BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH
PHẠM THỊ BÍCH THẢO
QUAN HỆ THƯƠNG MẠI CỦA NGƯỜI VIỆT
VỚI NGƯỜI HOA VÀ NGƯỜI NHẬT
Ở HỘI AN THẾ KỶ XVII
Chuyên ngành : Lịch sử Việt Nam
Mã sỗ : 602254
LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
TS. TRẦN THỊ THANH THANH
Thành phố Hồ Chí Minh - 2010
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi.
Các số liệu, kết quả nêu trong luận văn là trung thực và không có trong bất
137 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 2112 | Lượt tải: 1
Tóm tắt tài liệu Quan hệ thương mại của người Việt với người hoa và người Nhật ở Hội an thế kỷ XVII, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
kỳ công
trình nào khác.
Tp. Hồ Chí Minh, ngày 28 tháng 06 năm 2010
Tác giả luận văn
PHẠM THỊ BÍCH THẢO
MỤC LỤC
0TLỜI CAM ĐOAN0T ......................................................................................................................................... 2
0TMỤC LỤC0T .................................................................................................................................................... 3
0TPHẦN MỞ ĐẦU0T .......................................................................................................................................... 5
0T1.Mục đích nghiên cứu khoa học.0T .............................................................................................................. 5
0T2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề.0T.................................................................................................................... 6
0T3. Nguồn sử liệu và phương pháp nghiên cứu.0T ......................................................................................... 11
0T4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.0T ..................................................................................................... 13
0TCHƯƠNG 1: HỘI AN – ĐIỂM ĐẾN CỦA CÁC THƯƠNG NHÂN0T ......................................................... 15
0T1.1. Điều kiện tự nhiên.0T ........................................................................................................................... 15
0T1.1.1.Vị trí địa lý.0T ................................................................................................................................ 15
0T1.1.2.Điều kiện tự nhiên và đặc điểm thủy văn vùng cửa biển.0T ............................................................ 17
0T1.1.3. Nguồn sản vật địa phương.0T ........................................................................................................ 20
0T1.2. Điều kiện xã hội.0T .............................................................................................................................. 22
0T1.2.1. Lịch sử hình thành thương cảng Hội An.0T ................................................................................... 22
0T1.2.2. Đặc điểm cư dân và sinh hoạt kinh tế.0T........................................................................................ 24
0T1.2.3.Chính sách của chính quyền Đàng Trong.0T ................................................................................... 26
0TCHƯƠNG 2: HOẠT ĐỘNG KINH TẾ CỦA THƯƠNG NHÂN VIỆT - NHẬT - HOA Ở HỘI AN0T .......... 31
0T2.1. Thương nhân người Việt.0T ................................................................................................................. 31
0T2.1.1. Tình hình thương nghiệp Đàng Trong thế kỷ XVI, XVII.0T .......................................................... 31
0T2.2. Thương nhân người Nhật.0T ................................................................................................................ 35
0T2.2.1.Người Nhật đến Hội An.0T ............................................................................................................ 35
0T2.2.2.Hoạt động kinh tế của người Nhật ở Hội An.0T .............................................................................. 43
0T2.3. Thương nhân người Hoa.0T ................................................................................................................. 61
0T2.3.1. Người Hoa đến Hội An.0T............................................................................................................. 61
0T2.3.2. Hoạt động kinh tế của người Hoa ở Hội An.0T .............................................................................. 71
0TCHƯƠNG 3: QUAN HỆ THƯƠNG MẠI CỦA NGƯỜI VIỆT VỚI NGƯỜI HOA VÀ NGƯỜI NHẬT Ở
HỘI AN.0T ..................................................................................................................................................... 81
0T3.1.Đặc điểm và cách thức tổ chức buôn bán của người Việt, người Nhật, người Hoa ở Hội An.0T ............. 81
0T3.1.1. Quan hệ của chính quyền Đàng Trong với hoạt động thương mại của người Việt.0T ..................... 81
0T3.1.2.. Đặc điểm và cách thức tổ chức buôn bán của người Nhật.0T ........................................................ 83
0T3.1.3. Đặc điểm và cách thức tổ chức buôn bán của người Hoa.0T .......................................................... 89
0T3.2.Các mối quan hệ buôn bán, trao đổi hàng hóa.0T ................................................................................... 94
0T3.2.1. Các mối quan hệ buôn bán, trao đổi của người Việt với người Nhật.0T.......................................... 94
0T3.2.2. Các mối quan hệ buôn bán, trao đổi của người Việt với người Hoa.0T ......................................... 103
0T3.3.Các sự kiện tiêu biểu phản ánh mối quan hệ kinh tế Việt – Nhật, Việt – Hoa ở Hội An.0T ................. 109
0T3.3.1. Các sự kiện tiêu biểu phản ánh mối quan hệ Việt – Nhật.0T........................................................ 109
0T3.3.2. Các sự kiện tiêu biểu phản ánh mối quan hệ kinh tế Việt – Hoa.0T .............................................. 113
0T3.4.Nhận định.0T ...................................................................................................................................... 115
0TKẾT LUẬN0T .............................................................................................................................................. 124
0T HƯ MỤC THAM KHẢO0T ....................................................................................................................... 129
0TPHỤ LỤC0T ................................................................................................................................................. 133
PHẦN MỞ ĐẦU
1.Mục đích nghiên cứu khoa học.
Hội An – Faifo từ lâu đã là địa danh nổi tiếng trong lịch sử Việt Nam và được nhắc tới
trong nhiều tài liệu nước ngoài. Từ trước thế kỷ XV, nơi đây là một cảng trọng yếu của
Champa và sau đó, trong khoảng thế kỷ XVII đến thế kỷ XIX, Hội An trở thành một trung
tâm giao lưu kinh tế - văn hóa phát đạt bậc nhất của Việt Nam. Thuyền buôn và thương nhân
nhiều nước Á, Âu đã đến đây buôn bán, lập thương điếm, dựng phố xá.
Vào các thế kỷ XV, XVI, XVII, do những điều kiện lịch sử đương thời ở Việt Nam và
thế giới, nhiều thương nhân ngoại quốc đã đến Hội An để trao đổi, buôn bán. Trong số đó, có
thương nhân chỉ đến buôn bán theo mùa nhưng không ít người đến định cư tại đây để làm ăn
sinh sống. Từ đầu thế kỷ XVII, người Nhật, người Hoa đã dựng nhà, lập phố đan xen với
phố xá nhà cửa và xóm chài của người Việt.
Vào thời điểm đó, nước Đại Việt có bốn trung tâm buôn bán lớn với người ngoại quốc
là Kẻ Chợ, Phố Hiến ở Đàng Ngoài và Đà Nẵng (Touran), Hội An (Faifo) ở Đàng Trong.
Trong bốn địa điểm ấy, Hội An là nơi buôn bán sầm uất nhất – nơi vẫn được các thương gia
ngoại quốc đã từng một lần ghé đến ca tụng như là một đầu mối giao thông, thương mại bằng
đường biển quan trọng bậc nhất xứ Đàng Trong. Sức thu hút của Hội An đối với các thương
nhân ngoại quốc trước hết ở vị trí thuận lợi vì Hội An là một trong những cảng thị nằm trên
con đường tơ lụa trên biển và phát triển trong hệ thống thương mại châu Á. Quan trọng hơn,
Hội An là một kho hàng lớn có thể cung cấp nhiều mặt hàng, đáp ứng nhu cầu của thuyền
buôn các nước. Chính vì thế, từ thế kỷ XVII Hội An đã sớm khẳng định được vị trí của một
cảng thị quốc tế, trở thành thương cảng lớn nhất Đàng Trong, mở cửa đón nhận các thuyền
buôn nước ngoài ở phương Đông và phương Tây. Đây được coi là: “hải cảng đẹp nhất, nơi
tất cả người ngoại quốc đều tới và cũng là nơi có hội chợ danh tiếng”. [2, tr. 91]
Bên cạnh đó, để khuyến khích ngoại thương, chúa Nguyễn đã tạo điều kiện thuận lợi
nhất định cho các đoàn thuyền buôn ngoại quốc từ Phúc Kiến, Macao, Nhật Bản, Manila,
Campuchia…đến trao đổi hàng hóa. Nhưng theo C. Borri thì: “Người Tàu và người Nhật là
những người làm thương mại chính yếu ở xứ Đàng Trong”.[2, tr.89] Hay nói cách khác,
chính những thương nhân người Hoa, người Nhật là người nắm cán cân chính trong hoạt
động buôn bán, trao đổi hàng hóa ở Đàng Trong nói chung, Hội An nói riêng. Với vai trò
quan trọng như thế, các thương nhân người Nhật, người Việt và người Hoa đã tạo ra một mối
liên kết, tương trợ lẫn nhau và đó là một trong những nhân tố chủ yếu làm cho Hội An trở
thành trung tâm buôn bán sôi động, là thương cảng lớn nhất Đàng Trong vào thế kỷ XVI –
XVII.
Mục đích của luận văn là nhằm tìm hiểu một cách có hệ thống hoạt động thương mại
đã diễn ra giữa thương nhân người Việt với người Nhật, người Hoa ở Hội An. Các hoạt động
buôn bán, trao đổi đã hình thành, phát triển như thế nào? Nó ảnh hưởng ra sao đối với
thương nhân mỗi nước, đến sự phát triển của đô thị Hội An trong thế kỷ XVII và đặc biệt là
các hoạt động kinh tế đó đã có vai trò như thế nào trong việc thiết lập quan hệ chính quyền
các nước. Hơn nữa, tìm hiểu về cảng thị Hội An thế kỷ XVII cũng là tìm hiểu về một loại
hình kinh tế - xã hội, văn hóa dưới thời chúa Nguyễn có quan hệ đến sản xuất hàng hóa,
thương nghiệp, phát triển đô thị trong mối quan hệ giao lưu kinh tế và văn hóa với bên ngoài.
Việc thực hiện đề tài có thể giúp tôi rút ra được những khái luận mang ý nghĩa lịch sử
về mối quan hệ thương mại giữa người Việt với người Nhật và người Việt với người Hoa thế
kỷ XVII cũng như sự phát triển của các cảng thị Việt Nam nói chung và đô thị cảng Hội An
nói riêng – một trong những trung tâm kinh tế quan trọng của đất nước thời trung đại. Hội
An thực sự là một hiện tượng đáng nghiên cứu trong lịch sử kinh tế Việt Nam mà trước hết
là lịch sử kinh tế ngoại thương. Việc tìm hiểu mối quan hệ thương mại của người Việt với
người Nhật và người Hoa ở Hội An còn góp phần cung cấp cơ sở khoa học, giúp chúng ta có
một cái nhìn lịch sử về diễn biến đô thị hóa của một số thành phố cảng hiện nay để có được
những đầu tư thích hợp.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề.
Hội An trong những thế kỷ XVI, XVII vẫn đang là đề tài thu hút sự chú ý của các nhà
nghiên cứu. Nhiều bài viết, nhiều công trình nghiên cứu của các tác giả đã đề cập đến các
mảng khác nhau về Hội An đặc biệt là về hoạt động kinh tế. Tuy nhiên chưa có tác phẩm nào
đề cập một cách cụ thể đến mối quan hệ thương mại của người Việt với người Nhật và người
Hoa ở Hội An thế kỷ XVII một cách chi tiết, đầy đủ.
Nhìn lại sau hơn 70 năm, việc nghiên cứu về Hội An có thể chia làm hai giai đoạn:
Giai đoạn I _ Từ 1919 đến 1975. Đó là những công trình đơn lẻ của một số nhà nghiên
cứu ở trong và ngoài nước đã đến khảo sát trực tiếp ở Hội An. Nhưng chủ yếu là những vấn
đề lịch sử Hội An trong hai thế kỷ XVII – XVIII, khai thác tỉ mỉ về phố Khách, Hoa thương
và các công trình kiến trúc của người Hoa. Những vấn đề khác ít được quan tâm hoặc không
được đề cập đến.
Một số giáo sĩ cũng như thương nhân nước ngoài có dịp đặt chân đến đã ghi chép lại
và miêu tả trong một số bản đồ, tư liệu phương Tây từ đầu thế kỷ XVII. Theo các nguồn tư
liệu hiện biết thì có lẽ Hội An lần đầu tiên được vẽ trên bản đồ với tên Faifoo khoảng năm
1666 do Pieter Goos thực hiện.
Bài viết đầu tiên về phố cảng Hội An là Le Vienx Faifo của bác sĩ Sallet đăng trên tập
san BAVH năm 1919. Hơn 30 năm sau, cũng trên tập san BAVH, Nguyễn Thiệu Lâu đã có
sự nghiên cứu về sự hình thành và diễn biến làng Minh Hương ở Hội An. Tác giả đã dựa trên
các văn bia, gia phổ các bài viết chưa công bố và tập tài liệu “Thương Tàu vãn lệ” để xây
dựng bản khảo cứu về Hội An. Tác giả đã làm rõ các vị tiền hiền có danh tính trong “thập
lão”, “tam gia” với quá trình chuyển cư đến Hội An vào các thế kỷ XVI – XVII cùng quá
trình mở rộng diện tích đất của làng Minh Hương.
Năm sau, trên tập san BEFFO, Nguyễn Thiệu Lâu lại chú ý khai thác phố và cảng Hội
An vào thế kỷ XVII trong 5 trang báo. Tác giả đã xác định các bến đỗ của tàu thuyền bên
sông Hội An và giới thiệu quá trình hình thành, diễn biến và xác lập phố Khách của Hoa
thương tại Hội An.
Chen Ching Ho (Trần Kinh Hòa) – Giáo sư Sử học người Trung Quốc đã đăng trên tập
chí Tân Á học báo xuất bản ở Hồng Kông bài khảo cứu dài về Phố Khách ở Hội An và
Thương nghiệp thế kỷ XVII – XVIII. Thành công của bài khảo cứu này là làm rõ quá trình
thành lập phố Khách và thương nhân nước ngoài đến buôn bán với Hội An. Sau đó, Chen
Ching Ho lại công bố trên tập san Khảo cổ của Sài Gòn bài “ Mấy điều nhận xét về Minh
Hương xã và cổ tích tại Hội An”, số 1 (1960) và số 1 (1962) giới thiệu về việc thành lập phố
Khách và Minh Hương xã, nghiên cứu về các bậc tiền hiền của người Hoa tại Hội An, việc
mở rộng diện tích của Minh Hương Xã cũng như các đền miếu, hội quán.
Những tài liệu biên chép về Hội An còn gắn liền với tên tuổi một số học giả trong đó
có biên chép do giáo sĩ người Italia Christoforo Borri thực hiện giai đoạn những năm 1681 –
1823 hay do người Bồ Đào Nha Léon Pagère hoặc giáo sĩ người Pháp Alexandre Rhodes tiến
hành các năm 1624 – 1645. Đến cuối thế kỷ XVII, biên chép về Hội An lại được thương
nhân người Anh Thomas Boyear cho ra đời khi ông đến Hội An xin đặt thương điếm tại đây
ngày 18 tháng 8 năm 1964. Cùng thời gian này một nhà sư Trung Hoa là Thích Đại Sán tới
Hội An. Ông đã để lại những dòng ghi chép khá chi tiết về mảnh đất cảng thị này. Bên
cạnh ghi chép của các giáo sĩ, thương nhân người nước ngoài, vào giai đoạn này không ít tác
giả Việt Nam quan tâm và đề cập đến Hội An trong các công trình biên sử của mình như
Dương Văn An với cuốn Ô châu cận lục, Lê Quý Đôn ở sách Phủ biên tạp lục, Trịnh Hoài
Đức với cuốn Gia Định thành thông chí. Đặc biệt phải kể đến các tập Quốc triều chính biên,
Đại Nam nhất thống chí, Đại Nam thực lục tiền biên do Quốc sử quán triều Nguyễn thực
hiện.
