến lược đối ngoại của Trung Quốc sau đại hội 16” tác giả Nguyễn Trung Hiếu – nghiên cứu viên Ban Đơng Bắc Á, Học viện Quan hệ quốc tế cũng đã nêu về sự thay đổi các ưu tiên chiến lược đối ngoại của Trung Quốc. Một trong những ưu tiên đĩ là tranh thủ sự hợp tác với bên ngồi. Song song với thu hút đầu vào, Trung Quốc cũng tích cực đẩy mạnh “đưa vốn ra bên ngồi, trong đĩ ưu tiên hợp tác với các nước phát triển, đặc biệt là với Mỹ”. Phương châm trong việc xử lý quan hệ với Mỹ sẽ vẫn là “đối đầu nhưng khơng đối kháng”, “đấu trí nhưng khơng đấu khẩu” nhằm tránh đẩy quan hệ Trung – Mỹ đi đến chỗ đổ vỡ hoặc ở mức quá xấu, bất lợi cho quan hệ hợp tác kinh tế. Vấn đề Đài Loan và việc giải quyết khủng hoảng hạt nhân ở Bắc Triều Tiên là những tiêu đề được quan tâm nghiên cứu và giới thiệu trên các website báo điện tử, đặc biệt trong những năm đầu thế kỷ, đặc biệt trong các bài viết: “Chiến lược Đơng Bắc Á của Trung Quốc” của tác giả Tăng Phẩm Nguyên đăng trên Hay “Nhìn lại quá trình thương lượng Mỹ – Bắc Triều Tiên về tên lửa và vũ khí hạt nhân “ của Đỗ Trọng Quang đăng trên tạp chí châu Mỹ ngày nay, số 8-2005. Đài Loan cĩ vĩnh viễn trở thành nỗi đau trong lịng nhân dân Trung Quốc hay khơng? Đĩ là câu hỏi được tác giả Lưu Kim Hâm đặt ra trong quyển “Trung Quốc – Những thách thức nghiêm trọng của thế kỷ XXI” viết về quan hệ Trung- Mỹ trong việc giải quyết vấn đề Đài Loan. Năm 2006, cuốn sách “Các vấn đề chính trị quốc tế ở châu Á – Thái Bình Dương”, tác giả Michael Yahuda được tái bản lần hai. Trong đĩ tác giả khơng chỉ đánh giá về những bất ổn thách thức tình hình an ninh khu vực mà cịn nghiên cứu về thời kỳ gần đây nhất đối với các vấn đề đang phát triển lớn như là “chiến tranh chống khủng bố “ của Mỹ, mối quan hệ với Trung Quốc – hợp tác và đối đầu trong khu vực, đặc biệt là giải quyết hai điểm nĩng ở khu vực: cuộc khủng hoảng ở bán đảo Triều Tiên và eo biển Đài Loan. Điểm lại để chúng ta thấy được một số vấn đề quan trọng trong quan hệ Trung – Mỹ được nhiều nhà nghiên cứu tìm hiểu trên những quan điểm, trên nhiều lĩnh vực khác nhau. Trong xu thế tồn cầu hĩa hiện nay, chắc chắn “Quan hệ Trung – Mỹ” vẫn tiếp tục là đề tài được các nhà nghiên cứu quan tâm. 4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Trong quá trình nghiên cứu, chúng tơi đã vận dụng phương pháp lịch sử để tái hiện bức tranh sinh động về mối quan hệ Trung Quốc – Hoa Kỳ trong những năm đầu tiên của thế kỷ mới (2001-2005). Vì đây là đề tài nghiên cứu trong giai đoạn đương đại nên chúng tơi đã kết hợp sử dụng các phương pháp liên ngành, đặc biệt là phân tích, tổng hợp các tư liệu từ Internet. 5. BỐ CỤC CỦA LUẬN VĂN Luận văn được trình bày trong 140 trang bao gồm phần mở đầu, 3 chương nội dung và phần kết luận: Chương 1: Những thăng trầm trong quan hệ Trung – Mỹ từ 1949 đến 2000 Chương 2: Quan hệ Trung – Mỹ từ 2001 đến 2005 1. Quan hệ kinh tế – thương mại 2. Quan hệ chính trị – ngoại giao - an ninh. Chương 3: Những dự báo quan hệ Trung – Mỹ Chương 1: NHỮNG THĂNG TRẦM TRONG QUAN HỆ TRUNG – MỸ TỪ 1949 ĐẾN 2000 Ngày 1/10/1949, nước Cộng hịa nhân dân Trung Hoa ra đời, mở đầu những thời kì thăng trầm trong quan hệ Trung – Mỹ. Quan hệ giữa Cộng hịa nhân dân Trung Hoa và Hoa Kỳ là một trong những mối quan hệ quốc tế cực kỳ phức tạp. Suốt 45 năm chiến tranh lạnh, quan hệ Trung – Mỹ luơn thay đổi và sau chiến tranh lạnh quan hệ đĩ vẫn chưa thể gọi là ổn định. 1.1. Quan hệ Trung – Mỹ trong chiến tranh lạnh 1.1.1. Thập niên 50, 60: đối đầu – căng thẳng Sau chiến tranh thế giới thứ hai, Mỹ – Xơ coi nhau là đấu thủ chính nhưng chưa bao giờ trực tiếp đánh nhau. Trái lại Cộng hịa nhân dân Trung Hoa mới ra đời chưa được 1 năm thì đã phải tham gia vào cuộc chiến tranh với quân đội Mỹ trên bán đảo Triều Tiên. Ngày 25-6-1950, chiến tranh Triều Tiên bùng nổ. Ngày 15-9-1950, quân Mỹ kéo cờ Liên hợp quốc đổ bộ lên Nhân Xuyên, can thiệp vào chiến tranh Triều Tiên. Quân Mỹ cịn oanh tạc một số thị trấn và làng mạc của Trung Quốc tại vùng Đơng Bắc. Ngày 25- 10-1950, quân chí nguyện nhân dân Trung Quốc, dưới sự chỉ huy của tướng Bành Đức Hồi đã vượt sơng Ap Lục, tiến vào lãnh thổ Bắc Triều Tiên, chiến đấu bên cạnh quân đội Cộng hịa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên.[47, tr. 34]. Chiến tranh Triều Tiên và sự can dự trực tiếp của Trung Quốc đã làm cho mục tiêu chính của Mỹ đối với Trung Quốc là tạo sự chia rẽ giữa Bắc Kinh và Moskva khĩ thể đạt được. Tuy nhiên, Chính phủ Truman vẫn cố gắng kiềm chế khơng để chiến tranh Triều Tiên lan rộng thành một cuộc xung đột trực tiếp giữa Hoa Kì và Trung Quốc. Bên cạnh đĩ, Hoa Kì bắt đầu thay đổi chính sách đối với vùng Đơng Á theo hướng ngăn chặn Bắc Kinh mở rộng hơn nữa ảnh hưởng trong vùng. Hai ngày sau biến cố 25-6-1950, Truman đã ra lệnh đưa Hạm đội 7 vào eo biển ngăn cách đảo Đài Loan và Hoa lục, nhằm ngăn chặn một cuộc xung đột cĩ thể cĩ giữa Đài Loan và Trung Quốc. Chính sách này được gọi là “trung lập hĩa Đài Loan”. Khơng đầy hai tháng sau, Truman chấp thuận lập quan hệ quân sự với Đài Loan và chuyển cho Chính phủ Quốc dân đảng những khoản viện trợ quân sự và viện trợ kinh tế. Tháng 4- 1951, một phái bộ quân sự thường trực được đưa đến đây.[49, tr. 333]. Những diễn biến trên cho thấy Mỹ đã đặt Triều Tiên và Đài Loan vào tuyến phịng thủ tiền tiêu của mình ở Viễn Đơng và áp đặt lệnh cấm vận đối với Trung Quốc. Đĩ là giai đoạn thứ nhất của quan hệ Trung –Mỹ. Nhưng cĩ thể nĩi chính trong giai đoạn căng thẳng và xung đột là chủ yếu này, các nhà lãnh đạo Trung Quốc đã tính tới việc thiết lập quan hệ với Mỹ. Mặc dù khi ấy Mỹ khơng cơng nhận Cộng hịa nhân dân Trung Hoa là thành viên thường trực Hội đồng bảo an Liên Hợp quốc, nhưng đồn đại biểu Trung Quốc theo sự chỉ đạo của Thủ tướng Chu An Lai đã gặp các đối tác Mỹ lần đầu tiên vào ngày 5/6/1954. Các cuộc đàm phán giữa Trung – Mỹ ở cấp Đại sứ đã bắt đầu từ ngày 1/8/1955. Kéo dài đến đầu thập niên 70, các cuộc đàm phán thoạt trơng cĩ vẻ như khơng giúp gì nhiều vào việc cải thiện quan hệ giữa hai nước vì sau ngần ấy năm đàm phán, hai bên chỉ kí được mỗi thỏa ước duy nhất liên quan đến việc hồi hương của cơng dân hai nước. Nhưng thực ra chúng vẫn rất cần vì cho cả hai biết rõ hậu ý của đối phương và do đĩ tránh những hiểu lầm tai hại, nhất là vào những thời điểm căng thẳng. 1.1.2.Thập niên70: Bước ngoặt chuyển sang hịa dịu Trong khi quan hệ Trung – Xơ phát triển theo chiều hướng gay gắt ( xung đột biên giới năm 1969), thì quan hệ Trung – Mỹ đã tiến triển theo chiều hướng hịa dịu. Nền tảng cơ bản của quan hệ của Mỹ đối với Trung Quốc là những tính tốn về một kẻ thù chung – Liên Xơ. Nixon và cố vấn an ninh của ơng là Henry Kissinger đã dự định tranh thủ Trung Quốc bằng cách vạch ra viễn ảnh của một thế giới đa cực, thay cho thế giới lưỡng cực, mà trong đĩ Trung Quốc sẽ là một cực, ngang hàng với hai siêu cường Hoa Kì và Liên Xơ. Chính phủ Nixon đã đưa ra nhiều sáng kiến đơn phương trên nhiều lĩnh vực. Trong lĩnh vực quân sự: tháng 11-1969, việc tuần phịng của Hạm đội 7 dọc theo eo biển Đài Loan được hủy bỏ. Ngày 15-12-1969, Hoa Kì tuyên bố ý định di chuyển khỏi đảo Okinawa vũ khí hạt nhân, trước khi trao trả hịn đảo này cho người Nhật. Tháng 2-1970 Nixon và Kissinger đã thay chủ thuyết “Hai cuộc chiến tranh rưỡi” bằng chủ thuyết “Một cuộc chiến tranh rưỡi”. Nixon giải thích rằng Hoa Kì khơng cịn vạch kế hoạch và chuẩn bị cho những cuộc chiến tranh cùng lúc chống cả Liên Xơ lẫn Trung Quốc, cùng với nửa cuộc chiến tranh ở thế giới thứ ba. Với chủ thuyết mới, Hoa Kì chỉ cịn phải chuẩn bị cho một cuộc chiến tranh với Liên Xơ và nửa cuộc chiến tranh ở thế giới thứ ba. Cuối cùng, ngày 28-7-1971, Chính phủ Mỹ loan báo ngưng các chuyến bay thám thính cĩ và khơng cĩ người lái trên lãnh thổ Trung Quốc. Trên lĩnh vực thương mại, Hoa Kì cũng đã từng bước tháo bỏ các giới hạn trong việc buơn bán giữa hai nước. Ngày 14-7-1971, chính sách cấm vận đã được hủy bỏ. Trong lĩnh vực chính trị, nét đặc trưng trong lập trường của Hoa Kì là sẵn sàng cĩ những nhân nhượng trong vấn đề khơi phục chủ quyền của CHND Trung Hoa ở Liên hợp quốc và thiết lập quan hệ ngoại giao giữa hai nước. Trong chuyện này, mức độ nhân nhượng tối đa của Nixon là từ bỏ việc cơng nhận Chính phủ Đài Loan đại diện cho tồn thể Trung Quốc và chuyển sang cơng thức “Hai Trung Quốc” [49, tr. 339-340]. Tín hiệu của Nixon phát ra đã được phía Trung Quốc đĩn nhận. Năm 1971, chủ tịch Mao Trạch Đơng đã quyết định mời đồn vận động viên bĩng bàn Mỹ sang thăm Trung Quốc. Tại cuộc tiếp đĩn, Thủ tướng Chu An Lai đã cĩ 1 câu nĩi nổi tiếng “Các bạn đã mở ra một chương mới trong lịch sử quan hệ song phương giữa 2 dân tộc Trung, Mỹ”. Chỉ vài giờ sau bài phát biểu chào mừng của Thủ tướng Chu An Lai, Tổng thống Mỹ Richard Nixon đã tuyên bố các sáng kiến thương mại và du lịch giữa Mỹ và Trung Quốc. Tháng 2/1972 nhận lời mời của Thủ tướng Chu An Lai, Tổng thống Nixon đã tới thăm Trung Quốc. Đây là nhà lãnh đạo đầu tiên của một nước chưa thiết lập ngoại giao chính thức với Bắc Kinh đến Trung Quốc. Kết quả chủ yếu trong chuyến thăm này là việc ký kết Thơng cáo chung đầu tiên, cịn gọi là “Thơng cáo chung Thượng Hải” ngày 28/2/1972. Trong “Thơng cáo chung” thượng Hải”, phía Trung Quốc nhấn mạnh:” Vấn đề Đài Loan là vấn đề then chốt cản trở việc bình thường hĩa quan hệ Trung – Mỹ,…giải phĩng Đài Loan là cơng việc nội bộ của Trung Quốc…, tồn bộ lực lượng vũ trang và và thiết bị quân sự của Mỹ phải rút khỏi Đài Loan…”. Phía Mỹ tuyên bố: Nước Mỹ đã nhận thức rằng tất cả người Trung Quốc ở hai bên bờ eo biển Đài Loan đều cho rằng chỉ cĩ một nước Trung Quốc, Đài Loan là một bộ phận của Trung Quốc…Trong thời gian này, nước Mỹ tùy thuộc vào tiến trình hịa dịu tình hình căng thẳng của khu vực để giảm bớt dần lực lượng vũ trang và thiết bị quân sự của mình ở Đài Loan.