Lời cam đoan
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của chính tôi, dưới sự hướng dẫn của PGS. TS. Tạ Kim Ngọc - Viện Kinh tế Thế Giới
Các số liệu được trích dẫn hoàn toàn trung thực và có xuất xứ rõ ràng.
Tác giả
Phan Đặng Xuân Quý
MỤC LỤC
Trang
NHỮNG CHỮ VIẾT TẮT
AFTA: Khu vực mậu dịch tự do ASEAN
APEC: Diễn đàn hợp tác kinh tế châu Á - Thái Bình Dương
ASEAN : Hiệp hội các nước Đông Nam Á
ASEM: Hội nghị thượng đỉnh Á - Âu
CNH: Công nghiệp hoá
EU: Liên minh châu
95 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1483 | Lượt tải: 1
Tóm tắt tài liệu Quan hệ thương mại Việt Nam - Singapore thực trạng và triển vọng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Âu
GDP: Tổng sản phẩm quốc nội
HĐH: Hiện đại hoá
WTO: Tổ chức thương mại thế giới
XNK : Xuất nhập khẩu
XN : Xuất nhập
XK : Xuất khẩu
NK : Nhập khẩu
LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Ngày nay, xu thế đa phương hoá, toàn cầu hoá thương mại đã và đang tác động sâu sắc đến nền kinh tế của các quốc gia trên thế giới. Sự tồn tại và phát triển của các nền kinh tế đang ngày càng trở nên lệ thuộc lẫn nhau nhiều hơn trong những mối quan hệ thương mại đa phương phức tạp. Để tránh nguy cơ tụt hậu và tiến tới hội nhập vào nền kinh tế khu vực cũng như thế giới Việt Nam cũng phải mở rộng và đa dạng hoá các hình thức thương mại song phương và đa phương. Thị trường hàng hoá và dịch vụ của Việt Nam được mở rộng tới trên 100 quốc gia trên thế giới. Nước ta đã chính thức là thành viên của nhiều tổ chức và thể chế thương mại khu vực và quốc tế quan trọng như: Khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA), Diễn đàn hợp tác kinh tế Châu Á - Thái Bình Dương (APEC), Hội nghị thượng đỉnh Á-Âu (ASEM) và đang tích cực xúc tiến gia nhập Tổ chức thương mại thế giới (WTO) - là tổ chức quốc tế tạo dựng môi trường cạnh tranh lành mạnh và công bằng để thuận lợi hoá các hoạt động thương mại giữa các thành viên.
Lợi ích của tham gia vào thương mại quốc tế là vô cùng to lớn. Nó là con đường duy nhất để Việt Nam có thể thu hút đầu tư, phát triển kinh tế và tạo ra được tốc độ tăng trưởng kinh tế nhanh nhất. Song cái gì cũng có tính hai mặt của nó, hoạt động thương mại càng mở rộng và tự do hoá bao nhiêu thì càng gây nhiều áp lực cho những nước có nền kinh tế yếu kém, chưa phát triển như Việt Nam bấy nhiêu do chưa đủ sức để cạnh tranh trên thị trường. Việc lựa chọn một thị trường quốc tế thích hợp để mở rộng quan hệ mua bán, kích thích xuất khẩu, phát triển sản xuất và thu hút được nhiều đầu tư nước ngoài không phải là một việc dễ dàng. Chính vì đòi hỏi bức xúc này nên tôi chọn vấn đề: “Quan hệ thương mại Việt Nam – Singapore thực trạng và triển vọng“ làm đề tài nghiên cứu của luận văn.
2. Mục đích nghiên cứu
- Phân tích thực trạng quan hệ thương mại Việt Nam - Singapore và đánh giá tác động đối với sự phát triển kinh tế đất nước.
- Đề xuất các giải pháp hữu hiệu để phát triển hơn nữa quan hệ thương mại Việt Nam - Singapore cả chiều rộng và chiều sâu, phục vụ sự nghiệp CNH, HĐH đất nước.
3. Phương pháp nghiên cứu
- Vận dụng phương pháp khoa học trong nghiên cứu kinh tế chính trị học, lấy phương pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sử làm lý luận cơ bản.
- Kết hợp với các phương pháp phân tích hệ thống, tổng hợp, logíc, thống kê, so sánh... để làm rõ vấn đề nghiên cứu.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Luận văn tập trung nghiên cứu quan hệ thương mại Việt Nam –Singapore từ khi Việt nam tiến hành đổi mới nền kinh tế đến nay.
5. Những đóng góp của luận văn
- Hệ thống hoá lý thuyết, luận giải rõ hơn cơ sở lý luận và thực tiễn của quan hệ thương mại Việt Nam - Singapore.
- Trên cơ sở phân tích thực trạng quan hệ thương mại Việt Nam - Singapore, luận văn sẽ đưa ra những đánh giá về tác động của mối quan hệ này - cả những nhân tố tích cực và những mặt hạn chế - tới tiến trình hội nhập và sự phát triển kinh tế của Việt Nam.
- Phân tích những yếu tố tác động đến việc tăng cường quan hệ thương mại Việt Nam - Singapore từ đó dự báo triển vọng của mối quan hệ này, xác định rõ hơn quan điểm và đưa ra những giải pháp hữu hiệu thúc đẩy mối quan hệ này trong tương lai.
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận luận văn được kết cấu thành 3 chương :
Chương 1: Cơ sở khoa học của quan hệ thương mại Việt nam-Singapore
Chương 2: Thực trạng Quan hệ thương mại Việt Nam-Singapore và những tác động của nó tới sự phát triển kinh tế của Việt nam.
Chương 3: Định hướng và giải pháp thúc đẩy quan hệ thương mại Việt Nam - Singapore.
CHƯƠNG 1. CƠ SỞ KHOA HỌC CỦA QUAN HỆ THƯƠNG MẠI
VIỆT NAM-SINGAPORE
1.1. Cơ sở lý luận của quan hệ thương mại Việt Nam - Singapore
1.1.1. Những vấn đề cơ bản về thương mại quốc tế
* Khái niệm.
Thương mại quốc tế chính là sự trao đổi hàng hoá dịch vụ giữa các nước thông qua mua bán. Sự trao đổi đó là một hình thức của mối quan hệ xã hội và phản ánh sự phụ thuộc lẫn nhau về kinh tế giữa những người sản xuất hàng hoá riêng biệt của từng quốc gia.
Trong thời đại ngày nay, thương mại quốc tế có tính chất sống còn bởi nó không chỉ cho phép khai thác lợi thế của nước xuất khẩu mà còn mở rộng khả năng tiêu dùng của nước nhập khẩu. Thực tế cho thấy là mỗi quốc gia cũng như cá nhân không thể sống riêng rẽ mà vẫn đầy đủ được. Thương mại quốc tế làm đa dạng hoá mặt hàng với số lượng nhiều hơn, chất lượng cao hơn vượt qua ranh giới khả năng sản xuất của mỗi quốc gia nếu chỉ thực hiện tự cung tự cấp, không buôn bán với nước ngoài.
Tiền đề xuất hiện sự trao đổi là phân công lao động xã hội. Với sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật, phạm vi chuyên môn hoá ngày càng tăng, số sản phẩm và dịch vụ để thoả mãn con người càng đa dạng, phong phú thì sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các quốc gia ngày càng lớn.
Đối với nước ta cũng vậy, thương mại quốc tế sẽ cho phép giới thiệu, thúc đẩy, khai thác tiềm năng và thế mạnh trong nước đối với nước ngoài một cách có lợi nhất. Theo đó, phân công lao động ngày càng phát triển, mọi tiềm năng để sản xuất nhiều hàng hoá, dịch vụ xuất khẩu sẽ được khai thác một cách ngày càng hiệu quả hơn. Khi nói đến thương mại quốc tế, chúng ta cần phải xem xét tới nguồn gốc và cơ sở lý luận về thương mại quốc tế.
* Lý thuyết về lợi thế tuyệt đối
Lý thuyết về lợi thế tuyệt đối được phát triển bởi các nhà kinh tế học cổ điển nhất là Adam Smith (1723 - 1790). Lý thuyết này đã chỉ ra nguyên nhân của mối quan hệ mua buôn bán giữa các quốc gia với nhau. Đó chính là sự khác nhau về các nguồn tài nguyên của nó. Các nguồn lực đó là đội ngũ lao động có tay nghề cao và được đào tạo thích hợp, nguồn vốn, tiến bộ công nghệ hoặc thậm chí cả truyền thống kinh doanh.
Theo quan niệm về lợi thế tuyệt đối, một nước chỉ sản xuất các hàng hoá mà nó cho phép sử dụng tối ưu nhất các nguồn tài nguyên của nó. Đây chính là cách giải thích đơn giản nhất về cách ứng xử trong buôn bán. Rõ ràng là việc tiến hành thương mại giữa các quốc gia phải đảm bảo cho họ đều có lợi. Nếu một quốc gia có lợi và một quốc gia khác bị thiệt hại từ thương mại thì họ từ chối ngay. Giả sử rằng thế giới chỉ có hai quốc gia và mỗi quỗc gia chỉ sản xuất hai mặt hàng giống nhau. Quốc gia thứ nhất có lợi thế tuyệt đối trong việc sản xuất hàng hoá A so với quốc gia thứ hai và quốc gia thứ hai có lợi thế tuyệt đối trong việc sản xuất hàng hoá B so với quốc gia thứ nhất. Nếu mỗi quốc gia tiến hành chuyên môn hoá trong việc sản xuất một mặt hàng mà họ có lợi thế tuyệt đối sau đó trao đổi cho nhau, thì cả hai quốc gia đều có lợi. Trong quá trình này, các nguồn lực sản xuất của cả thế giới sẽ được sử dụng một cách có hiệu quả nhất, và do đó, tổng sản phẩm của toàn thế giới sẽ gia tăng. Sự tăng thêm của các sản phẩm của cả thế giới là nhờ vào sự chuyên môn hoá và sẽ được phân bổ giữa hai quốc gia theo tỷ lệ trao đổi thông qua ngoại thương.
Như vậy Adam Smith đã có niềm tin rằng tất cả các quốc gia đều có lợi từ ngoại thương và ông ủng hộ mạnh mẽ chính sách tự do kinh doanh. Ngoại thương tự do sẽ là nguyên nhân làm cho các nguồn tài nguyên của thế giới được sử dụng một cách có hiệu quả nhất và tất nhiên phúc lợi của thế giới nói chung sẽ được tạo ra ở mức tối đa.
Lý thuyết về lợi thế tuyệt đối giải thích được tại sao một nền kinh tế phải phụ thuộc vào nguồn nguyên nhiên liệu từ bên ngoài như Nhật bản lại có thể phát triển thành một nền kinh tế hùng mạnh trên thế giới.
Tuy nhiên tại sao một cường quốc như Mỹ, một nước đứng đầu ngành công nghiệp ô tô thế giới với những tên tuổi lừng danh như General Motos, Ford, Chrysler ... lại nhập xe Nisan, Toyota ... từ Nhật bản?
Lý thuyết về lợi thế so sánh (hay lợi thế tương đối) sẽ trả lời cho câu hỏi này.
* Lý thuyết về lợi thế sosánh
Năm 1817, nhà kinh tế học kinh tế nổi tiếng người Anh là Đavid Ricardo (1772 – 1823) đã chứng minh rằng chuyên môn hoá quốc tế có lợi cho tất cả các nước và ông gọi kết quả đó là quy luật lợi thế tương đối. Quy luật này được nhấn mạnh sự khác nhau về chi phí sản xuất, coi đó là chìa khoá của các phương thức thương mại. Lý thuyết này đã khẳng định rằng: Nếu một quốc gia có hiệu quả thấp hơn so với các quốc gia khác trong sản xuất hầu hết các loại sản phẩm, thì quốc gia đó vẫn có thể tham gia vào thương mại quốc tế để tạo ra lợi ích cho mình. Nghĩa là, nếu quốc gia này tham gia vào thương mại quốc tế thì nó có thể thu được lợi ích không nhỏ.
Khi tham gia thương mại quốc tế, quốc gia có hiệu quả thấp trong sản xuất tất cả các loại hàng hoá sẽ chuyên môn hoá sản xuất và xuất khẩu các loại hàng hoá mà việc sản xuất chúng ít bất lợi nhất (Đó là những hàng hoá có lợi thế tương đối) và nhập khẩu các loại hàng hoá mà việc sản xuất chúng bất lợi lớn nhất (Đó là loại hàng hoá không có lợi thế tương đối).
Để chứng minh lý thuyết của mình, David Ricardo đã đưa ra một mô hình giả định đơn giản dựa trên các giả thiết như: Thế giới chỉ có hai quốc gia và chỉ sản xuất hai mặt hàng, mỗi quốc gia có lợi thế về một mặt hàng, công nghệ sản xuất của hai nước là cố định, chi phí sản xuất cố định, không có chi phí vận tải, lao động là yếu tố sản xuất duy nhất có thể di chuyển trong mỗi nước nhưng không thể di chuyển giữa các nước và thương mại hoàn toàn tự do giữa hai nước.
Bảng 1: Lợi thế so sánh (Lợi thế tương đối)
Sản phẩm
Việt Nam
Singapore
Thép (Kg / 1 giờ công)
1
6
Vải (m / 1 giờ công )
2
4
Từ bảng trên ta thấy rằng, Singapore có lợi thế tuyệt đối so với Việt Nam về cả hai loại hàng hoá. Nhưng khi năng suất lao động ở ngành thép của Singapore gấp 6 lần của Việt Nam thì năng suất lao động ở ngành dệt của Singapore chỉ gấp có hai lần. Như vậy giữa thép và vải, Việt Nam có lợi thế tương đối trong sản xuất vải, còn Singapore có lợi thế tuyệt đối trong sản xuất cả hai loại hàng hoá so với Việt Nam nhưng chỉ có lợi thế tương đối trong sản xuất thép.
Theo quy luật lợi thế tương đối thì cả hai quốc gia sẽ đều có lợi nếu Singapore chuyên môn hoá sản xuất thép còn Việt Nam chuyên môn hoá sản xuất vải, sau đó tiến hành trao đổi một phần thép lấy một phần vải cho nhau.
Qua bảng (1) minh hoạ giả định của Ricardo đã giải thích trong hoàn cảnh của một mô hình kinh tế đơn giản, với nhiều giả định rằng dù một nước có năng suất lao động sản xuất các loại hàng hoá cao hơn các nước khác nhưng thông qua thương mại quốc tế vẫn có lợi nếu chuyên môn hoá vào sản xuất những mặt hàng mà nước đó có chi phí cơ hội thấp hơn các nước khác để sản xuất ra hàng hoá đó. Quan điểm này đã được phát triển một cách cụ thể và rõ ràng hơn bởi các nhà kinh tế Tân cổ điển sau này.
Lý thuyết lợi thế so sánh của David Ricardo giải thích một nguyên nhân quan trọng dẫn đến sự hình thành, phát triển của thương mại quốc tế. Trong thực tế, nhiều quốc gia có thể cùng sản xuất một mặt hàng, mỗi quốc gia có cách kết hợp sử dụng các nguồn lực khác nhau để sản xuất hàng hoá đó dẫn đến chi phí cơ hội để sản xuất ra nó ở những nước khác nhau cũng rất khác nhau. Chi phí cơ hội của một mặt hàng là số lượng những mặt hàng khác mà người ta phải từ bỏ để sản xuất hoặc kinh doanh thêm một đơn vị mặt hàng đó. Tuy nhiên lý thuyết của Ricardo còn nhiều vấn đề chưa được thoả đáng, đặc biệt là giả định về nguồn lực duy nhất có thể thay đổi được đó là lao động.