Nhìn chung, phần lớn các ghi chép của các tác giả nước ngoài về Hội An đều dưới
dạng bút ký, thông qua ít nhiều cảm nhận trực quan mà họ thu được liên hệ tới cảnh quan đô
thị, tình hình buôn bán, thuế quan, sinh hoạt đời thường của cư dân. Những ghi chép đó gắn
liền với tên tuổi của các nhà truyền giáo hoặc thương nhân.
Ngoài việc ghi chép, miêu tả, các tác giả giai đoạn này còn để lại những bức tranh minh
họa như Giao chỉ quốc mậu dịch hải đồ, các bản đồ của Alexandre de Rhodes, Robert, Le Harpe
(thế kỷ XVIII), Pavie và Caillard thực hiện. Những bức tranh và những bản đồ cổ này đã
giúp cho việc xác định vị trí Hội An trong suốt chiều dài lịch sử.
Giai đoạn II _ Từ năm 1975 đến nay, đặc biệt sôi nổi là trong thập niên 1980 – 1990,
nhiều nhà nghiên cứu, nhiều tổ chức khoa học đã đến với Hội An. Ngoài một số bài công bố
ở các tạp chí, đã có hai cuộc hội thảo quan trọng về đô thị cổ Hội An, quy tụ hầu hết các nhà
khoa học ở trong và ngoài nước có quan tâm nghiên cứu Hội An, để lại những thành tựu
khoa học quan trọng và những tác dụng thực tiễn cho Hội An.
Năm 1985, Hội thảo quốc gia về Hội An được tổ chức ở Hội An nhân dịp thương cảng
này được Chính phủ Việt Nam công nhận là khu di tích lịch sử - văn hóa Quốc gia.
Tiếp đó, năm 1990 Hội thảo quốc tế về phố cổ Hội An ở Đà Nẵng đã mở ra một bước
ngoặt trong nghiên cứu về Hội An. Với sự tham gia của nhiều nhà khoa học thuộc nhiều
chuyên môn khác nhau như địa lý, địa chất, khảo cổ học, sử học, kiến trúc đến văn hóa, nghệ
thuật….Hội thảo đã nâng cao tầm hiểu biết về các giá trị của Hội An và đặt ra nhiều vấn đề
mới cuốn hút các nhà khoa học.
Hội thảo quốc tế về phố cổ Hội An năm 1990 là cơ hội để các nhà khoa học Việt Nam
và nước ngoài trao đổi những kết quả nghiên cứu chuyên ngành và liên ngành. Các nhà khoa
học nước ngoài đem đến hội thảo nhiều nguồn tư liệu mới liên quan đến Hội An như: Ogura
Sadao với bức tranh “Giao chỉ quốc mậu dịch hải đồ” và “Thác kiến quan thế âm”, Chihara
Daigaro với những công trình kiến trúc mô tả trong “Giao chỉ quốc mậu dịch hải đồ” nói lên
được một phần tình hình buôn bán của thuyền Châu ấn (Shuinsen) thời Tokugawa. Các công
trình nghiên cứu của Shigeru Ikuta với “Vai trò của các cảng thị vùng ven biển Đông Nam Á
từ đầu thế kỷ II đến đầu thế kỷ XIX”, “Hội An và cư dân Nhật trước đây” của Yoshari, “Tìm
hiểu mối quan hệ Nhật – Việt qua gốm sứ” của Hasebe Gakyji… Đặc biệt, rất nhiều báo cáo
của các học giả trong nước và nước ngoài tại Hội thảo đã cung cấp nguồn sử liệu có giá trị
khác như: “Người Nhật, phố Nhật và di tích Nhật Bản ở Hội An” của Vũ Minh Giang,
“Quan hệ và phương thức buôn bán giữa Hội An với trong nước” của Đỗ Bang…Các bài
viết của các tác giả tham gia hội thảo đem lại nhiều nguồn tư liệu mới về mặt khảo cổ học và
văn hóa, về lịch sử hình thành cũng như quá trình phát triển của đô thị cổ Hội An.
Năm 1999, Hội thảo quốc tế Quan hệ Việt – Nhật qua giao lưu gốm sứ được tổ chức
tại Hà Nội đã làm sáng tỏ thêm về quan hệ thương mại giữa Việt Nam và Nhật Bản qua con
đường gốm sứ với các bài tham luận của Tsuzuki Shinichiro trong “Gốm Việt Nam khai quật
từ di chỉ hào thành Sakai”, “Gốm sứ Việt Nam qua cuộc điều tra khảo cổ ở Nagasaki” của
Mori Tsuyoshi. Các nhà nghiên cứu Việt Nam như Nguyễn Thừa Hỷ và Phan Hải Linh cũng
có bài tham luận “ Quan hệ thương mại giữa Nhật Bản và Việt Nam thế kỷ XVI, XVII” tại
Hội thảo…
Trong số nhiều nhà khoa học đến từ các nước thì các học giả Nhật Bản có quan hệ hợp
tác quy mô và liên tục nhất. Đó là do Hội An là một thương cảng Việt Nam có quan hệ mật
thiết với Nhật Bản trong thế kỷ XVII và trong những thương cảng có khu phố người Nhật thì
Hội An là đô thị cổ duy nhất ở Đông Nam Á còn bảo tồn được một tổng thể kiến trúc phong
phú, đa dạng nhất. Trong số những nhà nghiên cứu Nhật Bản đó phải kể đến Iwao Seiichi và
Kikuchi Seiichi đã có những công trình nghiên cứu về Hội An qua điều tra khảo cổ học. Các
công trình nghiên cứu về “Phố Nhật Bản ở Hội An qua nghiên cứu khảo cổ học” hay “Sự
hình thành và phát triển khu phố Hội An qua việc nghiên cứu bia văn và các tư liệu khảo cổ
học” của Kikuchi Seiichi đã cung cấp nhiều tư liệu hữu ích trong việc làm sáng tỏ mối quan
hệ, giao lưu Việt - Nhật thế kỷ XVII nhìn từ góc độ khảo cổ học. Cùng với các nhà nghiên
cứu Nhật Bản thì ở Việt Nam, Nguyễn Quốc Hùng với tác phẩm “Phố cổ Hội An và việc
giao lưu văn hóa ở Việt Nam”. Tuy tác giả đề cập khái quát nhưng đã có những nhận định về
quy mô và loại hình đô thị mang tính khác biệt của Hội An.
Về mối quan hệ giữa Việt Nam với Nhật Bản, tác giả Nguyễn Văn Kim có nhiều công
trình nghiên cứu về đề tài này như “Nhật Bản và Châu Á – những mối liên hệ lịch sử và
chuyển biến kinh tế - xã hội”, hay “Quan hệ của Nhật Bản với Đông Nam Á thế kỷ XV –
XVII”, “Xứ Đàng Trong các mối quan hệ và tương tác quyền lực khu vực”,“Chính sách đóng
cửa của Nhật Bản thời Tokugawa nguyên nhân và hệ quả”… giúp chúng ta có thêm tư liệu về
mối quan hệ của Nhật Bản với Việt Nam nói chung và Nhật Bản với Đàng Trong nói riêng.
Tác giả Trịnh Tiến Thuận với luận án tiến sĩ về đề tài “Quan hệ Nhật Bản – Việt Nam thế kỷ
XVI, XVII” đã đề cập chi tiết về hoạt động trao đổi, buôn bán của người Nhật với chính
quyền Đàng Trong và Đàng Ngoài.
Không những thế, Hội An còn được nhìn nhận một cách tổng thể qua bài viết của
Nguyễn Phước Tương trong “Hội An – Di sản văn hóa thế giới” hay “Hội An” của Nguyễn
Văn Xuân…
Tuy nhiên, tìm hiểu về mối quan hệ thương mại của người Việt với người Nhật và
người Hoa còn liên quan đến vấn đề ngoại thương Việt Nam thế kỷ XVII, phản ánh sự trao
đổi, buôn bán giữa Việt Nam với các nước. Một số tác giả như Thành Thế Vỹ với cuốn
“Ngoại thương Việt Nam hồi thế kỷ XVII, XVIII và đầu thế kỷ XIX”, Nguyễn Thế Anh với
“Kinh tế xã hội Việt Nam dưới các vua triều Nguyễn” cho chúng ta thấy tình hình kinh tế
hàng hóa của Việt Nam hồi thế kỷ XVII cũng như thái độ của nhà nước đối với các lái buôn
nước ngoài, đặc biệt là địa vị của thương gia Hoa kiều trong nền ngoại thương Việt Nam.
Tác phẩm “Xứ Đàng Trong Lịch sử kinh tế - xã hội Việt Nam thế kỷ XVII – XVIII”của
LiTana cung cấp rất nhiều tư liệu về vùng đất Đàng Trong, các thương gia nước ngoài và
hoạt động thương mại.
Tác giả Đỗ Bang trong “Phố cảng vùng Thuận Quảng thế kỷ XVII – XVIII” đã dành
một chương về Hội An, giúp chúng ta có cái nhìn bao quát hơn về Hội An với các cảng thị
cùng thời.
Ngoài ra, rất nhiều bài nghiên cứu có đề cập đến mối quan hệ kinh tế của người Việt
với người Nhật, người Việt với người Hoa được đăng trên các tạp chí như Tân Á học báo,
Việt Nam khảo cổ tập san, tạp chí Nghiên cứu lịch sử, tạp chí Nghiên cứu Nhật Bản và Đông
Bắc Á. Trong đó có một số bài viết đề cập khá chi tiết về mảng kinh tế ở Hội An như “Đô thị
cổ Hội An – mấy đặc điểm kinh tế - xã hội” của Phan Đại Doãn, “Phố người Đường cùng
nền thương nghiệp của họ vào thế kỷ XVII – XVII ở Hội An” của Trần Kinh Hòa đã phản ánh
phần nào nội dung liên quan đến vấn đề nghiên cứu.
Như vậy, việc nghiên cứu Hội An khá phong phú song chưa có một tác phẩm nào đề
cập mối quan hệ thương mại giữa ngườiViệt với người Nhật và người Hoa ở Hội An thế kỷ
XVII một cách hoàn chỉnh, bao quát toàn bộ mối quan hệ tác động qua lại, ảnh hưởng lẫn
nhau cũng như có sự tác động đến sự phát triển của cảng thị Hội An. Đa số các tác phẩm chỉ
nghiên cứu một mối quan hệ riêng lẻ như mối quan hệ kinh tế Nhật – Việt hay Hoa – Việt,
chưa đề cập đồng thời cả hai mối quan hệ này. Vì vậy, kế thừa thành quả nghiên cứu của các
các nhà nghiên cứu đi trước, luận văn sẽ hệ thống hóa quá trình hình thành, phát triển của
mối quan hệ thương mại giữa người Việt với người Nhật và người Việt với người Hoa ở Hội
An thế kỷ XVII. Đồng thời đưa ra những nhận định thỏa đáng về các nội dung mà các công
trình trên chưa đề cập đầy đủ.
3. Nguồn sử liệu và phương pháp nghiên cứu.
Để hoàn thành bài luận văn của mình, tôi đã sử dụng các nguồn tài liệu Địa chí có liên
quan đến các vùng Thuận Quảng như: Ô châu cận lục của Dương Văn An, Phủ biên tạp lục
của Lê Quý Đôn…Thế mạnh của nguồn tư liệu này là mang đến những thông tin đáng tin
cậy về địa danh, nhân vật lịch sử, các phố, chợ, đường, bến đò, thành lũy, …Trong nguồn tài
liệu địa chí, tôi chú ý khai thác cuốn Phủ biên tạp lục của Lê Quý Đôn nhất là quyển 4 nói
về lệ thuế đầu nguồn, tuần ty, đầm hồ, chợ đò, đồng sắt, lệ vận tải ở hai xứ Thuận Hóa và
Quảng Nam và quyển thứ 6: nói về sản vật, phong tục. Tuy nhiên, nguồn tài liệu địa chí chỉ
phản ánh một phần nào đó về hoàn cảnh nội sinh của các phố cảng mà ở vào các thế kỷ
trước, những tác giả của nguồn tài liệu này chưa có điều kiện phân tích và kiểm chứng khoa
học.
Nguồn tài liệu trong các bộ sử biên niên dưới thời phong kiến cũng được tôi tham
khảo như: Đại nam thực lục tiền biên, Đại nam thực lục chính biên… Nguồn tài liệu này nói
chung ít đề cập đến các hoạt động ở đô thị và tình hình thương nghiệp ở nước ta. Tuy nhiên,
trong Đại Nam thực lục tiền biên và Đại nam thực lục chính biên thỉnh thoảng có ghi chép
vài sự kiện của triều đình có liên quan đến Hội An, Đà Nẵng, Thanh Hà…nhất là chính sách
của nhà nước quy định đối với thương nhân nước ngoài.
Bên cạnh đó, tôi đặc biệt quan tâm đến nguồn tài liệu du ký của người nước ngoài có
mặt ở vùng Thuận Quảng trong các thế kỷ trước. Tuy đó là những ghi chép riêng lẻ phiến
diện mang tính chủ quan của giới thương nhân, giáo sĩ, sư sãi, quan chức…nhưng tập hợp lại
thì đó là bức tranh đa dạng, phong phú, phản ánh nhiều mặt của đời sống xã hội ở Đàng
Trong. Đây là nguồn tài liệu quan trọng cần được khai thác triệt để như Cristoforo Borri
(1618 – 1621), Alexandre de Rhodes (1624 – 1627, 1640 – 1654), Thích Đại Sán (1695 –
1696)….
Ngoài ra tôi còn chú ý tới nguồn tư liệu đã được công bố trong các công trình khoa
học ở nhiều nước, đặc biệt được giới thiệu và trích đoạn trong hai cuộc hội thảo quốc tế ở
Việt Nam: Hội An (1990), Phố Hiến (1992). Thêm vào đó, tôi còn tham khảo các công trình
khoa học như các luận án Phó tiến sĩ, Tiến sĩ có liên quan như:
- Phố cảng vùng Thuận Quảng thế kỷ XVII – XVIII của Đỗ Bang, 1993.
- Quan hệ Việt Nam – Nhật Bản thế kỷ XVI – XVII của Trịnh Tiến Thuận, 2002.
- Tìm hiểu các nhóm cộng đồng người Hoa ở Việt Nam trong bối cảnh lịch sử Đông Nam Á
của Châu Thị Hải, 1989.
- Phố cổ Hội An và việc giao lưu văn hóa của Việt Nam của Nguyễn Quốc Hùng, 1993.
Đề tài cũng sử dụng một số hình ảnh trên internet. Tuy đây là nguồn tư liệu vô cùng
phong phú nhưng cần có sự so sánh, đối chiếu với các nguồn tư liệu khác để thẩm tra. Có
như vậy mới đảm bảo tính chính xác và khoa học cho đề tài.