[47, tr.160]. Chuyến thăm Trung Quốc của Tổng thống Mỹ Nixon và bản Thơng cáo chung Thượng Hải năm 1972 là một bước đột phá trong quan hệ Trung – Mỹ. 1.1.3.Giai đoạn thứ ba: chính thức thiết lập quan hệ ngoại giao Bắt đầu khi hai nước bình thường hĩa và chính thức thiết lập quan hệ ngoại giao 1978 cho đến sự kiện Thiên An Mơn. Ngay sau khi lên nhậm chức năm 1977, Tổng thống Mỹ Jimmy Carter đã khẳng định lợi ích của Thơng cáo chung Thượng Hải đối với quan hệ Trung – Mỹ. Mối quan hệ song phương tiếp tục được duy trì trong bối cảnh Trung Quốc bắt đầu thúc đẩy chính sách mở cửa với thế giới bên ngồi. Sau khi Thủ tướng Chu An Lai qua đời (1978), Đặng Tiểu Bình đã kế thừa các tư tưởng của ơng và tiếp tục phát triển các quan điểm ấy. Đầu tháng 7 năm 1978, đại diện Trung – Mỹ bắt đầu các cuộc hội đàm nhằm bình thường hĩa quan hệ. Thơng cáo chung của Trung – Mỹ về việc thiết lập quan hệ ngoại giao đã được đưa ra ngày 16/12/1978 nêu rõ : “-Hoa Kỳ và CHND Trung Hoa đã nhất trí cơng nhận nhau và thiết lập mối quan hệ ngoại giao kể từ ngày 1/1/1979 -Hoa Kỳ cơng nhận Chính phủ CHND Trung Hoa là Chính phủ hợp pháp duy nhất của nước Trung Quốc. Trong khuơn khổ này, người dân Hoa Kỳ sẽ duy trì quan hệ văn hĩa, thương mại cùng các quan hệ khơng chính thức khác với người dân Đài Loan. -Hoa Kỳ và Trung Hoa tái khẳng định những nguyên tắc đã được hai bên nhất trí trong Thơng cáo chung Thượng Hải và một lần nữa nhấn mạnh rằng : +Hai bên đều mong muốn giảm bớt nguy cơ xung đột quân sự quốc tế +Cả hai đều khơng mong muốn tìm kiếm ưu thế bá chủ tại khu vực châu Á – Thái Bình Dương hay bất kỳ khu vực nào khác trên thế giới, cả hai đều phản đối nỗ lực của bất kỳ nước nào hoặc nhĩm nước nào khác muốn thiết lập địa vị bá chủ ấy. +Cả hai khơng sẵn sàng thương lượng đại diện cho bất kỳ bên thứ ba nào hoặc khơng tham gia vào những thỏa thuận song phương nhằm vào các nước khác. +Chính phủ Hoa Kỳ thừa nhận lập trường của Trung Quốc rằng chỉ cĩ một Trung Quốc và Đài Loan là một bộ phận của Trung Quốc. +Cả hai tin rằng việc bình thường hĩa quan hệ Trung – Mỹ khơng chỉ nằm trong lợi ích của nhân dân hai nước mà cịn đĩng gĩp vào sự nghiệp hịa bình ở châu Á và trên thế giới.[54] Quan hệ giữa hai nước được nâng thêm một bước bằng chuyến viếng thăm Hoa Kì của Phĩ Thủ tướng Đặng Tiểu Bình kéo dài từ ngày 29-1 đến này 5-2-1979. Kết quả chính trong lĩnh vực kinh tế là một loạt hiệp ước song phương và cả hệ thống tư vấn cấp bộ và cấp cơ quan. Cấp độ cộng tác khoa học – kĩ thuật giữa hai bên được nâng lên hàng quốc gia ( trước 1979, quan hệ cộng tác này được thực hiện từ phía Hoa Kì bởi các trường đại học hay tổ chức phi chính phủ). Chính phủ Hoa Kì đã kí hàng loạt thỏa ước cộng tác với Trung Quốc trong các ngành như vật lý năng lượng cao, kĩ thuật hàng khơng, thủy điện, y học… Việc bình thường hĩa quan hệ với Trung Quốc bao gồm cả việc kết thúc quan hệ chính thức với Đài Loan; Mỹ rút lực lượng quân đội cịn lại ở đĩ và chấm dứt Hiệp ước an ninh với Đài Loan. Nhưng Mỹ và Trung Quốc cũng đạt được sự hiểu biết lẫn nhau trong việc Trung Quốc khơng từ bỏ sử dụng vũ lực để chiếm Đài Loan và Mỹ vẫn muốn tiếp tục bán vũ khí cho Đài Loan. Kế tiếp, vào tháng 4 năm 1979, các nhà lập pháp Mỹ đã thơng qua một dự thảo chống lại Carter, “Nghị quyết về bang giao với Đài Loan”, nghị quyết này xem bất cứ việc sử dụng vũ lực nào đối với Đài Loan cũng là đe dọa đến an ninh của vùng Tây Thái Bình Dương và là mối quan tâm lớn đối với Mỹ. Tiếp theo việc thiết lập ngoại giao chính thức với Mỹ là cuộc viếng thăm rất thành cơng của nhà lãnh đạo Đặng Tiểu Bình. Ong đã cơng khai thề “dạy cho Việt Nam một bài học” vì đã xâm lược Campuchia vào năm 1978 với sự trợ giúp của Liên Xơ. Sau vụ xâm nhập cĩ hạn chế vào Việt Nam vào tháng 2 và 3 năm 1979, Trung Quốc đã liên minh với Mỹ một cách khơng chính thức. Tháng 4 năm 1979, Trung Quốc chấp nhận cho đặt ở vùng Tân Cương các thiết bị thám thính điện tử để phát hiện các tên lửa của Liên Xơ. Tháng 1 năm 1980, Bộ trưởng Quốc phịng Brown đã viếng thăm Bắc Kinh sau hành động xâm lược Afghanistan của Liên Xơ và bắt đầu chính sách xuất khẩu sang Trung Quốc các kỹ thuật quân sự phi hạt nhân hiện đại. Trước khi năm 1980 kết thúc, Mỹ và Trung Quốc đã thiết lập các chính sách “song hành” ở Campuchia và Afghanistan. (Là đồng minh riêng rẽ của Thái Lan và Pakistan, Mỹ và Trung Quốc đã hỗ trợ và cung cấp vũ khí cho quân kháng chiến ở Campuchia và Afghanistan). Cả Mỹ và Trung Quốc đều cùng hành động để bác bỏ quyền đại diện Campuchia ở Liên Hiệp quốc của chính phủ Phnompenh do Việt Nam dựng lên và cơ lập Việt Nam cả về kinh tế lẫn chính trị. Nĩi rõ ràng hơn, vào thời gian này, trong nhiều vấn đề lập trường của Trung Quốc luơn giống lập trường của Mỹ [67, tr.156-157). Năm 1981, Ronald Reagan trở thành Tổng thống Hoa Kì. Là một nhà hoạt động chính trị trưởng thành trong làn sĩng chống cộng của thập niên 50, Reagan nhìn “nhân tố Trung Quốc” trong chính sách đối ngoại của Hoa Kì cĩ phần dè dặt hơn người tiền nhiệm. Chính Tổng thống Reagan đã làm phật lịng Bắc Kinh bằng bài phát biểu kêu gọi Mỹ nâng cấp quan hệ với Đài Loan. Quan trọng hơn, chiến lược của Reagan về việc tái xây dựng các lực lượng hạt nhân và vũ khí quy ước đồ sộ của Mỹ cộng với kế sách tiếp cận Liên Xơ mạnh mẽ hơn đã biểu hiện cho thấy Washington khơng cịn quá coi trọng vai trị Trung Quốc trong việc kềm chế các hành động của Liên Xơ nữa. Ít quan trọng hơn đối với Mỹ, Trung Quốc càng phải vận động ngoại giao nhiều hơn để giảm bớt nguy cơ bị Liên Xơ gây hấn. May mắn thay, do Liên Xơ bị sa lầy ở Afghanistan, Trung Quốc cĩ thể cĩ đủ thời gian để tự trang bị. Tại Đại hội đảng lần thứ XII, năm 1982, Trung Quốc xác định bắt đầu thực hiện một “chính sách đối ngoại độc lập”. Theo đĩ, Trung Quốc sẽ “khơng bao giờ gắn kết mình với một cường quốc lớn hoặc một nhĩm cường quốc nào” [68, tr. 158]. Tuy rằng kỳ vọng của cả hai nước dành cho nhau đều giảm sút, nhưng Mỹ vẫn phát triển tốt nhất những quan hệ với Trung Quốc trong những năm cịn lại của nhiệm kỳ Tổng thống Reagan. Quan hệ đối tác “song hành” của họ ở Campuchia và Afghanistan vẫn tiếp tục cho đến năm 1988-1989, lúc Mỹ đạt được thỏa thuận với Liên Xơ về phương cách chấm dứt chiến tranh. Hơn nữa, quan hệ thương mại và các quan hệ khác với Trung Quốc vẫn phát triển tốt mặc dù cĩ những khác biệt giữa hai xã hội. Tháng 11/1989, George Bush trúng cử, người ta tưởng rằng quan hệ Trung – Mỹ sẽ lên đến đỉnh cao vì Bush đã từng làm việc ở Trung Quốc với tư cách là Trưởng văn phịng liên lạc của Mỹ. Nhưng sau khi Bush nhậm chức khơng bao lâu thì nổ ra sự kiện Thiên An Mơn (4/6/1989) kéo theo một làn sĩng Mỹ và phương Tây cấm vận trừng phạt Trung Quốc. 1.2.Quan hệ Trung – Mỹ sau chiến tranh lạnh: Giai đoạn tiếp theo là thời kỳ quan hệ Trung - Mỹ trong bối cảnh kết thúc Chiến tranh lạnh. Điều hết sức trớ trêu là trong khơng khí chung trên thế giới, đặc biệt là giữa các nước lớn bắt đầu ấm dần lên thì quan hệ Trung – Mỹ lại lạnh đi vì nhiều lý do. Với sự sụp đổ của Liên Xơ, Mỹ trở thành siêu cường duy nhất trên thế giới. Từ đầu thập kỷ 1990, “mục tiêu chiến lược xuyên suốt, nhất quán, khơng thay đổi, mang tính chất lâu dài là duy trì và củng cố vị trí bá quyền thế giới của Mỹ trên tất cả các lĩnh vực chính trị – tư tưởng, kinh tế – thương mại, quân sự – an ninh.”[26, tr.294]. Ba diễn biến quan trọng trong thập kỷ 1990 đã làm tăng lên những bất đồng căng thẳng trong quan hệ Trung – Mỹ, đĩ là: Thứ nhất là những xung đột gay gắt về vấn đề nhân quyền khởi phát từ cuộc trấn áp sinh viên và những người biểu tình ở Trung Quốc năm 1989 tại quảng trường Thiên An Mơn. Đối với chính quyền Bush và chính quyền Clinton, cu._.ộc trấn áp này gợi lên vấn đề trừng phạt kinh tế và mối liên hệ giữa nhân quyền với quy chế thương mại tối huệ quốc (MFN). Ơ tầm rộng hơn, nĩ cho thấy những hạn chế của sự thay đổi chính trị ở Trung Quốc và trở thành một vấn đề lớn trong quan hệ Trung – Mỹ. Thứ hai là, với sự kết thúc của chiến tranh lạnh và sự biến mất của kẻ thù chung Liên Xơ, Trung Quốc và Mỹ bước vào thời kì sau chiến tranh lạnh với những khác biệt về địa chính trị mang tính tồn cầu ngày càng rõ nét hơn nhưng tương đồng giữa họ. Tính đến sự tăng trưởng kinh tế phi thường và quá trình hiện đại hĩa cùng với phong cách ngoại giao cương quyết của Trung Quốc, nhiều nhà phân tích tin rằng Trung Quốc cịn cĩ nhiều khả năng trở thành những thách thức vị thế quyền lực tồn cầu của Mỹ trong những thập kỷ tới hơn cả Nga. Trên phạm vi tồn cầu, Trung Quốc thường đứng về phía Iraq, Iran và những đối thủ khác của Mỹ bằng cách, ví dụ như, cung cấp cho họ những vũ khí và cơng nghệ sản xuất vũ khí hủy diệt hàng loạt. Quan hệ Trung – Nga cũng cĩ những dấu hiệu tiến gần lại nhau hơn cho dù khơng thể bằng được mức liên minh thời kì đầu chiến tranh lạnh. Thứ ba là, sự nổi lên ngày càng mạnh của Trung Quốc thành một cường quốc ở khu vực Đơng Á đe dọa làm đảo lộn sự cân bằng quyền lực trong khu vực. Những nước như Nhật Bản vốn luơn lo ngại về một nước Trung Quốc quá mạnh cần phải được làm an lịng, tuy nhiên, những quan ngại riêng của Trung Quốc về an ninh quốc gia và về một nước Nhật Bản quá mạnh cũng cần phải được tính đến, Mỹ và Trung Quốc cịn cĩ những bất đồng về Bắc Triều Tiên và về cách thức xử lý tốt nhất mối đe dọa mà quốc gia này gây ra cho sự ổn định khu vực. Nhưng vấn đề căng thẳng nhất trong quan hệ Mỹ – Trung