Do đó mô hình Heckscher-Ohlin (hay còn gọi là Heckscher Ohlin Samuelson) với cách nhìn thực tế hơn sẽ giải thích thoả đáng nguồn gốc của thương mại quốc tế vẫn trên cơ sở lý thuyết lợi thế so sánh.
Trong nền kinh tế hiện đại, lao động chỉ là một trong ba nhóm yếu tố sản xuất cơ bản (bao gồm đất đai, lao động và tư bản). Trong phạm vi một doanh nghiệp, đất đai có nghĩa là một vị trí mà doanh nghiệp đó xây dựng nên nhà máy văn phòng của mình. Nhưng thực tế đất đai còn bao gồm cả tài nguyên thiên nhiên là nguyên vật liệu, nhiên liệu cho quá trình sản xuất. Lao động bao gồm lao động chân tay, lao động trí óc. Tư bản bao gồm tiền vốn và các máy móc trang thiết bị phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh doanh. Trong phạm vi toàn bộ nền kinh tế ba yếu tố trên cũng có thể hiểu một cách tương tự. Và ở các góc độ khác nhau, ngắn hạn hay dài hạn, ba yếu tố này đều có thể thay đổi được.
Định lý Heckscher-Ohlin phát biểu rằng, một nước sẽ xuất khẩu những loại hàng hoá mà việc sản xuất chúng cần sử dụng nhiều yếu tố rẻ và tương đối sẵn có của nước đó, và nhập khẩu những hàng hoá mà việc sản xuất chúng cần nhiều yếu tố đắt và tương đối khan hiếm ở nước đó. Nói một cách vắn tắt, một nước tương đối giàu lao động sẽ xuất khẩu hàng hoá sử dụng nhiều lao động và nhập khẩu hàng hoá sử dụng nhiều vốn. Trong ví dụ trên Singapore sẽ gặp lợi thế so sánh về thép còn Việt Nam về vải. Và chúng ta có thể kết luận Singapore sẽ xuất khẩu thép sang Việt Nam để đổi lấy vải.
Nếu như các nhà kinh tế học cổ điển xuất phát từ sự khác biệt về năng xuất lao động trong một nền kinh tế giả định thì Heckscher và Ohlin lại cho rằng lợi thế so sánh xuất phát từ sự khác biệt giữa các quốc gia về sở hữu các nguồn lực và sự khác nhau về mức độ sử dụng các yếu tố này. Xuất phát điểm của mô hình Heckscher - Ohlin là phù hợp với nền kinh tế hiện đại.
Có thể nói rằng, mô hình Heckscher - Ohlin đã phát triển một cách hoàn thiện lý thuyết về lợi thế so sánh, giải thích nguồn gốc thương mại quốc tế trong nền kinh tế hiện đại một cách thoả đáng nhất.
* Một số nguyên nhân khác của thương mại quốc tế
Lý thuyết về lợi thế so sánh đã giải thích được câu hỏi tại sao Mỹ chiếm ưu thế trong ngành công nghiệp ô tô nhưng vẫn nhập khẩu linh kiện xe hơi nguyên chiếc từ Nhật bản.
Như vậy, lợi thế tuyệt đối và lợi thế tương đối là hai nguyên nhân của thương mại quốc tế. Tuy nhiên còn có một số nguyên nhân khác nữa.
Một trong những nguyên nhân cơ bản khác dẫn đến sự hình thành của thương mại quốc tế là hiệu quả kinh tế nhờ quy mô sản xuất, trong đó các chi phí sản xuất thực tế được đánh giá dưới hình thức nguồn lực được huy động, sẽ giảm xuống khi quy mô tăng. Nói cách khác, hiệu quả kinh tế nhờ quy mô (hay còn gọi là lợi suất tăng dần theo quy mô) có nghĩa là hầu hết các hàng hoá được sản xuất ra sẽ đắt hơn theo những số lượng nhỏ và trở nên rẻ hơn khi quy mô sản xuất tăng lên. Điều này xảy ra vì với nền sản xuất có quy mô lớn, người ta có thể tiết kiệm được chi phí trong việc sử dụng máy móc và thiết bị chuyên môn hoá, và thậm chí trong sự phân chia công việc giữa nhiều người với nhau. Mỗi người có thể được chuyên môn hoá ở một khía cạnh của quá trình sản xuất thông qua kinh nghiệm và sự đào tạo chuyên môn cụ thể.
Hiệu quả kinh tế quy mô lớn rất quan trọng cho nền kinh tế ngoại thương của các nước nhỏ. Phạm vi hàng hoá mà theo đó họ có thể có được quy mô hiệu quả trong sản xuất sẽ bị giói hạn nhiều hơn so với các nước lớn. Các nước nhỏ có thị trường trong nước không đủ lớn để khai thác tính hiệu quả kinh tế nhờ quy mô và điều đó cho chúng ta thấy rằng để trở thành một nước tự cung tự cấp bằng cách sản xuất mỗi thứ một ít thì chi phí sản xuất của họ sẽ cao và rất tốn kém.
Những nước lớn như Mỹ, Nga có thị trường đủ lớn để có thể sản xuất tất cả những sản phẩm trong nước với số lượng đủ lớn có thể có được tính hiệu quả trong sản xuất nhờ quy mô. Đối với các nước đó, những lợi ích thường do ngoại thương quy định nhờ việc chuyên môn hoá các loại sản phẩm mà họ có lợi thế so sánh. Thậm chí đối với các nước này, việc mở rộng thị trường cũng cho phép đạt được tính hiệu quả kinh tế nhờ quy mô đối với các sản phẩm đặc thù như thép đặc biệt, quần bò...vv.
Tính đa dạng của sản phẩm và chuyên môn hoá ngày càng sâu là đặc điểm của thương mại và phân công lao động quốc tế hiện nay. Điều đó xảy ra cũng chính là bởi thực hiện lợi ích do hiệu quả kinh tế nhờ quy mô đem lại. Ngày nay một người có thể mua được quần áo, ô tô, các thiết bị và hàng loạt đồ dùng của Pháp, Anh, Italia, Đức ở Luân đôn, Paris, Bon và Roma... Điều mà nền thương mại châu Âu làm được là cho phép sự tăng trưởng của các loại sản phẩm khác nhau thuộc các nước khác nhau, mỗi nước chuyên môn hoá trong một loại sản phẩm đặc thù. Sự chi tiêu của người tiêu dùng đã chỉ ra rằng, họ coi trọng sự tăng cường các khả năng lựa chọn của các hàng hoá khác nhau. Khi các nước châu Á tiến công vào thị trường châu Âu và châu Mỹ với các sản phẩm như dệt, ô tô, hàng điện tử, các nhà sản xuất châu Âu và châu Mỹ đã không ngừng cá biệt hoá các loại sản phẩm của họ để có thể xuất khẩu hàng dệt, xe ca, và hàng điện tử sang châu Á, thậm chí ngay cả trong khi họ vẫn đang nhập khẩu các loại hàng hoá đó từ châu Á.
Ngoài ra thương mại quốc tế còn xuất phát từ sự khác nhau về thị hiếu, sở thích, tập quán tiêu dùng, nhu cầu về hàng hoá của mỗi nước. Sự khác biệt này là động lực dẫn đến hình thành thương mại quốc tế nhằm thoả mãn nhu cầu đa dạng, phong phú ngày càng tăng của mỗi nước. Ngay cả trong trường hợp hiệu quả tuyệt đối giữa hai nước là giống hệt nhau, buôn bán vẫn có thể diễn ra do sự khác biệt về sở thích.
Trong thời đại ngày nay, không có quốc gia nào bằng chính sách đóng cửa với nước ngoài lại phát triển có hiệu quả nền kinh tế trong nước. Muốn phát triển nhanh, mỗi nước không thể đơn độc dựa vào nguồn lực của mình mà phải biết tận dụng có hiệu quả tất cả các thành tựu kinh tế, khoa học kỹ thuật tiên tiến mà loài người đã đạt được vào thực tế nước mình. Do vậy, một nền kinh tế “mở cửa“ giao lưu buôn bán với nước ngoài sẽ mở ra những hướng phát triển mới tạo điều kiện khai thác lợi thế tiềm năng sẵn có của một nước nhằm sử dụng phân công lao động quốc tế một cách có lợi nhất.
1.1.2 Vai trò của thương mại quốc tế đối với nền kinh tế của mỗi quốc gia
Xu thế phát triển kinh tế của nhiều nước trong những năm gần đây là thay đổi chiến lược kinh tế từ đóng cửa sang mở cửa, từ thay thế nhập khẩu sang sản xuất hướng vào xuất khẩu. Đối với những nước có trình độ phát triển nền kinh tế còn thấp như nước ta những nhân tố thuộc tiềm năng là tài nguyên thiên nhiên và lao động, còn những nhân tố mà chúng ta còn thiếu đó là vốn, kỹ thuật, thị trường và khả năng quản lý. Chiến lược sản xuất hướng vào xuất khẩu thực chất là một giải pháp mở cửa nền kinh tế nhằm tranh thủ vốn và kỹ thuật của nước ngoài, kết hợp chúng với tiềm năng bên trong về lao động và tài nguyên thiên nhiên để tạo ra sự tăng trưởng mạnh cho đất nước, góp phần nhanh tróng rút ngắn khoảng cách chênh lệch so với các nước trên thế giới.
Như vậy, vai trò của thương mại quốc tế đỗi với nền kinh tế của mỗi quốc gia là vô cùng quan trọng. Thương mại quốc tế vừa là cầu nối kinh tế giữa các nước khác nhau trên thế giới vừa là người hậu cần cho sản xuất và đời sống của toàn xã hội ngày một phồn vinh hơn. Cụ thể là:
- Thương mại quốc tế tạo nguồn ngoại tệ cho đất nước để đầu tư phát triển.
- Đẩy nhanh đổi mới cơ cấu nền kinh tế và sự phát triển của kinh tế xã hội.
- Nâng cao mức sống của nhân dân.
- Phát huy hết lợi thế so sánh, khai thác hiệu quả tiềm năng sẵn có của đất nước.
Nhận thức rõ ý nghĩa, vai trò quan trọng của thương mại quốc tế, Đảng và nhà nước luôn tập trung điều chỉnh những chính sách kinh tế khuyến khích xuất khẩu, nâng cao sức cạnh tranh của hàng hoá Việt Nam trên thị trường thế giới. Trong định hướng phát triển kinh tế xã hội dài hạn cũng như ngắn hạn của Việt Nam, chính sách thương mại nói chung và chính sách xuất khẩu nói riêng luôn được coi là những chính sách có tầm chiến lược hàng đầu phục vụ cho sự phát triển nền kinh tế quốc dân.
1.2. Cơ sở thực tiễn của quan hệ thương mại Việt Nam - Singapore
1.2.1 Nhân tố bên ngoài.
Ngày nay toàn cầu hoá, khu vực hoá đang trở thành một xu hướng mạnh mẽ, đặc trưng của thế giới. Xu thế hoà bình, hợp tác để phát triển ngày càng trở thành đòi hỏi bức xúc của các dân tộc và các nước trên thế giới. Các nước đều cần có môi trường hoà bình ổn định và thực hiện chính sách mở cửa; các nền kinh tế ngày càng gắn bó, tuỳ thuộc lẫn nhau, tạo động lực cho tăng trưởng kinh tế.
Cuộc cách mạng khoa học và công nghệ đã và đang thúc đẩy mạnh mẽ quá trình chuyên môn hoá và hợp tác hoá giữa các quốc gia, làm cho lực lượng sản xuất được quốc tế hoá cao độ. Những tiến bộ của khoa học - công nghệ đặc biệt là trong lĩnh vực công nghệ thông tin đã đưa các quốc gia gắn kết lại gần nhau dẫn tới sự hình thành mạng lưới toàn cầu. Trước những biến đổi to lớn về khoa học- công nghệ, bắt buộc tất cả các quốc gia trên thế giới đều phải thực hiện điều chỉnh cơ cấu kinh tế, điều chỉnh chính sách theo hướng mở cửa, giảm và tiến tới dỡ bỏ hàng rào thuế quan và phi thuế quan, làm cho việc trao đổi hàng hóa, luân chuyển vốn, lao động và kỹ thuật trên thế giới ngày càng thông thoáng hơn, mở đường cho kinh tế quốc tế phát triển.
Sự ra đời của hàng loạt các tổ chức kinh tế và thương mại khu vực như một sự phát triển tất yếu. Đáng chú ý là sự ra đời của Liên minh châu Âu - EU năm 1993 với 15 nước thành viên, Hiệp hội các nước Đông Nam Á - ASEAN năm 1967 với 10 nước thành viên, Diễn đàn hợp tác kinh tế Châu Á Thái Bình Dương- APEC năm 1989 với 21 nước thành viên chiếm trên 60% GDP và 50% kim ngạch thương mại thế giới, Hợp tác Á -Âu (ASEM) năm 1996, khu vực thương mại tự do Bắc Mỹ - NAFTA năm 1994 ... Có thể nói bản chất của các tổ chức quốc tế và khu vực này là giải quyết vấn đề thị trường. Toàn cầu hoá và khu vực hoá là hệ quả tất yếu của quá trình cạnh tranh giành giật thị trường gay gắt giữa các thực thể kinh tế quốc tế. Cuộc cách mạng khoa học - công nghệ đã làm cho năng lực sản xuất phát triển mạnh mẽ kéo theo sự đòi hỏi cấp bách của vấn đề thị trường tiêu thụ. Vì vậy hợp tác quốc tế sẽ xoá bỏ dần những hàng rào thương mại và thế giới có xu hướng ngày càng trở thành một thị trường chung.
Việc thị trường thế giới hình thành như một chỉnh thể thống nhất đã bắt buộc mọi nền kinh tế quốc gia cần phải cải cách và chuyển đổi tích cực để trở thành một bộ phận hữu cơ của nó, không phụ thuộc vào nền kinh tế quốc gia đó có mô hình và trình độ phát triển như thế nào. Hầu hết các nền kinh tế đang phát triển đang trong quá trình cải cách mạnh mẽ để thích ứng với các chiều hướng mới đó của nền kinh tế thế giới.
Việt Nam đang trong quá trình mở cửa để hội nhập tất yếu cũng bị cuốn vào dòng xoáy này.
1.2.2. Nhân tố bên trong.
*Những đặc điểm cơ bản của thị trường Singapore.
- Là một Quốc đảo nhỏ bé với hơn 4 triệu dân (Người Trung hoa chiếm 76%, người Mã lai chiếm 15%, người Ấn độ chiếm 7% và các dân tộc khác chiếm 3 % ), chưa từng được biết đến một nguồn tài nguyên thiên nhiên nào đáng giá. Nhưng bù lại, thiên nhiên đã cho Quốc đảo này một vị trí lý tưởng, nằm án ngữ trên trục đường vận tải biển từ Á sang Âu, Đông sang Tây; đầu cầu, cửa ngõ ra vào của châu Á. Hơn thế nữa, Singapore còn là tâm điểm nối các châu lục Á -Âu - Phi - Úc và Bắc - Nam Mỹ (vùng Tây Thái Bình Dương). Cùng với vị trí tự nhiên hiếm có cộng với những thế mạnh do chính con người Singapore tạo ra, đã biến quốc đảo Singapore thành địa chỉ hấp dẫn nhất, mảnh đất làm giàu với tốc độ nhanh và thuận lợi vào bậc nhất trong khu vực và trên thế giới. Vì vậy vào thời điểm năm 2000 Singapore đã thu hút trên 10 500 Công ty nước ngoài đầu tư, liên doanh; trên 5000 Công ty thương mại quốc tế, Công ty đa quốc gia lập trụ sở, Công ty con, chi nhánh và 150 cơ quan đầu não, trụ sở của các Tổ chức Quốc tế tại Singapore.
