Chương i
cơ sở lý luận chung về quan hệ thương mại
Việt nam- Hoa kỳ
những xu hướng kinh tế thế giới trong giai đoạn hiện nay
1. xu thế toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế thế giới
Ngày nay, nền kinh tế thế giới là một chỉnh thể thống nhất, nó là một thể hữu cơ của nền kinh tế của các quốc gia trên thế giới. Sự thống nhất của nền kinh tế quốc gia thành một nền kinh tế thế giới thống nhất đó cũng phù hợp với sự phát triển của quá trình phân công lao động vượt ra khỏi biên giới của các quốc gia.
61 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1480 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Quan hệ thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Cùng với quá trình phát triển mạnh mẽ của khoa học công nghệ trên toàn thế giới đã thúc đẩy quá trình phân công lao động quốc tế diễn ra càng mạnh mẽ hơn. Quá trình phân công lao động quốc tế là nguồn gốc của sự hình thành các mối quan hệ thương mại quốc tế và nguồn gốc của toàn cầu hoá. Trong lịch sử kinh tế thế giới cho tới tận bây giờ đã chứng minh rằng, không một quốc gia nào hiện đang có nền kinh tế hoàn toàn không có quan hệ với bên ngoài. Các quốc gia muốn phát triển thì nhất định phải tham gia vào quá trình phân công lao động quốc tế. Quá trình này là một quy luật không thể phủ định nó được.
Dưới xu thế này, biên giới kinh tế của các quốc gia sẽ càng giảm do hàng rào thuế quan và phi thuế quan sẽ bị bãi bỏ dần, một nền kinh tế toàn cầu không biên giới sẽ xuất hiện, các mối quan hệ tuỳ thuộc lẫn nhau giữa các nền kinh tế quốc gia sẽ phát triển, các thể chế kinh tế toàn cầu sẽ hình thành vv. Trong điều kiện đó , một nền kinh tế muốn không lệ thuộc vào bên ngoài, muốn đảm bảo lấy các nhu cầu thiết yếu, chắc chắn là sẽ không có chỗ đứng chân. Một nền kinh tế phát triển hiệu quả sẽ phải là một nền kinh tế gồm những ngành có lợi thế cạnh tranh cao và đương nhiên là phải tuỳ thuộc vào thị trường thế giới.
Trong điều kiên đó, mô hình phát triển kinh tế theo hướng hội nhập nền kinh tế quốc tế đang xuất hiện. Mô hình này khác hẳn với mô hình kinh tế hướng nội: một bên lấy thị trường toàn cầu trong đó thị trường quốc gia làm căn cứ để phát triển các ngành kinh tếcó lợi thế tranh cạnh, một bên lấy thị trường trong nước làm căn cứ để phát triển những ngành đáp ứng nhu cầu chủ yếu của đất nước không tính tới các lợi thế cạnh tranh quốc tế. Đương nhiên là việc xây dựng một nền kinh tế độc lập tự chủ trong mô hình phát triển theo hướng hội nhập quốc tế cũng khác với cách hiểu độc lập tự chủ trong mô hình kinh tế hướng nội.
Trong mô hình kinh tế có tính tới xu hướng hội nhập kinh tế quốc tế, các quốc gia không dại gì xây dựng ra một cơ cấu kinh tế hoàn chỉnh và ngày một hoàn chỉnh cũng không có. Ta có thể lấy ngành sản xuất ôtô là vídụ: không một quốc gia Châu âu nào kể cả cộng hoà liên bang Đức có thể sản xuất 100% các linh kiện của ôtô, vì làm như vậy là một dại dột không có hiệu quả. Các quốc gia sản xuất ôtô chỉ sản xuất khoảng 30%- 40% các linh kiện, những sản phẩm có lơị thế nhất, còn lại là họ nhập khẩu của các nước khác. Ngay công ty Boing của Hoa kỳ cũng đã nhập khẩu hàng loạt linh kiện từ hàng chục quốc gia khác hoặc ngay cả các quốc gia có nhiều ngành công nghiệp nền tảng khá phát triển như Nhật Bản mà vẫn phụ thuộc vào bên ngoài một cách đáng sợ. Nhật Bản phải nhập 100% dầu mỏ để có ngành hoá dầu và năng lượng điện, nhập khẩu phần lớn quặng sắt để có ngành luyện kim, nhập khẩu phần lớn bằng phát minh sáng chế để có ngành công nghiệp chế tạo. Nếu có chiến tranh xâỷ ra, các hoạt động nhập khẩu này chỉ ngừng trệ một vài tuần thôi thì những ngành công nghiệp trên sẽ hoàn toàn tế liệt và nền kinh tế Nhật Bản làm sao tránh khỏi chấn động và tổn thất. Nếu sợ sự phụ thuộc này, nước nhật sẽ không thể phát triển được. Nhưng để bù lại Nhật Bản lại xuất khẩu ôtô, hàng điện tử và nhiều loại hàng chất lượng cao khác, buộc các quốc gia khác lệ thuộc vào nhật về các mặt hàng này. chính mối quan hệ lệ thuộc lẫn nhau này đã làm cho nền kinh tế Nhật Bản có thể đứng vững ngay cả trong cuộc khủng hoảng dầu lửa đã xẩy ra trong những năm 70.
Nói tóm lại, xu hướng hội nhập kinh tế quốc tế đang trở lên phổ biến và nó đem lại ích to lớn cho các quốc gia nếu biết phát huy những lợi thế cạnh tranh của mình. Đối với nước ta, để phát triển được thì không có con đường nào khác là phải tham gia vào quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, lợi ích từ quá trình hội nhập kinh tế quốc tế được chứng minh từ những thành tựu mà nền kinh tế nước ta đạt được trong giai đoạn vừa qua- từ sau quá trình đổi mới
2. Xu thế hoà bình hợp tác và phát triển.
Xu thế đã trở thành xu thế chính thay cho sự đối đầu giữa các siêu cường quốc, sự xung đột, chạy đua vũ trang giữa hai hệ thống xã hội đối lập. Các hình thức chủ nghĩa thực dân cũ và mới, các cuộc chiến tranh xâm lược đã bị lên án khắp nơi. Trên toàn thế giới, các nước hiện giờ đang lỗ lực tập trung để phát triển kinh tế. Đây là một điều kiện rất quan trọng để giúp cho các quốc gia có thể mở cửa đất nước tham gia hội nhập kinh tế quốc tế phát triển trong xu thế hoà bình hợp tác đang thay thế cho mô hình kinh tế phát triển trong tình trạng đối đầu và chiến tranh lạnh. Một nền kinh tế được xây dựng trong điều kiện luôn phải ứng phó với các cuộc chiến tranh lạnh dù là đã khác hoàn toàn với nền kinh tế phát triển trong xu thế hoà bình hợp tác. một nền kinh tế có tính chất chiến tranh cho nên tính hiệu quả không cao, chi phí cao, một bên thực thi chính sách hợp tác, hội nhập quốc tế sâu rộng, lấy việc tăng hiệu quả kinh tế, tăng sức cạnh tranh của nền kinh tế là quốc sách hàng đầu.
Đây là một thuận lợi lớn cho nước ta, với xu thế này khi tham gia vào quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, các quốc gia sẽ dẹp vấn đề quan điểm đường lối, hệ tưởng sang một bên trong một chừng mực nào đó và cùng nhau quan tâm đến hợp tác về kinh tế. Nước ta là một nước đi lên con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội, mặc dù chủ nghĩa xã hội là tốt đẹp tuy nhiên trên thế giới những nước đi theo con đường này vẫn còn rất ít và trên thế giới thì hầu hết các nước phát triển lại đi theo con đường tư bản chủ nghĩa. Trong quá trình hợp tác với các nước này tuy nhiên do xu thế của thời đại này các nước đều tập trung vào phát triển kinh tế cho nên vấn đề này có thể được xoa dịu và đây là một điều kiện thuận lợi cho chúng ta có thể đẩy mạnh quá trình hội nhập, tác dụng các hỗ trợ từ các nước lớn nhằm tạo động lực cho sự phát triển kinh tế quốc gia
3.Xu thế phát triển công nghiệp chuyển đổi sang nền kinh tế tri thức
Trong những thập kỷ vừa qua sự phát triển của công nghệ đã có những bước tiến hết sức to lớn trên nhiều mặt, đặc biệt là công nghệ thông tin đang chuyển nền kinh tế thế giới từ một nền kinh tế công nghệ sang nền kinh tế tri thức với những đặc điểm nổi bật sau:
Các ngành công nghiệp truyền thống, sản xuất ra các hàng hoá vật chất kể các các ngành công nghệ nặng đang ngày càng kém hiệu quả, mất dần vai trò quan trọng của chúng đối sự phát triển kinh tế. Trong mấy năm gân đây các sản phẩm không kể dầu mỏ liên tục bị giảm giá,đã giảm giá tới trên 30% do vâỵ những ngành này lâm vào tình trạng khó khăn ở khắp nơi. Sản phẩm của các ngành này dù phải hạ giá trên 30% mả vẫn gặp khó khăn trong việc bán hàng, lợi thế về tài nguyên sẽ ngày càng giảm. Giá của các tài nguyên trong thập kỷ 90 đã giảm 60% so với thập kỷ 70. lợi thế các nguồn vốn cũng giảm, vì người ta thể hiện có thể dễ dàng vay được vốn, do thị trường vốn đã được toàn cầu hoá. Trong điều kiện đo những quốc gia phát triển đang muốn chuyển dần các ngành công nghiệp truyền thống tiêu hao nhiều tài nguyên, sử dụng nhiều vốn đã mất lợi thế cạnh tranh sang các quốc gia kém phát triển. Do vậy chính sách của các quốc gia kém phát triển phải tính đến sự lựa chọn xây dựng các ngành này một cách thận trọng.