Nguồn tài liệu nói trên đã cung cấp những thông tin hết sức quý giá giúp cho luận văn
được hoàn chỉnh. Tuy nhiên, một số vấn đề do tư liệu hiện có còn hạn chế nên chưa được
giải quyết thấu đáo. Mong rằng trong thời gian tới, với những phát hiện mới của các nhà
nghiên cứu, những vấn đề này sẽ được sáng tỏ hơn.
Trong quá trình hoàn thành đề tài, tôi đã sử dụng những phương pháp sau:
1. Phương pháp tiếp cận hệ thống: Đặt Hội An trong hệ thống cảng biển Việt Nam
cũng như tình hình thương nghiệp Đàng Trong thế kỷ XVII để nghiên cứu. Coi Hội An là
thương cảng lớn nhất Đàng Trong, ra đời và thịnh đạt trong thế kỷ XVII trên một vị trí địa lý
và bối cảnh lịch sử trong nước cũng như khu vực có nhiều thuận lợi.
2. Phương pháp liên ngành: Trong quá trình thực hiện đề tài, việc kết hợp hai loại tài
liệu khảo cổ học và sử học, trong đó tài liệu khảo cổ học đã cung cấp rất nhiều thông tin mới
giúp chúng ta có những nhận định đúng đắn hơn về hoạt động trao đổi hàng hóa thời kỳ này.
3. Phương pháp lịch sử và phương pháp logic: Ngoài việc phân tích, so sánh mối
liên hệ giữa các sự kiện lịch sử, đề tài cố gắng trình bày các luận điểm trên cơ sở bám sát các
sự kiện lịch sử, trình bày lịch sử như nó đã từng có.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.
Vấn đề mà luận văn đặt ra chỉ nhằm tìm hiểu một khía cạnh nhỏ trong mảng nghiên
cứu về hoạt động thương mại ở Hội An thế kỷ XVII. Bởi vì không chỉ có thương nhân người
Nhật, người Hoa đến Hội An buôn bán mà còn rất nhiều thuyền buôn ngoại quốc cũng cập
cảng Hội An thực hiện giao dịch mua bán, trao đổi hàng hóa. Tuy nhiên, việc hình thành hai
khu phố người Nhật, người Hoa cũng như vai trò của họ đối với sự phát triển của cảng thị
Hội An là vấn đề đáng quan tâm, nghiên cứu. Do đó, đối tượng nghiên cứu của luận văn là
tầng lớp thương nhân và mối quan hệ thương mại của người Việt với người Hoa và người
Nhật ở Hội An thế kỷ XVII.
Cụ thể, luận văn tập trung giải quyết những nội dung chính sau:
1. Hoạt động kinh tế của thương nhân người Việt, người Hoa, người Nhật phản ánh
đặc điểm, cách thức buôn bán cũng như các mối quan hệ buôn bán, trao đổi hàng hóa của
thương nhân người Việt, người Nhật, người Hoa. Đây cũng là nội dung chính của luận văn
đề cập.
2. Các sự kiện tiêu biểu phản ánh mối quan hệ kinh tế Việt – Nhật, Việt – Hoa ở Hội
An để thấy được sự tương tác, gắn kết giữa ba đầu mối kinh tế.
3. Hoạt động kinh tế của người Nhật, người Hoa có vai trò, ảnh hưởng lớn đến sự
hưng thịnh của cảng thị Hội An.
CHƯƠNG 1: HỘI AN – ĐIỂM ĐẾN CỦA CÁC THƯƠNG NHÂN
Vào thế kỷ XVI – XVII, Hội An là một trong những trung tâm kinh tế thương mại
quan trọng của nước ta. Trong quá trình đi tìm thị trường, thương nhân các nước đã chọn nơi
đây làm đầu mối trao đổi hàng hóa, khiến nó trở thành một trung tâm buôn bán của khu vực
miền trung và cả nước. Hội An đã hội đủ những nhân tố khiến cho nó có vị trí quan trọng
trong hệ thống thương mại với nước ngoài và là nơi hấp dẫn đối với những thương nhân
ngoại quốc vào thế kỷ XVI, XVII.
1.1. Điều kiện tự nhiên.
1.1.1.Vị trí địa lý.
Là một quốc gia nằm ở vùng bán đảo, Việt Nam có đường bờ biển dài hơn 3.200
km. Bằng đường biển và giao thương trên biển, Việt Nam có quan hệ với nhiều quốc gia
trong khu vực và mối quan hệ đó đã trở nên rộng mở vào thế kỷ XVI – XVIII khi các tuyến
thương mại thế giới chạy qua vùng lãnh hải Việt Nam.
Thế kỷ XV – XVII được coi là thời đại thương mại (the Age of Commerce). Ở
Châu Á, từ thời cổ đại và trung đại, ngoài những con đường giao thương trực tiếp giữa các
quốc gia, đã sớm hình thành hai hệ thống giao lưu kinh tế - văn hóa lớn là “con đường tơ lụa
trên bộ” và “con đường tơ lụa trên biển”. Từ thế kỷ VIII – IX do thuận tiện của đường biển
và do những tiến bộ của kỹ thuật hàng hải, “con đường tơ lụa trên biển” ngày càng chiếm ưu
thế. Hệ thống thương mại Á châu này có quan hệ và tác động đến quan hệ giao thương của
các nước châu Á, nhất là những nước ven bờ đại dương như Việt Nam.
Từ khoảng thế kỷ VII – VIII, Đàng Trong đã trở thành địa chỉ hấp dẫn các thuyền
buôn Trung Hoa, Ấn Độ, Ả Rập…đến trao đổi buôn bán. Trong Tân Đường thư, Địa lí chí, ở
thế kỷ VII – X, trên con đường từ Quảng Châu đến Bagda (Ả Rập), thuyền bè quốc tế Trung
Hoa, Ba tư, Ả Rập, Srivijaya (Giava) bao giờ cũng ghé qua Chiêm Bất Lao (Cù lao Chàm –
cửa Đại – cửa Hàn ). Có thể nói, người Chăm đã có cái nhìn về biển đúng đắn, biết tham dự
và dấn thân tích cực vào luồng thương mại quốc tế trên biển.[46, tr.5]
Với một vị trí địa – thương mại được xác lập từ sớm trong lịch sử, thương nhân các
nước Trung Hoa, Ấn Độ, Ả Rập… cũng đã quen thuộc với thị trường này. Đến thế kỷ XV –
XVI, khi người Việt vào định cư với số đông, các cảng này đã trở thành những cảng Việt
hưng thịnh.
Về độ trù mật của cảng thị, C. Borri đã viết: “về hải cảng thì thật lạ lùng, chỉ trong
khoảng hơn trăm dặm một chút mà người ta đếm được hơn 60 cảng, tất cả đều thuận lợi để
cập bến và lên đất liền”. [2, tr.91] Trong hệ thống bến cảng đó, thương cảng Hội An trở
thành cửa ngõ thông thương quan trọng nhất Đàng Trong. Đây là một cảng sông ở cửa biển
vốn đã phồn thịnh từ thời đại Champa. Khi chuyển sang cảng Việt, Hội An đã có những cơ
hội phát triển mới và đã đạt đến sự phồn thịnh vào các t._.hế kỷ XVI – XVII. Nếu nhìn vào bản
đồ thương mại trong khoảng thời gian đó thì Đàng Trong với cảng thị Hội An gần như nằm ở
trung tâm của khu vực thương mại thế giới. Điều đó cũng khẳng định rằng, thương cảng Hội
An nằm ở vị trí chiến lược, là đầu mối quan trọng trong mạng lưới giao thương khu vực và
thế giới. Theo quan điểm của Keith W. Taylor thì đây là “ một nơi đô hội được nhắc đến chỉ
có thể ám chỉ địa điểm tập trung người Trung Quốc, Nhật Bản, Bồ Đào Nha và những người
thương nhân khác, nơi được người Châu Âu biết đến với cái tên Faifo và được người Việt
Nam hiện nay gọi là Hội An, nằm không xa về phía Nam của thành phố Đà Nẵng hiện đại.
Cảng buôn này được đặt một cách thích hợp trên tuyến đường giữa Malacca và Macao,
người Bồ Đào Nha đã thiết lập như những địa điểm trung gian quan trọng trên đường vào
Trung Quốc và Nhật Bản trong nửa sau thế kỷ XVI”. [21, tr. 163]
Nhìn trên bản đồ Việt Nam, Hội An – Đà Nẵng là trung tâm nối liền các tỉnh duyên
hải miền Trung và Tây nguyên bởi hệ thống đường biển, đường sông, đường bộ thời bấy giờ.
Các tỉnh miền Trung đều hướng ra mặt biển, còn phía sau là Tây nguyên có cơ sở kinh tế,
chỗ dựa vững chắc cho vùng duyên hải. Đô thị Hội An vốn được thiên nhiên ưu đãi để trở
thành một thương cảng lớn. Nằm bên bờ sông Thu Bồn, Hội An là một cảng sông tiện lợi.
Từ Hội An có thể ngược dòng Thu Bồn theo sông Vu Gia lên miền thượng du, theo sông
Trường Giang vào đến Tam Kỳ. Nhưng Hội An chỉ cách cửa biển Đại Chiêm chừng 5 km
nên còn là một cảng biển. Nhìn rộng hơn về mặt địa lý, Hội An nằm ở điểm mũi nhô ra biển
nhiều nhất trên bờ biển hình vòng cung của nước ta nên đón nhiều thương thuyền dừng chân.
Hội An chỉ cách dinh trấn Quảng Nam, thủ phủ thứ hai của Đàng Trong khoảng 8 km. Vì
vậy, Hội An là một vị trí lưu thông trao đổi buôn bán tốt, là cửa ngõ quan yếu của Quảng
Nam nói riêng và Đàng Trong nói chung.
Nếu cả miền Trung là một ngôi nhà thì mặt tiền của nó mở ra biển và cửa chính là
Hội An – Đà Nẵng. Điều này tự nó đã nói lên yếu tố “thị” và vai trò của nó trong sự đi lên
của các tỉnh miền Trung. Vào thời chúa Nguyễn đã có nhiều điểm thương mại dọc theo ven
biển miền Trung nhưng vị trí trung tâm vẫn là Hội An – Đà Nẵng. Hội An là trung độ của cả
nước, đồng thời có đường biển nối liền các nước ở khu vực châu Á – Thái Bình Dương. Vì
thế thật dễ hiểu khi từ thế kỷ XVI – XVII thương nhân nước ngoài đến đây thường xuyên với
số lượng nhiều nhất như người Trung Quốc, người Nhật, người Hà Lan….
Tất cả tình hình thế giới và khu vực trên đều tác động đến nền ngoại thương Việt
Nam nói chung và đời sống của thương cảng Hội An nói riêng. Với vị trí gần bên con đường
hàng hải quốc tế sôi động đương thời, với những bến cảng tốt và với sự trù phú của xứ
Quảng, Hội An đã nhanh chóng gia nhập vào các hoạt động mậu dịch quốc tế trong khu vực.
1.1.2.Điều kiện tự nhiên và đặc điểm thủy văn vùng cửa biển.
Theo giáo sư Trần Quốc Vượng, Hội An mang tính chất một thành phố sông với đặc
điểm vừa hội nhân vừa hội thủy, vừa cận thị lại vừa cận giang. [45, tr. 51 – 61]
Dưới sự tác động tự nhiên của sông, biển và một phần của con người, từ đầu Công
nguyên đến nay đã làm cho vùng cửa sông Thu Bồn phát triển nhanh chóng theo phương
thức delta lấp đầy, hình thành các cồn cát với đồng lầy.
Vào khoảng đầu Công nguyên, lúc biển tiến đạt tới mức cực đại thì vùng cửa sông
Thu Bồn là một vụng biển, cửa sông loe như hình phễu. Dấu vết rõ rệt của vụng biển cổ đó là
vùng đầm lầy Trà Quế (Cẩm Châu). Sau đó, biển rút dần và các địa hình có nguồn gốc khác
nhau được tạo thành. Những địa hình cao con người có thể sinh sống được lúc bấy giờ là ven
bờ vụng biển, là các thềm tích tụ biển rải rác và thành một dải dọc theo chân bờ xói lở. Thềm
tích tụ biển tương đối cổ và cao là doi cát từ Hội An đến Cồn Tàu. Hai bên bờ bắc và nam
cửa Thu Bồn, hai dải tích tụ cát nhô lên khỏi mặt nước, biến vùng nước phía trong thành các
đầm phá.
Thế kỷ XVII, cửa sông Thu Bồn đổ ra biển qua hai cửa: Đại Chiêm hải khẩu (cửa Đại)
và Tiểu Chiêm hải khẩu (cửa Tiểu) và tàu thuyền từ phía Nam lên có thể cập bến Hội An
bằng cửa Đại. Bên cạnh đó, còn một hải trình nối liền cửa Đại Hội An với cửa Hàn Đà Nẵng
(Turon hay Touron). Dấu tích còn lại hiện nay là dòng sông Cổ Cò đang bị bồi lấp và chỉ còn
lại từng đoạn nhỏ hay những ao đầm.
Vào thế kỷ XVII, đường thủy này còn khá lớn và rất tiện cho việc tàu thuyền từ phía
Bắc qua cửa Hàn – Đà Nẵng vào Hội An. Chính giáo sĩ C. Borri sống ở Đàng Trong từ năm
1618 đến 1622, đã xác nhận có hai cửa ngõ vào Hội An từ cửa biển Pulluciampello (Cù Lao
Chàm) tức cửa Đại và từ Touron tức cửa Hàn. [2, tr.91] Đến cuối thế kỷ XVIII, cửa Khâu bị
lấp, ép dòng nước chảy tập trung vào cửa phía Nam khiến cho bờ Nam Cửa Đại liên tục bị
phá hủy, các tuyến đường sông luôn thay đổi, bị lấp dần. Khoảng thế kỷ XIX sự bồi đắp đó
gây khó khăn cho tàu thuyền đi lại hoặc neo đỗ trên sông, làm ảnh hưởng đến sự phát triển
của Hội An không thuận lợi như trước nữa.[56, tr.87]
Cũng vì nằm ở vị trí ven sông, giáp biển như vậy nên Hội An không khỏi bị tác
động mạnh từ hai mùa gió trong năm. Tiếp theo đó, sự thay đổi dòng chảy, lượng mưa, mức
sóng và dao động mực nước biển cũng trở thành những tác nhân tạo nên tính đa dạng, khắc
nghiệt ở một vùng khí hậu.