- Singapore là một nước có cơ sở hạ tầng hoàn hảo hàng đầu thế giới:
+ Ngành vận tải biển và hệ thống cảng khẩu dịch vụ phục vụ cho ngành này rất phát triển.Cảng Singapore là một trong ba cảng lớn nhất thế giới về năng lực thông qua và lớn thứ ba thế giới về bốc rót dầu (mỗi năm có thể bốc dỡ 4 triệu container).
Singapore có hơn 60 nhà máy đóng tàu, là cơ sở sửa chữa và chế tạo tàu lớn nhất từ phía Đông kênh đào Suez và từ phía Tây Nhật bản, là trung tâm đóng tàu lớn thứ ba thế giới.
Hiện nay Singapore có một hệ thống dịch vụ vận chuyển đường biển gồm hàng chục cầu cảng hiện đại, hàng trăm kho hàng bến bãi và hàng nghìn chiếc tàu biển đi khắp các đại dương. Cảng Singapore là trung tâm gửi hàng một cửa, cung cấp hàng loạt dịch vụ hàng hải như hoa tiêu, tàu kéo, cung cấp nhiên liệu, kiểm tra miễn phí ga, nước và các dịch vụ thương mại như lưu kho, bốc vác vv… Toàn bộ hệ thống cảng biển Singapore đã được tự động hoá trong việc bốc dỡ hàng hoá và hệ thống đưa hàng bằng điện toán điều khiển từ xa. Singapore không chỉ là một cảng lớn nhất trong khu vực mà còn là một trong những trung tâm chuyển tải quan trọng hàng đầu thế giới. Mười năm liên tục được Hiệp Hội Hàng hải Quốc tế xếp là cảng tốt nhất khu vực Châu Á.
+ Singapore là trung tâm hoạt động hàng không của khu vực Châu Á - Thái Bình Dương.Sân bay Changi đứng hàng đầu thế giới về quy mô, thiết bị phục vụ. Sân bay Changi chiếm 1662 héc ta (tương đương với 2% diện tích cả nước), có 30 đường băng, đồng thời cất cánh được 60 chiếc máy bay. Từ sân bay Changi có 65 hãng hàng không hoạt động trên 151 tuyến bay nối với 51 quốc gia, khu vực trên thế giới; thực hiện gần 90000 chuyến bay/năm. Trong nhiều năm liền, sân bay Changi được đánh giá là sân bay phục vụ tốt nhất thế giới. Số lần cất cánh và hạ cánh chuyến bay quốc tế đứng thứ 14 trên thế giới; lượng chuyên chở hành khách và hàng hoá đứng thứ 9 trên thế giới.
+ Singapore còn được biết đến như một trung tâm dịch vụ tốt nhất khu vực đó là các dịch vụ như : Dịch vụ tài chính, ngân hàng và ngành thông tin viễn thông.
Là một trung tâm tài chính, ngân hàng hàng đầu của thế giới và khu vực Singapore có trên 200 ngân hàng thương mại và 20 công ty tài chính đang hoạt động cung cấp dịch vụ cho các ngành kinh tế và có quan hệ tín dụng với 1000 ngân hàng quốc tế, trong đó có DBS BANK được xếp vào 100 ngân hàng lớn nhất thế giới.
Thị trường ngoại hối của Singapore đứng thứ 5 trên thế giới chỉ sau London, Newyork, Tokyo và Thuỵ sĩ.
Dịch vụ đổi tiền của Singapore cũng rất phát triển. Với chế độ tỷ giá hối đoái thả nổi, các đồng tiền mạnh của thế giới được trao đổi tự do tại đây. Mỗi ngày trung bình khối lượng ngoại hối giao dịch là 160 tỷ USD.
Về quy mô giao dịch, thị trường ngoại hối Singapore có quy mô gần bằng quy mô thị trường ngoại hối Tokyo (Xếp hạng thứ ba sau London và Newyork).
+ Singapore còn là trung tâm khoa học kỹ thuật cao có tầm thế giới. Khoảng 20 năm trở lại đây, khoa học kỹ thuật cao của Singapore phát triển mạnh, tỷ lệ tăng trưởng hàng năm đạt 30%, người làm khoa học kỹ thuật cao tăng 13 lần. Sau thập kỷ 80, ngoại thương Singapore chủ yếu là điện tử, vi tính, đồ điện gia đình; sản phẩm điện tử xuất khẩu chiếm 40% lượng xuất khẩu tổng sản phẩm trong nước. Singapore là nước sản xuất ổ cứng vi tính lớn nhất trên thế giới, chủ yếu bán cho Mỹ. Nhiều nước tin tưởng vào kỹ thuật cao nhưng lại không có một nước nào như Singapore, tập trung toàn diện vào công nghiệp vi tính với mục tiêu của nó là tạo ra một xã hội siêu hiện đại có cơ sở hạ tầng điện tử và văn hoá vi tính, không chỉ làm cho công nghiệp truyền thống của Singapore thực hiện nhanh chóng hiện đại hoá, tự động hoá mà còn hy vọng trở thành điểm nút trong mạng lưới nghiên cứu khoa kỹ thuật cao của thế giới.
+ Ngành thông tin viễn thông cung cấp dịch vụ trên 14 000 đường truyền quốc tế, đường cáp viễn thông ngầm qua biển tới khắp thế giới với trình độ kỹ thuật hiện đại và dịch vụ tiên tiến hiệu quả nhất. Singapore còn có hệ thống điện nước giao thông công cộng đa dạng, tiện lợi và giá rẻ.
+Thiết bị cơ bản ở sân bay, hải cảng và điện tín của Singapore từ lâu đã đạt trình độ quốc tế. Điện tín toàn bộ dùng mạng lưới internet; 100% sử dụng điện thoại bấm nút. Bình quân hai người Singapore có một máy điện thoại. Ngày nay, 1/2 số gia đình Singapore có máy vi tính cá nhân và 1/5 số người dân đã dùng internet. Nhiều nhà kinh tế đã dự đoán rằng, trong vòng 3 năm tới Singapore sẽ trở thành nền kinh tế thông tin đứng thứ hai trên thế giới.
+ Singapore có hệ thống pháp luật ổn định, chặt chẽ, nghiêm ngặt được xếp vào loại tốt và hoàn chỉnh nhất khu vực châu Á. Nó đảm bảo cho các hoạt động kinh tế xã hội được duy trì ổn định và được điều chỉnh trong khuôn khổ luật pháp; tạo sự hấp dẫn, yên tâm cho các nhà đầu tư kinh doanh trong nước cũng như nước ngoài. Toà án khi xét xử, chấp hành luật pháp rất nghiêm, lý lẽ rõ ràng nên đạt được hiệu quả rất cao.
- Chính sách thương mại hết sức năng động : Singapore là một trong số ít thị trường tự do nhất thế giới nên không áp dụng thuế hoặc hàng rào quan thuế. Khoảng 96% các mặt hàng nhập khẩu không phải thuế trừ những mặt hàng XNK phải có giấy phép đặc biệt như vũ khí, ma tuý, biệt dược chất nổ và một số mặt hàng cấm tương tự như của Việt nam và một số hàng không khuyến khích tiêu dùng là ôtô, xe máy, xăng dầu, rượu bia, chế phẩm xăng dầu. Tuy nhiên, chính phủ luôn điều chỉnh mức thuế xuất cho hợp lý và chỉ có một mức thuế áp dụng đồng nhất cho cả công ty nước ngoài tại Singapore và các công ty của Singapore.
Hàng XK từ Singapore không phải đóng thuế. Nếu tạm nhập để tái chế thì phải nộp thuế hàng hoá dịch vụ 3%, khi tái xuất sẽ được hoàn lại. Hàng NK không phải nộp thuế NK nhưng đồng loạt phải chịu 3% thuế hàng hoá và dịch vụ theo trị giá CIF hoặc giá bán và phụ phí nếu có.
Các công ty XNK chỉ phải đóng thuế ngành hàng và thuế công ty 26% tính trên lợi nhuận ròng của năm tài chính, ngoài ra không phải đóng thêm bất cứ loại thuế nào khác. Tuy nhiên các công ty lớn có vốn trên 200 triệu S$ chỉ phải nộp ở mức 10% do Chính phủ khuyến khích các công ty lớn và các công ty đa quốc gia đặt trụ sở tại Singapore.
Singapore không áp dụng các biện pháp trợ giá XK trực tiếp mà chính phủ hỗ trợ bằng cách tạo ra hành lang pháp lý, chính sách thuận lợi cho các công ty để khuyến khích họ đầu tư mở rộng sản xuất, tạo công ăn việc làm trong nước, đẩy mạnh và tăng lượng hàng xuất XK.
Singapore không áp dụng các biện pháp phi quan thuế nhằm hạn chế thương mại hoặc có mục đích khác ( trừ những biện pháp áp dụng chung của các tổ chức mà Singapore có tham gia – như cấm vận của Liên Hiệp quốc đối với Nam phi trước đây ) và cũng không áp dụng các loại thuế đối kháng cũng như các khoản phụ thu thường xuyên hoặc bất thường.
Số lượng quản lý bằng hạn ngạch rất ít, chủ yếu là hàng dệt, may XK đi Canada._., Na uy, EU hoặc Mỹ và một số rất ít loại hàng khác nhưng không nằm trong các mặt hàng mà Việt nam đang XN với thị trường này.
Một số mặt hàng đặc biệt phải có sự phê duyệt của một số cơ quan nhà nước khác cho từng loại hàng khác nhau như Cảnh sát, Cục kiểm soát phim ảnh, cơ quan quản lý hàng mỹ phẩm, Cục quản lý sản xuất cơ bản, Cục quản lý dược phẩm, Cục quản lý ô nhiễm, Cơ quan quản lý viễn thông, Cục quản lý thực phẩm.
Từ những đặc điểm trên có thể nói Singapore là : Nền kinh tế tự do hoá nhất thế giới; Sức cạnh tranh của nền kinh tế nhất thế giới; Hệ thống luật pháp nhất thế giới; Môi trường kinh doanh ổn định nhất khu vực châu Á. Những điều đó đã làm cho Singapore trở thành một thị trường đầy hấp dẫn với mọi quốc gia trên thế giới và Việt nam không thể không đẩy mạnh quan hệ thương mại có ý nghĩa chiến lược lâu dài với thị trường đầy tiềm năng này.
*Tình hình đổi mới của Việt nam.
Đứng trước những đòi hỏi cấp bách của tình hình quốc tế, bất kỳ nước nào cũng có thể bị gạt ra ngoài lề của sự phát triển nếu không nỗ lực hội nhập vào xu thế chung; Đại hội Đảng lần thứ VII đã chủ trương đa phương hoá, đa dạng hoá quan hệ đối ngoại, đánh dấu bước khởi đầu cho tiến trình hội nhập quốc tế. Tiếp theo đó, với hàng loạt các chủ trương chính sách đổi mới đúng đắn, chúng ta đã thu được những kết quả quan trọng bước đầu về ổn định và phát triển nền kinh tế; quan hệ kinh tế- chính trị đối ngoại được mở rộng, vị thế quốc tế được nâng cao, tạo thế và lực, khả năng và cơ hội để tiếp tục phát triển trong những năm tới. Đáng chú ý là Việt nam nhanh tróng lần lượt trở thành thành viên chính thức của Hiệp hội các quốc gia Đông nam á (ASEAN) ngày 25/7/1995 và Diễn đàn Hợp tác kinh tế châu Á - Thái bình dương (APEC) tháng 11/1998. Với Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) ta đã hoàn tất giai đoạn minh bạch hoá chính sách trả lời các câu hỏi về chính sách kinh tế, thương mại, đầu tư mà các nước WTO đặt ra và bắt đầu tiến hành đàm phán về mở cửa thị trường.
Những thắng lợi trong hoạt động hợp tác kinh tế của Việt nam đã tạo ra nhiều thuận lợi cho hàng hoá xuất nhập khẩu của Việt nam thông qua việc khai thông thị trường mới, mở rộng quan hệ buôn bán trao đổi. Kim ngạch xuất khẩu tăng mạnh góp phần làm tăng nguồn thu ngoại tệ, ổn định cán cân thanh toán và dự trữ ngoại tệ của đất nước, góp phần hạn chế ảnh hưởng của sự biến động tài chính – tiền tệ khu vực thời gian vừa qua.
Đặc biệt, đáng nói là việc mạnh dạn mở rộng quan hệ thương mại quốc tế đã giúp Việt nam thuận lợi hơn rất nhiều trong việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Cho tới nay đã có trên 70 nước và lãnh thổ có dự án đầu tư vào Việt nam. Trong đó có nhiều công ty và tập đoàn lớn có tiềm lực kinh tế – công nghệ góp phần làm thay đổi trình độ sản xuất của Việt nam. Khu vực kinh tế vốn đầu tư nước ngoài đã chiếm 10% tổng sản phẩm quốc nội (GDP) trong những năm gần đây và trở thành một trong những động lực tăng trưởng của sản xuất công nghiệp Việt nam.
Tuy nhiên, cùng với những mặt tích cực của việc mở rộng thương mại quốc tế như đã nêu ở trên thì Việt nam cũng đang phải đối mặt với những thách thức to lớn về sức cạnh tranh của hàng hoá và dịch vụ cũng như khả năng đảm bảo cân bằng được cán cân thương mại quốc tế. Do trình độ công nghệ, chất lượng hàng hoá dịch vụ và năng lực cạnh tranh của chúng ta còn thấp, cơ cấu sản xuất - đầu tư của chúng ta chưa được điều chỉnh kịp thời đồng bộ và dựa trên một chiến lược tổng thể. Khả năng tiếp cận và phát triển thương mại đến các thị trường mới còn rất hạn chế. Hệ thống chính sách pháp luật vẫn còn nhiều bất cập với các quy ước và thông lệ quốc tế.
Vì vậy, để hoạt động thương mại quốc tế có hiệu quả tạo ra được nguồn ngoại tệ và kích thích được sản xuất, đầu tư trong nước thì việc xác định, lựa chọn thị trường thích hợp nhằm tận dụng khai thác những lợi thế thương mại, hạn chế rủi ro sẽ được coi như nhân tố chiến lược trong việc hoạch định các chính sách thương mại của Việt nam. Do đó, thị trường Singapore sẽ là một bước đệm quan trọng trên con đường hội nhập của Việt nam.
CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG QUAN HỆ THƯƠNG MẠI VIỆT NAM-SINGAPORE VÀ NHỮNG TÁC ĐỘNG CỦA NÓ TỚI SỰ PHÁT TRIỂN KINH TẾ CỦA VIỆT NAM
2.1. Quan hệ thương mại Việt nam- Singapore
2.1.1. Kim ngạch trao đổi thương mại
Từ khi Việt Nam trở thành thành viên chính thức của ASEAN, quan hệ thương mại Việt Nam - Singapore ngày càng phát triển mạnh mẽ đặc biệt từ những năm 1996 đến nay. Nếu tính kim ngạch xuất nhập khẩu của Việt Nam với các nước ASEAN từ năm 1996 đến nay thì Singapore vẫn luôn là nước có kim ngạch buôn bán lớn nhất với Việt Nam trong số các thành viên ASEAN.