Các ngành kinh tế tri thức phát triển với tốc độ cao và hiệu quả. Trong điều kiện hiện nay, các lợi thế về tài nguyên, nguồn vốn, lao động phổ thông đang giảm dần và lợi thế về tri thức và kỹ năng đang tăng lên. ở Mỹ tỷ lệ đóng góp của ngành sản xuất điện tử tin học cho tăng trưởng kinh tế lên đến 45% trong 3 năm qua, còn mức đóng góp của ngành xây dựng và xe hơi vốn là trụ cột của kinh tế Mỹ chỉ còn 14% và 4%. Thời kỳ tăng trưởng cao kéo dài hơn 10 năm của nền kinh tế Mỹ chính là mở rộng của ngành sử dụng nhiều tri thức, ở các nước OCED, sản lượng và việc làm đã được tăng lên ở những công nghệ cao, những ngành kinh tế tri thức. Lợi nhuận từ các ngành kinh tế tri thức là rất cao, lớn hơn nhiều so với các ngành công nghiệp nặng trước kia. Ví dụ như lợi nhuận của hãng Itel, Mircosoft của Hoa kỳ đã đạt được mức lợi nhuận 24% trên doanh thu kéo dài trong nhiều năm trong khi đó lợi nhuận của những ngành công nghiệp nặng trước kia chỉ chiếm 10% doanh thu .
Nhờ cuộc cách mạng khoa học công nghệ mới, những nước nghèo như nước ta có thể tìm được cơ hội để phát triển, nếu tạo được nhân lực chất lượng cao, tiếp cận được trình độ khoa học công nghệ hiện đại. Bên cạnh đó thời gian để tiến hành công nghiệp hoá được rút ngắn. nếu ở thế kỷ 18, một nước muốn công nghiệp hoá phải mất khoảng 100 năm, cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20 thì phải mất khoảng 50- 60 năm, trong những thập kỷ 70 là khoảng 20-30 năm, đến cuối thế kỷ 20 thì quãng đường này còn có thể rút ngắn hơn nưa. Do vậy, chúng ta phải có những chiến lược đi tắt đón đầu, có những thay đổi nhìn nhận lại về xu hướng xuất hiện kinh tế tri thước trong giai đoạn hiện nay. Những quan niệm về quan niệm về mục tiêu, phương tiện, phạm vi của công nghiệp hoá cần phải có những thay đổi đòi hỏi cho phù hợp. Quan điểm công nghiệp hoá hiện đại hoá của Đảng ta đó là quá trình chuyển đổi căn bản, toàn diện các hoạt động sản xuất kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế, xã hội từ sử dụng lao động thủ công là chuyển sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động cùng với công nghệ, phương tiện và phương pháp tiên tiến, hiện đại, dựa trên sự phát triển của công nghiệp và tiến bộ khoa học công nghệ, tạo ra năng suất lao động xã hội cao. Quan niệm này trong điều kiện của nền kinh tế tri thức cần có sự thay đổi bổ sung hoặc làm rõ thêm, ít nhất là về mục tiêu của ngành công nghiệp hoá. Theo cách hiểu của quan niệm trong điều kiện của nền kinh tế tri thức cần có sự thay đổi bổ sung hoặc làm rõ thêm, theo cách hiểu của quan niệm trên thì năng suất lao động cao có nghĩa là nhàn nhiều, tốt, rẻ hơn một cách định lượng thì rõ ràng là không đủ, ở đây có vấn đề thay đổi về chất hoặc về phương tiện để tiến hành công nghiệp hoá cũng cần bổ sung vấn đề coi trí tuệ là nhân tố tăng trưởng kinh tế.
4. Xu hướng xuất hiện vòng cung châu á- thái bình dương
Khu vực Châu á - Thái bình dương là một khu vực gồm nhiều quốc gia có tiềm lực kinh tế mạnh, có ảnh hưởng lớn đến toàn bộ nền kinh tế. Khu vực này là một thị trường tiêu thụ rộng lớn bao gồm những thị trường lớn mạnh như : Hoa kỳ, Canađa, Trung quốc, Nhật bản, Hàn quốc, Hồng Kông, Nga và bên cạnh đó là thị trường cung cấp những nguôn công nghệ, vốn lớn nhất nhì thế giới.
Nước ta có một thuận lợi lớn là nằm trong khu vực phát triển năng động nhất thế giới. Do đó nó cũng tạo được sự hấp dẫn đối với các thi trường trên khắp thế giới và bên cạnh đó, do thuận lợi về mặt địa lý, văn hoá, chúng ta có thể tiếp cận dễ dàng một thị trường rất rộng lớn, ví dụ như thị trường Mỹ.
Ngoài ra, trong khu vực có những nước có nền kinh tế mạnh như Hoa kỳ, Nhật bản, trung quốc những quốc gia này như là đầu tầu kéo sự phát triển kinh tế của khu vực. Mô hình đó được ví như là mô hình đàn sếu bay hình chữ V.
Nói tóm lại, những xu hướng trên đây là những xu hướng phổ biến trong điều kiện ngày nay. Những xu hướng đó đem lại những thời cơ và thách thức cho bất kỳ quốc gia nào. Đối với nước ta, nghiên cứu xu hướng trên cho thấy con đường hội nhập kinh tế quốc tế của nước ta là đúng đăn. tuy nhiên nó đặt ra nhiều thách thức cho chúng ta. Vấn đề đặt ra cho chúng ta bây giờ là tìm ra được con đường ngắn nhất để hội nhập và rút ngắn và khoảng cách tụt hậu. Muốn làm được như vậy thì cần phải cho một chiến lược kinh tế dựa vào tri thức
Cơ sở lý luận của thương mại quốc tế
Khái niệm thương mại quốc tế
Khái niệm
Thương mại quốc tế là quá trình trao đổi hàng hoá giữa các nước thông qua buôn bán nhằm mục đích kinh tế tối đa. Trao đổi hàng hoá là một hình thức của các mối quan hệ kinh tế xã hội và phản ánh sự phụ thuộc lẫn nhau giữa những người sản xuất kinh doanh hàng hoá riêng biệt của các quốc gia. Thương mại quốc tế là lĩnh vực quan trọng nhằm tạo điều kiện cho các nước tham gia vào phân công lao động quốc tế, phát triển kinh tế và làm giàu cho đất nước.
b.Vai trò và nhiệm vụ của thương mại quốc tế
Đảng và nhà nước ta chủ trương mở rộng và phát triển quan hệ đối ngoại và kinh tế đối ngoại, trong đó một lĩnh vực cực kỳ quan trọng là thương mại hàng hoá và dịch vụ với nước ngoài. Đó là chủ trương hoàn toàn đúng đắn và phù hợp với thời đại, với xu thế phát triển của nhiều nước trên thế giới trong những năm gần đây. Thương mại hàng hoá và dịch vụ với nước ngoài không thể là quan hệ ban phát cho không, không phải chỉ có nhập mà phải có xuất, phải cân đối được xuất nhập và tiến tới xuất siêu ngày càng lớn. Tất cả các mối quan hệ đó muốn lâu bền phải dựa trên các quy luật kinh tế và phải được giải quyết thông qua các quan hệ Thương mại buôn bán, trao đổi và kinh doanh vì mục tiêu kinh tế, công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, vì dân giầu nước mạnh và công bằng văn minh..
Nói đến thương mại quốc tế không thể không nói đến kinh doanh xuất nhập khẩu hàng hoá vì dịch vụ và đây là nội dung quan trọng và cốt lõi của quá trình kinh doanh thương mại quốc tế. Kinh doanh xuất nhập khẩu hàng hoá và dịch vụ với nước ngoài đòi hỏi phải đầu tư trí lực, sức lực, tiền của, quan hệ và phương pháp quản lý để thu được kết quả kinh tế tối đa với chi phí tối thiểu. Do đó, thương mại quốc tế trang bị những kiến thức cần thiết và lý thuyết thương mại quốc tế, thị trường, hình thức giao dịch hợp đồng, thanh toán, quản lý xuất nhập khẩu, hiệu quả kinh doanh… Thương mại quốc tế là lĩnh vực và là ngành phân phối lưu thông hàng hoá và dịch vụ với nước ngoài. Đây là lĩnh vực kinh doanh hàng hoá thuộc hai khâu của quá trình tái sản xuất mở rộng, chắp nối sản xuất và tiêu dùng của nước ta với sản xuất và tiêu dùng của nước ngoài, nếu làm tốt sẽ ảnh hưởng rất lớn đến sản xuất và đời sống. Nếu xem xét quá trình tái sản xuất theo nghĩa liên tục không ngừng và theo ý nghĩa kinh tế mở thì hai khâu phối và lưu thông hàng hoá dịch vụ là những khâu đột phá đầu tiên của tiến trình sản xuất. Nền sản xuất phát triển cao hay thấp, nhanh hay chậm phụ thuộc một phần rất lớn vào chúng.
Thương mại quốc tế giới thiệu, thúc đẩy khai thác tiềm năng và thế mạnh của nước ta với nước ngoài một cách có lợi nhất. Trên cơ sở đó tiến hành phân công lại lao động khai thác mọi tiềm năng để sản xuất nhiều sản phẩm hàng hoá dịch vụ xuất khẩu.
Mặt khác, cũng không kém phần quan trọng là trang thủ khai thác được mọi tiềm năng và thế mạnh về hàng hoá, công nghệ, vốn.. của các nước và các khu vực trên thế giới phù hợp với hoàn cảnh của nước và các khu vực trên thế giới phù hợp với hoàn cảnh của nước ta để thúc đẩy quá trình tái sản xuất, tiêu dùng phát triển kịp thời với tiến trình tái sản xuất, tiều dùng phát triển kịp thời với tiến trình chung của nhân loại. Trên cơ sở đó, nền công nghệ của thế giới, sử dụng những hàng hoá và dịch vụ tốt, rẻ nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất, tiêu dùng.
Nền sản xuất nước ta hướng ra ngoài và được các nước bầu bạn quốc tế hướng vào nước vào nước ta vừa làm kinh tế vừa hỗ trợ giúp ta thì sẽ có điềuừa hỗ trợ giúp ta thì sẽ có điềuến lên có xuất siêu và như vâỵ là có được tích luỹ và tăng tích luỹ cho tái sản xuất mở rộng. Kinh tế quốc dân vững mạnh thì uy tín chính trị cao và có điều kiện góp phần thúc đẩy sự tiến bộ của nhân loại.
Thương mại quốc tế là cho quá trình liên kết kinh tế, xã hội nước ta với nước ngoài chặt chẽ và mở rộng, góp phần vào sự ổn định kinh tế và chính trị của đất nước.
Các quốc gia tham gia vào quan hệ thương mại quốc tế với hai lý do căn bản: mỗi lý do đều có liên quan đến các lợi ích thu được từ thương mại.