vẫn khơng thay đổi kể từ chiến thắng của Đảng Cộng sản Trung Quốc năm 1949. Liệu Đài Loan cĩ sáp nhập vào với Trung Quốc lục địa hay khơng, hay vùng lãnh thổ này sẽ duy trì sự tách biệt và thậm chí cĩ thể trở thành một quốc gia độc lập được cơng nhận? Và liệu vấn đề này cĩ được giải quyết một cách hịa bình hay khơng? Hai đối sách được lựa chọn chủ yếu trong chiến lược đối ngoại của Mỹ đối với Trung Quốc thời kì sau chiến tranh lạnh đĩ là ngăn chặn và can dự. Sở dĩ cĩ sự tranh luận như vậy vì luơn cĩ khĩ khăn trong việc đánh giá tầm quan trọng hiện hành của Trung Quốc là cường quốc hay chỉ là một cường quốc tiềm tàng, đặc biệt khi Trung Quốc giữ vững được mức tăng trưởng kinh tế cao và cĩ ảnh hưởng kinh tế trong khu vực ngày càng tăng. Ngăn chặn là một kiểu chiến lược thời chiến tranh lạnh của Mỹ đối với Liên Xơ, cho dù với Trung Quốc thì ở mức độ nhẹ hơn và quy mơ hạn chế hơn. Chiến lược ngăn chặn đối với Trung Quốc khơng mang tính đối đầu song cũng kiên quyết. Mục tiêu chủ yếu trong đối sách này là kiềm chế, nhằm ngăn chặn sự nổi lên của Trung Quốc trở thành một thách thức đe dọa đến vai trị lãnh đạo của Mỹ. Một số cuộc khủng hoảng và những vấn đề gây tranh cãi đã củng cố thêm quan điểm ngăn chặn của Mỹ đối với Trung Quốc. Năm 1998, thơng tin lan ra là Trung Quốc đã từng sử dụng những cuộc tiếp xúc với Mỹ thơng qua hợp tác quân sự, khoa học và kinh tế nhằm đánh cắp những bí mật về chế tạo và phát triển vũ khí hạt nhân của Mỹ. Những căng thẳng về vấn đề Đài Loan lại bùng lên giữa năm 1999 sau khi người đứng đầu Đài Loan đưa ra những phát biểu ủng hộ độc lập và Trung Quốc phản ứng lại bằng những lời đe doạ thẳng thừng. Những vấn đề gây tranh cãi như vậy đã làm tăng thêm những mối quan ngại về việc tăng cường khả năng quân sự của Trung Quốc và thái độ khiêu khích của Trung Quốc trong một số vấn đề an ninh khu vực. Những người ủng hộ can dự cĩ cách nhìn khác về Trung Quốc, mặc dù khơng phải là đối lập hồn tồn. Họ thận trọng khi đánh giá lợi ích của Trung Quốc ở khu vực, nhưng họ nhìn nhận những lợi ích đĩ theo hướng ít nguy cơ hơn. Trung Quốc muốn cĩ một vai trị ở châu Á – Thái Bình Dương mà với tầm cỡ và lịch sử của mình, nước này cảm thấy là hồn tồn cĩ thể. Điều này thực tế đã gây ra căng thẳng và Mỹ phải đứng về phía những đồng minh của mình và bảo vệ những lợi ích của Mỹ, nhưng vấn đề này cĩ thể được giải quyết thơng qua ngoại giao và đàm phán. Bên cạnh đĩ, về quân sự, Trung Quốc chưa dễ theo kịp được với Mỹ, ngay cả với những tiến bộ gần đây Trung Quốc đã đạt được. Những người ủng hộ can dự thừa nhận Đài Loan là một vấn đề gây nhiều tranh cãi, mặc dù những nhà hoạch định chính sách cũng phải thận trọng khơng để Đài Loan lợi dụng sự ủng hộ của Mỹ để khiêu khích Trung Quốc. Cũng giống như đối với vùng Vịnh và các khu vực khác, Mỹ cĩ thể đạt được nhiều thơng qua ngoại giao thầm lặng hơn so với việc cứng rắn đối với Trung Quốc. Quan điểm trên là lý lẽ để xây dựng một chiến lược trong đĩ nhấn mạnh hội nhập và ngoại giao. Trung Quốc cần phải được đưa vào nhiều tổ chức đa phương hơn, cả những tổ chức kinh tế như Tổ chức thương mại thế giới và những tổ chức chiến lược như Cơ quan Kiểm sốt cơng nghệ tên lửa. Sự hội nhập như vậy sẽ tạo ra những cơ chế hịa bình với cơ cấu rõ ràng để xử lý những mối lo ngại về Trung Quốc và sẽ khuyến khích Trung Quốc chấp thuận những chuẩn mực quốc tế và tuân thủ luật lệ quốc tế. Trên cơ sở song phương, Mỹ cần tiếp tục những cuộc gặp gỡ cấp cao theo định kì cũng như các hoạt động ngoại giao khác, thương mại và những hoạt động can dự trong các lĩnh vực khác như vấn đề nhân quyền, dân chủ… Cụ thể Tổng thống Bush (Cha) đã thực hiện sách lược can dự cịn Quốc hội lại nghiêng về sách lược ngăn chặn. Cuối thập niên 1980, sau khi áp dụng các biện pháp trừng phạt đối với chính quyền Trung Quốc do sự biến Thiên An Mơn, Bush đã tìm cách cứu vãn mối quan hệ với Trung Quốc bằng việc vài lần bí mật phái một viên chức cao cấp đến Bắc Kinh. Tuy nhiên chẳng bao lâu sau, việc xung đột trong nội bộ nước Mỹ xảy ra, tập trung vào quy chế tối huệ quốc. Quốc hội biểu quyết chống việc phục hồi quy chế tối huệ quốc cho Trung Quốc đã hết hạn vào năm 1990, nhưng khơng đủ đa số phiếu để thắng quyền phủ quyết của Tổng thống Bush. Bước tiếp theo trong tiến trình cải thiện quan hệ là việc Tổng thống Bush gặp Bộ trưởng Ngoại giao Trung Quốc ở Washington vào tháng 11, sau sự việc ơng này khơng tham gia bỏ phiếu ở Hội đồng Bảo an Liên Hiệp quốc đã tạo điều kiện thơng qua nghị quyết cĩ thể sử dụng vũ lực chống Iraq. Dù vậy, bang giao Mỹ – Trung vẫn cịn nằm trong tình trạng bấp bênh, ở Mỹ, vẫn cịn tiếp diễn việc chống đối hệ thống chính trị đàn áp và việc tiếp tục vi phạm nhân quyền ở Trung Quốc. Tháng 1 năm 1993, Clinton lên cầm quyền. Tổng thống cũng đã đưa ra những tiêu chí địi hỏi Trung Quốc phải cải thiện việc tuân thủ nhân quyền ở trong nước mới cĩ thể được tiếp tục xét trao quy chế tối huệ quốc.Chính quyền Trung Quốc đã liên tục bị áp lực vì khơng tuân giữ các thủ tục thương mại thích hợp, vì hành động bất hợp pháp, vì khơng bảo vệ bản quyền..Phía Trung Quốc nghi ngờ Mỹ cĩ kế hoạch phá hoại chế độ của mình và tìm cách chặn đường Trung Quốc vươn đến vị thế cường quốc mà lịch sử cũng như tầm vĩc của nĩ xứng đáng được hưởng. Vì vậy, các nhà lãnh đạo Trung Quốc cĩ khuynh hướng phản ứng giận dữ đối với việc mà họ xem là can thiệp vào cơng việc nội bộ và đối xử bất bình đẳng. Các khĩ khăn lại càng tăng thêm do những khác biệt về vấn đề thương mại. Thống kê của Mỹ cho thấy một sự thâm hụt thương mại rất lớn khi thương mại hai nước gia tăng, đạt đến mức 23 tỉ đơla vào năm 1993 và 29,5 tỉ đơ-la vào năm 1994 (chỉ đứng sau Nhật Bản). Thống kê của Trung Quốc lại cho thấy thương mại giữa hai nước hầu như cân bằng. Tuy nhiên, vào tháng 5 năm 1994, khi thời hạn quy chế tối huệ quốc kết thúc, chính Clinton lại xuống nước mặc dù biết phía Trung Quốc khơng đáp ứng các điều kiện của mình. Ap lực của giới kinh doanh thật mãnh liệt khi họ đưa ra kiến nghị về việc nhiều người Mỹ sẽ bị mất cơng ăn việc làm, và chính quyền Trung Quốc biết đây là thời điểm mà Mỹ cần cĩ sự hợp tác của mình để giải quyết vấn đề Triều Tiên. Hơn nữa, các đồng minh của Mỹ ở châu Á lo lắng về các hậu quả gây bất ổn định nếu như quan hệ Mỹ – Trung bị xuống cấp. [[67, tr. 314] Nhưng dù vậy, bang giao Mỹ – Trung vẫn chưa cải thiện được nhiều. Về phía Mỹ vẫn cịn lo Trung Quốc khơng đáp ứng được vai trị đối tác thương mại và khơng hội đủ các điều kiện tối thiểu để gia nhập GATT (Hiệp định chung về thuế quan và thương mại). Phía Trung Quốc tức giận vì những yêu sách của Mỹ và tiếp tục nghi ngờ Mỹ vẫn ngầm cĩ kế sách làm suy yếu hệ thống Cộng sản Trung Quốc và cản đường tiến lên cường quốc của họ. Các cuộc thương thuyết giữa hai bên tỏ ra gay gắt một cách cơng khai và chỉ đạt được thỏa thuận ở phút cuối. Cả hai bên cũng khác nhau về vấn đề Đài Loan; phía Mỹ bắt buộc phải bảo vệ Đài Loan do nghị quyết bang giao với Đài Loan đã được ban hành trước đĩ. Năm 1992, Chính phủ Mỹ quyết định bán cho Đài Loan 150 máy bay F16, Trung Quốc đã lên tiếng phản đối kịch liệt. Tháng 5 –1995, Chính phủ Mỹ lại cho phép nhà cầm quyền Đài Loan Lý Đăng Huy sang thăm Mỹ làm cho quan hệ hai nước rung chuyển dữ dội, quan hệ song phương Trung – Mỹ bị lùi một bước. Tiếp theo, năm 1999, NATO, đứng đầu là Mỹ đã bỏ qua Liên Hiệp quốc, lấy cớ vấn đề Kosovo tiến hành tấn cơng đường khơng vào Liên bang Nam Tư. Ngày 7/5 dùng bom đánh phá chính xác vào Đại sứ quán Trung Quốc ở Nam Tư. Chính phủ Trung Quốc cực lực kháng nghị, yêu cầu NATO, đứng đầu là Mỹ, phải cơng khai chính thức xin lỗi Chính phủ và nhân dân Trung Quốc. [47, tr. 119]. Trên đây là một số những bất đồng căng thẳng Trung – Mỹ, nhưng cĩ thể nĩi ngồi các đặc điểm bất thường, đường lối bang giao của Mỹ với Trung Quốc bị điêu đứng là do khơng thể dung hịa được các vấn đề văn hĩa, chính trị song song của hai nước cũng như do nỗi nghi ngờ việc Trung Quốc nổi lên như là một cường quốc chắc chắn sẽ thách thức các quyền lợi đã bén rễ sâu của Mỹ. Rõ ràng quan hệ Trung – Mỹ sau chiến tranh lạnh vẫn cịn đầy những mâu thuẫn gay gắt. Tuy nhiên nhìn tồn cục thì quan hệ Trung – Mỹ từ sau chiến tranh lạnh khơng phải chỉ cĩ xung đột và đối lập, mà cả hai cũng đều luơn coi trọng quan hệ lẫn nhau. Bản thân Mỹ cũng nhận thấy thế và lực của mình trong cán cân lực lượng tịan cầu khơng cịn được như trước nữa, thêm vào đĩ xu thế tồn cầu hĩa đã làm gia tăng sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các quốc gia. “Vì vậy, dưới chính quyền Clintơn, Mỹ chủ trương áp dụng phương thức “tiếp cận mềm” (soft approach) nhằm tìm kiếm sự hợp tác, chia sẻ trách nhiệm với đồng minh và các nước lớn trong việc duy trì an ninh thế giới và bảo đảm sự phát triển ổn định nền kinh tế tồn cầu, trong đĩ Mỹ đĩng vai trị là đầu tàu lãnh đạo, giữ vị trí chỉ huy.”