Tại Hội An, khí hậu chia làm hai mùa rõ rệt: mùa mưa lũ, gió bão, rét từ tháng 9
đến tháng 1. Mùa khô mát từ tháng 2 đến tháng 8. Gió mùa Đông Bắc kéo dài từ tháng 11
năm trước đến tháng 4 năm sau. Gió có hướng Bắc, Đông Bắc là chủ yếu. Tốc độ gió cao
hơn các vùng khác, đạt cực đại tới 15 – 25 m/s. Mùa hè chuyển hướng Đông và Đông Nam,
thường dẫn đến bão và áp thấp nhiệt đới. Vào cuối tháng 10 tức cuối mùa hè mức gió nhiều
khi lên tới tốc độ 40m/s. [56, tr.87 – 97]
Cửa Hội An gần như nằm giữa tiếp điểm trên đường cong lồi của khúc miền Trung,
nơi giao thoa hứng gió hai mùa: gió mùa Đông Bắc và gió mùa Tây Nam. Điều này đã ảnh
hưởng trực tiếp đến việc mua bán tại thương cảng Hội An, hình thành mùa mậu dịch hay còn
gọi là Hội chợ. Mùa khô là mùa thuận lợi cho việc tổ chức hoạt động thương nghiệp ngoài
trời. Mùa khô ráo cũng là mùa biển lặng cho tàu thuyền đi biển và cập bến.
Một yếu tố nữa cũng tác động không nhỏ tới hoạt động và diện mạo đô thị thương
cảng vì vùng thượng nguồn sông Thu Bồn nằm lọt vào một trong những trung tâm mưa lớn ở
nước ta. Tâm mưa được xác định tại khu vực Trà Mi, nên lượng nước sông Thu Bồn rất lớn
và lớn nhất ở miền Trung Việt Nam. Hàng năm, sông Thu Bồn đổ ra biển gần 80 km 3 nước.
Lượng nước trên tập trung tới 80 – 90 % vào các tháng 9 – 12. Do cửa sông Thu Bồn hẹp,
lượng nước lớn lại dồn dập vào một thời gian ngắn nên vùng Hội An thường hay lũ lụt. [6, tr.
90 – 91] Ảnh hưởng của điều kiện địa lý và khí hậu địa phương, cộng với hoạt động kinh tế
trở thành đòi hỏi tất yếu kiến trúc dựng trên địa dư Hội An phải có một tầng gác xếp phía
trên.
Hơn nữa, Hội An nằm lọt giữa vùng đồng bằng duyên hải phủ đầy cồn cát phía
nam Đà Nẵng. Sau những cồn cát này tồn tại đầm hồ và đài nguyên, vết tích của vụng biển
cũ. Sông thường chảy song song với đường bờ biển, hợp thành mạng lưới giao thông nội địa
quan trọng. Sử dụng hệ thống sông ngòi tự nhiên đó, người ta có thể đi thuyền từ Đà Nẵng
đến Quảng Nam theo các sông Vĩnh Điện, sông Hội An, sông Thu Bồn rồi sông Trường
Giang.
Bờ biển Hội An là một bờ biển hội tụ. Những gioi cát chắn ngoài cửa biển tạo nên
vũng vịnh. Vùng cửa sông có mực nước sâu lại được dãy Cù lao Chàm chắn sóng nên rất an
toàn cho việc đỗ tàu thuyền. Cảng ăn sâu vào đất liền cách cửa Đại Chiêm 5km, đủ sâu và
rộng cho nhiều thuyền cùng cập bến. Địa hình đó vô hình chung tạo điều kiện thuận lợi cho
tàu thuyền quốc tế neo đậu.
Lùi xa vào đất liền, cách Hội An không đầy 10km, xuất hiện dãy núi Ngũ Hành
Sơn – những ngọn núi đá vôi cuối cùng của dãy Trường Sơn. Một dải đất cao 200 – 600m,
vốn gốc phù sa cổ, bên trên cây mọc thành vùng cây gỗ và cây ăn quả.
Thêm vào đó, một hệ thống đất đai bao quanh thị xã cùng với mạng lưới sông
tương đối phát triển đảm bảo cho việc trồng cây lương thực, cây ăn quả và cây công nghiệp
cũng như sự phong phú hải sản, tôm cá của thềm lục địa đã giúp cho Hội An nhanh chóng
trở thành thương cảng có vị trí quan trọng trong con đường thương mại khu vực và trên thế
giới.
Như vậy, nằm ở hạ lưu sông Thu Bồn, cửa ngõ của vùng đất Quảng Nam trù phú
và cư dân đông đúc, Hội An đã tích hợp đủ những điều kiện thuận lợi nhất để có thể phát
triển thành một thị cảng sông – biển. Và dưới tác động của những điều kiện kinh tế mới nên
chỉ trong một thời gian tương đối ngắn từ một cảng Chăm đã tàn lụi, đến cuối thế kỷ XVI,
đầu thế kỷ XVII, Hội An đã phục hưng và nhanh chóng trở thành một thương cảng quốc tế
quan trọng nhất ở Đàng Trong.
1.1.3. Nguồn sản vật địa phương.
Vào đầu thế kỷ XVII, dưới thời chúa Nguyễn Phúc Nguyên, C. Borri đã nhất trí
đánh giá tài nguyên của Đàng Trong với các thương gia châu Âu như sau: “Các thương gia
người Âu đã đến buôn bán ở đây nói rằng: các nguồn tài nguyên giàu có của xứ Đàng Trong
còn lớn hơn của chính Trung Hoa như chúng ta biết về mọi thứ”.[ 2, tr.36] Theo Lê Quý Đôn
thì Quảng Nam là nơi có nhiều sản vật, ruộng đất màu mỡ. Bên cạnh đó, nhân dân Quảng
Nam và các tỉnh miền Trung còn phát triển các ngành nghề để khai thác của cải, tạo nhiều
mặt hàng phong phú, đa dạng như nghề làm giấy, đúc đồng, dệt tơ lụa, khai thác sắt, vàng,
trầm hương, chạm trổ, khảm xà cừ…
Hội An là cảng ngoại thương nên xuất khẩu là chính. Do đó, Hộ i
An còn là nơi tập trung nguồn thổ sản rất dồi dào, sung dật của Quảng Nam
dinh. Một thương khách người Quảng Đông, thuộc họ Trần từ Trung Quốc
qua đã nói rằng: “ thuyền từ Sơn Nam về chỉ mua được một món là củ nâu, thuyền ở Thuận
H ó a v ề c h ỉ m u a đ ư ợ c m ộ t m ó n l à h ạ t t i ê u , c ò n t h u y ề n t ừ
Quảng Nam về thì trăm hóa vật không món gì là không có. Các phiên bang không nước nào
sánh kịp. Các hóa vật sản xuất ở phủ Thăng Hoa, Điện Bàn, Quảng Ngãi, Quy Nhơn….do
đường thủy bộ, đi thuyền, đi ngựa, đều tập hợp ở phố Hội An, cho nên rất đông thương
khách phương Bắc tới đó để mua, đem về nước Đường.Trước đây, hóa vật nhiều lắm, dẫu có
trăm chiếc thuyền lớn chở đi một lúc cũng không hết được. Hỏi tên các hóa vật và giá mua
bình thường thì y nói: Ở Quảng Nam tục gọi 100 cân là 1 tạ, cau giá 3 quan 1 tạ, hạt tiêu 20
quan, đậu khấu 5 quan, tô mộc 6 quan, sa nhân 12 quan, thảo quả 10 quan, ô mộc (gỗ mun) 6
tiền, hoa lê mộc (gỗ trắc) 1quan 2 tiền, tê giác 500 quan, yến sào 200 quan, gân hươu 15
quan, vây cá 14 quan, tôm khô 6 quan, rong biển 6 quan, ốc hương 12 quan, đồi mồi 180
quan, ngà voi 40 quan, đường phèn 4 quan, đường trắng 2 quan, còn các thứ hoạt thạch sắt,
phấn kẽm, hải sâm và mấy trăm vị thuốc Nam không thể kể xiết; còn kỳ nam lượng một cân
giá 120 quan, vàng 1 hốt giá 180 quan, nhục quế, trầm hương, trân châu rất tốt thì giá lên
x u ố n g n h i ề u í t k h ô n g n h ấ t đ ị n h … " [ 2 3 , t r . 2 3 4 – 2 3 5 ]
Điều đó cho thấy sự dồi dào của nguồn sản vật địa phương cũng như sự phong phú
của các luồng hàng tập trung ở Hội An như hàng thủ công, nguyên liệu, lâm thổ sản và
không ít những mặt hàng nông phẩm.
Tơ sống và các hàng dệt tơ với nhiều chủng loại là quan trọng bậc nhất, đứng hàng
đầu danh mục xuất khẩu. Cả vùng Thăng, Điện bắc xứ Quảng vào tới Quảng Ngãi, Quy
Nhơn, ven các dòng sông hầu như làng nào cũng trồng dâu nuôi tằm. Ghi chép của P. Poivre
cho biết: “tơ lụa ở Đàng Trong so với Trung Quốc thì hơn hẳn về phẩm chất và tinh tế. Tơ
đẹp nhất là của Quảng Ngãi, người Trung Quốc mua rất nhiều và kiếm lãi từ 10 – 15%” [38,
tr. 236.]
Một nông phẩm quan trọng xuất khẩu từ Hội An là đường. Thương nhân P. Poivre
trong chuyến đi Đàng Trong 1774 cho biết ở Đàng Trong có khoảng 20.000 tạ đến 60.000 tạ,
cần 80 thuyền chở mới hết. Việc dùng đường và bán đường phát triển mạnh đã khiến cho
nghề trồng mía và nấu đường phát triển theo.
Yến sào cũng là mặt hàng đặc sản, độc đáo của Đàng Trong. Yến sào từ Cù lao
Chàm đến các đảo Thuận Hải là hàng thực phẩm cao cấp nộp cho chính quyền và xuất khẩu.
Các thương nhân Hoa, Nhật, phương Tây rất ưa thích mặt hàng này. Bên cạnh đó, kỳ nam,
trầm hương, quế là những mặt hàng nông lâm sản quý, vốn là sản phẩm tự nhiên của rừng
núi. Việc khai thác trầm hương, kỳ nam, sừng tê, ngà voi đã lôi cuốn một bộ phận kinh tế
miền núi vào guồng thương mại.
Vàng là sản phẩm xuất khẩu lớn của Đàng Trong qua Hội An. Các thương nhân
phương tây đều ca ngợi vàng của Đàng Trong. Ngoài ra mặt hàng xuất khẩu của Hội An còn
có cau khô, hồ tiêu, các loại gỗ và một số hàng gốm, hàng mộc.
Chính sự giàu có về tài nguyên và ngành nghề phát triển đã làm cho miền Thuận
Quảng nói chung, Hội An nói riêng trở thành vùng đất hấp dẫn đối với các thương gia nước
ngoài. Hội An đã thực sự trở thành kho hàng, cung cấp nguồn hàng vô tận cho các thị trường
trong và ngoài nước.
1.2. Điều kiện xã hội.
1.2.1. Lịch sử hình thành thương cảng Hội An.
Trước thế kỷ XVI, đất Quảng nói chung, Hội An nói riêng là vùng đất có lịch sử lâu
đời. Người Chàm kế tiếp cư dân văn hóa Sa Huỳnh, rồi đến người Việt. Sự cộng cư giữa hai
dân tộc Chàm, Việt đã đóng vai trò quyết định trong quá trình mở mang phát triển kinh tế
vùng.
Trước khi Hội An ra đời, vùng cửa sông Thu Bồn đã trải qua thời kỳ văn hóa Sa
Huỳnh và Champa mà nhiều nhà khoa học quen gọi là thời kỳ tiền Hội An. Hội An có một
hệ tầng văn hóa xếp thứ tự theo trật tự thời gian – không gian sau:
Tầng Sa Huỳnh từ vài ba thế kỷ trước Công nguyên cho đến đầu Công nguyên ở vùng
Cồn Bàu ven sông trong và ven đường Bờ biển cổ. Từ vùng Ngũ Hành Sơn đến Hòa Quý
hiện tại, nghĩa là ven sông Cổ Cò – Để Võng và các phụ lưu hiện tại.
Tầng Champa từ một hai thế kỷ đầu Công nguyên cho đến thế kỷ XV. Nối các di tích
Champa đã được phát hiện đến nay từ Rọc Gốm An Bang – Lùm Bà Yàng thuộc Thanh
Chiêm xã Cẩm Hà vùng non nước Ngũ Hành Sơn – và có thể cả Trung Phường hai bên cửa
Đại, kể cả một số giếng Chăm cổ ở Cẩm Phô, Sơn Phô, Cù Lao Chàm và Trung Phường. Có
thể đi đến kết luận đã khá vững chắc rằng: Hội An cổ vốn đã là một cảng – thị phồn vinh từ
thời đại Champa. Đấy có thể là Lâm Ấp Phố được ghi lại trong Thủy Kinh Chú thế kỷ VI mà
Cù lao Chàm (Chiêm Bất Lao) là bức bình phong ngoài cửa biển và Bến Cồn Chăm (Bàn
Thạch) là cảng cuối từ cửa biển vào, trước khi ngược sông Bà Rén để lên kinh đô Trà Kiệu
Simhapura. [45, tr.58]
Khảo cổ học đã phát hiện và khai quật nhiều di tích văn hóa Sa Huỳnh muộn (khoảng
một vài thế kỷ TCN đến thế kỷ I SCN) trên các cồn cát bên tả ngạn sông Thu Bồn thuộc xã
Cẩm Hà như An Bang, Hậu Xá, Thanh Chiêm. Rõ ràng cư dân Sa Huỳnh đã cư trú trên một
số cồn cát, doi đất cao hạ lưu sông Thu Bồn. Văn hóa Champa cũng để lại dấu tích ở xã Cẩm
Hà, Cẩm Thanh qua những di vật gốm sứ Trung Quốc có niên đại thế kỷ IX (Hậu Xá I – II,
Cẩm Hà), XII – XIII (Bàu Đá, Cẩm Thanh), XIV (Tràng Sỏi, Cẩm Hà). Đặc biệt, kết quả
thám sát và khai quật địa điểm Bãi Làng trên Cù lao Chàm đã tìm thấy gốm Chăm thô, gốm
Trung Quốc thế kỷ IX – X, gốm Islam thế kỷ IX, thủy tinh nguyên liệu có nguồn gốc từ
Funstat (Ai Cập), một số đồ thủy tinh gia dụng sản xuất từ Ai Cập, Iran khoảng thế kỷ IX.
Những di tích và di vật trên chứng tỏ khi kinh đô Trà Kiệu và thánh địa Mỹ Sơn của
Champa xây dựng trên thượng lưu sông Thu Bồn thì vùng cửa sông và Cù lao Chàm hẳn có
một vị trí trọng yếu trong sự phòng vệ đất nước và là cửa ngõ giao thương với thế giới bên
ngoài. Trên mặt đất, vùng quanh Hội An cũng còn để lại một số dấu tích và di vật có nguồn
gốc Chăm như di tích kiến trúc ở Lùm Bà Yàng (Thanh Chiêm – Cẩm Hà), tượng thờ ở lăng
Bà Lồi, giếng Chăm rải rác nhiều nơi nhất là ở Trung Phường. Những chứng tích này cho
phép đi đến một nhận xét khái quát: người Chăm đã từng là chủ nhân khá sớm trên mảnh đất
Hội An. Hội An một mặt kế thừa những thành quả khai phá của Chiêm cảng xưa, mặt khác
được trực tiếp chuẩn bị từ thế kỷ XV khi người Việt vào tụ cư ở đây.
Bối cảnh lịch sử ra đời của thương cảng Hội An, xét trong tình hình trong nước và thế
giới lúc bấy giờ có những đặc điểm riêng của nó.