Thứ 1 : các nước tiến hành buôn bán với nhau vì lợi ích khác nhau. Cũng như cá nhân con người, các quốc gia có thể thu được lợi ích từ những sự khác biệt giữa họ bằng cách đạt tới các quốc gia qua có thể thu được lợi ích từ những gì mà xét một cách tương đối nước đó là tốt hơn.
Thứ 2 các nước tiến hành buôn bán với nhau để đạt được lợi thế nhờ chuyên môn hoá ở một số loại hàng hóa. Nó có thể sản xuất mỗi loại hàng này ở quy mô lớn hơn và do đó hiệu quả là trong trường hợp nước đó sản xuất tất cả mọi thứ. Hai động cơ trên chính là tiền đề cho các quan hệ giữa các quốc gia
Quan hệ thương mại quốc tế nằm trong nội dung của quan hệ kinh tế quốc tế rất rộng lớn và đa dạng gồm có: quan hệ trong lĩnh vực ngoại thương( quan hệ thương mại quốc tế) quan hệ trong lĩnh vực dịch vụ như du lịch quốc tế, giao thông vận tải quốc tế, bảo hiểm quốc tế, quan hệ trong lĩnh vực tài chính, quan hệ trong lĩnh vực đầu tư quốc tế, quan hệ trong lĩnh vực chuyển giao công nghệ. Có thể hiểu quan hệ thương mại quốc tế là quan hệ kinh tế mua bán, trao đổi hàng hoá của một nước với nước các quốc gia khác trên thế giới bao gồm cả hàng hoá hưu hình và hàng hoá vô hình.
Quan hệ thương mại quốc tế là các mối quan hệ thoả thuận, tự nguyện giữa các quốc gia. Nó diễn ra theo yêu cầu của các quy luật kinh tế như : Quy luật giá trị, Quy luật cạnh tranh, thêm vào đó, quan hệ thương mại quốc tế còn chịu sự tác động của hệ thống quan lý khác nhau của các chính sách pháp luật, thể chế của từng quốc gia cũng như các điều ước quốc tế.
ở phần trên chúng ta nghiên cứu những xu hướng chung của nền kinh tế thế giới, đến phần này, qua nghiên cứu những lý thuyết cơ bản về thương mại quốc tế nhằm giải thích bản chất của các hoạt động thương mại quốc tế cũng như giải thích bản chất của quan hệ thương mại Việt nam – Hoa kỳ.
Các lý thuyết thương mại quốc tế xuất hiện vào thế kỷ 15 và được phát triển liên tục qua mấy năm nay. Theo tiến trình phát triển các lý thuyết khác nhau về thương maị quốc tế đã phản ánh từng nấc thang vận động tư duy loài người trong buôn bán quốc tế. Việc hiểu rõ các lý thuyết này sẽ tạo điều kiện cho các công ty và các chính phủ xác định tốt hơn vị trí và quyền lơị của mình trong buôn bán quốc tế, do đó các học thuyết có nhiệm vụ giải đáp những vấn đề cơ bản.
Lý thuyết trọng thương
Chủ nghĩa trong thương xuất hiện từ giữa thế kỷ 15- 16 ở Châu âu ( mạnh nhất là Anh và Pháp) và thịnh hành vào cuối thế kỷ 17 đến giữa thế kỷ 18, các nhà học giả tiêu biểu của chủ nghĩa trọng thương là JeanBolin, Colber người pháp và ThomasMun và Josias Child của Anh. Tư tưởng cơ bản chủ nghĩa trong thương thể hiện ở quan điểm cho rằng mỗi nước muốn phát triển thịnh vượng phải gia tăng khối lượng tiền tệ. Chính các chính phủ, chứ không phải các cá nhân( những người không đáng tin cậy) nên tham gia vào việc trao đổi hàng hoá giữa các nước để tăng số của cải của mỗi nước, do vậy phải buôn bán với nước ngoài. Lợi nhuận buôn bán theo quan niệm của trường phái này là kết quả của sự trao đổi không ngang giá và lường gạt giữa các quốc gia. Thương mại quốc tế chỉ có lợi cho một bên và gây thiệt hại cho bên kia, dân tộc này làm giầu bằng cách huy sinh lợi ích của các dân tộc khác. Theo đó, các chính phủ phải tạo điều kiện và trợ giúp cho mọi hoạt động xuất khẩu đồng thời hạn chế nhập khẩu thông qua việc điều chỉnh buôn bán dựa vào độc quyền chính phủ để can thiệt vào thị trường bằng cách trợ cấp cho các ngành công nghiệp nội địa xuất khẩu và phân bổ các quyền được tham gia vào buôn bán. ngoài ra các chính phủ phải tiến hành đánh thuế hoặc hạn ngạch để hạn chế khối lượng nhập khẩu.
Trong luận thuyết của chủ nghĩa trọng thương chứa đựng hai sai lầm cơ bản.
Thứ nhất là quan điểm cho rằng chỉ có vàng hoặc kim loại quý mới có giá trị thực sự, trong khi trên thực tế chúng không thẻ được sử dụng kể cả sản xuất lẫn tiêu dùng.
Thứ hai, chủ nghĩa trong thương bỏ qua khái niệm hiệu quả sản xuất được nhờ chuyên môn hoá theo quan điểm hiệu quả- chi phí, họ nhấn mạnh đến khối lượng xuất khẩu và nhập khẩu tuyệt đối và sự cân bằng giữa của cải tích luỹ được với tiềm lực thực tế của nền kinh tế.
Tuy nhiên chủ nghĩa trong thương cũng có ưu điểm là thông qua việc xem xét cán cân thanh toán tổng thể có lợi hay bất lợi đối với tất cả các loại hàng hoá, nghĩa là các quốc gia phải cố gắng đạt được thặng dư trong cán cân thương mại, để toàn bộ quy mô hoạt động xuất khẩu vượt khỏi quy mô hoạt động nhập khẩu.
Tóm lại, lý thuyết trong thương đã sớm đánh giá được tầm quan trọng của thương mại quốc tế, nó khác với trào lưu tư tưởng kinh tế phong kiến thời bấy giờ đề cao nền kinh tế tự cung tự cấp. Vai trò của nhà nước với tư cách là chủ thể điều chỉnh quan hệ kinh tế từ nước này sang nước khác đã được coi trọng. Tuy vậy, lý luận về thương mại quốc tế còn đơn giản, ít tính chất lý luận, thường dược nêu lên dưới hình thức những lợi khuyên thực tiễn về chính sách kinh tế, lập luận mang tính chất kinh nghiệm chưa thể giải thích được bản chất của thương mại quốc tế
3.Lý thuyết về lợi thế tuyệt đối của A.Smith
Lý thuyết này xuất hiện vào đầu thế kỷ 18 cùng thời kỳ nổ ra 3 cuộc cách mạng công nghiệp, cách mạng Mỹ và cách mạng Pháp xây dựng trên cơ sở lý thuyết về buôn bán tự do được phát triển vào thời kỳ này năm 1776 trong tác phẩm sự giầu có của các dân tộc. Asmith đã bác bỏ quan niệm coi vàng đồng nghĩa với của cải và đưa ra quan điểm các nước thu được lợi ích lớn nhất khi tham gia trao đổi các loại hàng hóa có thể sản xuất với hiệu quả tối đa, ông cho rằng các loại chi phí sản xuất sẽ là căn cứ cho biét từng nước hoặc buôn bán nên sản xuất mặt hàng gì
Theo quan điểm về lợi thế tuyệt đối, một nước chỉ sản xuất các loại hàng hoá cho phép sử dụng tốt nhất các nguồn tài nguyên của nó. Các nguồn lực đó là đội ngũ lao động có tay nghề và được đào tạo thích hợp, nguồn vốn , tiến bộ công nghệ hoặc thậm chí cả truyền thống kinh doanh.
Giả sử thế giới chỉ có hai quốc gia và mỗi quốc gia chỉ sản xuất hai mặt hàng giống nhau. Quốc gia thứ nhất có lợi thế tuyệt đối trong sản xuất hàng hoá X và quốc gia thứ hai có lợi thế tuyệt đối trong sản xuất hàng hoá Y. Nếu mỗi quốc gia tiến hành chuyên môn hoá trong việc sản xuất một mặt hàng mà họ có lợi thế tuyệt đối, sau đó trao đổi, thì cả hai quốc gia sẽ đều thu được lợi ích. Trong quá trình này, các nguồn lực sản xuất cả thế giới sẽ tăng. Sự gia tăng các sản phẩm của toàn thế giới là nhờ vào chuyên môn hóa sản xuất và sẽ được phân bổ giữa hai quốc gia theo tỷ lệ trao đổi thông qua ngoại thương.
Như vậy, trong khi những người theo chủ nghĩa trọng thương cho rằng trong thương mại quốc tế chỉ có một số quốc gia có lợi, còn một số khác bị thiệt, thì A Smith tin tưởng rằng, tất cả các quốc gia đều có lợi từ ngoại thương và đã ủng hộ rất mạnh mẽ cho các nguồn tài nguyên của thế giới nói chung được tạo ra ở mức tối đa. Tuy nhiên, ở đây có một số trường hợp đặc biệt phải loại trừ khi cần boả vệ một ngành công nghệ non trẻ.
Lợi thế tuyệt đối chỉ tập trung giải thích mối quan hệ thương mại giữa các nước phát triển. Trong khi phần lớn thương mại quốc tế là diễn ra giữa các nước phát triển. Lại không thể giải thích bằng lợi thế tuyệt đối. Trong những cố gắng để giải thích các cơ sở của thương mại quốc tế, lợi thế tuyệt đối chỉ là trường hợp của lợi thế tương đối .
4. Lý thuyết về lợi thế so sánh
Theo quy luật lợi thế so sách, nếu một quốc gia có hiệu quả thấp hơn so với các quốc gia khác trong sản xuất hầu hết các loại sản phẩm thì quốc ga đó vẫn có thể tham gia vào thương mại quốc tế để tạo ra lợi ích cho mình. Đại diện tiêu biểu cho lý thuyết này là nhà kinh tế học Anh D.Ricardo. theo ông mọi quốc gia đều có lợi khi tham gia vào phân công lao động quốc tế, bởi vì phát triển ngoại thương cho phép mở rộng khả năng tiêu dùng của một nước. Nguyên nhân chính là do chuyên môn hoá sản xuất một số sản phẩm nhất định của mình để đổi lấy hàng nhập khẩu từ các nước khác thông qua con đường thương mại quốc tế.