[25, tr120]. Trong hai nhiệm kỳ liên tiếp của mình, chính quyền Clinton chủ trương kiềm chế Trung Quốc, dùng đối thoại, tiếp xúc tồn diện với Trung Quốc, thúc đẩy sự hợp tác kinh tế, lơi kéo quốc gia này vào cơng việc quốc tế và định chế tồn cầu do Mỹ lãnh đạo: ủng hộ Trung Quốc gia nhập WTO, cùng với Trung Quốc lập ra cơ chế bốn bên bàn về tình hình trên bán đảo Triều Tiên (Mỹ, Trung Quốc và hai miền Triều Tiên) đồng thời thúc đẩy dân chủ, nhân quyền. Đỉnh cao trong chính sách Trung Quốc của Mỹ dưới thời B. Clinton là khái niệm ‘đối tác chiến lược mang tính xây dựng hướng vào thế kỷ XXI” được đưa ra nhân chuyến viếng thăm Mỹ của Chủ tịch Giang Trạch Dân. Cả hai đều coi khái niệm này là khuơn khổ quan hệ song phương. Nội dung của khái niệm này là 2 bên cam kết “xây dựng mối quan hệ đối tác chiến lược mang tính xây dựng thơng qua việc tăng cường hợp tác để đối phĩ với thách thức của thế giới và thúc đẩy hịa bình và phát triển trên thế giới. Hai bên nhận thức rằng mối quan hệ ổn định giữa Trung Quốc và Mỹ là quan trọng đối với việc thực hiện trách nhiệm chung của hai nước là phấn đấu vì hịa bình và thịnh vượng của thế kỷ XXI, hai nước cĩ chung lợi ích đáng kể và ý chí sắt đá tìm kiếm mọi cơ hội và đấu tranh với những thách thức trong mối quan hệ hợp tác, sự vơ tư và lịng quyết tâm để nhằm đạt được những tiến bộ cụ thể…Hai nước cĩ tiềm năng hợp tác to lớn trong việc duy trì hịa bình và ổn định trên thế giới và khu vực, thúc đẩy sự tăng trưởng của nền kinh tế thế giới, ngăn chặn việc phổ biến vũ khí hoặc phá huỷ hàng loạt, thúc đẩy sự hợp tác châu Á – Thái Bình Dương, chống lại việc buơn bán ma túy, tội ác cĩ tổ chức trên thế giới và nạn khủng bố, tăng cường trao đổi và hợp tác song phương trên các lĩnh vực phát triển kinh tế – thương mại, luật pháp, bảo vệ mơi trường, năng lượng, khoa học, kỹ thuật và giáo dục và văn hĩa cũng như cam kết trao đổi về các đồn quân sự”.[25, tr.122] Về phía Trung Quốc vẫn luơn coi trọng quan hệ với Mỹ trên cơ sở 5 nguyên tắc chung sống hịa bình. Chủ tịch Trung Quốc Giang Trạch Dân đã sớm chỉ rõ: Chúng tơi mong ‘tăng thêm lịng tin, giảm bớt phiền hà, phát triển hợp tác, khơng gây đối kháng” với Mỹ[25, tr. 128]. Tháng 11-1996, Chủ tịch Giang Trạch Dân gặp Tổng thống Mỹ Clinton ở Manila (Philippines). Trong cuộc gặp này Clinton nhấn mạnh:” Nước Mỹ muốn được thấy một Trung Quốc lớn mạnh, ổn định và an ninh. Hai nước chúng ta cĩ lợi ích chiến lược chung trong nhiều vấn đề, nước Mỹ vui lịng lập quan hệ bạn bè hợp tác tốt đẹp với Trung Quốc”.[66, tr. 120] Trong khơng khí chính trị như vậy, quan hệ hai nước từng bước được cải thiện. Từ năm 1997 đến 1999, nguyên thủ quốc gia hai nước đã thực hiện các cuộc thăm hỏi lẫn nhau: tháng 11-1997, Chủ tịch Giang Trạch Dân chính thức thăm Mỹ, tháng 7-1998, Tổng thống Clinton thăm Trung Quốc…Hai bên quyết định thơng qua sự tăng cường hợp tác, thúc đẩy hịa bình và phát triển của thế giới, cùng gắng sức thiết lập quan hệ bạn bè chiến lược cĩ tính xây dựng giữa Trung Quốc và Mỹ. Trong thời gian này, lãnh đạo hai bên Trung – Mỹ đã nhiều lần gặp nhau trong các cuộc luận bàn đa phương tại Liên Hiệp quốc và các tổ chức hợp tác kinh tế châu Á – Thái Bình Dương, làm cho quan hệ Trung – Mỹ trên tổng thể được giữ ổn định, tạo điều kiện phát triển và cĩ hiệu quả cho quan hệ đơi bên. Thế nhưng, năm 2001, Tổng thống Goerge W. Bush lên cầm quyền, đã cĩ những điều chỉnh nhất định theo hướng cứng rắn hơn trong chính sách đối với Trung Quốc, bắt đầu từ tuyên bố “đối thủ cạnh tranh chiến lược” thay thế cho quan niệm “đối tác chiến lược mang tính xây dựng’ trước kia. Thúc đẩy việc triển khai NMD, bán nhiều vũ khí cho Đài Loan, tạm dừng tất cả các cuộc tiếp xúc quân sự giữa hai nước, đẩy mạnh đấu tranh nhân quyền với Trung Quốc, đưa máy bay do thám xâm nhập vùng trời Trung Quốc…với ý đồ dùng thực lực và ảnh hưởng của Mỹ buộc Trung Quốc phải chấp nhận vai trị siêu cường duy nhất lãnh đạo của mình. Trên khía cạnh chiến lược, chính quyền Bush cho rằng sự trỗi dậy của Trung Quốc sẽ là mối thách thức chủ yếu đối với vai trị bá chủ thế giới của Mỹ, vì vậy cần phải kiềm chế sự trỗi dậy của Trung Quốc. Tuy vậy, trải qua thời gian điều chỉnh vừa qua, cĩ thể thấy chính sách Trung Quốc của chinh quyền Bush vẫn mang tính chất hai mặt: kiềm chế xen lẫn hợp tác. Điều này thể hiện trong chuyến thăm Trung Quốc của ngoại trưởng Mỹ Colin Powell ơng đã khẳng định Trung Quốc vẫn là một nước quan trọng và Mỹ cần cĩ nhu cầu thúc đẩy hợp tác đối với Trung Quốc. Như vậy, cĩ thể nĩi rằng, quan hệ Trung – Mỹ từ sau chiến tranh lạnh được xác định theo sự biến thiên của những thay đổi của tình hình thế giới và tình hình mỗi nước, xuất phát từ những lợi ích của mỗi nước trong từng thời kì. Trong mối quan hệ này, hợp tác và đấu tranh đan cài hết sức phức tạp, tùy từng sự việc, từng thời điểm cụ thể.. Đầu năm 1999, khi quan hệ chính trị giữa hai nước xuống ở mức khá thấp do việc Mỹ ném bom Đại sứ quán Trung Quốc ở Nam Tư nhưng Trung Quốc vẫn cử đồn cấp cao do Chu Dung Cơ dẫn đầu sang thăm Mỹ, đưa ra những nhân nhượng trong đàm phán về việc trung Quốc gia nhập WTO. Quá trình hợp tác – kiềm chế, phối hợp – cạnh tranh, bạn bè – đối thủ …đều nằm trong một khuơn khổ giới hạn : hợp tác khơng làm giảm đi tính chất kiềm chế lẫn nhau, và đấu tranh lúc căng thẳng nhất cũng khơng triệt tiêu sự hợp tác. Hợp tác nhưng cũng khơng dẫn đến việc Mỹ – Trung liên minh với nhau. Đấu tranh cũng khơng dẫn đến đối đầu, đổ vỡ quan hệ hoặc xung đột quân sự với nhau. Nguyên nhân chủ yếu là, dù quan hệ Trung – Mỹ chịu sự tác động của nhiều nhân tố khác nhau, nhưng suy cho cùng nhân tố chủ đạo chi phối quan hệ hai nước là lợi ích dân tộc của hai nước trong hồn cảnh quốc tế của từng thời kì cụ thể. Hiện nay, lợi ích của Mỹ và Trung Quốc đều là ở quan hệ Mỹ – Trung phát triển ổn định một cách tương đối. Chính nhân tố này đã khiến cho quan hệ Trung – Mỹ phát triển theo dạng hình sin, trải qua nhiều thăng trầm khác nhau, hợp tác và đấu tranh đan xen nhưng khơng vượt ra ngồi xu thế chung của thời đại là vừa hợp tác, vừa đấu tranh cùng tồn tại hịa bình. Do đĩ, quan hệ Trung – Mỹ khĩ cĩ thể phát triển đến hình thức cao nhất của hai chiều hướng hợp tác và đấu tranh. Chương 2: QUAN HỆ TRUNG – MỸ TỪ 2001 ĐẾN 2005 2.1. Quan hệ kinh tế – thương mại Những năm đầu thế kỷ XXI, châu Á đang trải qua thời kỳ phát triển kinh tế năng động. Đây chính là lục địa màu mỡ nhất trên thế giới cho sự gia tăng khối lượng hàng xuất khẩu và việc làm của Mỹ, đồng thời đây cũng lại là khu vực cĩ nhiều quốc gia gĩp phần làm tăng mức thâm hụt thương mại hàng năm của Mỹ. Do đĩ, châu Á chứa đựng những thách thức cho chính sách kinh tế – thương mại trong thế kỷ mới của Chính phủ Mỹ. Song thách thức lớn nhất, quan trọng nhất và phức tạp nhất của Mỹ hiện nay vẫn là việc phát triển mối quan hệ trên mọi phương diện với Trung Quốc. Bởi vì với tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, dân số đơng nhất thế giới và lực lượng quân sự ngày càng lớn mạnh, Trung Quốc thực sự trở thành một cường quốc khu vực và thế giới cĩ chung biên giới với hàng chục quốc gia và ngày càng đĩng vai trị một nhân tố cực kì quan trọng trong việc ổn định an ninh khu vực. Chính phủ Mỹ đã ra sức thực hiện mục tiêu hội nhập Trung Quốc vào hệ thống kinh tế quốc tế để Trung Quốc trở thành một thành viên chính thức, cĩ trách nhiệm và từ đĩ buộc Trung Quốc tuân theo những chuẩn mực quốc tế trong các vấn đề nhân quyền, phổ biến vũ khí và giải quyết những bất đồng chính trị. Trong chính sách của Mỹ, quan hệ thương mại Mỹ – Trung cĩ tầm quan trọng đặc biệt. 2.1.1. Quá trình phát triển quan hệ kinh tế – thương mại Mỹ – Trung Hai năm sau khi thiết lập quan hệ ngoại giao với Trung Quốc (1979), thương mại hai chiều cịn ở mức khiêm tốn 6,3 tỷ USD. Trong đĩ, Mỹ nhập khẩu từ Trung Quốc 1,9 tỷ USD, xuất khẩu 3,6 tỷ USD và đạt thặng dư 1,7 tỷ USD. Thời gian đầu, do các nhà kinh doanh hai nước chưa cĩ những hiểu biết sâu sắc về cách tiếp cận và phương thức hoạt động tại thị trường của nhau nên các nhà mơi giới Hồng Kơng và Hoa kiều sống ở Mỹ là cầu nối cho hoạt động ngoại thương hai nước. Mỹ giao dịch chủ yếu với mười cơng ty xuất nhập khẩu do Bộ ngoại thương Trung Quốc quản lý. Trong đĩ, Mỹ xuất khẩu hàng máy mĩc cơng nghiệp, thiết bị viễn thơng , máy tính ngũ cốc, sản phẩm hĩa chất và nhập khẩu các sản phẩm sử dụng nhiều lao động như hàng dệt may, đồ chơi, máy cơng cụ, … Các nhà đầu tư Mỹ cũng bắt đầu tìm đến thị trường Trung Quốc chủ yếu để tận dụng nguồn lao động rẻ, mức thuế xuất nhập khẩu thấp, nhất là tại các đặc khu kinh tế vùng ven biển. Song, hoạt động của họ bị hạn chế do các nhà quản lý và người tiêu dùng Trung Quốc cịn xa lạ với hàng ngoại, dẫn đến sức mua trong nước yếu. Bên cạnh đĩ, Trung Quốc cịn đưa ra chính sách khuyến khích nhà đầu tư nước ngồi và liên doanh tăng cường sản xuất hàng để xuất khẩu, trong số này chỉ 30% sản phẩm được tiêu thụ tại thị trường Trung Quốc. Một trở ngại nữa là do Trung Quốc chưa cĩ thị trường ngoại hối nên việc chuyển lợi nhuận của các nhà đầu tư nước ngồi sang các đồng tiền mạnh phải được phép của ngân hàng Trung ương Trung Quốc là ngân hàng duy nhất đảm nhiệm chức năng này. Sau sự kiện Thiên An Mơn (1989), một trở ngại lớn đã xuất hiện với việc Chính phủ Mỹ quyết định trừng phạt Trung Quốc bằng cách đình chỉ các cuộc trao đổi cấp cao, gắn việc dành quy chế thương mại tối huệ quốc cho Trung Quốc với các vấn đề nhân quyền. Thương mại giữa hai nước bị tác động mạnh bởi yếu tố chính trị này. Đặc biệt, do bị hạn chế trong lĩnh vực chuyển giao cơng nghệ, nhiều cơng ty Mỹ đã thu hẹp quy mơ kinh doanh tại Trung Quốc và một số ít rút ra khỏi thị trường này. Tháng 9 năm 1993, Bộ Ngoại giao Mỹ trình lên Nhà Trắng bản kiến nghị yêu cầu thay đổi chính sách đối với Trung Quốc, chuyển từ đối đầu sang “cam kết”. Hưởng ứng nỗ lực vận động tích cực của các cơ quan quốc phịng, Mỹ đã gỡ bỏ những quy định hạn chế chuyển giao cơng nghệ, quốc phịng và bán vũ khí sang Trung Quốc. Căng thẳng chính trị giữa hai nước bắt đầu dịu đi và hai bên lại tiếp tục các chương trình trao đổi quân sự. Trong phạm vi cộng đồng quốc tế, Mỹ và Trung Quốc mở rộng hợp tác tại Liên Hiệp Quốc về vấn đề khơng phổ biến vũ khí hạt nhân, ổn định trên bán đảo Triều Tiên và hịa bình ở Campuchia. Đầu tháng 6 năm 1994 quyết định quy chế thương