Bảng 2: Kim ngạch xuất nhập khẩu của Việt Nam với Singapore từ năm 1996 -2002 và tỷ trọng của nó so với toàn khối ASEAN
Năm
Singapore
(Triệu USD)
ASEAN
(Triệu USD)
Tỷ trọng
(%)
1996
3 .965
5.505
72%
1997
3.232
5.114
63%
1998
3.372
6.073
53%
1999
2.705
5.752
47%
2000
3.646
7.132
51%
2001
3. 537
6.777
52%
2002
3. 494
7.190
49%
Nguồn : Tổng cục Hải quan
Từ bảng 2 ta thấy rằng kim ngạch mua bán giữa Việt Nam - Singapore luôn luôn chiếm một vị trí chủ yếu, lớn hơn hoặc bằng các nước ASEAN còn lại. Điều đó thể hiện tính quan trọng của mối quan hệ này. Đặc biệt năm 1996 xuất nhập khẩu của Việt Nam sang Singapore chiếm 72% tỷ trọng trong toàn khối ASEAN. Tuy nhiên đến năm 1998 do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng kinh tế, tài chính khu vực, kim ngạch xuất nhập khẩu của Việt Nam sang Singapore có giảm chút ít. Song đến năm 1999 buôn bán hai chiều của Việt Nam - Singapore tiếp tục giảm chỉ đạt 2. 705 triệu USD và chiếm 47% trong ASEAN, mức thấp nhất từ 1990 đến nay. Nguyên nhân chủ yếu là gạo là một trong mặt hàng xuất khẩu chính của Việt Nam bị giảm giá, giá cà phê cũng giảm, một phần do Indonesia không nhập, các khu vực khác cũng giảm kim ngạch mặt hàng gạo làm giảm cả khối lượng và trị giá xuất vào thị trường này. Nhưng nhìn chung kim ngạch xuất nhập khẩu của của Việt Nam và Singapore không có ảnh hưởng gì lớn, bởi Singapore là thị trường chung chuyển, ít ảnh hưởng tới hàng xuất và nhập khẩu của Việt Nam so với khả năng sẵn có của họ.
Bảng 3: Kim ngạch xuất nhập khẩu của
Việt Nam với Singapore từ 1996 -2002
Đơn vị : triệu USD
Năm
Xuất khẩu
Nhập khẩu
Tổng kim ngạch
Nhập siêu
1996
1.889
2.076
3.965
187
1997
1.557
2.075
3.232
918
1998
1.080
2.292
3.372
1.212
1999
822
1.883
2.705
1.061
2000
886
2.780
3.646
1.874
2001
1.044
2.493
3.537
1.449
2002
960
2.534
3.494
1.574
Nguồn : Tổng cục Hải quan
Từ bảng trên ta thấy năm 1996 kim ngạch buôn bán của Việt Nam với Singapore chiếm 72% trong tổng kim ngạch buôn bán với ASEAN và chiếm 22% tổng kim ngạch buôn bán của Việt Nam với thế giới. Năm 2000, kim ngạch hai chiều đạt 3.646 triệu USD trong đó Việt Nam xuất 886 triệu USD, nhập 2.780 triệu USD cán cân thương mại thâm hụt của Việt Nam là 1.874 triệu USD. Đây là con số thâm hụt lớn nhất từ trước đến nay. Do kim ngạch xuất trong năm 2000 chỉ cao hơn mức năm trước đó không đáng kể, năm 1999 là 882 triệu USD năm 2000 là 886 triệu USD. Trong khi đó nhập khẩu tăng vọt từ 1.883 triệu USD năm 1999 lên 2.780 triệu USD năm 2000. Trong năm 2000 Việt Nam tập trung nhập khẩu một số lượng lớn như xăng dầu, thiết bị nguyên, vật liệu cho nhiều doanh nghiệp đầu tư nước ngoài từ khu vực thị trường Singapore.
Nhưng đến năm 2001 xuất khẩu của Việt Nam sang Singapore tăng và nhập khẩu lại giảm so với năm 2000 (xuất khẩu tăng 158 triệu USD, nhập khẩu giảm 287 triệu USD). Có thể nói đây là những nỗ lực rất lớn của hai nước, mặc dù trong những năm gần đây, nhu cầu, giá cả của hầu hết mặt hàng xuất khẩu như nông sản có khối lượng, kim ngạch lớn của Việt Nam đều giảm, không ổn định và đang gặp nhiều khó khăn trong thị trường. Hơn nữa, năm 2001 là năm hậu khủng hoảng của nền kinh tế Singapore, nhưng xét về kim ngạch buôn bán hai chiều, Singapore vẫn giữ vị thế là một bạn hàng lớn nhất của Việt Nam trong số các nước ASEAN.
Sang năm 2002 nền kinh tế Singapore đang dần được phục hồi và nó đặt hy vọng cho kim ngạch xuất nhập khẩu giữa hai nước Việt Nam - Singapore. Tuy nhiên để đảm bảo thành công sự phục hồi và phát triển Singapore đang và sẽ tiến hành thay đổi mạnh mẽ cơ cấu hàng nhập khẩu, điều đó đã ảnh hưởng mạnh đến hàng nhập khẩu khẩu của Việt Nam vào Singapore, trong năm 2002 kim ngạch xuất của Việt Nam đã giảm xuống so với năm 2001 và cán cân thương mại lại có xu hướng thâm hụt lên. Điều đó chứng tỏ rằng mặc dù Singapore là thị trường quốc tế rất thuận lợi song nó cũng chứa đựng đầy thách thức đối với các doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam.
2.1.2. Hiện trạng xuất khẩu của Việt Nam sang Singapore
* Về kim ngạch xuất khẩu.
Trong mọi nền kinh tế ta thấy rằng, xuất khẩu là động lực chủ yếu của tăng trưởng kinh tế của các quốc gia, xuất khẩu góp phần thúc đẩy nền kinh tế hồi phục nhanh chóng, bền vững và nó là tiền đề cho sự gia tăng mạnh mẽ xuất nhập khẩu nói chung và xuất khẩu nói riêng. Tính chung cả khối ASEAN thì xuất khẩu của Việt Nam tăng ở mức 10% trong năm 1999, con số của năm 2000 cao hơn mức bình quân khoảng 12% và đến năm 2001 thì đã đạt mức cao hơn nữa (xuất khẩu tăng 14% so với năm 2000) và sẽ tiếp tục duy trì tăng trưởng xuất khẩu cao trong những năm tới đây, khi mà các nước ASEAN, cùng các nền kinh tế Đông Á khác sẽ trở lại vị trí mà luôn được đánh giá là khu vực có mức tăng trưởng xuất khẩu cao nhất toàn cầu trong những năm tới đây.
Một đặc điểm nổi bật là của Singapore là một quốc gia có quá ít tiềm năng về nông nghiệp và khoáng sản, do vậy Singapore đã trở thành nước luôn trong tình trạng nhập siêu, vì vậy phải nhập khẩu toàn bộ nguyên liệu để chế biến hàng xuất khẩu, tiêu dùng trong nước và một phần để tái xuất.
Cơ cấu các mặt hàng xuất khẩu chính của Việt Nam vào thị trường Singapore được chia thành hai nhóm: Nhóm hàng phục vụ cho sản xuất hàng xuất khẩu và tiêu dùng của Singapore là dầu thô, hải sản, hàng dệt may, giầy dép... và nhóm hàng phục vụ cho chuyển khẩu sang nước thứ ba như: Gạo, lạc, cà phê Mặc dù không có lợi thế về điều kiện tự nhiên, song với vị thế địa lý và điều kiện cơ sở hạ tầng rất thuận lợi cho việc chuyển khẩu hàng hoá từ khu vực sang nước thứ ba, Singapore trở thành đầu mối tiêu thụ một lượng hàng hoá lớn của nhiều nước, chính vì vậy hàng Việt Nam xuất sang Singapore những năm qua cũng nhằm đáp ứng nhu cầu đó của thị trường này và thường được tiêu thụ theo hai kênh :
Kênh thứ nhất: Nhóm hàng nguyên, nhiên liệu, vật tư phục vụ cho sản xuất, chế biến hàng xuất khẩu, tiêu dùng trong nước, tái xuất khẩu. Mục đích chủ yếu của Singapore khi nhập khẩu nhóm hàng này của Việt Nam là phục vụ cho xuất khẩu và tái xuất khẩu, hướng chính vào các sản phẩm công nghiệp mang lại giá trị gia tăng cao khi xuất khẩu. Những mặt hàng tái xuất như hàng điện tử may mặc giày dép... (Hiện nay nhóm mặt hàng này chưa có chỗ đứng tại thị trường Singapore).
Kênh thứ hai: Nhóm mặt hàng xuất khẩu sang Singapore nhằm phục vụ cho chuyển khẩu sang nước thứ ba. Nhóm này có khối lượng kim ngạch khá lớn (chiếm 60 - 65% tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam). Qua thực tế cho thấy các doanh nghiệp Việt Nam đã khai thác hiệu quả được thế mạnh này, thông qua các công ty nước ngoài đóng tại Singapore để đẩy mạnh xuất khẩu, đặc biệt những mặt hàng có khối lượng, kim ngạch lớn mà ta đang gặp khó khăn về bạn hàng, thị trường như các mặt hàng gạo, cà phê, cao su, hạt điều, hải sản...
Trên đây là hai kênh phân phối hàng xuất khẩu của Việt Nam sang cùng một địa bàn Singapore, mỗi kênh đảm trách phần cơ cấu mặt hàng khác nhau và được tiêu thụ thông qua 2 mục tiêu của thị trường Singapore (tiêu dùng, tái xuất và chuyển khẩu). Điều đáng nói là trong những năm qua, chủng loại hàng hoá Việt Nam xuất khẩu sang thị trường Singapore khá đa dạng nhưng với số lượng còn rất khiêm tốn, nó chỉ chiếm một phần rất nhỏ trong kim ngạch nhập khẩu của Singapore.
Bảng 4 : Kim ngạch xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam sang Singapore từ năm 1996 -2002 và tỷ trọng so với ASEAN và thế giới
Năm
Kim ngạch XK
(Triệu USD)
Tỷ trọng so với ASEAN (%)
Tỷ trọng so với thế giới (%)
1996
1.889
75 %
22%
1997
1.157
63%
16%
1998
1.080
56%
16%
1999
822
47%
12%
2000
886
51%
12%
2001
1.044
52%
11%
2002
960
40 %
6 %
Nguồn: Bộ Thương mại
Nhìn vào bảng ta thấy, kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang Singapore từ những năm 1996 – 1998 luôn chiểm một tỷ trọng lớn trong khối ASEAN (trung bình 63,6%) và so với thế giới thì nó cũng chiếm vị trí đáng kể (Trung bình khoảng 12%), song đến năm 1999 tình trạng này không còn được duy trì như trước nữa chỉ còn 47 % so với các nước ASEAN và 12 % so với thế giới. Sở dĩ năm 1999 tổng kim ngạch xuất nhập khẩu của Việt Nam - Singapore là 2.705 triệu USD (Việt Nam xuất 822 triệu USD và nhập 1.883 triệu USD) bằng 80% kim ngạch của năm 1998 là do các nguyên nhân chủ yếu sau đây :
+ Thứ nhất, nền kinh tế khu vực bị giảm sút, thương mại khu vực giảm và Singapore phải giảm nhập khẩu để tái xuất khẩu.
+ Thứ hai, cơ cấu nhập khẩu của Singapore có sự chuyển đổi đáng kể, giảm dần nhập khẩu các dạng nguyên liệu, sản phẩm thô, sơ chế và tăng nhập khẩu các sản phẩm mang lại giá trị gia tăng cao, hàng công nghiệp.
+ Thứ ba, do nỗ lực rất lớn của chính phủ Việt Nam trong việc mở rộng các quan hệ thương mại với các nước trên thế giới, nên một số lượng hàng Việt Nam có thể xuất khẩu trực tiếp đi thị trường thứ ba mà không cần giao dịch hàng qua các Công ty của Singapore chiếm một khối lượng kim ngạch ngày càng lớn.
Đến năm 2000-2001, tình hình xuất khẩu của Việt Nam vào thị trường Singapore có chiều hướng tăng lên, nhưng sang năm 2002 thì lại có sự giảm xuống đáng kể hàng xuất khẩu của Việt Nam sang Singapore. Chủ yếu là do Việt Nam đang mở rộng các mối quan hệ thương mại với các nước trên thế giới đặc biệt là EU và Bắc mỹ. Như vậy để tiếp tục duy trì và phát triển việc xuất khẩu hàng hoá sang thị trường này thì Việt Nam phải có những thay đổi nhiều về cơ cấu mặt hàng cũng như các chính sách thị trường để ngày càng phù hợp và đáp ứng được với sự thay đổi nhanh chóng của thị trường Singapore.
*Về cơ cấu hàng xuất khẩu
Một thực tế là khi nền kinh tế Singapore đã đạt đến một trình độ công nghiệp hoá cao thì thị trường hàng hoá Singapore cũng phải bắt kịp, phục vụ cho quá trình phát triển và chuyển đổi nhanh chóng này của nền kinh tế. Từ xuất phát điểm đó, cho ta thấy một sự chuyển đổi rất nhanh về cơ cấu hàng hoá nhập khẩu của Singapore nhằm phục vụ cho mục tiêu: “Thu được phần giá trị gia tăng cao nhất, tiết kiệm nhân lực nhất và đích cuối cùng là không ngừng nâng cao sức cạnh tranh của hàng hoá xuất khẩu của cả nền kinh tế “.
So sánh cơ cấu nhập khẩu của Singapore những năm 1990 với hiện tại, thì cơ cấu này đã hoàn toàn thay đổi. Những năm 1990 tỷ trọng nhập khẩu nguyên liệu, hàng sơ chế và bán thành phẩm (mà phần lớn những mặt hàng nay là hàng nông, lâm sản, gia vị, thực phẩm... rất phù hợp với xuất khẩu của Việt Nam) là chủ yếu, nhằm phục vụ cho mục đích tái xuất, chuyển khẩu, một phần làm nguyên liệu cho sản xuất và tiêu dùng trong nước. Nay Singapore tập trung nhập khẩu (sau một chu kỳ gia công, sản xuất sau đó tái xuất) vào một số nhóm sản phẩm của các ngành công nghiệp là chính, nhằm thu về giá trị kim ngạch lớn, thu về giá trị gia tăng cao; khối lượng hàng nguyên liệu thô, sơ chế (hàng nông sản thô, nguyên liệu thô, sơ chế khác) giảm hẳn cả về khối lượng, kim ngạch, kể cả tái xuất khẩu.
Thống kê sau cho thấy xu hướng giảm thiểu dần nhập khẩu nhóm nguyên liệu thô sơ, sơ chế có nguồn gốc nông, lâm sản cho mục đích tái xuất, chuyển khẩu (nhóm hàng chủ yếu của Việt Nam xuất vào thị trường Singapore) và xu hướng tăng rất nhanh nhóm sản phẩm công nghiệp, thiết bị máy móc, hoá chất, các nhóm này có hàm lượng trị giá gia tăng cao khi tái xuất khẩu mà trước mắt, Việt Nam chưa có khả năng xuất khẩu khối lượng lớn chuyển dịch cơ cấu nói trên (Bảng 5).