Những nước có lợi thế tuyệt đối hoàn toàn hơn hẳn các nước khác hoặc bị kém lợi thế tuyệt đối hơn so với các nước khác, vẫn có thể và có lợi khi tham gia vào phân công lao động quốc tế, vì mỗi nước đó đều có những lợi thế so sánh nhất định về một số mặt hàng và kém lợi thế so sánh nhất định về một số mặt hàng khác.
Vậy có thể kết luận rằng một trong những điểm cốt yếu nhất của lý thuyết lợi thế so sách là những lợi ích do chuyên môn hoá sản xuất và thương maị quốc tế phụ thuộc vào lợi thế so sánh chứ không phải lợi thế tuyệt đối .lợi thế so sánh là điều kiện cần và đủ đối với lợi ích của thương mại quốc tế.
Tóm lại : lợi ích thương mại quốc tế bắt nguồn từ sự khác nhau về lợi thế so sánh ở mỗi quốc gia, mà các lợi thế so sánh đó có thể được thể hiện bằng các chi phí cơ hội khác nhau của mỗi quốc gia, do đó lợi ích của thương mại quốc tế cũng chính là bắt nguồn từ sự khác nhau của mỗi quốc gia. Chi phí của thương mại quốc tế cũng chính là bắt nguồn từ sự khác nhau về chi phí cơ hội của mỗi quốc gia. Chi phí cơ hội cho ta biết chi phí tương đối để làm ra các sản phẩm hàng hoá khác nhau của mỗi quốc gia hay là nói cách khác khi các chi phí cơ hội ở tất cả các quốc gia đều giống nhau thì không có lợi thế so sánh và cũng không có khả năng nảy sinh các lợi ích do chuyên môn hoá sản xuất và thương mại quốc tế. Quy luật này được nhiều nhà kinh tế khác tiếp tục phát triển, hoàn thiện trở thành một quy luật chi phối động thái phát triển của thương mại quốc tế.
Lý thuyết về nguồn lực và thương mại của Hecksher – Ohlin
Chúng ta đã thấy rằng lợi thế so sánh là nguồn gốc chính của những lợi ích của thương mại quốc tế, những lợi thế so sánh do đâu mà có? Vì sao các nước khác nhau lại có chi phí cơ hội khác nhau? Lý thuyết so sánh của D.Rcardo đã không giải thích được những vấn đề trên đây. Để khắc phục hạn chế này, hai nhà kinh tế thuỷ điển là Eli Hecksher và B. Ohlin trong tác phẩm “thương mại liên khu vực và quốc tế” xuất bản năm 1933 đã phát triển lý thuyết lợi thế so sánh của D. Ricardo thêm một bước bằng việc đưa ra mô hình H-O để trình bày lý thuyết ưu đãi về nguồn lực sản xuất vốn có. Lý thuyết này đã giải thích hiện tượng thương mại quốc tế là do trong một nền kinh tế mở cửa, mỗi nước, mỗi quốc gia đều hướng đến chuyên môn hoá các ngành sản xuất mà cho phép sử dụng nhiều yếu tố sản xuất đối với nước đó là thuận lợi nhất. Nói cách khác, theo lý thuyết H-O một số nước này có lợi thế so sánh hơn trong việc sản xuất và xuất khẩu một số sản phẩm hàng hoá của mình là do việc sản xuất những sản phẩm đó sử dụng nhiều yếu tố sản xuất mà một số nước đó được ưu đãi hơn so với một số nước khác. chính sự ưu đãi về các lợi thế tự nhiên của các yếu tố sản xuất này ( bao gồm vốn , lao động, tài nguyên, đất đai, khí hậu…) đã khiến một số nước đó có chi phí cơ hội thấp hơn ( so với việc sản xuất các sản phẩm hàng hóa khác) khi sản xuất những sản phẩm hàng hoá đó.
Như vây, cơ sở lý thuyết của học thuyết H- O vẫn chính là dựa vào lý thuyết lợi thế so sánh của D. Ricardo, nhưng ở trình độ phát triển cao hơn là đã xác định được nguồn gốc của lợi thế so sánh chính là sự ưu đãi về các yếu tố sản xuất mà kinh tế học phát triển đương đại vẫn gọi là nguồn lực sản xuất vốn có, đó cũng chính là lý thuyết hiện đại về thương mại quốc tế. Sau này nó còn được các nhà kinh tế học nổi tiếng khác như Paul Samuelson, Jame William.. tiếp tục phát triển và mở rộng nghiên cứu phát triển hơn để khẳng định tư tưởng khoa học của định lý H- O hay còn gọi là quy luật H-O về tỷ lệ cân đối các yếu tố sản xuất, trước đó đã được Hecksher và Ohlin đưa ra với nội dung: một nước sẽ xuất khẩu loại hàng hoá mà việc sản xuất ra nó cần sử dụng nhiều yếu tố có lợi thế và tương đối có sẵn có của nước đó và nhập khẩu hàng hoá mà việc sản xuất ra nó cần nhiều yếu tố khan hiếm mà trong nước không có.
Tuy nhiên những khuyết điểm lý luận trước thực tiễn phát triển phức tạp của thương mại quốc tế ngày nay, song quy luật này là quy luật chi phối động thái phát triển của thương mại quốc tế và ý nghĩa chỉ đạo thực tiễn quan trọng đối với các nước phát triển như Việt nam chẳng hạn. Vì nó đã chỉ ra rằng đối với các nước này, đa số là những nước đông dân, nhiêu lao động, nhưng nghèo vốn, do đó trong giai đoạn đầu của quá trình công nghiệp hoá đất nước cần tập trung xuất khẩu những hàng hoá sử dụng nhiều lao và nhập khẩu những hàng hoá phù hợp với các lợi thế so sánh về các nguồn lực sản xuất vốn có như vậy sẽ là điều kiện cần thiết để các nước kém phát triển có thể nhanh chóng hội nhập và sự phân công lao động và hợp tác quốc tế. Đồng thời trên cở sở trên cơ sở lợi ích thương mại thu được sẽ thúc đẩy nhanh chóng sự tăng trưởng và phát triển kinh tế ở những nước này.
Chương II
Phân tích quan hệ thương mại việt nam – hoa kỳ
Đặc điểm quan hệ thương mại Việt nam – Hoa kỳ
Giai đoạn phát triển trước khi Hoa kỳ huỷ bỏ lệnh cấm vận đối với Việt nam
.1. Lịch sử quan hệ VN - HK
Trước năm 1975.
Thời kỳ trước năm 1975 Hoa kỳ đã có mối quan hệ với chính quyền Sài Gòn cũ, kim ngạch buôn bán không lớn, chủ yếu là hàng hoá nhập khẩu bằng viện trợ của Hoa kỳ để phục vụ cuộc chiến tranh xâm lược . Về xuất khẩu sang Hoa kỳ có một số mặt hàng như gỗ, cao su, hải sản – với số lượng không đáng kể.
Từ tháng 5 năm 1994, Hoa kỳ thực thi lệnh cấm vận chống miền Bắc nước ta và khi Việt nam trong tất cả các lĩnh vực thương mại tài chính tín dụng, ngân hàng, đồng thời Hoa kỳ áp dụng chế tài khống chế các nước đồng minh và các tổ chức quốc tế nhằm ngăn cản, thao túng các mối quan hệ kinh tế thương mại Việt nam.
Mặc dù bị Hoa kỳ cấm vận, song thông qua con đường trực tiếp hoặc gián tiếp Việt nam vẫn có mối quan hệ kinh tế và viện trợ phát triển với nhiều nước, nhiều tổ chức và tổ chức phi chính phủ, trong đó có Hoa kỳ, nhiều công ty Hoa kỳ gián tiếp cũng có mặt hàng hoá xuất khẩu vào nước ta.
Những năm trước 90.
Theo số liệu thống kê của Việt nam, xuất khẩu sang Hoa kỳ thời kỳ 1986- 1990 hầu như không có gì về nhập khẩu, mặc dù bị cấm vận chặt chẽ song hàng nhập khẩu từ Hoa kỳ trong giai đoạn 1986 –1990 đạt giá trị 5 triệu USD
Những năm đầu thập kỷ 90.
Bước sang thập kỷ 90 quan hệ ngoai giao cũng như quan hệ thương mại giữa hai nước Việt nam – Hoa kỳ có những bước tiến đáng kể, nỗ lực hướng tới các mối quan hệ hữu nghị hợp tác, bình đẳng cùng có lợi vì lợi ích của mỗi nước, khu vực và thế giới.
Nếu theo số liệu thống kê của Việt nam, xuất khẩu sang thị trường Hoa kỳ thời kỳ 1986- 1990 hầu như không có gì, nhưng bắt đầu từ đâu những năm 1990, Việt nam đã xuất khẩu được lượng trị giá khoảng 5.000 USD, tăng lên 9.000 USD vào những năm 1991 là 11.000 USD vào những năm 1992 và lên đến 58.000 USD vào những năm 1993. Trong thời kỳ 1986- 1990 thì Việt nam vẫn nhập khẩu từ Hoa kỳ một lượng hàng hoá tri g._.iá gần 5 triệu USD. Sau đó chỉ trong vòng 3 năm 1991-1993, trị giá lượng hàng nhập khẩu từ Hoa kỳ tăng lên đến 7 triệu USD. Cũng trong thời kỳ này, lệnh cấm vận của Hoa kỳ vẫn không ngăn cản được một số nước Châu Mỹ có mối quan hệ với Việt nam như Canada, Cuba. Giá trị kim ngạch xuất khẩu từ các quốc gia Châu Mỹ trong cả thời kỳ 1986- 1990 vẫn đạt 47,7 triệu USD, trong năm 1991-1993 đã tăng lên đến 62,6 triệu USD. Giá trị kim ngạch xuất khẩu của Việt nam sang các nứơc này còn lớn hơn: thời kỳ 1986-1990 đạt 68,1 triệu USD; trong 3 năm 1991-1993 là 73,2 triệu USD. Mặc dù vào thời điểm năm 1991 cũng có biểu hiện chao đảo; kim ngạch nhập khẩu từ Châu Mỹ đã biều hiện giảm từ 15,7 triêu USD năm 1990 xuống con 5,3 triệu USD vào năm 1991. Những ngay lập tức lại tăng vọt lên đến 26,6 triệu USD vào năm 1992 và 42.72 triệu vao năm 1993. Điều này cũng phù hợp với lộ trình hướng tới bãi bỏ câm vận của Hoa kỳ vào tháng 4 –1992, bắt đầu từ thời điểm này, Hoa kỳ cho phép các công ty của các nước xuất khẩu sang Việt nam các loại hàng hoá đáp ứng nhu cầu tất yếu. Tiếp đó cho phép các công ty Hoa kỳ tham gia đấu thầu công trình tại Việt nam ra nhưng quy định về việc cấp giấy phép buôn bán với Việt nam
Tháng 7 năm 1993 Hoa kỳ tuyên bố không can thiệp vào các tổ chức tài chính quốc tế, trước hết là quỹ tiền tệ IMF, ngân hàng thế giới WB ngân hàng phát triển Châu á ADB. Tháng 10 năm 1993 quan hệ giữa nước ta với các tổ chức tài chính quốc tế được nối lại và tháng 11 năm 1993 hội nghị các nhà tài trợ quốc tế cho Việt nam đã họp tại Paris, đại biểu Hoa kỳ đã tham dự với tư cách là quan sát viên.