mại tối huệ quốc cho Trung Quốc là bước ngoặt lớn tách dần chính trị ra khỏi các mối quan hệ kinh tế, mở ra một kỷ nguyên mới hợp tác kinh tế giữa hai quốc gia. Đến năm 1998, thương mại hai nước đã cĩ những bước tiến đáng kể với tổng hàng xuất khẩu của Mỹ sang Trung Quốc đạt 5,1 tỷ USD và nhập khẩu là 8,5 tỷ USD (tăng 4,5 lần so với năm 1981), tạo ra mức thâm hụt thương mại 3,4 tỷ USD cho Mỹ, biến Mỹ thành đối tác thương mại lớn thứ ba của Trung Quốc, sau Hồng Kơng và Nhật Bản. Cơ cấu thương mại Mỹ – Trung cũng thể hiện những thay đổi rõ rệt. Theo đĩ, Mỹ tăng cường xuất khẩu thiết bị cơng nghiệp như phương tiện giao thơng vận tải, hàng điện tử, đồ điện và nhập khẩu giày dép, hàng dệt, đồ chơi. Ngược lại, Trung Quốc giảm mạnh nhập khẩu ngũ cốc và nhiều thực phẩm khác của Mỹ. Để lý giải cho sự thay đổi cơ cấu này, cĩ thể thấy điều quan trọng nhất là Trung Quốc đã nhanh chĩng hội nhập và phụ thuộc hơn vào thị trường quốc tế. Từ đĩ rút ngắn được khoảng cách về thể chế giữa kinh tế Trung Quốc với các nền kinh tế thị trường, gĩp phần làm tăng tính cạnh tranh của Trung Quốc trên thị trường quốc tế. Sự phát triển năng động của Trung Quốc trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế đã thu hút nhiều cơng ty Mỹ mở rộng phạm vi hoạt động. Họ tăng cường xuất khẩu sang Trung Quốc hàng cơng nghệ cao, các sản phẩm sử dụng nhiều vốn như máy bay, ơ tơ, máy tính và nhiều thiết bị cơng nghiệp khác. Đồng thời xuất khẩu hàng tiêu dùng và dịch vụ của Mỹ sang Trung Quốc với khối lượng lớn đã phản ánh những thay đổi trong cơ cấu kinh tế Trung Quốc như sức mua mạnh, thị trường tiềm năng lớn, cho phép nhà đầu tư nước ngồi tăng thị phần tại thị trường nội địa. Trong điều kiện đĩ, các cơng ty Mỹ cĩ thể lưạ chọn đối tác là những cơng ty hàng đầu của Trung Quốc và tận dụng mạng lưới phân phối rất hiệu quả của các cơng ty nhằm tăng cường khả năng tiếp cận thị trường Trung Quốc. Hơn nữa, điều này cũng giúp các cơng ty Mỹ gặp nhiều thuận lợi hơn trong việc phối hợp các cơ quan chức năng của Chính phủ Trung Quốc trong quản lý thị trường và chuyển đổi ngoại tệ. Cơ cấu thương mại Mỹ – Trung cĩ một chút thay đổi khi hàng ngũ cốc xuất khẩu của Mỹ sang Trung Quốc giảm mạnh do Trung Quốc đã rất thành cơng trong phát triển nơng nghiệp. Sau khi Mỹ tăng cường đầu tư trực tiếp vào Trung Quốc với các dự án lớn, dài hạn, trực tiếp tập trung vào thị trường nội địa và Chính phủ Mỹ tháo bỏ các quy định hạn chế chuyển giao cơng nghệ sang Trung Quốc, xuất khẩu máy mĩc thiết bị của Mỹ tăng đáng kể. Tuy nhiên, ngân hàng xuất nhập khẩu và Bộ tài chính Mỹ vẫn rất dè chừng trong việc cấp tín dụng cho các cơng ty Mỹ trong hoạt động bán hàng tại Trung Quốc. Trong khi đĩ, Chính phủ Nhật Bản và nhiều nước châu Âu vẫn tiếp tục cho Trung Quốc các khoản vay để mua hàng thiết bị cơng nghiệp của nước này. Khơng những thế, nhiều cơ quan Chính phủ Nhật Bản như ngân hàng Nhật Bản, Bộ thương mại và cơng nghiệp quốc tế, Bộ tài chính đã tài trợ cho nhiều dự án nghiên cứu chi tiết về sự phát triển kinh tế, chính trị, luật pháp của Trung Quốc, đồng thời cung cấp những thơng tin này cho các cơng ty của Nhật Bản. Việc thiếu ngân sách đã cản trở đại sứ quán Mỹ tại Bắc Kinh, lãnh sự quán tại các thành phố khác của Trung Quốc và tại Hồng Kơng, tiến hành những quan sát trên diện rộng và cụ thể về nền kinh tế Trung Quốc. Thêm nữa, những nghiên cứu ít ỏi này được xem là bí mật và chỉ được lưu hành trong phạm vi hạn hẹp, khơng đến được với các cơng ty Mỹ. Do khơng cĩ sự hỗ trợ mạnh mẽ của Chính phủ, nhiều cơng ty Mỹ vẫn ở thế bất lợi trên thị trường Trung Quốc so với các đối thủ cạnh tranh đến từ châu Âu và Nhật Bản. Thâm hụt thương mại của Mỹ đối với Trung Quốc cũng tăng đáng kể. Năm 1995 con số này cịn ở mức 33,8 tỷ USD, năm 1997 ở mức 49,6 tỷ USD và lên tới 68,6 tỷ USD năm 1999, đưa Trung Quốc thành nước cĩ mức thặng dư thương mại với Mỹ lớn thứ hai trên thế giới, sau Nhật Bản. Nguyên nhân sâu xa dẫn đến tình trạng này trước hết là do bản thân các cơng ty Trung Quốc cĩ sức cạnh tranh hơn trên thị trường quốc tế do Chính phủ Trung Quốc cho phép họ chuyển đổi tiền tệ dễ dàng và được quyền trực tiếp bán sản phẩm của mình tại thị trường nước ngồi. Đặc biệt, việc bán hàng trực tiếp và gián tiếp của Trung Quốc sang Mỹ đã tăng vọt cho thấy một thực tế là Trung Quốc cùng các nước ASEAN khác đã giành được thị trường hàng hĩa sử dụng nhiều lao động của Mỹ từ tay các nước cơng nghiệp mới phát triển. Đồng thời, Trung Quốc cũng đã phát triển khả năng sản xuất và kỹ năng quản lý. Sở dĩ, Trung Quốc tạo ra mức thâm hụt thương mại lớn như vậy cho Mỹ là do họ đã đưa ra những biện pháp bảo hộ mới đối với hàng nơng sản của Mỹ như bột mì, thịt, cam quít. Trước những khĩ khăn chủ quan và khách quan cho các doanh nghiệp Mỹ trong quan hệ với Trung Quốc, chính phủ Mỹ cho rằng giải pháp tốt nhất cho vấn đề này và để tạo sự bình đẳng cho các doanh nghiệp Mỹ khi tiếp cận với thị trường Trung Quốc – như các doanh ngiệp Trung Quốc tiếp cận thị trường Mỹ – là hướng trung Quốc vào các nguyên tắc và tiêu chuẩn của Tổ chức thương mại thế giới (WTO), tiến tới xĩa bỏ dần các hàng xuất khẩu của Mỹ. Ngày 15/11/1999, Mỹ và Trung Quốc đã đạt được một hiệp định thương mại lịch sử, mở đường cho việc Trung Quốc gia nhập WTO cũng như mở tung cánh cửa của thị trường to lớn hơn 1,2 tỷ người tiêu dùng của Trung Quốc. Tiếp theo, ngày 19/9/2000, Quốc hội Mỹ đã nhất trí thơng qua việc dành quy chế quan hệ thương mại bình thường vĩnh viễn cho Trung Quốc. 2.1.2.Hiệp định thương mại Mỹ – Trung và việc dành quy chế quan hệ thương mại bình thường vĩnh viễn cho Trung Quốc. Về mặt kinh tế, Mỹ coi hiệp định thương mại Mỹ - Trung ký kết tháng 11/1999 giống như “con đường một chiều”, mặc dù nĩ địi hỏi Trung Quốc phải nhượng bộ và giảm nhiều khoản thuế hơn so với những gì phía Mỹ phải làm trong việc mở cửa thị trường. Những lợi ích mà hiệp định này mang lại cho Mỹ vẫn cịn rất khiêm tốn, chỉ tăng thêm 1,7 tỷ USD hay chưa đến 0,5 % GDP, trong khi đĩ GDP của Trung Quốc tăng hơn 4,1%. Nhiều người Mỹ cho rằng Mỹ sẽ rơi vào một mối quan hệ bất lợi kéo dài với Trung Quốc. Nếu cĩ khối lượng hàng xuất khẩu đến và nhập khẩu từ Trung Quốc tiếp tục tăng theo mức Uy ban thương mại Mỹ dự tính thì trong 50 năm tới, thâm hụt thương mại của Mỹ đối với Trung Quốc sẽ đạt mức kỷ lục 649 tỷ USD. Chỉ riêng trong 10 năm tới thâm hụt thương mại tăng sẽ làm 817.000 người Mỹ mất việc làm. Tuy nhiên, Mỹ đánh giá đây chỉ là xu hướng trước mắt, hàng nhập khẩu rẻ sẽ đem lại sự lựa chọn phong phú cho người tiêu dùng Mỹ. Cịn về lâu dài, điều này sẽ tạo áp lực buộc các nhà sản xuất Mỹ phải chủ động và sáng tạo hơn nữa trong sản xuất kinh doanh. Trung Quốc là một thị trường tiềm năng lớn và mục tiêu của Mỹ khơng chỉ là nắm bắt các cơ hội mới trong những năm cuối thập niên 1990 này mà là trong những năm 2010 và 2020. Vấn đề mà Mỹ thực sự lo ngại trong quan hệ thương mại với Trung Quốc nằm ở chỗ liệu Trung Quốc cĩ sẵn sàng hay cĩ đủ khả năng thực hiện đến cùng những cam kết của Hiệp định này hay khơng. Mỹ đã từng cĩ kinh nghiệm gặp phải các vấn đề phức tạp trong quá trình thực hiện Hiệp định thương mại với nhiều nước và khu vực, nhưng riêng với Trung Quốc, khơng thể đốn trước được điều gì sẽ xảy ra khi trong 2 thập kỷ qua, họ đã phá giá tiền tệ tới 9 lần, trụ được trong suốt cuộc khủng hoảng châu Á và giờ đây, Trung Quốc dường như lại muốn tiếp tục thực hiện chính sách này. Nếu Trung Quốc lại một lần nữa phá giá tiền tệ, khiến hàng xuất khẩu của họ rẻ hơn, và Mỹ phải nhập khẩu với giá cao hơn, thì những lợi ích mà Mỹ hy vọng đạt được từ Hiệp định sẽ khĩ trở thành sự thực. Do vậy, Mỹ đã khuyến khích Trung Quốc gia nhập WTO, dựa vào quyền lực tập trung của tổ chức này để buộc Trung Quốc tuân theo các cam kết, như vậy sẽ hiệu quả hơn so với việc Mỹ đơn phương gây áp lực cho Trung Quốc. Bên cạnh đĩ Bộ Thương mại Mỹ đã phác thảo một kế hoạch bao gồm 5 điểm bảo đảm Trung Quốc phải tuân thủ các cam kết. 1.Hình thành một đội ngũ giám sát mới, nhanh nhạy, đứng đầu là một trợ lý bộ trưởng cùng một đội ngũ các chuyên gia thương mại. Trong tương lai đội ngũ này sẽ tăng lên gấp 3 lần và sẽ cĩ những chuyên gia làm việc ngay tại đất nước Trung Quốc. 2.Quy định thời hạn rõ ràng đối với việc giám sát thị trường và các vấn đề thương mại với mục đích nhanh chĩng giải quyết các tranh chấp trước khi chúng chuyển thành những bất đồng thương mại thơng thường, đồng thời xố bỏ tệ nạn quan liêu. 3.Kiểm sốt các luồng thương mại Mỹ – Trung, xây dựng một chương trình đặc biệt theo dõi mức tăng hàng nhập khẩu như chương trình thép nhập khẩu rất hữu hiệu, lập biểu đồ tăng trưởng xuất khẩu trong những khu vực quan trọng để giám sát việc Trung Quốc cĩ mở cửa thị trường theo thỏa thuận khơng, cĩ hình thức._. Quốc và khả năng của Trung Quốc thách thức các lợi ích của Mỹ ở khu vực cũng như vị trí siêu cường duy nhất của Mỹ trên thế giới. Chiến lược bá quyền của Mỹ cho là cĩ khả năng đe dọa lợi ích của Mỹ, khơng cho phép cường quốc nào cĩ thể vươn lên đến mức thách thức vai trị của Mỹ ở khu vực Châu Á – Thái Bình Dương. Mỹ phải tính đến lợi ích của mình và các đồng minh trong việc tham gia giải quyết các cuộc xung đột ở eo biển Đài Loan và bán đảo Triều Tiên, duy trì an ninh trật tự trong khu vực, mặt khác đảm bảo cho các quyền lợi kinh tế của Mỹ và khơng cho nước nào nổi lên đe dọa vị trí lãnh đạo của Mỹ. Chính sách đối với Trung Quốc trong nhiệm kỳ hai của chính quyền G.Bush, về cơ bản sẽ khơng cĩ những thay đổi lớn. Mặc dù cứng rắn (nhất là vấn đề Đài Loan) nhưng khơng đến mức phá vỡ hiện trạng quan hệ Trung – Mỹ. Chính sách này khơng chỉ được quyết định bởi lợi ích quốc gia của Mỹ, lợi ích chung rất quan trọng của hai nước Trung Quốc và Mỹ, mà cịn được quyết định bởi sự cạnh tranh giữa các nước lớn trên thế giới hiện nay. Hợp tác Mỹ – Trung trong các vấn đề an ninh tịan cầu và khu vực tiếp tục được thúc đẩy. Trung Quốc vẫn chiếm một vị trí quan trọng trong chiến lược tịan cầu chống khủng bố của Mỹ, Ngọai trưởng Mỹ, C.Raixơ, đã nhấn mạnh rằng, Mỹ khơng thể đối kháng với Trung Quốc. Mặc dù phản ứng sau khi Trung Quốc đưa ra “Luật chống ly khai”, Ngọai trưởng Mỹ vẫn thực hiện chuyến viếng thăm Bắc Kinh theo kế họach đã định. Ngày càng nhiều người Mỹ nhận thức rằng, một nước Trung Quốc phát triển và phồn vinh là phù hợp với lợi ích của Mỹ. Tuy nhiên, cạnh tranh chiến lược giữa Mỹ và Trung Quốc cịn khả năng gia tăng trong những thập niên tới vì ba lý do: Một là, lợi dụng Mỹ bận rộn với vấn đề Iraq và cuộc chiến chống khủng bố, Trung Quốc sẽ gia tăng ảnh hưởng ở khu vực châu Á – Thái Bình Dương. Trong thời gian tới, chính quyền G.Bush cĩ khả năng sẽ điều chỉnh để kiềm chế ảnh hưởng và sự trỗi dậy của Trung Quốc; hai là, khả năng cọ xát về kinh tế Mỹ-Trung, đặc biệt trong lĩnh vực tỷ giá hối đĩai sẽ tiếp tục gia tăng trong thời gian tới trong bối cảnh thâm hụt thương mại của Mỹ với các nước, đặc biệt là Trung Quốc ngày càng tăng; ba là, chính quyền Bush cĩ khả năng sẽ cứng rắn hơn trong vấn đề Đài Loan, tăng cường gây sức ép về vấn đề dân chủ, nhân quyền sau một thời kỳ tương đối mềm mỏng với Trung Quốc nhằm đổi lại sự hợp tác trong cuộc chiến chống khủng bố và việc giải quyết vấn đề hạt nhân trên bán đảo Triều Tiên. 3.2.Dự báo chính sách đối ngoại của Trung Quốc hai thập niên đầu thế kỷ XXI: Chính sách đối với Mỹ : Đại hội XVI Đảng Cộng sản Trung Quốc đã xác định quan hệ với các nước lớn trong đĩ cĩ Mỹ là ưu tiên hàng đầu trong chính sách đối ngoại. Trong thời gian qua Trung Quốc đã chú trọng phát triển quan hệ với Mỹ, chủ động tìm cách nối lại quan hệ mỗi khi cĩ căng thẳng. Trong nhiệm kỳ hai của chính quyền Bush II, Trung Quốc ý thức đựơc rằng, Mỹ sẽ thi hành chính sách cứng rắn hơn với Trung Quốc, nhưng do yêu cầu về mặt chiến lược và do thực lực chưa cho phép, Trung Quốc sẽ lựa chọn những vấn đề thời điểm để đấu tranh với Mỹ trong khuơn khổ chung là duy trì quan hệ tốt đẹp với Mỹ. Trung Quốc coi trọng quan hệ ổn định với Mỹ cĩ ý nghĩa chiến lược quan trọng. Trong 20 năm tới, Mỹ vẫn là đối tượng quan trọng nhất trong chính sách đối ngoại của Trung Quốc, Trung Quốc vẫn tiếp tục thi hành chính sách mềm dẻo nhằm mục đích duy trì quan hệ Trung – Mỹ ở mức ổn định, đồng thời lợi dụng các liên minh hoặc các quan hệ tay ba khác để phân hĩa, chia rẽ sức mạnh của Mỹ, Trung Quốc chống chủ nghĩa bá quyền Mỹ, nhưng khơng thách thức bá quyền của Mỹ bên ngồi khuơn khổ Liên Hợp Quốc, trừ khi lợi ích thiết thân của Trung Quốc bị xâm hại. Về kinh tế để thực hiện thành cơng chính sách cải cách mở cửa, Trung Quốc cần phải mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại, nhất là Mỹ, bởi Mỹ là một thị trường rộng lớn, nguồn cung cấp vốn đầu tư và kỹ thuật cao, kể cả trong lĩnh vực quốc phịng, để thực hiện cơng cuộc bốn hiện đại hĩa, mặt khác tạo ra đối trọng trong cục diện quan hệ kinh tế quốc tế. Thực tế, theo đánh giá của IMF, WB, Trung Quốc đã thực sự khẳng định vị trí cường quốc kinh tế, đầu tàu quan trọng của kinh tế thế giới bên cạnh Mỹ. Chính sách đối với Nga : Xét về ngắn hạn, và lâu dài Trung Quốc vẫn tiếp tục phát triển quan hệ với Nga vì Trung Quốc vẫn cần đến Nga nhưng ít cĩ khả năng phát triển mạnh do yêu cầu của Trung Quốc đối với nước này chỉ ở mức thấp. Xét về địa – chiến lược, để duy trì cán cân quyền lực ở Đơng Á, Trung Quốc tiếp tục tăng cường quan hệ với Nga, coi đĩ là một đối trọng với chủ nghĩa đơn cực của Mỹ và ảnh hưởng thỏa thuận nội dung mới về hợp tác an ninh, Mỹ với Nhật Bản. Đồng thời lợi ích thiết thực của Trung Quốc là đảm bảo mơi trường hịa bình, an ninh ở phía Bắc phục vụ cho phát triển kinh tế, duy trì ổn định và sự thống nhất của đất nước, thúc đẩy hợp tác kinh tế ở phía Đơng và tập trung sức lực để mở rộng ảnh hưởng xuống vùng Đơng Nam Á. Về kinh tế, Trung Quốc tiếp tục đẩy mạnh quan hệ kinh tế với Nga, tiếp cận được với nguồn tài nguyên thiên nhiên giàu cĩ ở vùng Xibêri, đáp ứng sự thiếu hụt về năng lượng và nhiên liệu của Trung Quốc. Về quốc phịng, Trung Quốc sẽ tiếp tục hợp tác, mua vũ khí của Nga chủ yếu với hình thức mua bản quyền và sản xuất tại Trung Quốc. Tuy nhiên, Nga khơng chiếm vị thế quan trọng nhất trong tổng thể chính sách đối ngoại của Trung Quốc. So với quan hệ Trung – Mỹ, Nga cĩ vị trí thấp hơn nhiều, phương cách mà Trung Quốc và Nga lựa chọn để chống lại bá quyền Mỹ là hợp tác với Mỹ chứa khơng phải lập một mặt trận chung chống Mỹ. Tuy nhiên, xét về dài hạn, Trung Quốc sẽ khơng bỏ qua tham số là Nga. Trên con đường đi tìm địa vị to lớn hơn, Trung Quốc chắc chắn vẫn cần đến Nga như một sự tập hợp lực lượng tại một số thời điểm nào đĩ để chống lại bá quyền Mỹ. Trong thời gian tới những nhân tố thúc đẩy hợp tác về kinh tế, về quân sự vẫn tồn tại nhưng khơng cĩ động lực mạnh mẽ hoặc gặp phải những khĩ khăn để tạo ra những bước phát triển lớn. Sự cạnh tranh giữa Trung Quốc và Nga trong hệ thống quan hệ quốc tế vẫn tiếp tục tồn tại. Chính sách đối với Nhật Bản : Về chính trị, xuất phát từ chỗ Trung Quốc coi Nhật Bản là một nươc lớn (đặc biệt là về kinh tế), một cường quốc ở khu vực, và là một nước láng giềng, Trung Quốc cần phải tranh thủ và phát triển quan hệ với Nhật, mặt khác Trung Quốc lại cạnh tranh ảnh hưởng với Nhật Bản, khơng muốn Nhật Bản ngày càng đĩng vai trị lớn trong đời sống chính trị thế giới và khu vực, hoặc khơng hài lịng với những hành động mang tính quốc tế của Nhật Bản như gửi đội quân hậu cần trợ giúp Mỹ trong chiến tranh Vùng Vịnh năm 1991 và chiến tranh Iraq năm 2003. Dự báo trong hai mươi năm tới, Trung Quốc tiếp tục coi Nhật Bản vừa là một đối tác quan trọng cần tranh thủ để phát triển kinh tế vừa là một đối thủ ở khu vực Đơng Á nên chính sách của Trung Quốc vừa là tranh thủ vừa kiềm chế, vừa hợp tác vừa đấu tranh. Sự nghi kỵ và canh tranh lẫn nhau vẫn tiếp tục bao phủ lên mối quan hệ giữa hai nước. Tuy nhiên, chiều hướng phát triển quan hệ Trung – Nhật sẽ tiếp tục được thúc đẩy. Mặt khác Trung Quốc ít ủng hộ Nhật Bản trong nỗ lực trở thành ủy viên thường trực của Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc. Tranh chấp lãnh thổ cĩ thể cĩ những lúc trở nên căng thẳng, nhưng khơng đưa đến xung đột hoặc bất hịa lớn ảnh hưởng tiêu cực đến mối quan hệ hai nước. Tích cực tham gia giải quyết các vấn đề hạt nhân trên bán đảo Triều Tiên, tập hợp lực lượng gắn kết các nền kinh tế khu vực Đơng Á với sự phát triển kinh tế của Trung Quốc, coi đây là đường hướng chính để xây dựng “cơ sở” vững mạnh cho Trung Quốc trong quan hệ với Mỹ trong thời điểm hiện tại cũng như trong tương lai. Mục tiêu chiến lược của Trung Quốc đối với Đơng Á trong hai thập niên đầu của thế kỷ XXI sẽ vẫn là : duy trì hịa bình và ổn định ở khu vực nhằm phục vụ cho cơng cuộc phát triển của Trung Quốc, đồng thời tăng cường ảnh hưởng tại khu vực để trở thành một cường quốc hùng mạnh trên thế giới. Đối với việc thiết lập cơ chế hợp tác an ninh ở khu vực Đơng Á, trong thời gian tới thái độ của Trung Quốc cĩ thể thể hiện dưới dạng tiêu cực, chủ động sang thái độ đĩng gĩp tích cực vào việc thiết lập cơ chế an ninh chung tại khu vực. Để thực hiện mục tiêu đĩ, Trung Quốc sẽ thực hiện các biện pháp sau : Tiếp tục thi hành chính sách hịa bình hữu nghị, tăng cường quan hệ kinh tế với các nước trong khu vực ở những mức độ khác nhau. Tiếp tục tham gia vào các cơng việc ở khu vực nhằm nâng cao vị thế, vai trị của Trung Quốc tại đây, đồng thời hạn chế việc mở rộng ảnh hưởng của Nhật Bản. Chính sách đối với CHDCND Triều Tiên Đối với việc giải quyết vấn đề hịa bình trên bán đảo Triều Tiên : Một là, Trung Quốc mong muốn quan hệ giữa hai miền Triều Tiên cũng như giữa Cộng hịa dân chủ nhân dân dân Triều Tiên với Nhật Bản và Mỹ cĩ những tiến triển tích cực, gĩp phần duy trì hịa bình, ổn định ở khu vực. Hai là, Trung Quốc khơng muốn CHDCND Triều Tiên thốt khỏi tầm kiểm sốt của Trung Quốc, khơng muốn CHDCND Triều Tiên cĩ những bước đi mạnh mẽ trong việc bình thường hĩa và phát triển quan hệ với Mỹ và Nhật Bản, cĩ thể gây ra những tác hại đối với Trung Quốc. Thêm vào đĩ, Trung Quốc khơng muốn mất con bài Triều Tiên trong quan hệ với Mỹ. Trong hai vấn đề trên, vấn đề thúc đẩy hịa bình trên bán đảo Triều Tiên cĩ tính chất ngắn hạn, vấn đề duy trì vai trị đối với tình hình bán đảo Triều Tiên cĩ tính chất dài hạn, Trung Quốc sẽ cĩ những bước đi yêu cầu CHDCND Triều Tiên phải cĩ những nhân nhượng đối với Hàn Quốc, Mỹ và Nhật Bản nhằm làm dịu tình hình, khơng để CHDCND Triều Tiên biến thành một mục tiêu cơng kích của Mỹ, khơng để Mỹ và Nhật Bản cĩ cớ Trung Quốc tăng cường họat động vũ trang hoặc nâng cao tiềm lực quốc phịng và khơng để Mỹ tận dụng vấn đề hịa bình trên bán đảo Triều Tiên để hạn chế tầm hoạt động của Trung Quốc, gây ra những bất lợi về chiến lược và chiến thuật đối với Trung Quốc. Chính sách đối với Đài Loan : Trong phát biểu năm 2005, của chủ tịch nước Hồ Cẩm Đào đã nhấn mạnh quan điểm của Trung Quốc về vấn đề Đài Loan là tiếp tục chủ trương thống nhất đất nước với mơ hình tương tự như Hồng Kơng “một đất nước, hai chế độ” bằng con đường hịa bình, tơn trọng quyền tự trị tại các vùng lãnh thổ mới sáp nhập về Trung Quốc. Từ thực tế của Trung Quốc, xét tương quan lực lượng hiện nay, cĩ thể dự báo : Nếu Trung Quốc sử dụng