Trong nước, năm 1558 Nguyễn Hoàng vào trấn thủ Thuận Hóa. Rồi năm 1570 kiêm
trấn thủ Quảng Nam. Vị chúa Nguyễn đầu tiên này đã thi hành nhiều biện pháp tích cực
nhằm khai phá đất hoang, mở mang xóm làng, phát triển công thương nghiệp. Chúa Sãi (
Nguyễn Phúc Nguyên) kế nghiệp từ năm 1613, càng phải đẩy mạnh các chính sách phát triển
kinh tế - xã hội để chuẩn bị đối phó các cuộc chiến tranh với họ Trịnh. Cuối thế kỷ XVI –
XVII, nền kinh tế Thuận Quảng có những bước phát triển mạnh mẽ. Chính sự phát triển kinh
tế đó, trực tiếp là sự phát triển kinh tế hàng hóa cùng với chính sách mở cửa của chúa
Nguyễn là cơ sở và tác nhân bên trong rất quan trọng, dẫn đến sự xuất hiện của một loạt đô
thị và thương cảng, trong đó có Hội An.
Hơn nữa, thế kỷ XVI – XVII cũng là thời kỳ mà Đông Nam Á và phương Đông nói
chung chứng kiến nhiều chuyển biến quan trọng.
Sau các phát kiến địa lý cuối thế kỷ XV, các nước phát triển phương Tây bắt đầu tràn
sang phương Đông và các hoạt động mậu dịch ngày càng sôi nổi, lần lượt lôi cuốn các nước
phương Đông vào thị trường khu vực và thị trường thế giới đang hình thành. Thuyền buôn
các nước Bồ Đào Nha rồi Hà Lan, Anh, Pháp tiến đến Hội An và các thương cảng khác của
Việt Nam.
Tất cả tình hình thế giới và khu vực trên đều tác động đến nền ngoại thương Việt Nam
nói chung và đời sống của thương cảng Hội An nói riêng. Đô thị thương cảng Hội An đã
hình thành đồng thời với sự phát triển của kinh tế ngoại thương Đàng Trong vào cuối thế kỷ
XVI, đầu thế kỷ XVII. Hội An với vị trí gần bên con đường hàng hải quốc tế sôi động đương
thời với những bến cảng tốt và với sự trù phú của xứ Quảng đã nhanh chóng gia nhập vào
các hoạt động mậu dịch quốc tế trong khu vực.
Như vậy, qua các tầng văn hóa Sa Huỳnh – Chăm – Việt vừa tiếp nối vừa giao thoa
trong lịch sử, cuối cùng xu thế Việt ngày càng chi phối, nền tảng Việt ngày càng bền vững.
Trên cơ sở đó, khi trở thành thương cảng Hội An, vùng đất này đã mở rộng cửa đón nhận
những thành tố văn hóa ngoại nhập của Nhật, Hoa và một số nước Đông Nam Á cũng như
các nước phương Tây khác. Vì thế cũng có thể nói rằng, Hội An không những là một thương
cảng, một cửa ngõ mậu dịch đối ngoại mà còn là một trung tâm giao tiếp văn hóa. Hai mặt
văn hóa và kinh tế đó có quan hệ mật thiết với nhau và tạo nên sắc thái rất riêng của Hội An.
1.2.2. Đặc điểm cư dân và sinh hoạt kinh tế.
Về mặt văn hóa – lịch sử, Hội An là tâm điểm, nơi giao thoa giữa Bắc – Nam, Đông –
Tây nên được nhiều lớp cư dân sớm muộn khác nhau chọn làm địa bàn cư trú. Cư dân văn
hóa Sa Huỳnh, sau đó cư dân Chàm, rồi thế kỷ XIV dân Đại Việt tiếp cư và sự cộng cư của
những lớp người khác nhau từ nguồn cội, nhân chủng, đặc điểm truyền thống văn hóa như
người Việt, người Nhật, người Hoa trên mảnh đất này.
Kể từ năm 1307, Hội An thuộc về đất Hóa Châu của Đại Việt, nhưng những cuộc
chiến tranh giữa Chăm và Đại Việt diễn ra liên tiếp. Việc chinh phục Hội An phải đến năm
1403 mới thực hiện được. Sự kiện đó được đánh dấu bằng việc nhà Hồ mở thêm đất Thăng
Hoa – Tư Nghĩa và Hồ Hán Thương đưa dân đến chiếm cứ lập nghiệp tại vùng này. Dần dà
trên đất Hội An xuất hiện một số làng mang tên Cẩm Phô, Hoài Phố, Thanh Hà…của người
Việt.
Qúa trình cộng cư thông qua hoạt động kinh tế nông nghiệp, đặc biệt qua trao đổi
thương nghiệp đã tạo ra những mối giao lưu văn hóa giữa các cộng đồng cư dân ở đây với
nhau, giữa họ với các vùng khác của Việt Nam, đồng thời giữa Việt Nam với các nước khác
trong khu vực Đông Nam Á.
Nông nghiệp thường được coi là gốc, rễ hoặc là nền móng của các xã hội cổ truyền
Việt Nam. Nhưng tại Đàng Trong, trong hai thế kỷ XVII, XVIII, họ Nguyễn đã lấy số tàu,
thuyền tới Đàng Trong buôn bán làm tiêu chuẩn đánh giá mức thịnh vượng của vương quốc
mình. Bên cạnh đó, một đặc điểm rất khác của nền kinh tế Đàng Trong dưới thời các chúa
Nguyễn là phần lớn các mặt hàng được đem ra trao đổi lại không phải là sản phẩm của nông
thôn người Việt tại đồng bằng mà là những sản phẩm của miền núi. Vào thời kỳ đầu của lịch
sử Đàng Trong, người Việt không chiếm đa số và chỉ là một trong số dân tộc chính, định cư
trên một vùng đất trước đây có người khác sinh sống.
Trước khi người Việt từ đồng bằng sông Hồng tới thì giữa người đồng bằng và cao
nguyên ở đây đã có mối quan hệ buôn bán từ lâu đời. Tuy nhiên, khi người Việt gia tăng và
tàu vụ phát triển thì việc buôn bán giữa người đồng bằng với người vùng cao nguyên ngày
càng tiến triển. Các trung tâm buôn bán mới xuất hiện để đáp ứng nhu cầu trao đổi mỗi ngày
một trở nên thường xuyên hơn. Mối quan hệ giữa người Việt với người Thượng, người Lào
và người Khmer được thiết lập. Con đường thương mại quan trọng nhất ở Đàng Trong vào
buổi đầu chạy qua đèo Ai Lao, từ sông Mêkông đến bờ biển gần Quảng Trị, tập trung ở thị
trấn Cam Lộ.
Theo C. Borri thì “Xứ Đàng Trong có rất nhiều thứ thuận lợi cho sinh hoạt con người.
Vì thế mà dân xứ này không ưa và không có khuynh hướng đi đến các nơi khác để buôn bán
cũng như không bao giờ ra khơi xa quá độ không còn trông thấy bờ biển và lãnh thổ của tổ
quốc yêu quý của họ” [2, tr.88] Tuy nhiên, theo Hai Fang Yao vào thời kỳ này, người dân
Đàng Trong cũng tham gia vào việc buôn bán với nước ngoài. Năm 1611, có 73 người định
buôn bán với Trung Hoa đã bị quân đội bắt giữ tại vùng biển gần Quảng Châu, sau này có
thêm 25 người nữa. Tất cả đều khai họ là người huyện Hà Đông, phủ Thăng Hoa của An
Nam. [Dẫn theo 24, tr. 105 – 106]
Đây là tài liệu duy nhất chúng ta có thể biết được người dân thường Việt Nam đôi khi
cũng tham gia vào việc buôn bán vượt biển khơi này, cho dù chỉ là nhất thời.
Qua đó, chúng ta cũng có thể hình dung được phần nào đặc tính sinh hoạt kinh tế của
cư dân Hội An nói riêng và vùng Thuận Quảng nói chung. Với nguồn sản vật địa phương
phong phú, cùng với sự thuận lợi về địa thế cảng biển đã khiến cho Hội An trở thành nơi tập
trung, kho hàng lớn nhất Đàng Trong. J. Buttinger cũng thừa nhận: “kể từ năm 1540, Hội An
đã là hải cảng chính trong xứ để hàng hóa ngoại quốc du nhập vào Cochichine”. [Dẫn theo
13, tr.53]
Có một thực tế rằng, kinh tế thương nghiệp là hoạt động chi phối toàn bộ nền kinh tế ở
thương trường Hội An, song trên địa bàn cư trú Hội An và vùng phụ cận vẫn có cư dân hoạt
động nông nghiệp, ngư nghiệp, thủ công nghiệp, vận chuyển hoặc khai thác, chế biến hải sản
như Đế Võng, Diêm Hộ, Võng Nhi…nhằm phục vụ cho thương trường Hội An.
Nói tóm lại, cùng với nguồn sản vật phong phú, dưới tác động mạnh mẽ của nền kinh
tế hàng hóa mà đời sống sinh hoạt kinh tế của cư dân Hội An đã ngày càng khởi sắc. Nhờ có
những nguồn lợi lớn từ ngoại thương mà nhiều bộ phận trong xã hội trở nên có cuộc sống
sung túc. Họ cũng quen sử dụng những phẩm vật cao cấp, ngoại nhập. Theo như Lê Quý
Đôn thì “quan viên lớn nhỏ không ai là không nhà cửa chạm gót, tường vách gạch đá, the
màn trướng đoạn, đồ đạc đồng thau, bàn ghế gỗ đàn, gỗ trắc, chén mâm đồ sứ, đồ hoa, yên
cương vàng bạc, y phục gấm vóc, chiếu đệm mây hoa, phú quý phong lưu, đua nhau khoe
đẹp. Những sắc mục ở dân gian cũng mặc áo đoạn hoa bát ty và áo sa, lương, địa làm đồ mặc
ra vẻ thường, lấy áo vải mộc làm hổ thẹn. Binh sỹ đều ngồi chiếu mây, dựa quả tựa hoa, ôm
lò hương cổ, ham chè hảo hạng, uống chén sứ bịt bạc và nhổ ống nhổ thau, đĩa bát ăn uống
thì không cái gì không phải hàng Bắc. Một bữa cơm ba bát lớn. Đàn bà con gái thì mặc áo
the và hàng hoa, thêu hoa ở cổ tròn. Coi vàng bạc như cát, thóc gạo như bùn, xa xỉ rất mực.”
[23, tr. 335]
Qua những lời miêu tả hết sức cặn kẽ này có thể thấy nhờ có hoạt động ngoại thương
buôn bán mà đời sống kinh tế của cư dân Hội An đã trở nên sung túc và chính đặc điểm này
đã giúp cho quá trình cộng cư giữa các nhóm cư dân khác nhau diễn ra thuận lợi, êm thắm.
Bên cạnh những xóm làng của người Việt đã hình thành những phố Khách của người Hoa
hay người Nhật và vô hình chung mối liên hệ đó đã tạo ra một mảng màu đẹp cả trong đời
sống văn hóa cũng như sinh hoạt kinh tế của cư dân Hội An nói chung.
1.2.3.Chính sách của chính quyền Đàng Trong.
Năm 1558, vì nhiều nguyên nhân, Nguyễn Hoàng, con trai thứ của Nguyễn Kim đã
được sự chấp thuận của Trịnh Kiểm vào trấn thủ khu vực Thuận Hóa. Sự ra đi đó của
Nguyễn Hoàng trên thực tế đã mở ra một thế cục chính trị mới cho vùng đất này. Sau khi
làm chủ được vùng Thuận Quảng từ năm 1570, Nguyễn Hoàng và những người thân tín của
ông đã tìm nhiều cách để chiêu dụ hiền tài, khuyến khích dân di cư, tích cực khai phá những
vùng đất mới, mở rộng lãnh thổ của mình xuống phía nam, đồng thời thi hành chính sách đối
ngoại tích cực.
Trong một thế cuộc chính trị hết sức phức tạp, Nguyễn Hoàng đã đi đến một sự lựa
chọn táo bạo mà chính ông cũng chưa có nhiều kinh nghiệm là đặt cược thể chế của mình
vào sự hưng vong của kinh tế ngoại thương. [32, tr.22] Là một người có tư tưởng khoan
dung, giỏi thủy chiến, có tầm nhìn và tư duy chính trị nhạy bén, để thu phục nhân tâm trên
vùng đất mới và tạo nên những kháng lực cần thiết chống lại thế lực Lê – Trịnh ở Đàng
Ngoài, chính quyền nhà Nguyễn đã thực thi một chính sách mở cửa, tiếp nhận những di sản
truyền thống mà tiêu biểu là bản tính hướng biển của cư dân Champa.[46, tr.12]
Trong bối cảnh quốc tế thời đại bấy giờ, Đàng Trong cũng chủ động, tích cực hướng
đến những thị trường và đối tác kinh tế lớn của khu vực và thế giới như Trung Quốc, Nhật
Bản, Xiêm, Bồ Đào Nha, Hà Lan, Anh…Nhờ đó, sức mạnh kinh tế của Đàng Trong đã có sự
tăng trưởng nhanh chóng và về bản chất những chính sách đối ngoại mà Nguyễn Hoàng và
các chúa Nguyễn theo đuổi luôn cởi mở, rộng rãi hơn so với Đàng Ngoài.
Trong quá trình kiến lập trên vùng đất mới, khác hẳn với chính quyền Lê – Trịnh ở
phía Bắc về cơ bản vẫn theo đuổi chính sách trọng nông, Nguyễn Hoàng đã sớm xác định
rằng thể chế Đàng Trong không thể tồn tại và phát triển nếu chỉ dựa vào kinh tế nông nghiệp.
Với ông, nhiệm vụ tiên quyết là phải xây dựng bằng được một chính thể độc lập với chính
quyền Lê – Trịnh ở Đàng Ngoài. Chính thể đó phải dựa trên căn bản kinh tế thương
nghiệp.[29, tr.65] Tuy nhiên, để củng cố vị thế của mình ở Đàng Trong, mở rộng lãnh thổ
vào phía Nam, các chúa Nguyễn đã đồng thời thực thi nhiều chính sách tích cực về nông
nghiệp.