2. Đặc điểm quan hệ VN - HK
Vị trí vai trò của Hoa Kỳ và Việt nam đối với nhau ngày càng trở nên quan trọng
Hoa kỳ là một quốc gia giàu với diện tích 9,2 triệu km, dân số 262 triệu người, đủ các dân tộc và màu da. Hiện nay nền kinh tế Hoa kỳ là một trong những nền kinh tế mạnh và hiện đại nhất thế giới. GDP của Mỹ năm 1999 là 9200 tỷ USD chiếm 20% tổng GDP của thế giới. Trong những năm gần đây kinh tế Hoa kỳ có tốc độ tăng trưởng khá cao và liên tục 4% năm 1999, năm 2000 là 5% trong khi thị trường Nhật bản và Châu Âu thì tăng trưởng chậm. Tất cả những điều đó cho thấy rằng nhu cầu tiêu dùng của người Mỹ vẫn sẽ tiếp tục tăng cao, mặc dù trước đây họ vốn đã là một thị trường tiêu thụ khổng lồ. Năm 2000, nhập khẩu của Hoa kỳ đã đạt tới con số 1.220 tỷ USD, trong khi đó nhập siêu lên đến 267 tỷ USD. Có nhiều nhà phân tích đã cho rằng, nền kinh tế Hoa kỳ là một nền kinh tế đang thách thức với lý luận chu kỳ kinh tế truyền thống và ký luận kinh tế học phương Tây. Ví dụ như tỷ lệ lạm phát thấp và tỷ lệ thất nghiệp thấp không cùng tồn tại lâu dài. Nhưng kinh tế Hoa kỳ lại đang trong tình trạng tỷ lệ lạm phát thấp và tỷ lệ thất nghiệp thấp. Do nền kinh tế Hoa kỳ đạt kỷ lục 102 tháng liên tiếp giữ được phát triển, nó đã cải biến mối quan hệ tăng tốc độ kinh tế, thất nghiệp, lam phát. Do đó, kinh tế Hoa kỳ tràn đầy sức sống, nó thúc đẩy kinh tế thế giới phát triển lành mạnh. Hầu như hai phần ba tổng sản lượng kinh tế của đất nước bao gồm hàng hoá và dịch vụ là do cá nhân mua cho việc sử dụng các nhân. Một phần ba còn lại là do Chính phủ và các doanh nghiệp mua. Do tỷ lệ này đôi khi nền kinh tế Hoa kỳ có đặc trưng như là - nền kinh tế tiêu dùng. Với sức mua như vậy, thị trường Mỹ có thể hiện tiêu thụ nhiều sản phẩm với khối lượng lớn, đặc biệt đã nhiều năm nay, Trung quốc và các nước Nam Mỹ là những bạn hàng quan trọng của Hoa kỳ trong việc cung cấp cho nước này những sản phẩm sử dụng nhiều lao động và các sản phẩm kỹ thuật cao, những dịch vụ với công nghệ tiên tiến để thu lợi lớn thì các sản phẩm trên được khuyến khích nhập tối đa. Như vậy, Hoa kỳ là miền đất hứa đối với các sản phẩm của Việt nam, các sản phẩm có lợi thế nhờ nguồn lực lao động rẻ. Chúng ta có thể thu được lợi ích rất lớn từ thị trường này, tuy nhiên chúng ta cũng gặp nhiều khó khăn đó là phải cạnh tranh với những đối thủ cũng có những lợi thế như ta, ví dụ như Trung quốc, chúng ta đi sau Trung quốc ngay trong việc ký kết Hiệp định thương mại với Hoa Kỳ, do đó không còn cách nào khác là phải nâng cao vị thế của hàng hoá Việt nam trên thị trường Hoa kỳ nhằm cạnh tranh với hàng Trung quốc và cùng với nhiều mặt hàng khác của những nước trong khu vực đối với chúng ta. Mặc dù trước kia chúng ta chưa giành được tối huệ quốc MNF đối với tất cả các mặt hàng của ta xuất sang thị trường Hoa kỳ hay quy chế đối sử bình thường của Hoa kỳ cho nên nhiều mặt hàng của nước ta vẫn chịu mức thuê cao khó có khả năng cạnh tranh trên thị trường Hoa kỳ. Tuy nhiên một số mặt hàng xuất sang Hoa kỳ không có sự phân biệt giữa thuế tối huệ quốc và phi tối huệ quốc, nên nhiều doanh nghiệp Việt nam đã tận dụng để đẩy mạnh xuất khẩu sang Hoa kỳ những mặt hàng như Cà phê, Tôm đông lạnh, hạt tiêu. Giờ đây, mặc dù Hiệp định thương mại Việt Mỹ đã được ký kết nhưng Mỹ vẫn gây khó dễ cho ta trong xuất khẩu những mặt hàng chủ lực sang Mỹ. Bên cạnh đó cũng thấy rằng Hoa kỳ là một cường quốc thương mại hàng đầu với 13,5 % thị trường xuất khẩu của thế giới và 18% thị trường nhập khẩu thế giới. Hiện nay Hoa kỳ không chỉ là một nước công nghiệp phát triển nhất thế giới mà cũng là một quốc gia đứng đâù về sản xuất nông nghiệp, chiếm 40% xuất khẩu ngũ cốc của thế giới, mỗi năm xuất khẩu 50 tỷ USD sản phẩm nông nghiệp, đồng thời cũng là nước xuất khẩu gạo và thuỷ sản lớn trên thế giới chiếm 72% thị trường đậu tương thế giới, 70% thị trường ngô, chi phối thị trường nông nghiệp thế giới.
Bảng5 Thống kê kim ngạch nhập khẩu một số mặt hàng của Hoa kỳ trong năm 2001 ( ĐV tỷ USD)
Mặt hàng
Kim ngạch
Mặt hàng
Kim ngạch
Thịt
3
Phụ liệu quần áo dệt may
35
Hải sản
6.5
Ngọc trai
19
Rau quả
5
Kính
3.5
Ngũ cốc và chế phẩm từ ngũ cốc
14
Sắt thép và sản phẩm từ sắt thép
23
Hạt có dầu
0.9
Đồng và sản phẩm từ đồng
4
Dỗu động thực vật
1.5
Dụng cụ và sản phẩm nhỏ tứ kim loại
4
Đồ uống có cồn và không cồn
6
Lò phản ứng hạt nhân nồi hơi, máy móc thiết bị
143
Thuốc lá
1.6
Máy móc thiết bị điện tử
122
Nhiên liệu, dầu mỡ
77
Phương tiện vận tải
114
Hoá chất vô cơ
6
Thiết bị quang học
9
Hoá chất hữu cơ
19
Đồ chơi, dụng cụ thể thao
26
Dược phẩm
6
Đồ dùng bằng gỗ
16
Phân bón
1.5
Nhôm
14
Nhựa
14
Nicken
7
Hoá phẩmkhác
6
Sứ
1.5
Cao su
8
Giày dép
3
Gỗ và đồ gỗ
12
Da
15
Giấy và bột gỗ
15
Cà phê
7.5
Sách báo
3
4
Sợi
8
Nguồn ( theo số liệu của Bộ thương mại Hoa kỳ)
Về thương mại dịch vụ, Hoa kỳ cũng là nước dẫn đầu thế giới, năm 2000 Hoa kỳ xuất khẩu 271,5 tỷ USD các loại dịch vụ chiếm 19,2% thị phần của toàn thế giới và nhập khẩu 181 tỷ USD chiếm 12,4 % thế giới. Có thể nói Hoa kỳ là một thị trường quan trọng hàng đầu đối với tất cả các nước nói chung và nước ta nói riêng. đặc biệt là nước ta đang theo đuổi chính sách thương mại hướng xuất khẩu.
Đối với Hoa kỳ, chính sách ngoại thương nói riêng mở rộng ảnh hưởng của Hoa kỳ ra bên ngoài, mở rộng thị trường ngoài nước. Các chính quyền Hoa kỳ chọn Tây Âu Canada, Nhật bản làm trong điểm. Hiện nay, Hoa kỳ coi NAFTA là nền tảng để mở rộng thị trường Mỹ la tinh, đồng thời coi Châu á Thái Bình Dương là hạt nhân mới của mình, Hoa kỳ nhấn mạnh sức hấp dẫn của khu vực là tài nguyên thiên nhiên khổng lồ, lực lượng lao động dồi dào, nền kinh tế tăng trưởng cao và thị trường tiêu thụ khổng lồ. Khu vực này chiếm 40% thương mại của Hoa kỳ so với thương mại của toàn thế giới, bằng 1,5 lần thương mại của Hoa kỳ với EU. Hoa kỳ chủ trương củng cố các thị trường của hoa kỳ đã có, xâm nhập và mở rộng thị trường mới. Năm 2000 chính quyền Mỹ đưa ra khái niệm 10 thị trường mới nổi lên làm trong điểm phát triển thị trường. Tro ng đó ASEAN, Trung quốc, Hồng kông, Đài loan, ấn độ, Hàn quốc, Autralia, Achentina, Meixco. Trong chiến lược này, quan hệ Hoa kỳ – ASEAN hết sức được chú trọng bởi theo nhiều chuyên gia Hoa kỳ cho dự bao năm 2010 với 680 triệu dân, việc Hoa kỳ bình thường hoá quan hệ thương mại và ký kết Hiệp đinh thương mại với Việt nam cũng không năm ngoài chiều hướng trên .đối với Hoa kỳ Viêt nam cũng lổi lên như thị trường nhiều tiềm năng chưa khai thác cuối cùng, có vai trò và vị trí cầu nối giữa vùng Đông Bắc á ( trọng điểm của chính sách tương lai của Hoa kỳ trong khu vực Châu á Thái Bình Dương) vì thế Hoa kỳ không thể không chú ý
Đối với Hoa kỳ, Châu á có ý nghĩa then chốt đối với đời sống kinh tế cũng như đối với cuộc sống hàng ngaỳ của ngươì dân Hoa kỳ. Đó cũng là vùng đất béo bở nhất xét từ góc độ bảo đảm việc làm và xuất khẩu của người dân Mỹ. Hoa kỳ đã từ lâu quan tâm đến khu vực Đông Nam á, bởi vì 80% thiếu hụt từ ngoại thương của Hoa kỳ lại thuộc về 9 nước ở khu vực Đông Nam á và Đông á để tạo thế đối trọng với Trung Quốc và Nhật bản, cho phép Hoa kỳ có thể kiểm soát hiệu quả tiềm lực quân sự của hai nước này và kinh tế cuả cả khối cũng như vị thế của Việt nam trên thị trường quốc tế cũng không nằm ngoài tính toán chiến lược của Việt nam trong việc mở rộng quan hệ thương mại với Hoa kỳ.