vũ lực, dù dưới dạng tổng thể hay hạn chế đều cĩ những mặt tiêu cực. Vấn đề Đài Loan hoặc được giải quyết với giá quá đắt hoặc khơng thể giải quyết được tồn diện. Lựa chọn sử dụng lực lượng quân sự dù dưới dạng hạn chế khơng cĩ tính thực tiễn. Dự báo trong vài thập niên tới Trung Quốc sẽ tiến hành một số hành động nhằm ngăn chặn xu hướng độc lập của Đài Loan, trong đĩ khơng loại trừ khả năng Trung Quốc sẽ dùng biện pháp hai mặt : một mặt tỏ ra mềm mỏng, mặt khác Trung Quốc sẽ tăng cường sức ép tổng hợp về chính trị, ngoại giao, kinh tế, quân sự để ép Đảng Dân Tiến của Trần Thủy Biển phải từ bỏ chủ trương “Đài Loan độc lập” và ngồi vào bàn đàm phán. Quan hệ giữa hai bờ eo biển Đài Loan sẽ tiếp tục là vấn đề phức tạp nhưng khơng xảy ra đột biến lớn phá hỏng khung quan hệ vừa đấu tranh vừa hợp tác giữa Trung Quốc và Mỹ, Trung Quốc sẽ sử dụng vũ lực như một cơng cụ gây sức ép với Đài Loan chứ khơng phải là một cơng cụ để giải quyết vấn đề Đài Loan. Bên cạnh đĩ, Trung Quốc tiếp tục thúc đẩy những nhân tố hợp tác giữa hai bờ, đặc biệt là quan hệ kinh tế, thương mại, đầu tư, kể cả việc dùng những cơng cụ chính trị như cho phép các doanh nhân Đài Loan tham gia vào hội nghị chính trị hiệp thương, hướng hoạt động kinh tế đối ngoại của Đài Loan vào lục địa. Đây là con đường để Trung Quốc tiến hành thống nhất tổ quốc. Con đường này yêu cầu Trung Quốc phải nhẫn nại, dùng lợi ích để lơi kéo Đài Loan. Mặt khác, Trung Quốc dùng biện pháp chính trị và ngoại giao để hạn chế “khơng gian sinh tồn” của Đài Loan, theo dõi chặt chẽ và phản đối việc Mỹ, các nước Đơng Nam Á tăng cường quan hệ với Đài Loan, Trung Quốc sẽ khơng chịu để Mỹ và Nhật Bản hợp tác với Đài Loan trong một liên minh về an ninh. Trung Quốc sẽ quan tâm hơn quan hệ với An Độ vì đây là nước láng giềng lớn nhất và cĩ ảnh hưởng quan trọng ở Nam Á. Nếu Trung Quốc cải thiện quan hệ tốt với An Độ sẽ cĩ lợi cho việc ổn định khu tự trị Tây Tạng và phát triển khu vực miền Tây. Mặt khác sự hợp tác Trung – An đựơc tăng cường khơng chỉ là vấn đề kinh tế mà cịn là vấn đề chính trị, nhằm mở ra con đường phá thể bao vây đối với việc Mỹ, Nhật Bản, vấn đề Đài Loan đang gây áp lực rất lớn với Trung Quốc. Chính sách đối với khu vực Đơng Nam Á : Chính sách của Trung Quốc đối với Đơng Nam được thể hiện ở hai mặt : Một mặt, Trung Quốc thi hành chính sách hịa bình, hữu nghị, láng giềng thân thiện với các nước ASEAN để tạo mơi trường hịa bình ổn định và phát triển ở khu vực, cĩ lợi cho sự phát triển và mở rộng ảnh hưởng của Trung Quốc, thơng qua các biện pháp sau : Thi hành chính sách láng giềng thân thiện (xĩa bỏ hồi nghi, tăng thêm tin cậy, mở rộng điểm đồng, tăng cường hợp tác; thúc đẩy đồn kết, cùng nhau phát triển), gĩp phần thúc đẩy kinh tế khu vực phát triển. Đối với những vấn đề hợp tác chung, Trung Quốc sẽ xử sự với ASEAN như một thực thể thống nhất, khơng chấp nhận những ưu tiên cá biệt nhằm lợi dụng sự khác biệt giữa các nước ASEAN với nhau, để tự ASEAN phải giải quyết lấy những mâu thuẫn đĩ. Tích cực tham gia các diễn đàn đa phương, giải quyết các điểm nĩng trong khu vực. Thực hiện chính sách cân bằng quan hệ với các nước lớn tại khu vực. Mặt khác, Trung Quốc thi hành chính sách mở rộng ảnh hưởng, “lấp chỗ trống” ở khu vực, thơng qua các biện pháp : Tăng cường sức mạnh và sự cĩ mặt về quân sự tại khu vực; khơng để các nước ASEAN tập trung thống nhất ý kiến, hợp tác với nhau chống lại Trung Quốc. Tĩm lại, mục tiêu chiến lược xuyên suốt và nhất quán của Trung Quốc là vươn lên thành một cực chi phối quan hệ quốc tế và chiến lược đối ngoại thời kỳ sau chiến tranh lạnh của Trung Quốc vừa mang tính kế thừa thời kỳ trước, đồng thời cĩ những nét mới : chiến lược “hịa bình, độc lập tự chủ”, “ngoại giao tồn phương vị” của Đặng Tiểu Bình, lý luận “đa cực hĩa” của Giang Trạch Dân. Một điểm mới khi bước sang thế kỷ XXI, Trung Quốc đã chú trọng nhiều hơn đến nhân tố thực lực (sức mạnh kinh tế, chính trị, quân sự). Nếu trong thời kỳ chiến tranh lạnh, Trung Quốc tập hợp lực lượng theo hàng dọc với mẫu số chung là ý thức hệ tư tưởng thì thời kỳ sau chiến tranh lạnh, Trung Quốc tập hợp lực lượng cả hàng dọc lẫn hàng ngang, đa phương vị, đa tầng cấp, tiêu chí đặt lên hàng đầu là lợi ích chung về kinh tế, chính trị. Ý thức hệ tư tưởng bị đưa xuống hàng thứ yếu. Trong các hướng triển khai chiến lược ngoại giao. Trung Quốc dành nhiều quan tâm hơn cho việc tập hợp lực lượng với các nước láng giềng, khu vực, coi đây là ưu tiên thứ hai của chính sách đối ngoại. Chính sách đối ngoại của Trung Quốc sẽ được tiến hành khơn khéo, chủ động, tích cực và uyển chuyển. Những đặc điểm nĩi trên sẽ tiếp tục chi phối chiến lược đối ngoại của Trung Quốc trong hai thập niên đầu thế kỷ XXI. KẾT LUẬN Chính sách của Mỹ đối với Trung Quốc là một bộ phận quan trọng trong chính sách đối ngoại của Mỹ đối với khu vực Châu Á – Thái Bình Dương. Chính sách vai trị chủ chốt của Trung Quốc trong các vấn đế an ninh, kinh tế… ở khu vực là yếu tố quyết định sự ưu tiên này. Trên thực tế, sự hợp tác của Trung Quốc là cần thiết để cĩ thể đi đến một giải pháp giải quyết các vấn đề khu vực. Là một nước lớn cĩ mức độ can thiệp cao đến các vấn đề an ninh, sự lựa chọn con đường phát triển của Trung Quốc cĩ ý nghĩa quyết định đến hịa bình và ổn định ở khu vực. Trên bình diện quốc tế, với diện tích đất đai lớn thứ ba thế giới và dân số chiếm gần 1/6 dân số thế giới, cĩ thể nĩi Trung Quốc là một nhân tố ảnh hưởng lớn đến sự ổn định khơng chỉ ở khu vực mà cịn trên tồn thế giới. Đối với Mỹ, Trung Quốc là một thị trường tiêu thụ và đầu tư hấp dẫn đối với các doanh nghiệp Mỹ. Mỹ là bạn hàng lớn nhất của Trung Quốc (tiếp sau là EU và Nhật Bản), Trung Quốc là nơi thu hút đầu tư trực tiếp nước ngồi đứng thứ hai trên thế giới (sau Mỹ) và là đối tác thương mại lớn nhất của Mỹ. Sự lớn mạnh của Trung Quốc và vị thế ngày càng tăng của Trung Quốc trên trường quốc tế khiến chính quyền G. Bush khơng thể làm ngơ vai trị chiến lược của Trung Quốc, khơng thể khơng tơn trọng vai trị nước lớn của Trung Quốc và duy trì lợi ích kinh tế của Mỹ ở đây trong cố gắng làm giảm bớt thâm thụt cán cân thương mại của Mỹ đối với Trung Quốc. Song những động thái của chính quyền mới cũng cho thấy họ đang tìm cách giảm bớt tầm quan trọng của Trung Quốc. Mỹ vẫn sẽ tiếp tục chiến lược mở cửa đối với Trung Quốc (được áp dụng từ năm 1977) với việc hai bên thiết lập Hiệp định khung “Quan hệ đối tác chiến lược mang tính xây dựng hướng tới thế kỷ XXI”. Về kinh tế, Mỹ tăng cường phát triển quan hệ kinh tế thương mại giữa hai nước, tán thành dành qui chế thương mại bình thường lâu dài (PNTR) cho Trung Quốc và ủng hộ Trung Quốc gia nhập Tổ chức thương mại thế giới (WTO). Mở cửa thị trường Trung Quốc (tuy vẫn cĩ hạn mức) đối với hàng nơng phẩm và phân phối hàng tiêu dùng kèm theo giảm thuế quan (đặc biệt là ơtơ) sẽ làm Trung Quốc mất đi rất nhiều việc làm ở cả nơng thơn cũng như ở tại các xí nghiệp nhà nước. Đối với Mỹ, cái lợi lớn nhất của việc Trung Quốc gia nhập WTO chính là việc mở cửa thị trường đơng dân nhất thế giới (hơn 1,2 tỷ dân) với sức mua chưa được thỏa mãn, giàu triển vọng về thương mại và đầu tư này.Tuy nhiên, song song với việc đẩy mạnh các quan hệ kinh tế, Mỹ cũng tăng cường truyền bá các tư tưởng tự do, dân chủ của Mỹ vào Trung Quốc. Đồng thời Mỹ cũng nhấn mạnh đến chính sách phịng ngừa, kiềm chế và cĩ thái độ cứng rắn đối với Trung Quốc.Vấn đề nhân quyền,Tây Tạng, Đài Loan sẽ được sử dụng như cái cớ để Mỹ can thiệp vào cơng việc nội bộ của Trung Quốc, chia rẽ mối quan hệ của Trung Quốc với các nước xung quanh, nhằm ngăn ngừa hay ít ra làm chậm sự vươn lên của Trung Quốc. Trong quan hệ kinh tế, hai nước Mỹ – Trung là thị trường lớn của nhau, tăng cường hợp tác trên cơ sở hai bên cùng cĩ lợi, cho nên Mỹ đã ủng hộ Trung Quốc gia nhập WTO. Cịn Trung Quốc cũng dựa vào sự hợp tác đĩ để đẩy mạnh cảI cách, mở cửa, mở rộng thị trường thế giới. Tuy nhiên trong hệ thống kinh tế thế giới hiện nay, khơng cho phép bên nào dựng lên hàng rào bảo vệ mậu dịch đối với bên kia càng khơng thể sử dụng thủ đoạn kỳ thị mậu dịch để đối phĩ với nhau, mà hai bên sẽ vừa hợp tác, vừa đấu tranh trong một nền kinh tế thế giới thống nhất. Trong quan hệ Trung – Mỹ, để tránh sự xung đột, đối đầu như thời kỳ chiến tranh lạnh, điều cơ bản là phải thúc đẩy để lợi ích của hai bên xích lại gần nhau vì sự ổn định và phát triển là mục tiêu mà hai bên đều hướng tới, đồng thời đĩ cũng là yếu tố then chốt để hỗ trợ nhau, tránh xung đột. Để duy trì ổn định của hệ thống thế giới hiện nay. Mỹ rất cần đến sự hợp tác của các đối tác chủ yếu, trong đĩ Trung Quốc chiếm vị trí rất quan trọng. Trung Quốc là một nước lớn ở khu vực, cũng là nước cĩ ảnh hưởng lớn trên thế giới, cĩ vai trị nhất định trong việc bảo đảm ổn định đời sống chính trị thế giới. Mặt khác, Trung Quốc đang trên đà phát triển mạnh về kinh tế, là thị trường hết sức quan trọng đối với Mỹ. Hợp tác song phương phát triển sẽ tạo điều kiện cĩ lợi cho cả hai bên. Hợp tác về an ninh luơn là lĩnh vực được hai nước quan tâm. Mỹ luơn khẳng địnhTrung Quốc là nhân tố thách thức Mỹ trong ý đồ thiết lập trật tự thế giới đơn cực do Mỹ lãnh đạo. Tuy nhiên Mỹ cũng khơng muốn gây đối đầu căng thẳng hoặc khả năng cĩ thể xảy ra xung đột với Trung Quốc. Quan hệ Trung Quốc – Mỹ kể từ năm 2003 cĩ nhiều khởi sắc nhưng cũng khơng ít các bất đồng trên các vấn đề cịn tồn tại. Một vấn đề nhạy cảm trong quan hệ giữa Mỹ với Trung Quốc là vấn đề Đài Loan- đây từng là nguồn gốc của những căng thẳng trong quan hệ giữa hai nước suốt 5 thập kỷ qua. Về Đài Loan, chính quyền G. Bush vẫn tiếp tục