Các chúa Nguyễn đã khuyến khích nhân dân làm ăn theo ba hướng:
Thứ nhất là phát triển các loại ngành nghề như rèn, đúc, chạm trổ, điêu khắc, trồng
dâu, dệt vải lụa, đan lát, nghề cá, khai thác gỗ và lâm sản, khai thác quặng sắt và đãi
vàng…Nhân dân được tự do hành nghề, miễn giảm thuế má, lao dịch.[23, tr.341]
Thứ hai là tập trung vào ngành trồng trọt để tạo ra lương thực. Đây là vấn đề cốt tử
của Nhà nước lúc bấy giờ. Vì vậy phải giao ruộng đất cho dân. [23, tr. 125 – 126]
Thứ ba là mở rộng và giao lưu khuyến khích hàng hóa trong từng vùng và giữa các
vùng với nhau. Nhờ chính sách lưu thông tự do mà sản phẩm làm ra ở các phủ Thăng Hoa,
Điện Bàn, Quảng Ngãi…đường thủy, đường bộ đều hội tập ở Hội An để bán cho tàu buôn
nước ngoài. Để khuyến khích giao lưu hàng hóa, Nhà nước cho mở mang đường sá, quy định
đơn vị đo lường thống nhất, trừ sự oán ghét, nghiêm cấm các thổ hào quấy rối người đi
buôn.[23, tr.126]
Bên cạnh đó, phát triển ngoại thương là một sự đổi mới trong chính sách kinh tế của
các chúa Nguyễn. Coi ngoại thương là một trong những cơ sở quan trọng phục vụ cho Đàng
Trong và ngược lại, chúa Nguyễn đã tận dụng tối đa những thuận lợi sẵn có để ngoại thương
phát triển. Điều này đã được C. Borri khẳng định trong bản tường trình của mình viết về
Đàng Trong năm 1623: “Phương châm của người Đàng Trong là không bao giờ sợ một nước
nào trên thế giới. Thật là hoàn toàn trái ngược với vua Trung Hoa, ông này sợ tất cả, đóng
cửa không cho người ngoại quốc vào và không cho buôn bán với nước ông.”[2, tr.93]
Chúa muốn tận dụng những thuận lợi về mặt tự nhiên của Đàng Trong để kêu gọi, mời
chào các nước bạn bằng các bức thư mời đến Đàng Trong buôn bán, trong đó đặc biệt là các
bức thư gửi cho Nhật Bản.
Bên cạnh đó, Chúa Nguyễn còn tạo mọi điều kiện cho khách buôn đến Đàng Trong và
khi đã lôi cuốn một lượng khách buôn nước ngoài đến Đàng Trong, chúa Nguyễn còn tạo
mọi điều kiện buôn bán thuận lợi nhằm giữ chân họ. Nhật Bản, Trung Quốc, Bồ Đào Nha,
Hà Lan là những khách hàng lớn của Đàng Trong thời kỳ này nên họ đã được hưởng nhiều
chính sách ưu đãi về mọi mặt.
Chúa Nguyễn Phúc Nguyên đã cho lập một khu phố dành riêng cho người Nhật và
người Hoa tại Hội An. Xây dựng phố Nhật, phố Hoa với nhiều chính sách ưu đãi đã biến Hội
An thành thành phố sinh lời cho Đàng Trong, tạo nên sức hấp dẫn, lôi cuốn những nước khác
đến xứ này.
Như vậy, khác với Đàng Ngoài, chúa Nguyễn không tìm cách tách thương nhân nước
ngoài ra khỏi người Việt, biệt lập họ với kinh đô như vua Lê, chúa Trịnh thực hiện ở bến
Vân Đồn và Phố Hiến nhằm tạo nên một sự hòa hợp, năng động cho nền kinh tế.
Để lôi cuốn thương nhân ngoại quốc đến buôn bán, mặc dù thực hiện một số biện pháp
hạn chế tôn giáo nhưng trong những thời điểm nhất định chúa Nguyễn vẫn cho người nước
ngoài được thực hiện quyền tự do về tôn giáo. Nhờ đó mà các giáo sĩ và các thương nhân
theo Công giáo vẫn có thể thường xuyên đến buôn bán và hành lễ. Điều đáng chú ý là, chủ
trương đó của chính quyền Thuận Hóa được thực hiện trong bối cảnh ở Nhật Bản, Cơ Đốc
giáo ngày càng bị kiểm soát, cấm đoán chặt chẽ và chính quyền Đàng Ngoài cũng hết sức
cảnh giác với dị giáo này. Và như một hệ quả tất yếu, Hội An đã trở thành điểm đến của các
giáo sĩ từ Nhật Bản, Ma Cao, Malacc._.iển, mở rộng
và có trình độ kỹ thuật cao, nhằm cung cấp những sản phẩm thiết yếu cho thị trường.
Quá trình buôn bán này không những giúp cho nước Nhật giàu mạnh mà còn giúp cho
một số thương nhân tích lũy được số vốn lớn để đầu tư phát triển kinh tế như Suminokura.
Trong những năm 1603 – 1635, Suminokura đã đến Việt Nam buôn bán 17 lần. Mỗi chuyến
đi thu lãi suất từ 100% đến 200%. Để có nguồn hàng hóa buôn bán, Suminokura đã tiến hành
khai thông hệ thống sông ngòi ở Kyoto, như sông Hozukawa làm cho nền “thương nghiệp
Kyoto khởi sắc….Người dân được hưởng lợi”. Tiếp đó, ông đào con sông mới là
Takesegawa dài 3 km nối Kyoto – Fushimi. Nó được thực hiện trong vòng hai năm và chi
phí hết 75.000 lượng vàng. [Dẫn theo 49, tr.170]
Nhìn lại lịch sử thương mại Đông Nam Á thế kỷ XV – XVII chúng ta thấy: Hoa
thương đã giữ vai trò trọng yếu trong thế kỷ XV, giai đoạn cuối thế kỷ XVI và thế kỷ XVII,
Bồ Đào Nha thế kỷ XVI, Nhật Bản chi phối thị trường khu vực đầu thế kỷ XVII và thế kỷ
XVII, XVIII là thời đại của công ty Đông Ấn Hà Lan. Trong tiến trình đó, nếu không kể các
hoạt động kinh tế của vương quốc Ryukyu thì các đoàn thuyền buôn Nhật Bản chỉ tham gia
vào mạng lưới thương mại khu vực nói chung và Hội An nói riêng trong một khoảng thời
gian tương đối ngắn. Tuy nhiên, Nhật Bản đã sớm khẳng định được vị thế kinh tế của mình
và dần giữ vững thế chủ động trong các mối quan hệ kinh tế.
Thứ ba, người Hoa trong các thế kỷ XVI, XVII là một trong số những thương nhân
ngoại quốc có ảnh hưởng lớn đến thị trường Hội An. Ngay từ đầu thế kỷ XV, trong vòng 28
năm (1405 – 1433) theo lệnh Minh Thành Tổ, Trịnh Hòa (Zheng He, 1371 – 1433) đã chỉ
huy hạm đội hạ Tây dương. Trong 7 chuyến đi đó, Trịnh Hòa đều cho hạm đội từ Nam Kinh
tập trung ở Phúc Kiến rồi từ đó tiến đến cảng Chiêm Thành. Từ cảng thị này, hạm đội của
Trịnh Hòa đã chia thành nhiều phái bộ đến các quốc gia Đông Nam Á và tiến sang Tây Nam
Á, châu Phi. Như vậy là khởi đầu từ thời Đường, phát triển trội vượt vào thời Tống, đến thời
Minh do những tiến bộ về kỹ thuật đóng thuyền và tri thức hàng hải, nhiều đoàn thuyền lớn
của các quốc gia châu Á không phải nhất thiết tuân thủ theo các tuyến hải thương truyền
thống nữa. Từ miền Nam Trung Hoa hay Nhật Bản, các đoàn thuyền buôn có thể tiến thẳng
đến các cảng Đông Nam Á. Do vậy, các cảng miền Trung trong đó có Hội An trở thành đầu
mối giao thương trực tiếp với các trung tâm kinh tế lớn khu vực.
Tại Hội An, hiểu rõ năng lực tổ chức, kỹ thuật sản xuất, buôn bán của người Hoa và
những thông tin đa dạng mà họ có được, chúa Nguyễn đã sử dụng thế lực của Hoa thương,
Nhật Bản cùng các thương nhân châu Á để tăng cường nội lực, biến ngoại lực thành nội lực
nhằm tạo nên thế đối trọng Á – Âu, Đông – Tây trong quan hệ quốc tế. Hơn nữa, do có kinh
nghiệm và tri thức buôn bán nên hàng hóa mà Hoa thương đem đến Đàng Trong luôn phù
hợp với nhu cầu tiêu dùng và sức mua của cư dân bản địa. Theo Jan Pieterszoon Coen, Toàn
quyền Hà Lan ở Batavia thì ông luôn đánh giá cao tính siêng năng, cần cù của người Hoa
cũng như kỹ năng của họ trong nhiều nghề thủ công buôn bán trà và sản xuất đường [8,
tr.507] Vì thế, thương nhân Hoa kiều luôn nhận được ưu ái của chính quyền chúa Nguyễn về
thuế quan, địa điểm và phạm vi buôn bán. Hoa thương cũng được chúa Nguyễn cho phép lập
phố Khách để định cư, buôn bán, lập các hội quán cũng như xây dựng miếu chùa đáp ứng
nhu cầu tâm linh của người Hoa.
Cũng cần phải nói thêm rằng, trong các thế kỷ XVI – XVII, đặc biệt là sau năm 1644,
triều Minh sụp đổ, người Hoa nhất là cư dân các tỉnh vùng Đông Nam đã có sự chuyển dịch
lớn sang các quốc gia láng giềng Đông Á. Quá trình di cư đó đã bổ sung và góp phần hình
thành nên các cộng đồng Hoa kiều đông đảo tập trung ở các thành thị, thương cảng. Người
Hoa chọn Hội An vì không gần Hoa lục như lãnh thổ phía Bắc và vì Hoa thương đến Hội An
buôn bán lén lút ít bị nhũng nhiễu hơn Thanh Hà vì quá gần Phú Xuân. So với các điểm buôn
bán khác ở nước ta, Hội An lại nằm gần đường hàng hải thương mại quốc tế từ Thái Lan,
Malacca, Indonesia lên thị trường phía bắc (Nhật Bản, Trung Quốc). Ở Hội An, chúa
Nguyễn cho phép người Hoa được thành lập Minh Hương xã – làng Minh Hương đầu tiên ở
Việt Nam, cho họ nhập tịch và chịu mọi nghĩa vụ như người dân Việt Nam. Những điều kiện
thuận lợi đó giúp cho giới Hoa thương phát huy vai trò quan trọng của mình trong các hoạt
động kinh tế. Trải qua một quá trình định cư lâu dài, mặc dù luôn sống tập trung thành
những cộng đồng tương đối tách biệt, có cơ chế tự quản riêng nhưng họ đã không thể tự
mình phát triển thành khối cư dân hoàn toàn độc lập, có một chính quyền tự trị. Hoạt động
của họ vẫn gắn bó chặt chẽ với điều kiện kinh tế, môi trường xã hội và chịu sự quản lý của
chính quyền sở tại.
Một điều không thể phủ nhận là thương nhân người Hoa không chỉ có kinh nghiệm đi
biển mà khả năng giao tiếp và buôn bán của họ thật tuyệt vời. Hoa kiều không chỉ đông về số
lượng, có tinh thần gắn kết cộng đồng cao, có những đội thương thuyền mạnh hoạt động trên
biển mà còn là những người có hiểu biết sâu sắc về đời sống văn hóa, xã hội và tiềm lực kinh
tế của nhiều quốc gia, khu vực. Thông qua các hoạt động thương mại, cùng với những đợt di
chuyển dân cư, nhiều giá trị văn hóa Trung Hoa đã được truyền tải đến cư dân sở tại. Ngay
từ thế kỷ XVI – XVII, cộng đồng người Hoa đã là nhóm ngoại kiều lớn nhất, giữ vai trò
đáng kể trong nhiều ngành kinh tế đặc biệt là kinh tế thương mại. Hoạt động kinh tế của giới
Hoa thương nói chung và ngoại thương nói riêng đã tạo nên những chuyển biến nhất định
trong đời sống kinh tế của các nước trong khu vực.
Trong quá trình mở rộng hoạt động trao đổi buôn bán, thương nhân Trung Hoa đã sử
dụng một cách có hiệu quả sức mạnh của nền kinh tế Trung Quốc và hệ thống kinh doanh
tiền tệ. Sau khi chính quyền Tokugawa thực thi chính sách tỏa quốc (sakoku), không cho
phép thuyền Châu ấn đi ra nước ngoài. Lập tức, giới Hoa thương đã chiếm lĩnh thị trường
Hội An và cả khu vực Đông Nam Á. Do thu được nhiều mối lợi từ thị trường Đàng Trong,
nhiều Hoa thương Quảng Châu, Phúc Kiến, Hải Nam…đã trở thành những nhà kinh doanh
lớn, giàu có. Trước tác động của chính sách tỏa quốc, cùng với thương nhân Hà Lan, giới
Hoa thương đã đóng vai trò quan trọng trong việc tiếp tục duy trì quan hệ thương mại giữa
Nhật Bản với Việt Nam và thị trường Đông Nam Á. Như vậy, một cách tự nhiên, mối quan
hệ kinh tế giữa chính quyền Đàng Trong với Nhật Bản và Trung Hoa đã được thiết lập và có
sự tương hỗ, tác động qua lại lẫn nhau.
Hoạt động của Hoa thương và các thương nhân Nhật Bản không chỉ giúp cho thương
cảng Hội An thêm phồn thịnh mà nó còn xe tơ kết mối cho các cuộc hôn nhân giữa Hoa kiều,
Nhật kiều với người Việt, làm cho sự giao tiếp văn hóa thêm sâu đậm. Hoa kiều và Nhật kiều
không chỉ sống đóng kín ở phố Nhật, phố Khách hay làng Minh Hương mà còn hòa nhập vào
cộng đồng cư dân bản địa với các công trình văn hóa như xây dựng cầu, miếu, đền chùa mà
ngày nay nó vẫn còn được bảo tồn, lưu giữ.
Thứ tư, quan hệ giữa các nước Nhật Bản, Trung Hoa với Việt Nam đã tác động mạnh
mẽ tới kinh tế Hội An cũng như kinh tế - xã hội Việt Nam. Sự trao đổi hàng hóa tạo nên nhu
cầu hình thành những vùng chuyên canh nông nghiệp, dâu tằm, mía, quế từ Thăng Điện đến
Phú Yên, Nha Trang, phục vụ cho nhu cầu trong nước và ngoài nước. Thủy sản được khai
thác nhiều loại. Lâm sản từ miền tây xứ Quảng đến Tây nguyên được đưa về Hội An. Người
Đàng Trong lên rừng tìm sản phẩm rồi lại đưa ra biển xuất khẩu. Hoạt động kinh tế nhộn
nhịp đó khiến cho Lê Quý Đôn khi vào Thuận Quảng năm 1776 đã nhận xét: “Thuận Hóa có
nhiều của cải, đều lấy ở Quảng Nam vì xứ ấy đất đai phì nhiêu nhất thiên hạ”.[23, tr.337]
Hoạt động trao đổi, buôn bán còn giúp cho các ngành nghề thủ công phát triển về quy
mô và trình độ chuyên môn hóa. Trên cơ sở những nghề phụ gia đình đã xuất hiện những
làng nghề, phường nghề nổi tiếng, số lượng thợ theo quy mô ngành nghề lớn, mang tính chất
chuyên nghiệp. Những sản phẩm thủ công và những nông sản khác đã trở thành hàng hóa và
sản xuất nhằm mục đích xuất khẩu là chủ yếu. Sự phát triển thủ công, thương nghiệp làm
cho nền kinh tế hàng hóa mở rộng sự giao lưu kinh tế giữa các vùng miền và những tuyến
buôn bán mới trong cả nước. Nhờ có sự tiếp xúc với các thương nhân nước ngoài mà nhân
dân học hỏi thêm được nhiều nghề mới hoặc phát triển, mở rộng các ngành nghề có sẵn và
trên cơ sở này, truyền nhập kỹ thuật mới.