Phân tích cơ cấu, triển vọng mặt hàng xuất khẩu, ta thấy rõ nét sự chuyển dịch về cơ cấu hàng xuất khẩu Việt Nam vào thị trường Singapore như sau:
a) Thời kỳ 1980 – 1990: Những mặt hàng xuất khẩu chủ yếu của ta gồm: Dầu thô (bắt đầu xuất 1988); Lạc nhân, hải sản các dạng, cà phê nhân, cao su, hạt tiêu, đay tơ, chè các loại, quế vụn (đây là 10 mặt hàng có kim ngạch lớn). Đặc điểm của xuất khẩu của Việt Nam thời kỳ này là: mới bắt đầu mở rộng cho nhiều công ty được tham gia xuất khẩu trực tiếp, nguồn, lượng hàng xuất khẩu còn ít. Bình quân kim ngạch khoảng từ 100 – 150 triệu USD/năm và cơ cấu hàng xuất khẩu tập trung vào nông, lâm, hải sản sơ chế, thô, giá trị thấp, chưa có hàng công nghiệp, hàng chế biến tham gia.
Bảng 5: Cơ cấu nhóm hàng nhập khẩu của Singapore
trong những năm gần đây
(Tỷ trọng tính 1998/1988 , hoặc năm cao nhất so với 1998)
Năm
Nhóm thực phẩm
Nhóm ng/liệu thô
Nhóm hoá chất
Nhóm hàng công nghiệp
Nhóm máy móc thiết bị
Nhóm hàng tiêu dùng
1988
4,7
3,0
5,8
13,0
38,3
8,0
1994
5,2
1,9
10,1
16,5
88,3
15,4
1995
5,1
2,0
11,4
19,2
102,0
17,4
1996
5,2
1,9
11,0
18,2
107,2
19,3
1997
5,2
1,7
11,3
19,6
113,2
20,7
1998
4,5
1,3
10,3
15,0
102,7
16,9
Xu hướng
1998/1988
95,7%
1998/1988
43,30 %
1998/1988
177,60%
1998/1988
115,40%
1998/1988
291,75%
1998/1988
258,75 %
Nguồn: Niên giám thống kê 1998 - STDB (Cục phát triển thương mại Singapore).
a) Thời kỳ từ 1990 – 2000: Mặt hàng xuất chủ yếu gồm những mặt hàng ở mục a) và được bổ sung thêm: Mặt hàng may mặc, gạo, hàng điện tử, hàng giầy dép, hàng rau quả chế biến, hàng gia vị khác. Kim ngạch, khối lượng các mặt hàng đều tăng đáng kể, lý do chính là: Singapore là đầu mối tập trung vào thời gian đầu mới mở của của thị trường Việt Nam. Từng mặt hàng khối lượng xuất vào thị trường này tăng nhanh (tăng khối lượng các mặt hàng cũ như dầu thô, lạc nhân, cao su, chè, quế, đay tơ, hạt tiêu). Danh mục được bổ xung nhiều mặt hàng mới, mặt hàng công nghiệp, hàng đã chế biến như: Dệt may, giầy dép, hàng điện tử, rau, quả chế biến, gạo. Bắt đầu xuất hiện hai xu hướng phát triển trái ngược nhau trong cơ cấu hàng xuất là:
Các mặt hàng nông, lâm, hải sản... thô, sơ chế (cao su, cà phê, chè, hạt tiêu, điều, quế vụn...) khối lượng và kim ngạch ngày càng giảm sút nhanh, thị trường tiêu thụ hẹp.
Xu hướng gia tăng thêm các sản phẩm công nghiệp (May mặc, giầy dép, hàng điện tử, rau, quả chế biến egc.) tuy kim ngạch chưa lớn lắm, nhưng mức tăng trưởng hàng năm là đáng kể.
c ) Thời gian sau (sau năm 2000): Tỷ trọng các sản phẩm công nghiệp có chiều hướng tăng lên rõ nét. Hàng dệt may, hàng cơ khí, hàng điện tử, viễn thông và dịch vụ đều gia tăng kim ngạch. Một số mặt hàng nhóm này đã nằm vào trong “Top 10“ mặt hàng xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam vào thị trường Singapore.
Từ bảng 6 (dưới đây) ta thấy rằng các mặt hàng xuất khẩu từ năm 1996 đến năm 1999 nhìn chung giữ được số lượng cũng như chủng loại mặt hàng, nhưng bắt đầu từ năm 2000 số lượng xuất của một số mặt hàng sang Singapore đã có những thay đổi đáng kể. Dầu thô mặt hàng chiếm tỷ trọng lớn nhất và cũng đạt mức tăng trưởng cao nhất tăng 30.56% trong 10 mặt hàng xuất khẩu chủ yếu của Việt Nam vào thị trường này. Hải sản cũng đang có sự bứt phá mới, năm 2002 giá trị Hải sản của Việt Nam xuất sang thị trường Singapore tăng 52,4% so với năm 2001. Đây cũng là nỗ lực rất lớn của các nhà xuất khẩu Việt Nam. Tuy nhiên cũng có 3 mặt hàng giảm mạnh so với năm 2000 đó là cà phê giảm 83.5% có thể nói đây là thời kỳ tồi tệ nhất của ngành cà phê Việt Nam (nguyên nhân do giá giảm quá nhanh mặc dù số lượng giảm không nhiều) và hạt tiêu giảm gần 80% và dệt may giảm 27%.
Bảng 6: Mười mặt hàng xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam sang Singapore
Đơn vị : triệu USD
Tên hàng
1996
1997
1998
1999
2000
2001
2002
Cà phê
84,0
89,3
73,9
61,2
41,7
14,3
6,9
Cao su
18,9
34,5
10,7
30,4
16,5
17,2
36,3
Giầy dép
4,2
9,3
7,5
6,4
8,0
Dầu thô
909,8
907,8
310,5
279,7
497,4
654,6
649,4
Gạo
122,5
72,4
108,6
145,6
38,5
37,9
17,90
Hải sản
54
35,4
23,1
28,0
25,3
23,3
35,5
Dệt may
18,5
55,7
23,5
48,2
24,8
16,7
18,1
Hạt tiêu
55,4
52,5
20,9
10,8
Lạc nhân
6,1
6,6
6,6
5,5
Hàng TC mỹ nghệ
3,7
12,3
5,2
6,3
Hàng điện tử
3,8
4,8
4,2
Nguồn : Bộ thương mại
Một số mặt hàng có khối lượng kim ngạch lớn như cà phê, dầu thô, gạo... của Việt Nam xuất sang Singapore vẫn rất nhiều triển vọng. Nhiều hợp đồng này phần lớn được ký và do các công ty châu Âu tại Singapore thực hiện. Trong tương lai nhóm hàng công nghiệp như hàng điện tử, hàng dệt may, gia dầy là nhóm mặt hàng mà chúng ta phải nghiên cứu tiếp cận để đưa được khối lượng lớn hơn nữa vào thị trường này.
Tiếp theo chúng ta sẽ đi vào phân tích, đánh giá cụ thể một số mặt hàng xuất khẩu được coi là thế mạnh của Việt Nam sang thị trường Singapore trong những năm vừa qua.
Dầu thô
Có thể nói dầu thô đang là mặt hàng có thế mạnh của Việt Nam. Nếu xét về đặc tính kỹ thuật của từng loại dầu thô, về trình độ công nghệ lọc dầu của từng nước và khu vực, về vị trí địa lý (có ý nghĩa trong việc chuyên chở) và về nhu cầu tiêu thụ thì dầu thô Việt Nam thích hợp với bốn thị trường chính đó là: Nhật, Singapore, Úc, và bờ Tây nước Mỹ. Hiện nay dầu thô Việt Nam đã xuất sang Singapore, Nhật, Úc, Mỹ, Trung quốc, Hàn quốc. Sản lượng xuất khẩu dầu thô của chúng ta ngày càng tăng, nó đã mang lại cho đất nước nguồn ngoại tệ đáng kể. Xuất khẩu dầu thô chiếm từ 25- 30% kim ngạch xuất khẩu của toàn bộ nền kinh tế nước ta.
Mặc dù dầu thô là mặt hàng mới xuất hiện trong danh mục hàng xuất khẩu vào thị trường Singapore (vào khoảng năm 1985), song lập tức nó trở thành mặt hàng có kim ngạch lớn nhất trong danh mục hàng xuất khẩu và giá trị ngày càng tăng lên. Hàng năm Singapore nhập khoảng 45-50 triệu tấn dầu thô cho các nhà máy lọc, chế biến dầu (Năng lực lọc 1,2 triệu thùng/ngày), các hãng dầu lớn của thế giới BP, ESSO, SHELL, TOTAL, vv.. đều có nhà máy lọc và hệ thống phân phối khu vực. Với khả năm của Việt Nam có thể xuất trên 5 triệu tấn/năm (đã xuất 4,6 triệu tấn năm 1997 và thu được 907, 8 triệu USD; năm 2001 thu được 654,6 triệu USD cao hơn so với năm 1999 là 279,7 triệu USD và năm 2000 là 497,4 triệu. Theo dự báo của Bộ thương mại, ta có thể duy trì thường xuyên ở mức 3 triệu tấn /năm (chiếm gần 8% nhu cầu nhập khẩu của thị trường Singapore).
Các nhà nghiên cứu thị trường cho rằng, Việt Nam cần đưa lượng dầu thô lớn hơn (lớn hơn 3 triệu tấn/năm) vào thị trường này để tăng kim ngạch cân đối xuất khẩu và nhập khẩu, hoặc phải tăng thêm lượng gia công để lấy sản phẩm sẽ hiệu quả hơn bán dầu thô như hiện nay. Hy vọng rằng khi nhà máy lọc dầu Dung quất đi vào hoạt động thì chúng ta sẽ đạt hiệu quả hơn về xuất khẩu mặt hàng này.
Gạo
Từ năm 1989 đến nay, gạoViệt Nam luôn có mặt trên thị trường thế giới với số lượng và chất lượng ngày càng cao. Thị trường xuất khẩu gạo được mở rộng, chiếm tới 20% thị phần gạo thế giới. Theo thống kê của Tổng cục Hải quan, gạo của Việt Nam đã được bán cho hơn 30 nước bạn hàng khác nhau, nhưng thường xuyên mua với số lượng lớn và ổn định thì chỉ có khoảng 7 – 8 bạn hàng, trong số này có Singapore, Malaysia, Hồng kông, Thuỵ sĩ, Hà lan, I rắc và Mỹ.
Mặc dù mặt hàng gạo là mặt hàng mới trong danh mục hàng xuất khẩu sang Singapore chỉ vài năm gần đây, nhưng mặt hàng này đã nhanh chóng đạt kim ngạch khá cao. Gạo của Việt Nam sau khi đến Singapore được tái xuất chuyển tải đi các nước khu vực như Indonesia, Malaysia... và đi châu Âu, châu Phi, Trung đông với khối lượng rất lớn (khoảng 1,5 - 2 triệu tấn/năm).
Tại thị trường Singapore, khối lượng xuất khẩu hàng năm ổn định. Năm 1996 đạt 122,5 triệu USD (hay 469.072 tấn), năm 1999 xuất khẩu với số lượng lớn nhất đạt 145,6 triệu USD (hay 684.744 tấn), năm 2000 chỉ đạt 38,5 triệu USD (221.057 tấn) và năm 2001 đạt 241.994 tấn thu được 37,9 triệu USD (số lượng tuy có lớn hơn năm 2000 nhưng trị giá thu được lại kém hơn do giá gạo của ta phải giảm - theo số liệu của Bộ Thương mại, so với năm 2000, giá gạo năm 2001 giảm 13,99 %). Năm 2002 số lượng gạo xuất tiếp tục giảm chỉ đạt 97.363 tấn và thu được 17 triệu USD. Điều này cho thấy xuất khẩu gạo sang thị trường Singapore đang bộc lộ kém hiệu quả.
Trong những năm tới đây, Singapore vẫn sẽ là thị trường đầu mối xuất khẩu, chuyển tải gạo Việt Nam ra nước ngoài. Nhiều chuyên gia cho rằng, gạo là mặt hàng xuất khối lượng lớn, giá trị kim ngạch cao. Nhà nước cần có biện pháp duy trì giữ vững và mở rộng ra ngoài khu vực thông qua đầu mối Singapore.
Tuy nhiên, khách hàng Singapore vẫn phàn nàn về gạo của Việt Nam chất lượng không đều, có nhiều hạt vàng hay giao thiếu đầu bao nên giá khó cạnh tranh với cùng chủng loại của các nước khác (giá gạo của Việt Nam luôn thấp hơn giá gạo của Thái lan khoảng 15- 30 USD/tấn). Trước mắt gạo Việt Nam chưa có chân vững tại các khu vực này. Các doanh nghiệp cần tận dụng các công ty đa quốc gia, thông qua họ mà thâm nhập nhanh vào các khu vực thị trường mới, khi gạo của ta đã đứng vững trên thị trường thì có thể xuất trực tiếp mà không cần phải thông qua các công ty trung gian. Về lâu dài muốn duy trì được mặt hàng này Việt Nam cần phải nhanh chóng khắc phục những nhược điểm trên.
Cà phê
Cà phê là mặt hàng có kim ngạch lớn thứ ba ở Việt Nam xuất khẩu sang thị trường Singapore (sau dầu thô và gạo). Những năm đầu thập kỷ 90, Singapore đã tăng cường nhập khẩu cà phê của Việt Nam, năm 1990 riêng Singapore đã nhập 17.631 tấn chiếm 19,67% tổng sản lượng cà phê xuất khẩu của Việt Nam. Trước năm 1995, cà phê Việt Nam được đưa vào thị trường thế giới thông qua mạng lưới tiêu thụ của các doanh nhân Singapore (chiếm tỷ trọng gần 45%). Từ năm 1995, sau khi Mỹ bỏ cấm vận với Việt Nam, vai trò của các trung gian Singapore giảm đi nhiều. Các khách hàng đã nhanh chóng trực tiếp tìm đến Việt Nam như Mỹ, Đức, Pháp, Bỉ, Italia, Tây ban nha, Anh, Angeri, Ba lan và Nhật bản.
Bảng 7: Kim ngạch xuất khẩu cà phê
Năm
Singapore
ASEAN
Lượng ( tấn )
Trị giá ( triệu USD )
Lượng ( tấn )
Trị giá ( triệu USD )
1996
61 360
84,0
89 168
120
1997
72 156
89,3
116 688
147
1998
47 558
73,9
76 109
119
1999
49 151
61,2
79 699
96
2000
57 838
41,7
81 686
59
2001
34 026
14,3
54 692
20
2002
16 361
6,9
47 713
20,13
Nguồn: Tổng cục Hải quan
Nhìn vào bảng 7 ta thấy kim ngạch xuất khẩu mặt hàng cà phê thu được những năm gần đây giảm: năm 1996 đạt 84 triệu USD, năm 1997 đạt 89,3 triệu USD, năm 2000 đạt 41,7 triệu USD, năm 2001 chỉ đạt 14,3 triệu USD (nguyên nhân do giá cà phê thế giới giảm). Giá cà phê Việt Nam năm 2000 so với năm 2001 đã giảm mạnh tới 41,09%, vì vậy mặc dù lượng cà phê xuất không giảm nhiều chỉ từ 57.838 tấn xuống 34.026 tấn (giảm gần 24 ngàn tấn) song tính trị giá thì giảm 27,4 triệu USD. Tuy kim ngạch đem lại từ cà phê giảm, song Singapore vẫn là bạn hàng lớn của Việt Nam trong khối ASEAN về mặt hàng này (luôn chiếm tới 70% lượng cà phê xuất sang các nước ASEAN).