chính sách “3 khơng”, theo đĩ Đài Loan được coi là một bộ phận của Trung Quốc, Mỹ khơng ủng hộ Đài Loan gia nhập các tổ chức quốc tế dành cho các quốc gia cĩ chủ quyền. Mỹ cơng nhận một nước Trung Hoa duy nhất và chống lại bất cứ tuyên bố độc lập nào của Đài Loan. Tuy nhiên, trên thực tế “Mỹ sẽ giúp Đài Loan chống lại bất cứ âm mưu nào của Trung Quốc muốn thơn tính Đài Loan bằng vũ lực”. Mỹ chỉ chấp nhận một sự thay đổi về quy chế chủ quyền của Đài Loan “nếu đĩ là kết quả đàm phán hịa bình giữa các bên cĩ liên quan”. Tuy nhiên, việc Mỹ bán vũ khí cho Đài Loan luơn làm cho quan hệ Mỹ – Trung trở nên căng thẳng, đồng thời cho thấy thái độ cương quyết, cứng rắn của Bắc Kinh trong vấn đề bảo vệ chủ quyền và tồn vẹn lãnh thổ. Song, dù chính quyền Mỹ cĩ tỏ ra tích cực, cứng rắn hơn trong việc bảo vệ Đài Loan thì chúng ta vẫn thấy rằng quan hệ Mỹ đối với Trung Quốc đại lục vẫn luơn luơn được ưu tiên. Cho đến nay, Mỹ chưa bao giờ vì Đài Loan mà hy sinh quan hệ với Đại lục, cho dù sự ổn định tại eo biển Đài Loan phù hợp với việc duy trì các quyền lợi của Mỹ tại khu vực Đơng Á cũng như câu Á – Thái Bình Dương. Vấn đề Đài Loan vốn là vấn đề nhạy cảm nhất trong quan hệ song phương về cơ bản cĩ thể khống chế được. Tổng thống Bush và các nhà lãnh đạo Mỹ đã nhiều lần nhấn mạnh Mỹ sẽ kiên trì chính sách một nước Trung Quốc, phản đối Đài Loan tuyên bố độc lập. Chính quyền Mỹ tương đối thận trọng trong bày tỏ thái độ đối với vấn đề trưng cầu dân ý về việc độc lập của Đài Loan gần đây và cĩ sự chế ước nhất định đối với nhà lãnh đạo Đài Loan Trần Thủy Biển. Quan hệ Trung – Mỹ phát triển ổn định gắn với việc hai nước cùng tơn trọng, chiếu cố tới mối quan tâm của nhau và cùng nỗ lực giải tỏa hoặc gác lại những bất đồng tranh chấp. Hai nước xử lý các bất đồng cịn tồn tại theo tinh thần tơn trọng lẫn nhau . Phía Mỹ cho biết sự khác nhau lớn nhất trong quan hệ Mỹ – Trung so với trước là, hai bên cịn cĩ những bất đồng nhưng vẫn cĩ thể trao đổi ý kiến một cách thẳng thắn theo tinh thần hợp tác, trên cơ sở lợi ích chung và khơng chịu sự ràng buộc. Khuơn khổ chung cho quan hệ Trung Mỹ những thập niên đầu thế kỷ XXI vẫn là hợp tác và đấu tranh đan xen lẫn nhau, quá trình hợp tác và đấu tranh giữa Trung Quốc và Mỹ sẽ được chuyển đổi dựa trên những tính tốn lợi ích của hai nước trên từng vấn đề cụ thể. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Lưu Chấn Á (2000), Cơ hội lớn và thách thức lớn đối với Trung Quốc khi gia nhập WTO, Tạp chí Nghiên cứu lý luận, số 8-2000. 2. Lý Thiết Anh (2000), Trung Quốc và thế giới trong đầu thế kỷ XXI, cơ hội và thách thức, Tạp chí Cộng sản, số 24/2000. 3. Dương Quốc Anh – Quang Phương (2003), G.W.Bush Người dẫn dắt nước Mỹ, Nxb Lao động, Hà Nội. 4. Dương Quốc Anh (2003), Tranh chấp Trung – Mỹ leo thang, 5. Phi Bằng (2001), Những sự kiện quan trọng trong quan hệ Mỹ – Trung Quốc, Nxb Trẻ, TpHCM. 6. Văn Bình (2001), Quan hệ Trung – Mỹ: những dấu hiệu khủng hoảng, 7. Vương Dật Châu (2004), An ninh quốc tế trong thời đại tồn cầu hĩa, Nxb CTQG, Hà Nội. 8. Minh Châu (2001), Trung Quốc hồn tồn chân thành trong hợp tác với Mỹ, theo 9. Giang Trạch Dân (1994), Tình hình Thế giới hiện nay và chính sách đối ngoại của Trung Quốc đối với Đơng Nam Á, Tài liệu tham khảo đặc biệt (TTXVN), Ngày 12/11/1994. 10. Giang Trạch Dân (2002), Diễn văn đọc tại trường Đại học Quốc gia Hà Nội ngày 28 tháng 2 năm 2002, bản tin Trung Quốc số tháng 3/2002. 11. Lê Trung Dũng – Nguyễn Ngọc Mão (2001), Thế giới những sự kiện lịch sử thế kỷ XX (1946-2000), Nxb Giáo dục, Hà Nội. 12. Lâm Lợi Dân, Một số suy nghĩ về chiến lược đối ngoại Trung Quốc đầu thế kỷ XXI, 13. Kerry Dumbaugh (2003), Quan hệ Trung – Mỹ: Những vấn đề hiện tại cho Quốc hội khĩa 108, 14. Thomas J. Donohue (2004), Quan hệ Trung Quốc – Hoa Kỳ: sự thật đằng sau những lời tuyên bo, 15. Richard N. Haass (2002), Trung Quốc và tương lai quan hệ Trung – Mỹ, 16. Harry Harding (1998), Mỹ và Trung Quốc trong tứ giác châu Á, 17. Harry Harding (2001), Phương pháp tiếp cận châu Á của chính quyền Bush: trước và sau sự kiện 11-9, 18. Hải Hà (2002), Hội thảo “Trật tự tồn cầu về châu Á – Thái Bình Dương sau 11/9”, Tạp chí Nghiên cứu Quốc tế, số 1/2002. 19. Dương Hà (2002), Quan hệ Trung – Mỹ: đối tác hay đối thủ?, 20. Nguyễn Minh Hằng (chủ biên) (1996), Quan hệ kinh tế đối ngoại Trung Quốc thời mở cửa, Nxb KHXH, Hà Nội. 21. Lê Thu Hằng (2005), Tổng quan chính sách thương mại Mỹ dưới chính quyền Bush (2001-2004), Tạp chí Châu Mỹ ngày nay, số 08-2005. 22. Lưu Kim Hâm, Đại tá Minh Giang dịch (2004), Trung Quốc- những thách thức nghiêm trọng của thế kỷ XXI, Nxb Văn hĩa Thơng tin, Tp HCM. 23. Nguyễn Văn Hồng (chủ biên) (2003), Trung Quốc cải cách mở cửa những bài học kinh nghiệm, Nxb Thế giới, Hà Nội. 24. Trần Khiết Hoa (2001), Chiến lược ngoại giao Trung Quốc thế kỷ XXI, Nxb Thời sự, Hà Nội. 25. Vũ Dương Huân (chủ biên ) (2003), Quan hệ của Mỹ với các nước lớn ở khu vực châu Á – Thái Bình Dương, Nxb CTQG, Hà Nội. 26. Học viện chính trị quốc gia (2004), Quan hệ quốc tế, Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội. 27. Bruce W. Jentleson (2004), Chính sách đối ngoại Hoa Kỳ động cơ của sự lựa chọn trong thế kỷ XXI, Nxb CTQG, Hà Nội. 28. Đỗ Tuyết Khanh (2005), Trung Quốc sau 4 năm gia nhập WTO, tạp chí Thời đại mới, tháng 7/2005. 29. Nguyễn Nam Khánh (2004), Đơng Bắc Á: một kịch bản khác của cuộc chiến Iraq?, Tạp chí Nghiên cứu quốc tế, số 52-2004 30. James A. Kelly (2003), Quan hệ Hoa Kỳ – Trung Quốc, Harry Harding (1998), Mỹ và Trung Quốc trong tứ giác châu Á, 31. Trần Kiên (2005), Trung Quốc người khổng lồ của thế kỷ XXI, 32. Trần Kiên (2005), Trung Quốc tranh thủ quan hệ với Mỹ như thế nào?, 33. Lê Linh Lan (2004), Về chiến lược an ninh của Mỹ hiện nay, Nxb CTQG, Hà Nội. 34. Lê Linh Lan (2004), Quan hệ Mỹ – Trung dưới chính quyền Bush: sự khởi đầu khĩ khăn, Tạp chí Nghiên cứu Quốc tế, số 40. 35. Lê Linh Lan (2004), Chu kỳ hịa dịu mới trong quan hệ Mỹ – Trung sau sự kiện 11-9: cơ sở và triển vọng, Tạp chí Nghiên cứu Quốc tế, số 55-2004. 36. Dương Văn Lợi (2004), Chính sách “một nước hai chế độ” Thành tựu lớn của Trung Quốc trong 25 năm cải cách – mở cửa, Tạp chí Nghiên cứu Trung Quốc, số 1(53)-2004. 37. Mã Linh, Lý Minh (2003), Hồ Cẩm Đào – Từ thực tiễn vươn tới chính trường, Nxb Thơng tấn, Hà Nội. 38. Evan S. Medeiros, M. Taylor Fravel (2004), Chính sách ngoại giao mới của Trung Quốc, Tạp chí Thời đại mới, số 2-tháng 7/2004 39. Nguyễn Anh Minh (2004), Xuất khẩu của Trung Quốc và những vấn đề đặt ra đối với kinh tế thế giới, Tạp chí Nghiên cứu Trung Quốc, số 4(56)-2004. 40. Peter Nolan (2005), Trung Quốc trước ngả ba đường, Nxb CTQG, Hà Nội. 41. Tăng Phẩm Nguyên, Chiến lược Đơng Bắc Á của Trung Quốc, tư liệu theo 42. William Overholt (2003), Trung Quốc khơng nên thay đổi chính sách tỷ giá, 43. Phạm Cao Phong (2003), Quan hệ của Mỹ với các nước lớn ở khu vực Châu Á – Thái Bình Dương, Nxb CTQG, Hà Nội. 44. Đỗ Trọng Quang (2005), Nhìn lại quá trình thương lượng Mỹ – Bắc Triều Tiên về tên lửa và vũ khí hạt nhân, Tạp chí Châu Mỹ ngày nay, số 08-2005. 45. Nguyen Duy Quý (2002), Thế giới trong hai thập niên đầu thế kỷ XXI, Nxb CTQG, Hà Nội. 46. Nguyễn Huy Quý (1999), Nước CHND Trung Hoa- Chặng đường lịch sử nửa thế kỷ (1949-1999), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 47. Nguyễn Huy Quý (2004), Lịch sử hiện đại Trung Quốc, Nxb CTQG, Hà Nội. 48. Nguyễn Huy Quý (2004), Chủ trương chính sách phát triển kinh tế – xã hội Trung Quốc năm 2004, Tạp chí Nghiên cứu Trung Quốc số 2(54)- 2004. 49. Lê Vinh Quốc (chủ biên) – Lê Phụng Hồng (2001), Lịch sử Quan hệ quốc tế từ 1945 đến nay (Bản thảo tập 1), Sách chưa xuất bản. 50. David Shambaugh (1999), Tương lai quan hệ đoi ngoại và tình hình an ninh của Trung Quốc 2000-2005, 51. Robert Sutter (2005), Châu Á trong thế cân bằng: Mỹ và ‘sự trỗi dậy hịa bình” của Trung Quốc, Tạp chí Châu Mỹ ngày nay, số 03-2005. 52. Nguyễn Phú Thái (2004), Kinh tế Trung Quốc sau khi gia nhập WTO, Tạp chí Nghiên cứu Trung Quốc, số 1 (53)- 2004. 53. Nguyễn Văn Thành (2004), Trật tự thế giới mới thế kỷ XXI qua dự báo của một số nhà nghiên cứu, theo 54. Huyền Trang (2005), Trung Quốc khơng thể thiếu trong chiến lược phát triển của Mỹ, 55. Ngọc Thảo (2006), Hợp tác kinh tế Trung – Mỹ đối mặt nhiều thách thức lớn, 56. Trung tâm Nghiên cứu Trung Quốc (2003), Những van đề lý luận của Đại hội XVI ĐCS Trung Quốc, Nxb KHXH, Hà Nội. 57. Tổng hợp: 10 sự kiện nổi bật của thế giới năm 2001, 58. Tổng hợp: 10 sự kiện nổi bật của thế giới năm 2002, 59. Tổng hợp: 10 sự kiện nổi bật của thế giới năm 2003, 60. Cẩm Tú (2004), Một năm đầy sĩng giĩ với quan hệ thương mại Mỹ – Trung, 61. Hồng Tuân (2003), Trung Quốc và Hoa Kỳ gia tăng tranh chấp thương mại, 62. Thơng tấn xã VN, Quyền lực của Mỹ, sự trỗi dậy của Trung Quốc và trật tự thế giới, TLTKĐB 12/9/2007 63. Thơng tấn xã VN, Tin tổng hợp: chính sách Đài Loan của Mỹ và đối sách của Trung Quốc, TLTKCN 30/9/2007 64. Thơng tấn xã VN, Quan hệ Trung – Mỹ, TLTKĐB 16/10/2007 65. Thơng tấn xã VN, Tin tổng hợp: Trung Quốc đối thủ thương mại của Mỹ, TLTKĐB 29/10/2007 66. Viện KHXH Việt Nam – Viện nghiên cứu Trung Quốc (2005), Cộng hịa nhân dân Trung Hoa 55 năm xây dựng và phát triển, Nxb KHXH, Hà Nội. 67. Michael Yahuda, Văn Khánh (biên dịch) (2006), Cac vấn đề chính trị quốc tế ở châu Á – Thái Bình Dương, Nxb Văn học, Hà Nội. 68. Robert B. Zoellick (2004), Trung Quốc và Hoa Kỳ: quyền lực và trách nhiệm, 69. Harry Harding (1998), Mỹ và Trung Quốc trong tứ giác châu Á, ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfLA7280.pdf
Tài liệu liên quan