Trong bối cảnh đó, vị trí địa lý KT- CT của Việt nam đang được các nước lớn và trung tâm kinh tế thế giới ngày càng coi trọng và dần dần trở thành khâu quan trọng trong chiến lược của các trung tâm này. Quan hệ thương mại Việt nam đang nằm trong chiến lược thâm nhập vào thị trường mới nổi lên của Hoa kỳ ở khu vực này song một nước Việt nam đổi mới mở cửa đa dạng hoá, đa phương hoá các quan hệ đối ngoại, hội nhập vào khu vực và thế giới là không trái với tính toán chiến lược của Hoa kỳ ở khu vực này. Hơn nữa, Việt nam với thị trường nguyên liệu của Việt nam có nhiều có các cảng biển, mức sống của dân cư đang ngày càng gia tăng, cùng với đó là sự gia tăng nhu cầu làm cho Việt nam đang trở thành một trong thị trường đáng kể, là đối tượng đáng quan tâm tranh giành trong cuộc săn lùng thị trường mới của Hoa kỳ.
Việc ký hiệp định thương mại Việt nam – Hoa kỳlà những sự kiện quan trọng đối với cả hai bên và đặc biệt đối với nước ta trong giai đoạn hiện nay nhằm tạo điều kiện cho buôn bán hai nước phát triển. Mục tiêu hai nước trong mối quan hệ có thể khác nhau về chiếm lược nhưng có những điểm tương đồng cơ bản là lấy sự phát triển thương mại là chính, tạo dựng các cơ hội tham gia thị trường của nhau trên cơ sở bình đẳng cùng có lợi.
Hoa kỳ là một thị trường quan trọng cho nhiều nước trên thế giới, có tiềm năng lớn tiêu thụ. Nhiều nước trên thế giới coi đây là thị trường gây ra các động lực lớn cho phát triển kinh tế của mình. Sau khi tham gia vào thị trường EU thì bước tiếp theo của Việt nam là phải tham gia được thị trường Bắc Mỹ. Đây là nhiệm vụ chiến lược quan trọng trong hệ thống chính sách của nước ta. Để giải quyết vấn đề này thì cần phải đâỷ mạnh quan hệ thương mại Việt nam – Hoa kỳ.
Quan hệ thương mại giữa một nền kinh tế thị trường phát triển với một nền kinh tế đang trong quá trình chuyển sang nền kinh tế thị trường, xuất phát điểm thấp và đang trong thời kỳ đâù quá trình CNH.
Đây là vấn đề dễ thấy nhất, song lạị là vấn đề hết sức quan trọng trong việc tạo lập các quan hệ hợp tác đích thực. Bởi lẽ, mọi chính sách kinh tế thương mại của các nền kinh tế này. một ví dụ dễ thấy là sau khi binh thường hoá quan hệ Thương mại Việt nam – Hoa kỳ được mọi nền kinh tế trên thế giới coi là hình mẫu của sự phát triển và lợi ích của họ gắn liền với lợi ích của nền kinh tế Hoa kỳ. Nhờ thị trường Hoa kỳ, các nước NICS Đông á và ASEAN đều đã lần lượt thực hiện thành công các tiến trình CNH của mình.
Tầm vóc và động thái phát triển của nền kinh tế Hoa kỳ như vậy thừa nhận là đã vượt xa quá so với Việt nam. Khi nền kinh tế Hoa kỳ đang dẫn dắt các nền kinh tế quốc tế bước vào giai đoạn CNH thứ tư thì Việt nam mới bắt đầu bước vào những chặng đường đầu của giai đoạn CNH. Xuất phát điểm muộn, thấp lại vừa mới chuyển đổi kinh tế, sự phù hợp tác quan hệ giữa người khổng lồ và chú bé tí hon sẽ khó khăn, thường là rất không bình đẳng và trong ngày một ngày hai, nền kinh tế Việt nam sẽ không thể thích nghi được mô phỏng hoặc chịu sự dẫn dắt của Hoa kỳ và các tổ chức quốc tế mà phần lớn luật chơi được được mô phỏng hoặc chịu sự dân dắt của Hoa kỳ. Song không thể nói nền kinh tế Việt nam với những nền tảng hiện nay là quan trọng đối với nền kinh tế Hoa kỳ, kể cả vấn đề tài nguyên khi mà các tài nguyên chủ lực như vàng, than, sắt, dầu thô, của Hoa kỳ đều có trữ lượng lớn vào loại nhất nhì thế giới. Việc Hoa kỳ nối lại quan hệ thương mại giữa hai nước là nhằm tăng cường ảnh hưởng của họ đến Đông Nam á về mọi phương diện. Hoa kỳ muốn tạo dựng hình ảnh mới của mình ở khu vực này sau thời kỳ chiến tranh lạnh bằng việc thể hiện vai trò dẫn dắt kinh tế của mình trong APEC. Do vậy, mặc dù Hoa kỳ chưa đánh giá hết lợi thế của một nền kinh tế nhỏ bé như Việt nam, trong chiến lược Châu á - Thái Bình Dương. Điều này đặt ra cho phía Việt Nam trong phương hướng phát triển quan hệ thương mại với Hoa kỳ, quan hệ lợi ích phải đặt cái nhìn dài hạn, rộng lớn của sự hội nhập. Càng hội nhập thực sự vào khu vực, Việt nam càng trở lên sáng giá và có nhiều ưu thế trong tiến trình phát triển quan hệ thương mại giữa hai nước.
Quan hệ thương mại giữa hai nước có sự khác biệt về chính sách của nền kinh tế giữ vai trò chủ đạo và dẫn dắt xu thế tự do thương mại với một nước đang phát triển cận xu thế này .
Mỹ là một nền kinh tế theo xu hướng tự do hoá thương mại, thúc đẩy mậu dịch tự do. Đây là động thái chính trong các chính sách thương mại quốc tế của Mỹ trong những năm tới. Để tham gia vào quan hệ thương mại Việt nam – Hoa kỳ thì chúng ta cần phải đáp ứng những yêu cầu của Hoa kỳ như trao cho Hoa kỳ thuế tối huệ quốc, dỡ bỏ những hàng rào bảo hộ, thực thi chính sách thị trường tự do rõ ràng.Đây là những nguyên tắc mà Việt nam đều thấy cần thiết phải áp dụng để chuyển đổi nền kinh tế của mình. Song là nước nghèo, nếu không duy trì sự phân biệt đối xử, không bảo hộ sản xuất trong nước bằng tăng thuế, không có sự ưu đãi các doanh nghiệp trong nước Việt nam có thể duy trì được sự phát triển ổn định của mình không. Chúng ta coi đây là một vấn đề nan giải mà hai cách tiếp cận của hai nền kinh tế tất yếu gặp nhau. Đây là một trở ngại lớn trong thương mại giữa hai nước. Tuy nhiên trong Hiệp định thương mại vừa qua thì Hoa Kỳ đã trao cho ta những ưu tiên về mặt thời gian trong việc thực thi những nguyên tắc đó.
Quan hệ thương mại Việt nam- Hoa kỳ chịu ảnh hưởng của sự khác biệt về quan điểm chính trị trong nhìn nhận quá khứ
Trong điều kiện ngay nay, kinh tế và chính trị là những nội dung không thể tách biệt. Vì một bất đồng nhỏ về chính trị, các quan hệ kinh tế có thể bị đổ vỡ và ngược lại, từ những hiện tượng xung đột về kinh tế, các quan hệ chính trị có thể bị biến dạng xấu đi. Nhìn chung, người ta vẫn thường viện dẫn các vấn đề chính trị bất đồng được nguỵ trang dưới những lý do kỹ thuật để công khai thực hiện các công cuộc trừng phạt về kinh tế.
Số lượng việt kiều tại Mỹ
Hiện nay, lực lượng những người Việt nam yêu nước đang sống và làm việc tại Mỹ là khá đông đảo và nhiều người đang chiếm giữ những vị trí quan trọng trong các công ty của Mỹ. Với trình độ khoa học cao do được tiếp xúc nền công nghệ hiện đại công thêm với sự am hiểu biết về luật pháp của Mỹ thì đây là nguồn lực đáng kể để doanh nghiệp Việt nam chú ý thu hút và tận dụng. Điều quan trọng là Nhà nước nên có chính sách thích để khuyến khích Việt kiều đầu tư vào các lĩnh vực mà Việt nam có khả năng xuất khẩu vào thị trường Hoa kỳ.