Nghề dệt tơ vải của Quảng Nam rất nhiều chủng loại như nhung, the, lụa, lãnh, sa. Kỹ
thuật dệt ở các làng Dương Xuân, Sơn Điền, Vạn Xuân Thuộc Thừa Thiên là vốn cũng bắt
nguồn từ Quảng Nam vì ông Tổ ba đời của các phường dệt này là người phủ Thăng Hoa
từng học nghề dệt của người Trung Hoa rồi truyền lại. [42, tr.244]
Thương nghiệp và đô thị Hội An thúc đẩy gốm Thanh Hà, mộc Kim Bồng phát triển.
Gốm Thanh Hà xuất hiện sớm, từ giữa thế kỷ XVI, đến lúc này thì phát triển thêm nhiều mặt
hàng, đặc biệt là hàng gốm sử dụng trong nghề làm đường. Ngoài những mặt hàng nồi,
niêu… thì loại lon vại đựng đường cho người sản xuất và các thương gia chiếm một khối
lượng lớn.
Việc xuất khẩu hàng năm ở Hội An với nhiều loại hàng cần số lượng bao bì lớn, vì thế
nó tạo ra nhiều mặt hàng mới cho thợ mộc Kim Bồng đó là làm thùng đựng quế và ghe bầu.
Quan hệ kinh tế tiền tệ, đối ngoại cũng tác động mạnh về mặt xã hội . Trong xã hội
Việt Nam lúc bấy giờ, tầng lớp thương nhân còn ít ỏi và không được coi trọng nhưng lực hút
của hoạt động thương nghiệp, của vòng xoay tiền – hàng – tiền đã khiến cho tầng lớp thương
nhân ngày càng đông đảo và tác động mạnh mẽ tới tầng lớp trên của xã hội – vua quan cũng
tích cực tham gia vào hoạt động công thương, vốn trước kia khá xa lạ.
Thứ năm, việc mua bán hàng hóa ở Hội An còn góp phần tạo ra một số thị tứ và đô thị
như Tam Kỳ, Nước Mặn, Kim Sơn, An Thái tạo nên một quan hệ có tính chất vừa hỗ trợ vừa
bổ sung thường xuyên cho Hội An. Sự mở cửa của Hội An lại được các thị tứ này nuôi
dưỡng. Trong một mối quan hệ xa hơn, Đà Nẵng – Touran được coi như một tiền cảng của
Hội An, dinh trấn Quảng Nam cũng nằm trên sông Thu Bồn, là nơi các tàu thuyền nước
ngoài đến trình báo, dâng lễ. Như vậy, thương nghiệp Hội An phát triển có ba tầng thứ: khu
vực trong vùng Thăng – Điện, rộng hơn cả là Đàng Trong hội tụ về và trên cơ sở này mở
rộng ngoại thương ra ngoài các nước Đông Nam Á.[35, tr.268]
Rõ ràng Hội An trong quan niệm đô thị học không thể chỉ bó gọn trong một trung tâm
của phố chợ và bến cảng, mà còn bao gồm cả vùng ngoại vi nằm trong phạm vi quan hệ và
hoạt động trực tiếp của đô thị - thương cảng đó.
Như vậy, việc mở cửa, khuyến khích phát triển ngoại thương của các chúa Nguyễn đã
giúp cho hoạt động buôn bán của người Nhật, người Hoa được thuận lợi, kiếm được nhiều
lợi nhuận. Đồng thời, chính họ cũng giúp cho nền thương mại ở Đàng Trong nói riêng thêm
khởi sắc, Hội An trở thành nơi đô hội nhất Việt Nam thế kỷ XVII.
KẾT LUẬN
Đông Nam Á là nơi gặp gỡ và hội tụ các đầu mối giao lưu giữa các châu lục bằng hệ
thống giao thương trên đại dương cũng như mạng lưới cảng sông nối liền trung tâm kinh tế
của các quốc gia cận biển với những khu vực nằm sâu trong lục địa. Trong những thế kỷ
XVI, XVII, sự hưng khởi của Hội An đã mang một luồng sinh khí mới cho kinh tế và văn
hóa Đàng Trong. Kinh tế ngoại thương phát triển đem đến một diện mạo mới, một sức mạnh
thực sự cho chính quyền nhà Nguyễn. Nhờ đó, chỉ sau một thời gian, từ Chiêm cảng suy tàn,
Hội An mau chóng phục hưng và trở thành trung tâm thương mại lớn của Đông Nam Á. Rõ
ràng, mối quan hệ giữa người Việt với người Nhật và người Hoa đã phản ánh phần nào diện
mạo kinh tế ngoại thương Việt Nam thế kỷ XVI, XVII cũng như sự phát triển của thời đại
thương mại thế giới và vị thế của các cảng thị Việt Nam trong hệ thống buôn bán ở biển
Đông. Dưới tác động của luồng thương mại hàng hải quốc tế, Hội An đã trở thành đầu mối
giao lưu với bên ngoài, đã phát huy tác dụng là cửa ngõ giao lưu với thế giới. Hội An cùng
với Goa (Ấn Độ), Ayuthaya (Siam), Malacca (Malysia), Batavia (Indonesia), Luzon
(Philippines)…nối kết với Formosa (Đài Loan), Macao, Hạ Môn (Trung Quốc), Deshima
(Nhật Bản), Pusan (Hàn Quốc) tạo nên một hệ thống thương mại tương đối chặt chẽ và hoàn
chỉnh của châu Á.
Trong bối cảnh lịch sử trong nước và thế giới lúc đó, các chúa Nguyễn đã biết cách
khai thác Hội An để tăng cường nguồn lực to lớn phục vụ cho mục đích chính trị. Việc “mở
cửa”, khuyến khích ngoại thương phát triển, mời gọi và tạo điều kiện cho thương nhân các
nước đến buôn bán đã có tác dụng tích cực về mặt đối nội, giúp chúa Nguyễn củng cố quyền
lực và sức mạnh kinh tế. Điều đáng nói ở đây là đóng góp của Hội An đã đẩy mạnh những
hoạt động kinh tế ở Đàng Trong. Là vùng đất mới khai thác, phải từ cuối thế kỷ XIV về sau,
người Việt mới vào đây mà đầu tiên là miền đất lưu đày của những người bị tội lưu đày viễn
châu. Nó từng là vùng đất “Ô châu ác địa” nhưng chính luồng thương mại từ Hội An (cuối
thế kỷ XVI về sau) đã khoác lên một chiếc áo mới cho vùng đất này.
Thương nghiệp Hội An đã góp phần nâng cao sức mạnh kinh tế của xứ Quảng và các
vùng xung quanh, kích thích một số ngành kinh tế đặc biệt là các ngành thủ công như dệt,
ươm tơ, làm đường…Việc mua bán trao đổi của người nước ngoài cũng thúc đẩy nhanh sự
lưu thông hàng hóa trong nước, thúc đẩy hoạt động và tăng thêm vốn liếng, kinh nghiệm cho
các thương nhân người Việt. Tác dụng tích cực của ngoại thương đối với nội thương vượt xa
sự mong đợi của triều đình phong kiến. Song, rõ ràng nếu không có sự “mở cửa” của nhà
nước phong kiến thì cũng không có sự phát triển của ngoại thương. Chính sách ngoại thương
thời kỳ này đã thể hiện được tính tích cực của tác dụng “mở đường” ấy.
Việc khuyến khích thuyền buôn các nước cập cảng Hội An là một việc làm mang ý
nghĩa tích cực về kinh tế của chính quyền Đàng Trong, đặc biệt là việc ưu tiên cho người
Nhật và người Hoa được thành lập khu phố riêng của mình đã tạo nên một hình thái riêng,
đồng thời giúp cho cảng thị Hội An khởi sắc và hưng thịnh ở thế kỷ XVII.
Đối với cư dân Việt Nam, người Hoa ở Hội An là dân ngoại lai, là bộ phận di dân
nhưng trải qua quá trình làm ăn, sinh sống, họ đã trở thành một bộ phận của cư dân Việt
Nam. Do điều kiện địa lý, nước ta và Trung Quốc đã có quan hệ láng giềng từ lâu đời. Trong
hoạt động thương nghiệp thời phong kiến, sự hiện diện của các lái buôn Trung Hoa đã trở
nên quen thuộc. Những Hoa kiều cư trú ở Việt Nam phần lớn làm nghề buôn bán. Có lẽ họ là
những lái buôn ngoại quốc đầu tiên đặt chân lên đất Việt Nam. Từ phương Bắc, họ theo
đường bộ và đường biển đến nước ta. Hoạt động của thương nhân người Hoa đã có ảnh
hưởng tới sự phát triển của thương nghiệp Việt Nam nói chung và đời sống kinh tế Hội An
nói riêng
Bộ phận Hoa kiều thứ hai là những nhóm dân tị nạn do những biến động chính trị ở
Trung Quốc. Sự gia tăng một cách mạnh mẽ dòng người Trung Hoa di cư ra nước ngoài đã
tạo ra bước ngoặt trong sự hình thành cộng đồng người Hoa cư trú tại Việt Nam. Hội An đã
trở thành trung tâm thu hút những nạn dân và thương nhân Trung Quốc. Cho nên ở đây xuất
hiện những cộng đồng người Hoa lớn và họ đã đóng vai trò quan trọng, thường xuyên nhất
của hoạt động thương mại tại thương cảng Hội An. Sự hình thành các nhóm cộng đồng
người Hoa được diễn ra trong suốt chiều dài lịch sử dân tộc ở hầu hết các trung tâm kinh tế,
thương điếm, hải cảng sầm uất của Việt Nam, đặc biệt là vùng đất Đàng Trong của chúa
Nguyễn. Sự xuất hiện các quần thể dân cư này và hoạt động thương nghiệp của họ đã góp
phần tích cực vào sự hình thành và phát triển đô thị, các ngành thủ công – mỹ nghệ, mở rộng
thị trường nội địa và làm khởi sắc nền ngoại thương Việt Nam thế kỷ XVII cho đến nửa đầu
thế kỷ XIX.
Đối với người Nhật, tuy không có sự định cư lâu dài và phát triển như cộng đồng
người Hoa nhưng sự có mặt của họ tại Hội An đã thúc đẩy kinh tế ngoại thương ở Hội An,
thúc đẩy quan hệ giữa chính quyền Đàng Trong với chính quyền Nhật Bản là điều không thể
phủ nhận. Họ không chỉ có vai trò đối với nền kinh tế Hội An mà còn đối với cả nền kinh tế
Nhật Bản. Và xét trên phương diện kinh tế, thì chính sách của chính quyền Đàng Trong đã
có phần cởi mở, tích cực hơn so với chính quyền Nhật Bản lúc đó.
Trong mối quan hệ thương mại giữa thương nhân người Việt với thương nhân người
Nhật và Hoa ở Hội An, ta thấy có sự tồn tại song song hai mối quan hệ giữa thương nhân
người Việt với thương nhân người Nhật, người Hoa và mối quan hệ giữa chính quyền Đàng
Trong với thương nhân hai nước đó.
Người Nhật, người Hoa với kinh nghiệm, vốn liếng của mình đã tạo một sức ép lớn
đối với thương nhân người Việt. Các thương nhân người Việt không cạnh tranh nổi với các
lái buôn Trung Quốc, Nhật Bản nên phần lớn họ làm môi giới, hoặc có buôn bán cũng chỉ
buôn bán nhỏ lẻ. Trong qúa trình buôn bán, cư trú tại Hội An, không ít những thương nhân
người Hoa, người Nhật đã lấy vợ người Việt, điều này càng giúp sức thêm cho họ vì những
người phụ nữ Việt rất giỏi giang trong chuyện buôn bán. Qua đó cho thấy một hiện tượng là
mặc dù bị các thương nhân Nhật Bản, Trung Quốc lấn át, thậm chí chèn ép nhưng những
người dân Việt vẫn sống chan hòa và quan hệ tốt đẹp với họ trong sinh hoạt hằng ngày.
Đối với chính quyền Đàng Trong, vì chủ trương mở cửa, khuyến khích thương nhân
nước ngoài đến Hội An buôn bán nên chúa Nguyễn đã tạo điều kiện hết sức thuận lợi cho
thương nhân hai nước. Điều đó giúp cho thương nhân Nhật Bản, thương nhân người Hoa yên
tâm buôn bán và chúa cũng thu được nhiều lợi nhuận hơn qua thuế tàu vụ và cả việc trực tiếp
buôn bán với các thương lái. Không những thế, thuyền buôn Nhật Bản, Trung Quốc còn là
cầu nối trong quan hệ giữa chính quyền các nước. Nói cách khác mối quan hệ thương mại
giữa người Việt với người Nhật và người Hoa ở Hội An thế kỷ XVII dù trên phương diện
nào cũng đem lại kết quả tốt đẹp cho cả hai phía, cho thương nhân người Việt, cho chính
quyền Đàng Trong và cho cả thương nhân Nhật Bản, Trung Quốc.
Hơn nữa, Hội An cùng các phố cảng vùng Thuận Quảng còn là cửa ngõ tiếp thu khoa
học kỹ thuật và văn hóa của nhân loại. Từ giao lưu kinh tế, Hội An còn là tụ điểm giao lưu
văn hóa Việt Nam với Trung Quốc, Nhật Bản và các nước phương Tây. Ở đây có đạo Phật,
đạo Nho, đạo Thiên Chúa và cũng là nơi phát sinh ra chữ quốc ngữ.
Vào năm 1615, một phái đoàn giáo sĩ dòng Tên được thương nhân người Bồ hướng
dẫn đến Đàng Trong chầu chúa Nguyễn và chúa đã cho phép họ cư ngụ. Trong khoảng thời
gian 10 năm đầu hoạt động, nhà thờ Bồ Đào Nha đã gửi đến Hội An hơn 10 giáo sĩ trong đó
có cả những người nổi tiếng như C. Borri và Alexandre de Rhodes. Các giáo sĩ được chúa
Nguyễn ưu đãi đồng thời được các giáo dân Nhật Bản giúp đỡ nên công việc truyền giáo tiến
hành thuận lợi. Điều ghi nhận về mặt văn hóa là các giáo sĩ phương Tây ở Hội An đã tiến
hành latinh hóa tiếng Việt. Giáo sĩ A.de Rhodes và các cha thừa sai đã hoàn thành cuốn từ
điển Việt – Bồ - Latinh. Thực ra việc phiên âm latinh chữ Hán là do một người Nhật – Yajiro
thực hiện từ năm 1548 và sau đó được các giáo sĩ người châu Âu sử dụng[41, tr.89] Chính
những Nhật kiều và người Việt tại Hội An đã góp phần đáng kể vào công cuộc sáng tạo chữ
viết mà A. de Rhohes tiến hành, đặt cơ sở cho một nền văn hóa mới sau này – văn hóa quốc
ngữ. Đặc biệt là các giáo dân Nhật tại Hội An vì nếu không có họ với lòng kiên trì, mộ đạo
thì chưa hẳn những ông cố đạo phương Tây tìm thấy sự thuận lợi khi gieo hạt giống Phúc
Âm.
Công trình latinh hóa tiếng Việt không chỉ giúp cho việc truyền đạo Thiên chúa mà
còn hỗ trợ tốt cho việc kinh doanh thương nghiệp của các lái buôn phương Tây lúc bấy giờ.