Mặc dù, kể từ năm1996, Singapore không còn nằm trong danh sách mười bạn hàng lớn nhất nữa, nhưng đứng về mặt thị trường, Singapore vẫn là nơi tập trung nhiều công ty kinh doanh cà phê có tiềm năng lớn (trên 50 công ty) và là thị trường giao dịch khối lượng lớn và trung chuyển đi các khu vực khác. Vì vậy các doanh nghiệp xuất khẩu cà phê của Việt Nam vẫn cần phải tận dụng thế mạnh của các công ty đa quốc gia tại Singapore để đưa cà phê xuất khẩu của Việt Nam vào các thị trường khác nhằm tăng kim ngạch xuất khẩu mặt hàng này.
Cao su
Trong khu vực châu Á, 3 nước sản xuất cao su tự nhiên lớn nhất là Malaysia, Indonesia và Thái lan. Song với Việt Nam mặt hàng cao su vẫn đem lại một kim ngạch xuất khẩu tương đối lớn, vì vậy cao su vẫn được xác định là mặt hàng nông sản xuất khẩu chủ lực, mũi nhọn của Việt Nam.
Từ năm 1990 trở về trước, thị trường tiêu thụ cao su chủ yếu của Việt Nam là Liên xô (60%), Singapore (20%) và Đông Âu (10%). Những năm gần đây, cao su Việt Nam giao dịch tập trung qua thị trường Singapore có năm đạt tới gần 100.000 tấn, việc giao dịch được thực hiện nhanh, thuận lợi với khối lượng lớn. Cao su Việt Nam nhập khẩu được phía Singapore tái chế theo các phẩm cấp quốc tế, sau đó tái xuất đi châu Âu và các thị trường khác.
Mấy năm gần đây, lượng cao su xuất khẩu đi Singapore cũng như kim ngạch thu được từ mặt hàng này có xu hướng không ổn định. Năm 1996 ta xuất được 14.221 tấn, năm 1999 ta xuất được 55.681 tấn, năm 2000 và 2001 số lượng cao su bị giảm xuống mạnh chỉ đạt 34.407 tấn (năm 2000) và 37.737 tấn (năm2001). Có thể do nhiều lý do nhưng lý do chính là do giá cao su quốc tế liên tiếp mấy năm vừa qua liên tục giảm, các hãng kinh doanh cao su trên thị trường này bắt buộc phải giảm lượng kinh doanh do những nguyên nhân suy giảm kinh tế khu vực và thế giới.
Để ngăn chặn sự suy giảm này, chính phủ Việt Nam đã phối hợp chặt chẽ với các doanh nghiệp trong việc xúc tiến thương mại, tìm đối tác tại thị trường này và đặc biệt đã có nhiều cải tiến rõ rệt trong chất lượng cao su. Nên sang năm 2002 số lượng cao su đã tăng vọt là 63.176 tấn, cao hơn năm 1999 (là năm có mức sản lượng cao nhất) là 13,4 %.
Nhìn chung, chất lượng, phẩm cấp, đóng gói bao bì ... cao su của Việt Nam có nhiều tiến bộ hơn so với năm 1980, nhưng muốn xuất khẩu với số lượng lớn hơn vào thị trường Singapore, chúng ta cần đầu tư cải tiến nhiều hơn nữa đề phù hợp với phẩm cấp, chất lượng và các điều kiện giao dịch mà thị trường cao su quốc tế đòi hỏi. Bởi vì, Singapore chính là trung tâm giao dịch cao su thiên nhiên Quốc tế. (có trên 100 công ty kinh doanh môi giới), hàng năm giao dịch qua Sở này trên 1 triệu tấn .Về lâu dài, nếu Việt Nam muốn sử dụng thị trường này như một “bàn đạp“ tăng nhanh xuất khẩu và chuyển khẩu ngành cao su của ta thì phải nhanh chóng khắc phục những bất cập trên.
Lạc nhân
Đến năm 1992 các nước Đông nam Á mới trở thành những bạn hàng chính nhập khẩu lạc của Việt Nam với nhu cầu hàng năm khá lớn và còn khả năng tăng trong tương lai. Tỷ trọng nhập khẩu của các nước này trong tổng khối lượng lạc xuất khẩu của Việt Nam đạt 90% và các nước nhập khẩu lạc nhiều nhất là Singapore, Indonesia, Malaysia, Philipin .
Tại thị trường nội địa, Singapore rất hạn chế tiêu thụ lạc n._. hợp đồng dài hạn với Hàn quốc, Trung quốc thì lượng cao su xuất khẩu vào Singapore sẽ giảm, tuy nhiên cũng cần tranh thủ thị trường có Sở giao dịch quốc tế để khảo giá nắm thông tin, chuẩn bị thị trường, thương nhân khi ta có nhu cầu xuất khẩu lớn sau này.
* Hàng dệt may, cơ khí... tỷ trọng đã tăng trong vài năm gần đây, nhưng nếu chỉ dựa vào sản phẩm liên doanh (của các công ty Singapore) thì khó có khả năng tăng nhanh kim ngạch, mà cần mở rộng nhiều liên doanh, 100% vốn, sản xuất sản phẩm mà thị trường có nhu cầu.
* Mặt hàng rau, quả tươi, nước quả: đã được thị trường chấp nhận, trước mắt ta chưa có khả năng xuất khối lượng lớn, cần giữ vững những chủng loại đã xúât, phát triển khối lượng.
Về hàng nhập khẩu của Việt Nam từ thị trường Singapore thì trong thời gian này do Việt Nam vẫn tiếp tục đẩy mạnh công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước, nên cơ cấu hàng nhập khẩu từ Singapore như hiện nay vẫn là cần thiết và không có gì thay đổi lớn.
Trong những năm qua, nhập khẩu của ta từ thị trường tập trung cho một số nhu cầu cấp thiết như xăng, dầu, thiết bị phụ tùng, linh kiện và một số mặt hàng nguyên, vật liệu cho sản xuất công, nông, lâm nghiệp ... Trong tương lai, hàng năm số dự án đầu tư của Singapore nói riêng và các nước khác nói chung vào Việt Nam ngày càng tăng thì nhu cầu nhập khẩu vẫn sẽ tăng, bởi vì trong các dự án của Việt Nam số dự án đã đi vào hoạt động, không dùng đến nguyên liệu ... chiếm phần nhỏ, còn đa số các dự án vào Việt Nam là các dự án xây dựng văn phòng, hạ tầng cơ sở, xây dựng khu đô thị mới ... đang triển khai thực hiện. Trong tổng ngạch nhập khẩu từ thị trường này, phần kim ngạch nhập khẩu của các liên doanh nước ngoài vẫn chiếm tỷ trọng lớn, do nhu cầu sản xuất kinh doanh của các liên doanh và do có những liên doanh, doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài mới ra đời.
3.2.2. Định hướng thị trường tiêu thụ
Do tính chất của thị trường tiêu thụ Singapore đã thay đổi (trước đây mọi sản phẩm có thể tiêu thụ) nhân công đắt đỏ, trình độ công nghiệp hoá cao, moị sản phẩm hàng hoá cung cấp vào thị trường này ngày càng đòi hỏi khắt khe, mơi đáp ứng yêu cầu tiêu thụ, kể cả các dạng nguyên liệu thô, sơ chế. Vì vậy một mặt các doanh nghiệp phải phân biệt được sự khác biệt của hai phần thị trường tồn tại song trùng trên cùng một địa bàn để từ đó xác định rõ danh mục sản phẩm thâm nhập từng phần thị trường để xác định đối tượng bạn hàng và có chính sách lâu dài với từng đối tượng bạn hàng, từng loại sản phẩm. Phải có kế hoạch dài hạn nhưng thật cụ thể nhằm từng bước tiếp cận bạn hàng, tiếp cận yêu cầu của thị trường, hướng tới mục tiêu chiếm lĩnh thị trường xuất khẩu sản phẩm của doanh nghiệp mình. Mặt khác, các doanh ngiệp cần có thái độ nghiêm túc trong làm ăn, tôn trọng những cam kết, không thể tiếp diễn mãi cách làm ăn “ăn sổi, ở thì“ sẽ chỉ làm giảm sút thêm khối lượng, kim ngạch, mất thêm bạn hàng, uy tín và làm trì trệ thêm những cố gắng đẩy nhanh xuất khẩu vào thị trường này.
Nhà nước phải có định hướng thị trường dài hạn cho từng loại sản phẩm, trước mắt cho những sản phẩm xuất khẩu có khối lượng và kim ngạch lớn. Vì chỉ có nhà nước mới có đủ điều kiện, cách nhìn tổng quan; đường hướng phát triển sản phẩm, phân bố thị trường cho từng sản phẩm trên cơ sở tính toán, mới đảm bảo mang lại cho nền kinh tế có hiệu quả cao. Trên cơ sở các định hướng của nhà nước, nhà nước có chính sách hướng xuất khẩu sản phẩm, hướng các doanh nghiệp tham gia vào định hướng thị trường. Singapore là một thị trường giao dịch quốc tế, có khả năng tiêu thụ khối lượng lớn một số mặt hàng của Việt Nam. Nếu có một định hướng hợp lý, Singapore, một cách hết sức tự nhiên, đã là nơi hội mặt đủ rất nhiều nhà kinh doanh quốc tế tầm cỡ, tiềm năng cho hầu hết mặt hàng xuất khẩu Việt Nam.
3.2.3. Nâng cao khả năng cạnh tranh hàng hoá
Có thể nói, xu thế giảm giá thế giới xảy ra với hầu hết tất cả mặt hàng xuất khẩu, thậm chí là những mặt hàng chủ lực của Việt Nam, có tới 8/15 mặt hàng chủ lực xuất khẩu bị suy giảm kim ngạch do giá cả trên thị trường thế giới giảm sút. Vì vậy, bất chấp tổng khối lượng sản xuất tăng lên tuyệt đối, kim ngạch xuất khẩu vẫn không ngừng được cải thiện, đang đòi hỏi một loạt giải pháp cấp bách để có thể khôi phục lại sức mua thông qua nâng cao thế cạnh tranh trên thị trường thế giới nói chung và thị trường Singapore nói riêng.
*Biện pháp nâng cao chất lượng sản phẩm
Giá cả một số mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam thường thấp hơn các đối thủ cạnh tranh, lý do chính là chất lượng hàng của ta còn kém. Cũng là gạo 5%, 25% tấm, nhưng gạo Thái lan ngon hơn gạo 5%, 25% tấm của Việt Nam, cũng như cà phê, tỷ trọng cà phê loại II tuy có giảm song tỷ lệ thuỷ phần quá cao 13%, thậm chí có cả hạt đen, mốc, vỡ, lẫn nhiều tạp chất, quy cách màu sắc, độ bóng, độ đồng đều chưa đáp ứng tiêu chuẩn Quốc tế. Tiếp nữa, mẫu mã, cách đóng gói và ghi nhãn đơn điệu đã làm cho hàng nông sản Việt Nam gặp nhiều khó khăn khi thâm nhập vào thị trường Singapore. Nuôi trồng thủy sản ở Việt Nam thì phát triển tràn lan, thiếu kỹ thuật, chất lượng giống không ai quản lý, dẫn đến chất lượng thuỷ sản xuất khẩu thấp.
Vì vậy, để nâng cao năng lực cạnh tranh, không còn con đường nào khác Việt Nam phải đặc biệt chú ý tới việc nâng cao chất lượng. Các doanh nghiệp phải lấy yêu cầu của người tiêu dùng làm mục tiêu để cải tiến và nâng cao chất lượng sản phẩm.
Hiện nay một trong những nhóm hàng mà chúng ta có khả năng xuất khẩu với khối lượng lớn vào thị trường Singapore, đó là nhóm hàng thực phẩm, muốn đạt hiệu quả như mong muốn, đòi hỏi chúng ta phải tuân thủ các quy định nghiêm ngặt mà Chính phủ Singapore đã đề ra, đó là:
Để đảm bảo tiêu chuẩn an toàn về thực phẩm theo tiêu chuẩn quốc tế, thực phẩm nhập khẩu được kiểm nghiệm một cách hệ thống nhằm loại bỏ các nguồn bệnh ngay từ nguồn cung cấp trước khi đưa vào hệ thống phân phối, ta nên hợp tác với Singapore và mời các cơ quan thẩm quyền của Singapore vào để:
Đánh giá hệ thống và thực tiễn nơi sản xuất
Kiểm nghiệm và cấp phép cho các nhà sản xuất nông phẩm và cơ sở chế biến.
Gắn nhãn mác cho từng lô hàng nông phẩm nhập khẩu truy nguyên nguồn gốc.
Kiểm tra chất lượng sản phẩm tại cửa khẩu nhập khẩu nông phẩm
Kiểm nghiệm trước và sau khi giết mổ tại các cơ sở sát sinh trong nước
Kiểm tra trong phòng thí nghiệm đối với gia cầm, thịt đông lạnh, cá đông lạnh và cá tươi sống, rau quả và trứng nhập khẩu để chế biến và tiêu dùng tại Singapore.
Ngoài những yêu cầu trên, nhà nước nên có các chính sách động viên, khuyến khích, cho vay vốn để các doanh nghiệp tích cực thực hiện các chương trình, dự án nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm. Ngoài ra, nhà nước cũng cần tập trung vốn để tăng cường đầu tư cho máy móc thiết bị, đổi mới công nghệ, tăng hàm lượng chất xám cho sản phẩm, không ngừng nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường Singapore cũng như thị trường quốc tế.
*Biện pháp giảm giá thành sản phẩm
Để giảm giá thành sản phẩm, các doanh nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu phải sử dụng hợp lý nguồn tài nguyên thiên nhiên và lao động như tiết kiệm nguyên nhiên vật liệu, giảm chi phí trong sản xuất và lưu thông. Đặc biệt chúng ta cần nghiên cứu để giảm tối đa việc nhập khẩu hàng hoá vô hình như dịch vụ vận tải, bảo hiểm (giành quyền vận chuyển)... để từ đó tận dụng được các nguồn nhân lực, phương tiện sẵn có nhằm góp phần giảm giá thành sản phẩm.
Ngoài chương trình hợp tác trong lĩnh vực nuôi trồng, chế biến nông sản (Chúng ta đã có chương trình hợp tác quy hoạch nuôi trồng, chế biến nông sản với Singapore). Nhà nước Việt Nam cũng như chính phủ Singapore cũng nên xúc tiến việc Singapore sẽ thành lập một hệ thống kho bảo quản, phân phối hàng hoá tại Việt Nam để từ hệ thống kho này xuất thẳng đi các nước không phải tốn phí vận chuyển sang Singapore. Như vậy, hàng hoá xuất khẩu từ Việt Nam sẽ luân chuyển nhanh hơn, các doanh nghiệp đỡ bị đọng vốn cho một chu trình xuất khẩu và chắc chắn giá của sản phẩm sẽ có lợi thế cạnh tranh.