Phân tích thực trạng quan hệ Việt nam – Hoa kỳ
1. Kim ngạch xuất nhập khẩu giữa Việt nam và Hoa kỳ
Giai đoạn sau khi cấm vận được huỷ bỏ 1995
Ngày 3-2-1994 Tổng thống B. Clinton tuyên bố bãi bỏ cấm vận có hiệu lực 34 công ty Hoa kỳ lập văn phòng đại diện ở Việt nam từ cuối năm 1993 nhanh chóng triển khai hoạt động 11/7/1995 hai nước thiết lập mối quan hệ ngoại giao. Từ ngày 21 đến 26 tháng 9 năm 1995 diễn ra vòng đàm phán thương mại đâù tiên giữa đại diện hai nước đã mở ra cơ hội thúc đẩy hoạt động ngoại thương giữa hai nước, tuy tỷ lệ tăng chưa cao nhưng vẫn ở mức ổn định. Sau đây là bảng số liệu thống kê tình hình thương mại giữa hai nước qua một số năm
Bảng1: Tình hình XNK của Việt nam – Hoa Kỳ (tính triệu USD)
Năm
Xuất Khẩu
Nhập Khẩu
Tổng Kim Ngach
1994
50.4
172.0
222.4
1995
200
252.0
452.0
1996
319
289.0
608
1997
388.2
278.0
666.2
1998
553.4
269.0
822.4
1999
601.9
277.3
879.2
2000
283.2
291.1
882.1
2001
35.5
28.3
872.8
( nguồn : tạp chí thời báo kinh tế số 2 năm 2001)
Năm 1999 so với năm 1994, xuất khẩu tăng cường gấp 12 lần, bình quân tăng 64,2 cao gấp 2,8 lần tốc độ tương ứng của cả nước : nhập gấp trên 1,6 lần bình quân tăng 10% thấp hơn tốc độ tăng 14,8% của cả nước. So với tổng kim ngạch xuất khâủ và tổng kim ngạch nhập khẩu thì xuất khẩu sang Hoa kỳ từ chỗ chỉ chiếm 1,2% năm 1994 đã tăng lên 5,2 % năm 1999.
Nhìn vào bảng trên ta thấy tốc độ tăng của thị trường là cao tuy nhiên nếu xét về số tuyệt đối thì nó còn khiếm tốn so với sự so sánh với khả năng của cả hai nước.
Đối với Việt nam, ta hãy xem kim ngạch xuất khẩu của cả hai nước trong những năm sau đây:
Bảng 2: Km ngạch XNK của Việt nam trong giai đoạn 1995- 2001( triêu USD)
Năm
1995
1996
1997
1998
1999
2000
2001
XK
5.459
7.258
9.145
9.861
11.523
14.342
14.214
NK
8.155
11.144
11.622
11.494
11.636
14.300
14.100
( Nguồn : tạp trí kinh tế phát triển số 5 năm 2001)
Qua hai bảng số liệu trên cho thấy rằng kim ngạch xuất khẩu của Việt nam với Mỹ còn chiếm một phần nhỏ trong khả năng của Việt nam. Thị trường Mỹ mới chỉ chiếm có khoảng 6% trong tổng số kim ngạch xuất khẩu của Việt nam, trong khi đó kim ngạch của Việt nam sang thị trường Châu Âu26% , Châu á 59 %, Châu úc 6%, Châu Phi và các nơi khác 3%.
Vấn đề naỳ có thể giải thích bởi lý do đó là trong quan hệ với Hoa kỳ hiện tại chúng ta chưa giành được quy chế tối huệ quốc đối với tất cả các mặt hàng mà Việt nam xuất sang thị trường Mỹ cho nên sức cạnh tranh của chúng ta chưa cao và do đó hàng hoá thâm nhập vào thị trường Hoa Kỳ sẽ gặp rất nhiều khó khăn, do vậy về con số tuỵêt đối còn rất khiêm tốn.
Nhưng vừa qua, chúng ta đã mới ký kết được hiệp định thương mại với Hoa kỳ và theo phân tích của các nhà nghiên cứu thì có thể kim ngạch xuất nhập khẩu giữa hai nước sẽ tăng lên con số 800 triệu USD trong năm 2001và trong vài năm tới có thể đạt tới con số 3 tỷ USD do mức thuế sẽ giảm từ 40% xuống còn 3%.
Ngoài ra chúng ta cũng nhận thấy rằng mặc dù Hoa kỳ là một nhập siêu, nhưng Việt nam còn chiếm một thị phần quá nhỏ bé trong thị trường Mỹ chỉ có 0.06% đứng thứ 76 trong tổng số các nước tham gia buôn bán với Hoa Kỳ. Cụ thể, thị phần của một số nước Đông á tại Hoa kỳ năm 2001 như sau:
Bảng 3: thị phần hàng xuất khẩu của một số nước Đông á vào thị trường Hoa kỳ ( tính %)
Nhật bản
Trung quốc
Hồng Kông
Đài loan
Malaisia
Singapore
Thái lan
Philipines
13.24%
7.95%
1.16%
3.64%
2.07%
1.97%
1.48%
1.3%
Nguồn thời báo kinh tế số 19 năm 2000
Bảng 4 : số liệu kim ngạch xuất khẩu một số sản phẩm chính của Việt nam sang thị trường Hoa kỳ qua các năm (tính triệu USD)
Mặt hàng
1997
1998
1999
2000
2001
Hải sản
42.5
81.6
125.6
76.9
89.6
Dầu thô
34.6
79.2
99.6
38.41
53.2
Cà Phê
90.0
125.2
59.2
22.5
65.8
Dệt may
20.0
26.3
34.7
21.1
35.4
Rau quả
11.6
2.6
3.2
9.12
10.1
Quần áo len
26.618
26.343
34.707
12.304
25.9
Giạo
63.5
39.1
48.35
41.26
45.25
Năng lượng
36.663
79.216
34.707
51.65
56.67
Giày dép
76.3
97.2
102.6
34.1
32.65
Nguồn: tạp trí kinh tế phát triển số 6 năm 2001
Hiện nay, Hoa kỳ đang là thị trường nhập khẩu cà phê lớn nhất của Viêt nam , bên cạnh đó Hoa kỳ đã trở thành nước cạnh tranh đối với EU và Nhật bản trong việc nhập khẩu hải sản của Việt nam năm 2001 mức nhập khẩu thuỷ sản vào Hoa kỳ tăng gấp 2,5 lần so với cùng kỳ năm ngoái.
Những mặt hàng trên là những mặt hàng chủ lực của chúng ta. Nó có những lợi thế so và có khả năng cạnh tranh với các nước trong khu vực. Đặc biệt là sau khi chúng ta nhận được MNF. Những mặt hàng naỳ có ý nghĩa quan trọng trong việc đóng góp vào sự ra tăng trưởng nền kinh tế nước ta cũng như giải quyết được rất nhiều công ăn việc làm trong nước. Ví dụ như ngành dệt may đang duy trì công ăn việc làm có 4 triệu lao động.
Tuy nhiên chúng ta cần thấy rằng nhu cầu nhập khẩu của Hoa kỳ đối với những măt hàng trên là rất lớn. Số liệu đã đươc ghi đầy đủ ở chương i qua số liệu đó cho thấy sản phẩm của Việt nam chiếm một thị phần nhỏ nhu cầu nhập khẩu của Hoa kỳ. Điều này đặt ra chung ta một câu hỏi là ngoài lý do phía Hoa kỳ gây nhiều khó khăn ra( mức thuế MNF chưa được áp dụng đối với tất cả hàng hoá của VN xuất sang Hoa kỳ) thì lý do gì nào khác? câu trả lời đó là có thể do vấn đề chất lượng hàng hoá và vấn đề tiếp cận thị trường và đáp ứng những yêu cầu của thị trường của các doanh nghiệp nước ta không tốt.
Đối với những mặt hàng ta nhập từ Hoa kỳ chủ yếu tập trung vào phân bón máy móc, máy bay và thiết bị bay, ôtô, thiết bị điện tử…. Nhình chung các mặt hàng xuất khẩu của Hoa kỳ sang Việt nam cũng khá đa dạng phong phú, từ tài liệu sản xuất đến tư liệu tiêu dùng, chứng tỏ tiềm năng của một thị trường khoảng 80 triệu dân mà Hoa kỳ không thể bỏ qua trong chiến lược phát triển thương mại toàn cầu của mình. Những cơ cấu mặt hàng nhập khẩu này rất phù hợp với quá trình hiện nay của nước ta đó là nhập khẩu những máy móc, công nghệ để tiến hành công nghiệp hoá.
2. Các mặt hàng xuất khẩu chính của Việt nam sang thị trường Hoa kỳ
Nhóm mặt hàng nông sản ( Cà phê, chè..)
Nhóm mặt hàng này do thị trường Mỹ có nhu cầu cao và mức thuế nhập khẩu bằng 0 hoặc rất thấp nền hàng Việt nam đã vào gần đúng với vị trí so với khả năng của mình nên trong thời kỳ 2000 – 2010 sẽ không còn ở mức tăng vọt như mấy năm vừa qua. Ngoài ra, các mặt hàng này phụ thuộc nhiều vào sản lượng, thời tiết và giá ở Việt nam và trên thế giới. Tuy nhiên, định hướng xuất của nhóm các mặt hàng bình quân có thể tăng 15% năm và tới năm 2010 dự kiến tăng gấp đôi năm 1998. đạt kim ngạch xuất khẩu khoảng 350 triệu.
Cà phê: Tổng nhập khẩu của Hoa kỳ đối với các loại cà phê năm 1999 là 1,612 tỷ USD năm 2000 tăng bình quân 17% năm . Dự kiến trong 10 năm tới nhu cầu nhập khẩu của Hoa kỳ sẽ tăng khoảng 10% / năm
Việt nam bắt đầu xuất khẩu càphê vào Hoa kỳ từ năm 1994 và ngay trong năm đầu này đạt 32 triệu USD. Năm sau đó xuất khẩu tăng vọt lên 145,2 triệu USD. Các năm 1996, 1997 suy giảm và năm 19998 tăng trở lại và đạt 142,5 triệu USD, đứng thứ 7 về giá trị trong số các nước xuất khẩu cà phê vào Mỹ. Từ năm 1994-1998 tăng 350%, bình quân tăng 70% / năm. năm 1998 do giá cà phê của thế giới sụt đáng kể nên giá trị cà phê xuất khẩu vào Hoa kỳ chỉ đạt 59,2 triệu USD. Năm 1998 nhập khẩu cà phê từ Việt nam chỉ chiếm 4,4 % tổng nhập khẩu cà phê hàng năm của Việt nam. Việt nam là nước hiện đang là nước xuất khẩu Cà phê đứng thứ 2 thế giới với sản lượng năm 2001 đạt 900.000 tấn( chủ yếu là Robusta và một số ít Arabica), sự tăng vọt này là do những năm gần đây nhà nước khuyến khích và nhân dân nhận thấy trồng cà phê có lãi cao nên mở mang thêm nhiều diện tích trồng cà phê. Tuy nhiên, mức tăng về diện tích trong những năm tới sẽ không còn nhanh như những năm vừa qua do nhà nước hạn chế phá rừng đầu nguồn để trồng cà phê đồng thời giá cà phê trên thế giới trong những năm qua liên tục giảm. ngoài ra, do thời vụ cà phê của các nước khác cũng tăng giảm thất thường nên sẽ ảnh hưởng nhiều đến giá cà phê thế giới.