Truyền giáo và buôn bán kết hợp với nhau, truyền giáo là chỗ dựa cho thương nhân hoạt
động vì nhiều giáo sĩ cũng là nhà buôn. Sự ra đời của chữ quốc ngữ đã hỗ trợ cho cả hai công
việc này.
Dưới tác động của các luồng thương mại – hàng hải quốc tế, các phố cảng ở nước ta
vào thế kỷ XVII đã hưng khởi như ngọn triều dâng nhưng phần lớn đã nhanh chóng bị biến
mất. Duy chỉ có Hội An bảo lưu gần như nguyên vẹn khu phố cổ, bến cảng, đền miếu, cầu,
hội quán, lăng mộ…Đây là trường hợp duy nhất của Việt Nam và hiếm có trên thế giới. Hội
An như một “hành lang văn hóa”, cởi mở, đón nhận và phát triển nhanh chóng về tri thức, tư
tưởng, tín ngưỡng. Điều kỳ diệu là trải qua nhiều cuộc chiến tranh ác liệt, sự khắc nghiệt của
thiên nhiên nhưng Hội An vẫn còn đó như một thách thức với thời gian.
Có thể nói, đây là một minh chứng sống động cho thời kỳ vàng son của Hội An thế kỷ
XVII, cho mối quan hệ giao thương tốt đẹp giữa Việt Nam với Trung Quốc và Nhật Bản.
Đồng thời đưa chúng ta tới một nhận thức mới, đó là vào cuối thế kỷ XVII, XVIII lịch sử
kinh tế Việt Nam đã có tính hướng biển. Trong nhận thức về bản chất và cấu trúc kinh tế - xã
hội trước kia đều coi lịch sử kinh tế Việt Nam có tính nông nghiệp truyền thống, một xã hội
thuần nông hay thể chế nông nghiệp (Agricultural polities). Tuy nhiên, nhận thức của chúa
Nguyễn khi mạnh dạn đưa Đàng Trong dự nhập vào hệ thống kinh tế thế giới, mở cửa đón
nhận quan hệ giao thương, xác lập các mối quan hệ hữu nghị, bang giao với nhiều quốc gia
đã cho chúng ta thấy tính hướng biển của lịch sử kinh tế Việt Nam thời kỳ đó. Với chủ
trương trọng thương, vào cuối thế kỷ XVI, đầu thế kỷ XVII, dường như Đàng Trong đã trở
thành một Thể chế biển, triệt để phát huy truyền thống khai thác biển, phát triển giao thương
và giao lưu văn hóa trên biển. [47, tr. 6 – 42]
Quan trọng hơn, mối quan hệ kinh tế đó đã trở thành nền tảng vững chắc, điều kiện
thuận lợi thúc đẩy quan hệ kinh tế các nước trong thời điểm hiện nay. Năm 1973, quan hệ
ngoại giao chính thức giữa Nhật Bản và Việt Nam được thiết lập. Từ đó cho đến nay, Nhật
Bản đã viện trợ phát triển chính thức cho Việt Nam trong nhiều dự án, công trình xây dựng
cơ sở hạ tầng. Những chuyến viếng thăm của các nhà lãnh đạo cao cấp của chính quyền các
nước diễn ra thường xuyên giúp phát triển quan hệ hữu nghị giữa Việt Nam và Nhật Bản,
giữa Việt Nam và Trung Quốc, tạo điều kiện thiết lập nhiều hơn nữa quan hệ kinh tế và đặc
biệt là giải quyết các vấn đề biên giới trên đất liền, biên giới trên biển giữa Việt Nam và
Trung Quốc. Như vậy, nhìn lại lịch sử không chỉ để tìm lại những hình ảnh huy hoàng thủa
nào mà nó còn có ý nghĩa tích cực trong việc định hướng, phát triển quan hệ kinh tế đối
ngoại của các nước hôm nay và mai sau.
THƯ MỤC THAM KHẢO
1. Alexandre de Rhodes (1994), Lịch sử vương quốc Đàng Ngoài, Ủy ban Đoàn kết Công
giáo, TP. Hồ Chí Minh.
2. C. Borri (1621), Tường trình về vương quốc Đàng Trong, Đỗ Trung Quang dịch, Tài liệu
khoa Sử, ĐHSPHN.
3. Châu Thị Hải (1989), Tìm hiểu sự hình thành các nhóm cộng đồng người Hoa ở Việt Nam
trong bối cảnh lịch sử Đông Nam Á, Luận án PTS Sử học, HN.
4. Chen Ching Ho (1960), “Mấy điều nhận xét về Minh Hương xã và các cổ tích tại Hội
An”, Việt Nam khảo cổ tập san (1).
5. Chen Ching Ho (1962), “Mấy điều nhận xét về Minh Hương xã và các cổ tích tại Hội
An”, Việt Nam khảo cổ tập san (1).
6. Chiêm Tế (1970), Lịch sử thế giới cổ đại, NXb GD, HN.
7. Chihara Daigoro (1991), Về những công trình kiến trúc miêu tả trong “Giao chỉ quốc mậu
dịch độ hải đồ” của Chaya Shinroku, Đô thị cổ Hội An, Nxb KHXH, HN.
8. D.G.E. Hall (1997), Lịch sử Đông Nam Á, NXb Chính trị Quốc gia, HN.
9. Đại Nam thực lục tiền biên (1962), Q.1, Viện sử học, HN.
10. Đại nam thực lục tiền biên (1962), Q.2, Nxb KHXH, HN.
11. Đào Trinh Nhất (1924), Thế lực khách trú và vấn đề di dân vào Nam kỳ, HN.
12. Đỗ Bang (1993), “Mối quan hệ giữa các phố cảng Đàng Trong với Phố Hiến – thế kỷ
XVII – XVIII”, Tạp chí Nghiên cứu Kinh tế (2).
13. Đỗ Bang (1996), Phố cảng vùng Thuận Quảng thế kỷ XVII – XVIII, NXB Thuận Hóa,
HN.
14. Đỗ Bang, Đỗ Quỳnh Nga (2002), “Ngoại thương Đàng Trong thời chúa Nguyễn Phúc
Nguyên”, Nghiên cứu lịch sử (6).
15. Đô thị cổ Việt Nam (1989), Ủy Ban KHXH Việt Nam, Viện Sử học, HN.
16. Dương Văn An (1961), Ô châu cận lục, Bản dịch Bùi Lương, Văn hóa Á Châu, Sài Gòn.
17. Dương Văn Huy (2006), “Về bảy lần thám hiểm của Trịnh Hòa”, Nghiên cứu Đông Nam
Á.
18. Dương Văn Huy (2007), “Chính sách hướng biển của chính quyền Đàng Trong (thế kỷ
XVI – XVIII)”, Nghiên cứu Đông Nam Á(8).
19. Hasebe Gakuji (1991), “Tìm hiểu quan hệ Nhật – Việt qua đồ gốm sứ”, Đô thị cổ Hội An,
Nxb KHXH, HN.
20. Kawamoto Kuniye (1991), “Nhận thức quốc tế của chúa Nguyễn ở Quảng Nam căn cứ
theo Ngoại phiên thông thư”, Đô thị cổ Hội An, Nxb KHXH, HN.
21. Kieth W. Taylor (2001), “Nguyễn Hoàng và bước đầu khởi cuộc Nam tiến của người
Việt”, Những vấn đề lịch sử Việt Nam (nhiều tác giả), Nguyệt san Xưa và Nay, Nxb Trẻ.
22. Kikuchi Seiichi(2003), “Phố Nhật Bản ở Hội An qua nghiên cứu khảo cổ học”, Tạp chí
Nghiên cứu lịch sử (2).
23. Lê Quý Đôn (1964), Phủ Biên tạp lục, NXB.KHXH, HN.
24. Litana (1999), Xứ Đàng Trong Lịch sử kinh tế - xã hội Việt Nam thế kỷ XVII – XVIII ,
NXB Trẻ.
25. Lục Đức Thuận (2001), “Đồng Tiền Ngoại Thương Việt Nam thế kỷ XVI – XVII”, Tạp
chí Xưa và Nay (89).
26. Nara Suichi (2001), “Buôn bán tơ lụa giữa Việt Nam và Nhật Bản trong thế kỷ XVII”,
Phố Hiến, Sở VHTT – TT Hải Hưng.
27. Ngô Sỹ Liên (1971), Đại Việt Sử Ký toàn thư, T.II, III, KHXH, HN.
28. Nguyễn Quốc Hùng (1995), Phố cổ Hội An và việc giao lưu văn hóa ở Việt Nam, Nxb Đà
Nẵng.
29. Nguyễn Tiến Lực (2003), “Việt Nam trong lịch sử quan hệ thương mại Nhật Bản – Đông
Nam Á”, Nghiên cứu Nhật Bản và Đông Bắc Á (4).
30. Nguyễn Trãi(1976), Nguyễn Trãi toàn tập, HN.
31. Nguyễn Văn Kim (2003), Quan hệ của Nhật Bản với Đông Nam Á thế kỷ XV – XVII, Nxb
Quốc Gia HN.
32. Nguyễn Văn Kim (2006), “Xứ Đàng Trong trong các mối quan hệ và tương tác quyền lực
khu vực”, Nghiên cứu lịch sử (6).
33. Nông Sơn dịch (1958), “Văn kiện ngoại giao giữa Nhật Bản với Đàng Trong”, Văn hóa Á
châu (3 &4).
34. Ogura Sadao (1991), “Về bức tranh “Giao chỉ quốc mậu dịch hải đồ” và “Thác kiến quan
thế âm”, Đô thị cổ Hội An, Nxb KHXH.
35. Phan Đại Doãn (1991), “Hội An và Đàng Trong”, Đô thị cổ Hội An, NXB KHXH.
36. Phan Du (1974), Quảng Nam qua các thời đại (quyển thượng), Nxb Cổ Học Tùng Thư.
37. Phan Huy Lê (1989), “Hội An – lịch sử và hiện trạng”, Đô thị cổ Việt Nam, Ủy ban khoa
học xã hội Việt Nam Viện Sử học, HN.
38. Phan Huy Lê (2004), “Hội An di sản văn hóa thế giới”, Nghiên cứu lịch sử (4).
39. Phan Khoang (1969), Việt sử xứ Đàng Trong, Khai Trí, Sài Gòn.
40. Phan Ngọc Liên, Đinh Ngọc Bảo, Trần Thị Vinh, Đỗ Thanh Bình (1995), Lịch sử Nhật
Bản, NXB Văn hóa Thông tin, HN.
41. Pierre Huard – Maurice Durand (1993), Hiểu biết về Việt Nam, NXB KHXH, HN.
42. Thái Văn Kiểm (4/1964), “Y phục của người Việt qua các thời đại”, Tạp chí Đại Học
(38).
43. Thành Thế Vỹ (1961), Ngoại thương Việt Nam hồi thế kỷ XVII, XVIII và đầu XIX, NXB
Sử học, HN.
44. Thích Đại Sán (1963), Hải ngoại ký sự, Viện đại học Huế.
45. Trần Quốc Vượng (1991), “Vị thế Địa – lịch sử và bản sắc gắn Địa - văn hóa của Hội
An”, Đô thị cổ Hội An, NXB KHXH, HN.
46. Trần Quốc Vượng (1993), “Mấy nét khái quát lịch sử cổ xưa về cái nhìn về biển của Việt
Nam”, Nghiên cứu Đông Nam Á (1).
47. Trần Quốc Vượng (1996), Mấy nét khái quát lịch sử cổ xưa về cái nhìn về biển của Việt
Nam, NXB Văn Hóa thông tin, HN.
48. Trịnh Tiến Thuận (1996), “Giao lưu Nhật – Việt thế kỷ XVI – XVII và đầu thế kỷ XX”,
Tạp chí Thông tin Khoa học xã hội (30).
49. Trịnh Tiến Thuận (2001), Quan hệ Nhật Bản – Việt Nam thế kỷ XVI, XVII, Luận án tiến sĩ
sử học, Trường ĐH Sư Phạm Hà Nội.
50. Trương Hữu Quýnh (1992),Sự ra đời và phát triển của Phố Hiến, HTKH, Phố Hiến.
51. Trương Thị Yến (1981), “Nhà Nguyễn với các thương nhân người Hoa thế kỷ XIX”,
Nghiên cứu lịch sử (3).
52. Trương Thị Yến (1993), “Vài nét về thương nghiệp Việt Nam nửa đầu thế kỷ XIX”,
Nghiên cứu lịch sử (6).
53. Vĩnh Sính (2000), Việt Nam và Nhật Bản – giao lưu văn hóa, Nxb Văn Nghệ, TP HCM.
54. Vũ Duy Mền (9/2002), “Ngoại thương Việt Nam thế kỷ XVII, XVIII”, Nghiên cứu kinh tế
(192).
55. Vũ Minh Giang (1991), “Người Nhật, Phố Nhật và di tích Nhật Bản tại Hội An”, Đô thị
cổ Hội An – kỷ yếu hội thảo quốc tế tổ chức tại Đà Nẵng, NXB KHXH, Hà Nội.
56. Vũ Văn Phái, Đặng Văn Bào (1991), “Đặc điểm, địa mạo khu vực Hội An và lân cận
(Vùng cửa sông Thu Bồn)”, Đô Thị Cổ Hội An, NXBKHXH.
PHỤ LỤC
1. Chân dung Kadoya Sichirobei, người xây dựng chùa Tùng Bản và mất ở Hội An.(1671)
[Dẫn theo 49, tr.196]
2. Chân dung thương gia Sueyoshi Magozaem, thường xuyên buôn bán ở Việt Nam và
Philippin.[Dẫn theo 49, tr.196]
3. Chùa Tùng Bản do Kadoya Sichirobei xây dựng ở Hội An và tài liệu chùa Tùng Bản. [38,
tr.16]
4. Đường hàng hải từ Nhật Bản đến Việt Nam và Đông Nam Á vào thế kỷ XVII. [Dẫn theo
49, tr.190]
5. Quang cảnh phố Nhật Bản và tàu Nhật Bản Châu Ấn thuyền cập cảng Hội An.
[www.Google.com.vn, 8:30 am, ngày 3 – 9 – 2010]
6. Tàu từ Nagasaki đi Việt Nam và các nước Đông Nam Á. [www.Google.com.vn, 8:45 am,
ngày 3 – 9 – 2010]
7. Vùng cửa biển Hội An – Đà Nẵng.[www.Google.com.vn, 8:55 am, ngày 3 – 9 –2010]
Chân dung Kadoya Sichirobei,
người xây dựng chùa Tùng
Bản và mất ở Hội An.(1671)
Chân dung thương gia
Sueyoshi Magozaem, thường
xuyên buôn bán ở Việt Nam
và Philippin.
Chùa Tùng Bản do Kadoya Sichirobei xây dựng ở Hội An và tài liệu chùa
Tùng Bản.
Đường hàng hải từ Nhật Bản đến Việt Nam và Đông Nam Á vào thế kỷ
XVII.
- 136 -
Quang cảnh phố Nhật Bản.
Tàu Nhật Bản Châu Ấn thuyền cập cảng Hội An.
- 137 -
Tàu từ Nagasaki đi Việt Nam và các nước Đông Nam Á.
Vùng cửa biển Hội An – Đà Nẵng.
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LA5323.pdf