3.2.4. Tiếp cận phương thức mua bán mới
Các doanh nghiệp Việt Nam từ trước đến nay chủ yếu sử dụng hình thức buôn bán thông thường, thông qua các phương thức thanh toán L/C, D/A, D/P, giao hàng, chuyển tiền bằng TTR hoặc trả trước một phần tiền hàng ... Nhưng xu thế hiện nay buôn bán trên thế giới bằng “Thương mại điện tử “ đã gia tăng ở mức “nhanh đến chóng mặt“. Thương mại điện tử đang bước vào thời kỳ bùng nổ toàn cầu. Theo dự báo, trong 5 năm tới khối lượng buôn bán, dịch vụ thực hiện qua internet – thương mại điện tử sẽ chiếm khoảng 30% tổng doanh số toàn cầu. Tại APEC, Singapore sẽ là nước tăng nhanh nhất, tiếp đó là Nhật, Trung quốc, Hàn quốc, các nước khác cũng tăng đầu tư cho lĩnh vực này.
Theo báo cáo năm 2001, thương vụ Singapore đã nêu vấn đề “Cần tiếp cận với phương thức buôn bán E. Commerce – Thương mại điện tử, hiện tại phương thức này đang trở thành phương tiện giao dịch cực kỳ hiệu quả, phát triển nhanh chóng, sẽ trở thành phương tiện chủ yếu trong giao dịch thương mại, dịch vụ vài năm tới. Thương mại điện tử sẽ đóng vai trò rất quan trọng trong cung cấp, giới thiệu thông tin về thị trường, quảng bá hàng hoá, tìm kiếm bạn hàng, thương nhân (cả trong nước và nước ngoài) vốn đang là nội dung của các Tổ chức xúc tiến, nghiên cứu thương mại. Thương mại điện tử sẽ giúp các doanh nghiệp, các nhà kinh doanh tìm đến cái mình cần nhanh nhất, tiện lợi và ít tốn kém nhất.
Vì vậy, để phát triển buôn bán giữa Việt Nam - Singapore nước được đánh giá là sử dụng phương thức mua bán này sẽ tăng nhanh nhất trong các nước châu Á, các doanh nghiệp Việt Nam cần vận dụng linh hoạt các phương thức kinh doanh trên để từng bước hình thành những kênh phân phối, trong đó tranh thủ tối đa kênh trung chuyển qua khu vực thị trường Singapore đối với những mặt hàng có khối lượng lớn.
3.2.5. Đẩy mạnh xúc tiến thương mại
Để đẩy mạnh buôn bán giữa Việt Nam - Singapore thì khâu xúc tiến thương mại vô cùng cần thiết, nhà nước cần khuyến khích hỗ trợ các doanh nghiệp mở rộng tầm hoạt động ra bên ngoài (sang đầu cầu Singapore), ta thấy rằng phát triên kinh doanh không chỉ nhằm mục tiêu đẩy mạnh xuất khẩu hàng hoá Việt Nam mà còn nhằm cái đích lớn hơn là hình thành các doanh nghiệp đủ tầm kinh doanh quốc tế tại đầu cầu này. Bằng cách:
-Tổ chức nhiều đoàn doanh nghiệp dưới sự bảo trợ của Nhà nước sang thị trường Singapore để khảo sát nhu cầu, trực diện bàn thảo với các đối tác, tích cực tham gia các dịp hội chợ, quảng cáo, giới thiệu hàng Việt Nam.
Các doanh nghiệp cần mở rộng tầm hoạt động của mình thông qua việc thiết lập các văn phòng đại diện, chi nhánh công ty, công ty liên doanh tại Singapore nhằm tận dụng những thế mạnh của đầu cầu này cho mục đích phát triển kinh doanh. Mặt khác, Nhà nước cần khuyến khích các Công ty lớn của Singapore (hiện đang có văn phòng đại diện tại Việt Nam) chuyển hoạt động của họ sang hình thức chi nhánh, công ty con (Nếu được phép), tìm thêm các hình thức liên doanh, liên kết, mở thêm hoạt động, tham gia khai thác thị trường Việt Nam, tạo thêm nguồn hàng xuất khẩu. Sự có mặt và tham gia của các tập đoàn Công ty lớn sẽ tạo thêm các điều kiện mở rộng thị trường trong nước, thông qua họ mở rộng thị trường ngoài nước; tăng thêm nguồn vốn đầu tư từ bên ngoài cho sản xuất kinh doanh và tăng năng lực, thế cạnh tranh cho sản phẩm xuất khẩu của Việt Nam.
Nhà nước có vai trò quan trọng trong thu thập, phân tích thông tin cơ bản, thông tin cập nhật, thông tin dự báo và chuyển tải kịp thời tới các doanh nghiệp tới các doanh nghiệp để xử lý hiệu quả nhất; đẩy nhanh tiến trình áp dụng thương mại điện tử, bổ sung dữ liệu thông tin để giới thiệu doanh nghiệp Việt Nam về thị trường và các đối tác Singapore và nhằm quảng bá về thị trường, doanh nghiệp Việt Nam, tạo điều kiện chào hàng của ta với khách hàng Singapore.
Tóm lại, nhà nước cần tăng cường khâu xúc tiến thương mại, quảng cáo sản phẩm ở các cấp độ khác nhau, nhưng quan trọng hơn cả vẫn là sự chủ động, linh hoạt của các doanh nghiệp. Cần phải có sự đầu tư thoả đáng cho khâu này thông qua các hình thức như giới thiệu sản phẩm, (tham gia triển lãm, giới thiệu sản phẩm, lập các trung tâm phân phối hàng Việt Nam, lập các Websites giới thiệu sản phẩm), các doanh nghiệp cần phát huy tính năng động, mạnh dạn, mở rộng kinh doanh nước ngoài bằng các hình thức liên doanh, lập công ty ngoài nước, văn phòng đại diện, bắt tay làm quen với các phương thức buôn bán tiên tiến phục vụ cho mở rộng kinh doanh, phát triển của doanh ngiệp.
3.2.6. Chính sách tài chính tín dụng ưu đãi
Ngoài những biện pháp ở trên thì chính sách tài chính tín dụng ưu đãi là biệt pháp hữu hiệu mà nhiều nước đã áp dụng thành công. Chính sách này sẽ khuyến khích xuất khẩu, quản lý điều tiết nhập khẩu. Do đó, để mạnh quan hệ thương mại Việt Nam -Singapore thì:
-Nhà nước phải tạo nguồn vốn cho các dự án đầu tư sản xuất hàng xuất khẩu hoặc vốn để các doanh nghiệp Việt Nam mua hàng dự trữ xuất khẩu. Có như vậy các doanh nghiệp mới tránh khỏi tình trạng bị động về nguồn hàng, khi có nhu cầu từ thị trường Singapore thì lại chưa có hàng đáp ứng ngay.
- Khuyến khích các doanh nghiệp xuất khẩu hợp tác với đối tác Singapore để có thể dùng vốn của bạn đầu tư cho sản xuất, chế biến hàng xuất khẩu. Vì có thể nói rằng vấn đề vốn của Việt Nam luôn có hạn.
- Nhà nước nên thực hiện rộng rãi chính sách lãi xúât ưu đãi đối với vốn vay đầu tư sản xuất hoặc mua hàng xuất khẩu và chia thành nhiều mức khác nhau. Ví dụ, đối với nhóm hàng có khối lượng lớn, kim ngạch cao và nhu cầu lớn tại thị trường Singapore thì nên có ưu đãi đặc biệt.
- Cần áp dụng tỷ giá hối đoái linh hoạt để điều tiết hoạt động xuất nhập khẩu (Nếu doanh nghiệp có hàng xuất khẩu thu ngoại tệ, khi họ có nhu cầu nhập khẩu thì ngân hàng tạo điều kiện với tỷ giá ưu đãi).
- Nhà nước sớm lập quỹ bảo hiểm xuất khẩu để bảo hiểm cho doanh nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu khi giá cả có biến động không có lợi cho doanh nghiệp. Bằng cách khuyến khích các Hiệp hội ngành hàng tự nguyện thành lập các quỹ bảo hiểm riêng, đặc biệt là các ngành hàng có khối lượng xuất khẩu lớn vào Singapore như gạo, cà phê, cao su...
- Nhà nước nên hiệu chỉnh lại việc sử dụng các quỹ hỗ trợ phát triển, nên tập trung hướng vào các chương trình xuất khẩu trọng điểm, khuyếch trương mặt hàng mới, tìm được mối hàng mới. Cải tiến chính sách thưởng xuất khẩu để có nhiều đối tượng, nhiều mặt hàng được thưởng. Có như vậy, chắc chắn các doanh nghiệp mới mạnh dạn cải tiến mặt hàng cũng như tìm bạn hàng mới.
Điều chỉnh chính sách thuế
Mặc dù Việt Nam đã có gắng trong việc cải cách chính sách thuế, song hầu hết các mặt hàng chủ lực của Singapore nhập khẩu vào Việt Nam đều chịu mức thuế suất tương đối cao. Vì vậy, để chinh sách thuế của ta ngày càng phù hợp với thông lệ quốc tế, tương đồng với hệ thống thuế của các nước, trong đó có Singapore nhằm đẩy nhanh quá trình tự do hoá và hội nhập thì Việt Nam nên:
Đối với hàng nhập khẩu, vừa giảm mức thuế vừa giảm dần thuế xuất (về mức thuế chỉ nên áp dụng 5-6 mức: 0%, 5%, 10%, 20% và 30%). Nhìn vào bảng thuế nhập khẩu từ Singapore, chúng ta thấy nhiều mặt hàng có mức thuế suất cao tới 60% (Bảng 18)
Việt Nam và Singapore đều cam kết thực hiện CEPT - AFTA, theo lịch trình giảm thuế, Singapore sẽ hoàn tất thực hiện chương trình này vào năm 2003, Việt Nam vào năm 2006, đại bộ phận thuế nhập khẩu sẽ giảm xuống còn 0- 5%. Việt Nam cần cam kết và có lịch trình giảm thuế cụ thể cho những năm còn lại để thúc đẩy buôn bán trong khu vực, cũng như giữa hai nước Việt Nam - Singapore.
Bảng 13: Thuế suất Việt Nam quy định cho
những mặt hàng nhập khẩu chính từ Singapore
Mặt hàng
Thuế suất %
Mặt hàng
Thuế suất %
Dầu diesel
60
Nguyên, phụ liệu thuốc lá
30
Linh kiện điện tử
0
Các loại dầu nhớt khác
10
Linh kiện máy khoan
10
Xăng tinh chế
60
Dầu lửa động cơ
hơi đốt
60
Nhựa đường
1
Linh phụ kiện máy CN
5-10
Các loại xăng tinh chế khác
60
Nguồn : Bộ Thương mại
Ngoài ra, với thuế nhập khẩu nhà nước cần hoàn thiện việc xây dựng biểu thuế theo hệ thống HS (Hệ thống điều hoà), gồm 3 loại thuế suất: Thuế suất thông thường, thuế suất ưu đãi và thuế suất ưu đãi đặc biệt. Đồng thời ban hành luật thuế chống bán phá giá, chống trợ cấp và phân biệt đối xử.
Áp dụng giá tính thuế Hải quan căn cứ vào giá nhập khẩu của hàng hoá
Chấm dứt sự phân biệt đối xử vể thuế, giữa hàng hoá, dịch vụ nhập khẩu với hàng hoá dịch vụ sản xuất trong nước.
Bên cạnh đó, do hiện nay chúng ta vẫn trong tình trạng nhập siêu đối với thị trường Singapore, vì vậy để tiến tới cân bằng cán cân thương mại nhà nước cần:
- Ưu tiên nhập khẩu vật tư, thiết bị, máy móc và công nghệ tiên tiến phục vụ CNH - HĐH. Kiên quyết không nhập máy móc cũ, lạc hậu hoặc công nghệ trung gian, vừa tốn kém ngoại tệ, vừa làm giảm năng suất và khả năng cạnh tranh của sản phẩm sản xuất ra.
- Cần tạo điều kiện thuận lợi cho việc nhập khẩu các yếu tố sản xuất là đầu vào cho sản xuất hàng xuất khẩu bằng cách ưu đãi về thuế quan nhập khẩu đối với các mặt hàng máy móc thiết bị, nguyên vật liệu, phụ tùng phụcvụ cho sản xuất hàng xuất khẩu cũng như nhu cầu của các dự án đầu tư từ thị trường Singapore (mặc dù hiện nay, nhà nước chủ trương quản lý nhập khẩu theo hướng tăng cường sử dụng các công cụ phi thuế như các hàng rào tiêu chuẩn kỹ thuật, vệ sinh môi trường ... nhưng khi cần thiết , nhà nước vẫn nên sử dụng).
- Cố gắng sử dụng những vật tư, thiết bị mà trong nước có thể sản xuất được để tiết kiệm ngoại tệ, nâng cao trình độ sản xuất trong nước. Đối với những mặt hàng nhập khẩu các yếu tố sản xuất đầu vào mà trong nước có khả năng sản xuất thì tuỳ từng mặt hàng , tuỳ từng thời điểm mà nhà nước cấm hoặc điều chỉnh thuế. Ví dụ như đối với mặt hàng xe ô tô nguyên chiếc và xe máy nguyên chiếc thì cần phải áp dụng thuế nhập khẩu cao nhằm hạn chế việc nhập khẩu để khuyến khích, bảo hộ ngành công nghiệp lắp ráp ô tô, xe máy trong nước phát triển. Việt Nam tham gia CEPT thì việc cắt giảm thuế chắc chắn sẽ gây khó khăn cho nền sản xuất trong nước, vì phải cạnh tranh lại đối với hàng hoá của các nước ASEAN.
- Hạn chế tối đa có thể được việc nhập khẩu hàng tiêu dùng mà trong nước có thể sản xuất được, tránh lãng phí để dành ngoại tệ nhập khẩu những máy móc thiết bị thiết thực cho sản xuất hàng xuất khẩu, điều đó cũng giúp chúng ta cân bằng cán cân thương mại khi chúng ta xuất khẩu thu được ngoại tệ.
Ngoài ra, để tăng kim ngạch xuất khẩu, khuyến khích các doanh nghiệp xuất khẩu, Nhà nước nên giảm mức thuế xuất khẩu từ 12 xuống còn 3 mức (0%, 10% và 20%). Mức 0% áp dụng đối với hàng hoá đã qua chế biến, mức 10% áp dụng đối với hàng hoá xuất khẩu chưa qua chế biến và mức 20% đối với hàng không khuyến khích xuất khẩu. Có như vậy mới kích thích các doanh nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu có hàm lượng công nghệ cao, chế biến sâu, tận dụng nguyên vật liệu và lao động sẵn có.
Biện pháp phi quan thuế
Để từng bước hoàn thiện và tạo điều kiện cho nền kinh tế Việt Nam hội nhập với nền kinh tế khu vực và thế giới. Việt Nam cần điều chỉnh , hoàn thiện các quy chế phi thuế quan phù hợp với yêu cầu của AFTA/ASEAN và APEC điều đó sẽ giúp Việt Nam tăng lên rất nhiều kim ngạch buôn bán hai chiều với Singapore so với thực tế hiện nay. Cụ thể là:
- Giảm dần các biện pháp phi thuế quan và đảm bảo các quy chế thương mại phi thuế quan luôn luôn được công bố rõ ràng.
- Đảm bảo không áp dụng các biện pháp vô lý gây tổn hại cho tiến trình giảm hàng rào phi thuế quan.