Hạt tiêu hàng năm Hoa kỳ nhập khẩu số lượng lớn hạt tiêu chưa xay và đã xay. Inđonexia và ấn độ là nước xuất khẩu hạt tiêu lớn nhất vào Hoa kỳ, năm 2000 Indonexia xuất khẩu 92,6 triệu USD, ấn độ xuất khẩu 89,6 triệu USD. Mặt hàng này Việt nam thâm nhập vào thị trường Hoa kỳ chậm hơn so với mặt hàng cà phê những năm 1997 đã đánh dấu sự tăng nhanh đột xuất về giá trị xuất khẩu 1999 đã đạt 6,5 tỷ USD tăng 360% . sự tăng vọt này do các thương nhân Mỹ tăng cường nhập khẩu hạt tiêu thẳng từ Việt nam và giảm nhập qua các công ty trung gian nước ngoài.
Trong những năm tới khả năng tăng xuất khẩu mặt hàng này vẫn sẽ cao vì hiện nay đứng trên Việt nam về xuất khẩu mặt hàng này là Trung quốc, Tây Ba Nha là những nước không có nhiều hạt tiêu như Việt nam. Năm 2000 xuất khâủ hạt tiêu vào thị trường Hoa kỳ đạt 8 triệu USD và các năm tăng bình quân hàng năm có thể tăng từ (25-30)% vừ dự kiến đạt khoảng 30 triệu USD vào năm 2010.
Chè các loại: hàng năm Hoa kỳ nhập khẩu các loại chè xanh và chè đen, trung bình 130 triệu USD/ năm. hiện nay mức tiêu thụ chè đen ở Mỹ ngày càng tăng lên, thay thế dần một phần tiêu thụ cà phê. Nước xuất khẩu chè vào Hoa kỳ nhiều nhất là Arhentina.
Giai đoạn 2000-2010 Việt nam có thể tăng đều đặn 20% / năm, nếu tăng được xuất khẩu trực tiếp và có thể đạt 3 triệu USD vào năm 2010. nếu như có sự đầu tư bao tiêu sản phẩm của các sản phẩm của các công ty Hoa kỳ thì có thể đạt 6 triệu USD
Nhóm hàng hải sản
Hoa kỳ là nước xuất khẩu hải sản lớn nhất thế giới( trong đó trên 60% xuất khẩu sang Nhật bản) và cũng là nước nhập khẩu lớn thế hai thế giới sau nhật bản. Năm 2000, Hoa kỳ nhập 8,9 tỷ hải sản các loại. Các loại hải sản xuất khẩu chính của Hoa kỳ là: cá hồi, cua, trứng cá và surimi. Bốn lại này thường chiếm 60% trị giá xuất khẩu và 50% về trọng lượng hải sản xuất khẩu của Hoakỳ. Các hải sản nhập khẩu chính vào Hoa kỳ là nhóm có vỏ cứng gồm: tôm, tôm hùm, sò, cua, trong đó tôm có giá trị lớn nhất, hàng năm nhập khẩu trên 2 tỷ USD.
Hàng năm trung bình Hoa kỳ phải nhập một lượng thuỷ sản giá trị khoảng 2,5 tỷ USD từ các nước châu á vậy mà cho đến năm 2000 giá trị xuất khẩu của Việt nam mới là 1,15 % giá trị nhập khẩu của Mỹ từ các nước châu á và khoảng 0,42% giá trị nhập khẩu thuỷ sản của Hoa kỳ từ tất cả các nước trên thế giới. Vì vậy, đây là thị trường vô cùng rộng lớn và đầy triển vọng đối với ngành nuôi trồng và đánh bắt thuỷ sản của Việt nam.
Nguồn tài nguyên thuỷ sản phong phú và đa dạng tạo ra một lợi thế so sánh của đánh bắt và nuôi trồng thuỷ sản của Việt nam so với các nước trong khu vực. Tuy nhiên, do những hạn chế về trình độ quản lý cũng như trình độ công nghệ mà việc khai thác và nuôi trồng thuỷ sản thời gia qua đã không đạt được những hiệu quả như mong muốn gây ra việc lạm sát tài nguyên ven bờ cũng như tàn phá rừng ngập mặn để nuôi tôm và tàn phá môi trường sinh thái và gây hậu quả có thể rất nghiêm trọng đến việc duy trì nguồn tài nguyên thuỷ sản về lâu dài. Viêt nam bắt đầu xuất khẩu thuỷ sản sang thị trường Hoa kỳ vào năm 1994 với giá trị 5,8 triệu USD, đến năm 2000 tăng gấp 14 lần so với giá trị hải sản nhập khẩu vào thị trường Hoa kỳ. Các sản phẩm chính của Việt nam xuất khẩu sang thị trường Hoa kỳ là tôm và cua đông lạnh. Riêng tôm , năm 1999 đạt 62,5 triệu USD chiếm 78 % kim ngạch và tăng 76% so với năm 1997. hiện nay Việt nam đứng thứ 9 trong bảng xếp hạng các nước xuất khẩu tômg và thị trường Hoa kỳ, đứng thứ nhất là Tháilan với giá trị 715 triệu USD trong tổng số 2,64 tỷ USD tôm nhập khẩu vào thị trường Hoakỳ
Hàng dệt may:
Theo thống kê của thế giới, Hoa kỳ luôn đứng đầu thế giới về nhập khẩu hàng dệt may và hàng may mặc. Nếu gộp các loại hàng dệt may mặc. Nếu gộp các loại hàng dệt may nhập khẩu vào thị trường Hoa kỳ thì trong năm 1999 kim ngạch nhập khẩu mặt hàng này đạt 6,6 tỷ tổng kim ngạch nhập khẩu của Hoa kỳ.
Hiện nay, hàng dệt may Việt nam xuất khẩu vào thị trường Hoa kỳ mới chỉ có 8 cat: 331,338,340,345,438,438,444,636,644 và mới chỉ có hàng may chứ chưa có hàng dệt. Năm 1999, xuất khẩu của Việt nam vào Hoa kỳ mới đạt gần 30 triệu USD. Việt nam chủ yếu xuất sang Mỹ một số mặt hàng dệt thoi – găng tay, sơ mi trẻ em, hàng dệt kim: sơ mi trẻ em, sơ mi nam, sơ mi nữ…. Mặc dù Mỹ có nhu cầu về mặt hàng dệt kim lớn nhưng Việt nam chưa xuất khẩu được nhiều hàng dệt kim sang thị trường này do mức chênh lệch và thuế suất được nhiều hàng dệt kim sang thị trường này do mức chênh lệch và thuế suất đối với các nước được hưởng GSP và NTR cao hơn cũng như sự khác biệt về tiêu chuẩn sợi dệt với sợi dệt và quy trình ráp sản phẩm.
Những mặt hàng may mặc của Việt nam vào được thị trường hoa kỳ trong thời gian qua phần lớn là do các công ty nước ngoài hiện đang gia công ở Việt nam để xuất khẩu đi EU, Nhật Bản, Đài loan… và một số công ty mới của hoa kỳ hoặc của các nước khác.
Lượng hàng các công ty may xuất khẩu của Việt nam tự lo nguyên liệu, bán thành phẩm, gọi là bán FOB còn rất hạn chế. Đên nay trong nước đã có nhiều liên doanh, xí nghiệp có sản phẩm chất lượng cao nhưng chủ yếu lại vẫn do các công ty nước ngoài đặt hàng cho các xí nghiệp này lấy nguyên liệu để đưa cho các công ty may Việt nam gia công các đơn hàng của mình.
III. Đánh giá cơ hội và thách thức trong quan hệ TMQT giữa VN và HK
Ngày 13/7/2000, Hiệp định thương mại Việt nam – Hoa kỳ đã được ký kết. Việc ký kết Hiệp đinh này là thể hiện sự cố gắng rất lớn giữa hai nước trong thời gian qua với thái độ kiên định đúng đắn đầy thiện chí của ta và xuất phát từ những tính toán về lợi ích chính trị – kinh tế của Mỹ, đồng thời cũng mở ra một giai đoạn mới trong quan hệ hai nước.
Trang trước – bước khởi đầu dài muộn nhưng đạt kết quả đáng kể
Chiến tranh đã kết thúc từ những năm 1975 . Mỹ thực hiện chính sách cấm vận đối với Việt nam mãi đến 14/12/1992, chính phủ Bus mới cho phép các công ty Mỹ mở văn phòng đại diện tại Việt nam để thực hiện những giao dịch cần thiết tiến tới ký kết hợp đồng chuẩn bị cho ngày bãi bỏ lệnh cấm vận đối với nước ta. 3/2/1994 Tổng thống B .Clintơn tuyên bố bãi bỏ lệnh cấm vận có hiệu lực 34 công ty Mỹ lập văn phòng đại diện ở Việt nam từ cuối năm 1993 nhanh chóng triển khai hoạt động 11/7/1995 hai nước lập quan hệ ngoại giao. Từ ngày 21-26/9/1996 diễn ra vòng đàm phán thương mại đầu tiên giữa đại diện hai nước.10/3/1998. Tổng thống B. Clintơn ký kết hiệp định miễn áp dụng từ chính án Jacksơn – Vanik đối với Việt nam và sau đó tiếp tục gia hạn thêm 3 năm 1 lần. Hai bên đã ký các Hiệp định về xử lý nợ, cơ cấu lại số nợ cũ. Hiệp định về hoạt động của tổ chức đầu tư nhân nước ngoài ( OPIC) hai hiệp định với ngân hàng xuất khâủ Mỹ, đã và đang thương lượng Hiệp định hợp tác khoa học – công nghệ, Hiệp định hàng không, thoả thuận phòng chống ma._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 34434.doc