Để thực hiện tốt đường lối đó, chúng ta cần:
- Sắp xếp lại danh mục hàng hoá quản lý bằng hạn ngạch và giấy phép. Chỉ áp dụng hạn chế số lượng nhập khẩu đối với một số hàng hoá liên quan đến bảo hộ nền công nghiệp non trẻ hoặc liên quan đến cân bằng cán cân thanh toán với thời gian và điều kiện nhất định. Việc quy định hạn ngạch nhập khẩu cần được công bố công khai trên những phương tiện thông tin đại chúng. Thực hiện tự do hoá xuất khẩu, không áp dụng bất kỳ hạn chế xuất khẩu nào, xoá bỏ các chính sách, thủ tục hạn chế xuất khẩu.
- Rà soát lại các quy định về chế độ cấp giấy phép nhập khẩu, nhà nước chỉ nên quản lý nhập khẩu thông qua việc cấp giấy phép nhập khẩu đỗi với hàng hoá áp dụng chế độ hạn ngạch nhập khẩu và các mặt hàng nhập khẩu quan trọng, liên quan đến quốc kế dân sinh, đến sức khoẻ và môi trường; còn lại thông qua quy chế đăng ký kinh doanh và quy chế hải quan để quản lý.
- Thực hiện quyền tự do kinh doanh của các doanh nghiệp theo quy định
- Ban hành các quy chế hành chính - kỹ thuật chuẩn xác, chặt chẽ nhằm kiểm soát hàng nhập khẩu.
- Các quy chế bao gồm các lĩnh vực như: bảo vệ môi trường sinh thái, bảo vệ động thực vật, bảo vệ sức khoẻ của con người.
- Các quy chế phi thuế quan nhằm điều tiết hoạt động thương mại. Các quy định này không mang tính chất bảo hộ thương mại, không gây nên những cản trở cho quá trình tự do hoá thương mại.
KẾT LUẬN
Cho đến nay quan hệ thương mại Việt Nam – Singapore vẫn không ngừng phát triển và đã có những đóng góp không nhỏ vào công cuộc mở cửa và quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá của Việt Nam.
Mặc dù trong một vài năm gần đây theo phân tích của cơ quan khuyếch trương kinh tế Pháp tại Việt Nam tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu hàng hoá các nước ASEAN nói chung với Việt Nam đã giảm xuống từ 1/4 tổng kim ngạch năm 1998 đã giảm xuống chỉ còn 15,5% năm 2002. Đặc biệt Singapore từng là bạn hàng quan trọng nhất của Việt Nam đến nay đã tụt xuống hàng thứ 5, sau Nhật, Trung quốc, Mỹ và Australia. Về nhập khẩu, năm 2002 Singapore đã nhường vị trí nhà cung cấp hàng đầu của Việt Nam cho Đài loan.
Theo nhận định của Bộ Thương mại Việt Nam thì đó là sự thay đổi tất yếu và đúng với tình hình phát triển thực tế của Việt Nam. Với quyết tâm mở rộng các quan hệ hợp tác kinh tế thương mại, với những chính sách mềm dẻo và linh hoạt Việt Nam ngày càng giành được nhiều thị trường mới về các mặt hàng mà Việt Nam có lợi thế cạnh tranh như dệt may, da giầy.
Tuy nhiên, tại thời điểm hiện nay Singapore vẫn là một đối tác thương mại quan trọng với Việt Nam, thị trường Singapore vẫn là đầu cầu trung chuyển cho hàng hoá xuất nhập của ta. Từ đây, hàng hoá xuất nhập khẩu của Việt Nam có thể đi khắp các khu vực và trên thế giới và cũng chính từ đó ta có thể nhập khẩu những vật liệu, máy móc thiết bị và công nghệ phục vụ cho nhu cầu xây dựng và phát triển kinh tế của đất nước mà không cần phải đi tận châu Âu, Bắc Mỹ hay bất cứ một nơi nào khác trên thế giới.
Có vị trí địa lý thuận lợi và khá gần gũi với Việt Nam có thể thấy rằng tiềm năng thương mại Việt Nam –Singapore vẫn còn rất lớn. Trong tương lai quan hệ thương mại Việt Nam – Singapore vẫn là rất cần thiết cho hai nước.
Trên cơ sở phân tích những mặt thuận lợi khó khăn, luận văn không chỉ đánh giá một cách khách quan thực trạng quan hệ thương mại Việt Nam – Singapore mà còn đề xuất các giải pháp cấp thiết để khắc phục và thúc đẩy mạnh hơn nữa như chuyển dịch cơ cấu hàng xuất nhập khẩu đẩy mạnh xúc tiến thương mại; chính sách tài chính tín dụng và các biện pháp bổ trợ khác như cải thiện môi trường đầu tư; xây dựng cơ sở hạ tầng; quan tâm phát triển nguồn nhân lực, nhằm phát huy hết tiềm năng sẵn có của hai bên.
Với những nỗ lực và những kết quả đạt được trong thời gian qua, chúng ta có quyền tin vào sự cất cánh của thương mại Việt Nam – Singapore trong những năm tới đây.
BÁO CÁO THỐNG KÊ HÀNG HOÁ XUẤT KHẨU
CỦA VIỆT NAM NĂM 2002
STT
TÊN HÀNG
ĐVT
LƯỢNG
TRỊ GIÁ (USD)
1
Lạc nhân
TẤN
105.113
50.852.264
2
Cao su
TẤN
448.645
267.832.237
3
Cà phê
TẤN
718.575
322.310.220
4
Chè các loại
TẤN
74.812
82.522.662
5
Gạo
TẤN
3.240.932
725.534.948
6
Hạt điều
TẤN
62.235
08.995.707
7
Hạt tiêu
TẤN
76.607
107173.397
8
Quế
TẤN
4.526
5.860.880
9
Dầu thô
TẤN
16.878.733
3.270.491.199
10
Than đá
TẤN
6.048.590
155.947.046
11
Thiếc
TẤN
1.408
5.190.433
12
Hàng rau quả
USD
201.156.275
13
Hàng hải sản
USD
2.022.820.916
14
Hàng thủ công mỹ nghệ
USD
330.993.721
15
Hàng dệt may
USD
2.751.571.518
16
Giầy dép các loại
USD
1.867.012.866
17
Hàng điện tử
USD
166.074.222
18
Máy vi tính và linh kiện lắp ráp
USD
325.883.503
19
Sản phẩm gỗ
USD
435.480.961
20
Sữa và sản phẩm sữa
USD
88.413.104
21
Dây điện và dây cáp điện
USD
185.872.658
22
Sản phẩm nhựa
USD
152.656.958
23
Xe đạp và phụ ting xe đạp
USD
124.182.742
24
Mỳ ăn lion
USD
34.970.524
25
Dỗu thực vật
TẤN
45.913
22.416.965
26
Đường
TẤN
6.966
1.620.559
27
Đồ chơi trẻ em
USD
31.568.966
28
Hàng hoá khác
USD
2.666.063.803
29
Hàng phi mậu dịch
USD
94.368.657
Tổng giá trị kim ngạch xuất khẩu
600.390.334
16.705.839.9911
BÁO CÁO THỐNG KÊ HÀNG HOÁ NHẬP KHẢU NĂM 2002
STT
Tên hàng
ĐVT
Số luỹ kế đến kỳ **
Lượng
Trị giá (USD)
Bột mỳ
Tấn
59.785
11.043.394
Đường
Tấn
660
180.180
Dầu mỡ động thực vật
Tấn
339.645
140.901.775
Xăng dầu các loại
Tấn
9.966.224
2.017.117.314
- Xăng
Tấn
2.123.389
502.021.368
- Dỗu Đ.O
Tấn
4.437.249
922.077.270
- Dỗu E.O
Tấn
2.585.916
402.068.239
- Dỗu hoả
411.263
92.093.219
- Nhiên liệu bay
Tấn
312.417
77.160.211
- Loại khác
Tấn
95.989
21.697.007
Phụ liệu thuốc lá
Tấn
47.323
157.436.595
Bột ngọt
Tấn
7.813
6.846.003
Xi măng đen
Tấn
Clanke
Tấn
3.548.367
63.433.649
Tân dược
USD
320.002.925
Nguyên phụ liệu dược phẩm
USD
82.609.708
Hoá chất các loại
Tấn
953.883
405.700.915
Các sản phẩm hoá chất
Tấn
419.233
482.015.818
Chất dẻo nguyên liêu
Tấn
907.151
616.635.230
Phân bón các l oại
Tấn
3.823.863
477.295.569
- Phân SA
Tấn
549.485
40.038.153
- Phân Urê
Tấn
1.797.690
212.196.172
- Phân NPK
Tấn
243.468
36.008.866
- Phân DAP
Tấn
600.527
104.218.589
- Loại khác
Tấn
632.693
84.833.789
Thuốc trừ sâu & nguyên liệu
Tấn
35.840
142.905.166
Giấy các loại
Tấn
371.554
193.327.047
- Giấy in báo
Tấn
28.779
10.870.997
Bóng các loại
Tấn
97.133
96.697.494
Sợi các loại
Tấn
262.844
314.190.943
Vải
USD
996.081.436
Nguyên phụ liệu dệt may da
USD
1.710.862.858
Kính xây dựng
USD
7.817.894
Sắt thép
Tấn
4.950.626
1.334.153.773
- Phôi thép
Tấn
2.206.820
458.545.258
Kim loại thương khác
Tấn
194.744
266.042.667
Linh kiện điện tử
USD
431.303.071
Ti vi & Video
Chiếc
1.650
532.179
Máy vi tính và linh kiện
USD
232.868.593
Máy móc, tb, DC phụ tùng khác
USD
3.793.079.851
Ôtô các loại
Chiếc
29.106
261.040.546
- Từ 12 chỗ ngồi trở xuống
Chiếc
241
5.663.363
- Trên 12 chỗ ngồi
Chiếc
1.152
15.175.684
- Ô tô vận tải
Chiếc
24.612
177.562.137
- Loại khác
Chiếc
3.101
62.639.362
Linh kiện & phụ tùng Ô tô
USD
383.164.439
- L/kiện CKD.SKD 12 chỗ ngồi trở xuống
Bộ
20.574
254.781.766
- L/kiện CKD.SKD loại khác
Bộ
9.779
107.629.358
- Phụ tùng khác
ôUSD
20.753.315
Xe máy
USD
422.699.913
- Xe máy nguyên chiếc
Chiếc
635
1.080.540
- L/kiện CKD.SKD. IKD loại khác
Bộ
1.479.535
421.619.373
Sữa và sản phẩm từ sữa
USD
122.179.692
Go & NPL Go
USD
179.054.876
Thức ăn gia súc & NPL Chế biến
Tấn
1.035.382
233.145.917
Lúa mỳ
Tấn
842.554
113.259.692
Bột giấy
Tấn
46.881
20.665.971
Cao su tổng hợp
Tấn
31.585
33.816.950
Hàng hoá khác
USD
3.530.527.055
Hàng phi mậu dịch
USD
132.403.794
Tổng giá trị kim ngạch nhập khẩu
828.401.732
19.733.040.892
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1- Bộ Thương mại – Vụ Châu Á - Thái bình dương: Chính sách phát triển thương mại của Singapore.
2- Bộ Thương mại: Chiến lược phát triển xuất nhập khẩu thời kỳ 2001-2010.
3- Tổng Cục Hải quan: Báo cáo thống kê hàng hoá xuất nhập khẩu từ 1996 -2002.
4- Nguyễn Mạnh Cầm (4/ 2002): Việt Nam trên con đường đổi mới và phát triển. Bài phát biểu tại Diễn đàn Thương mại và Đầu tư Việt Nam 2002.
5- Hà Châu: Quan hệ hợp tác nhiều mặt Việt Nam -Singapore không ngừng được củng cố và phát triển. Tạp chí Thương mại số 5 /2001.
6- Nguyễn Thị Côi (CV Bộ Thương mại): Bài nói chuyện về quan hệ KT- TM Việt Nam – Singapore tại ĐH Thương mại 10/2001.
7- Lưu Vĩnh Đoạn: Kinh tế châu Á bước vào thế kỷ XXI. NXB Nông nghiệp Hà nội .
8- Nguyễn Thị Hiền: Singapore - Quốc gia đầu tàu trong hội nhập kinh tế khu vực ở Đông Nam Á. Tạp chí kinh tế châu Á- TBD . số 2(31), 4/2001.
9- Nguyễn Huy Hoàng: Tạo sức cạnh ranh - một đòi hỏi cấp bách của doanh nghiệp. Báo Hà nội mới số 362 2/3/2002 .
10- Nguyễn Thế Hiệp: Singapore Quốc đảo “ăn“ 100% rau quả nhập khẩu . Tạp chí diễn đàn hội nhập (12/10/ 2001) .
11 - Văn phòng Uỷ ban quốc gia về ASEAN: ASEAN và các nước thành viên.
12- Đào Duy Huân (1997): Kinh tế các nước Đông Nam Á. NXB Giáo dục Hà nội .
13- Trần Khánh: Cộng hoà Singapore 30 năm xây dựng và phát triển NXB KH&XH,1995 .
14 Võ Minh Lệ – Tác động của suy giảm kinh tế toàn cầu tới Singapore, Tạp chí Những vần đề kinh tế thế giới, số 5 (73) 2001.
15 . Kinh tế Việt Nam trong bối cảnh suy giảm tăng trưởng kinh tế thế giới. Tạp chí kinh tế châu Á -TBD, số 4(33) 8/2001.
16 . Nguyễn Thị Hồng Nhung: Tự do hoá thương mại ở các nước ASEAN. Luận án TS. Viện Kinh tế thế giới 2001 .
17. Bùi Xuân Lưu (6 / 2001): Tiếp tục điều chỉnh chính sách thương mại trong quá trình hội nhập và tự do hoá thương mại. Tạp chí Kinh tế châu á - TBD số 4(33) 8/2001.
18 . Nguyễn Duy Nghĩa: Làm gì để thực hiện mục tiêu uất khẩu 2002 , Tạp chí thương mại số 9/2002.
19. Hoàng Sơn: XNK năm 2001: Vạn sự khởi đầu nan, Báo diễn đàn doanh nghiệp.
20. Phạm Đức Thành - Trương Duy Hoà (2002). Kinh tế các nước Đông Nam Á - Thực trạng và triển vọng. NXB KHXH Hà nội .
21. Nguyễn Trần Quế: Lựa chọn sản phẩm và thị trường trong ngoại thương thời kỳ CNH của các nền kinh tế Đông Á, NXBCTQG 1997.
Ngoài ra, luận văn còn tham khảo một số nguồn tài liệu sau:
Các trang Website của Thời báo kinh tế Việt Nam, Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) - Hồ sơ thị trường Singapore.
Thông tin chuyên đề các lĩnh vực doanh nghiệp thương mại 2001-2002.
www.itpc.Hochiminhcity.Gov.vn/ttdnvn/ncuuttnn/Singapore/datainsin–Pros.htm .
www.itpc.Hochiminhcity.Gov.vn/ttdnvn/ncuuttnn/Singapore/data/Viet-Sing-1.htm.
www.itpc.Hochiminhcity.Gov.vn/ttdnvn/ncuuttnn/Singapore/data/Singapore-index.htm
Singapore International Chamber of commerce : www.sicc.com.sg
Singapore Trade Development Board : www.tdb.gov.sg
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 37187.doc