Quan hệ sản xuất & vai trò của Quan hệ sản xuất với sự phát triển của Lực lượng sản xuất theo hướng Công nghiệp hóa - Hiện đại hóa ở Việt Nam trong thời kỳ quá độ

Đề cương tiểu luận triết Đề tài: Quan hệ sản xuất và vai trò của quan hệ sản xuất với sự phát triển của lực lượng sản xuất theo hướng công nghiệp hoá - hiện đại hoá ở Việt Nam trong thời kỳ quá độ. A. Lý luận I. Tổng quan về quan hệ sản xuất 1. Khái niệm - Vai tro của quan hệ sản xuất trong quá trình lao động sản xuất - Khái niệm về quan hệ sản xuất - Bản chất của quan hệ sản xuất 2. Cấu trúc của quan hệ sản xuất - Quan hệ phân phối - Quan hệ sở hữu - quan hệ tiêu dùng -> Vai

doc20 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1685 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Quan hệ sản xuất & vai trò của Quan hệ sản xuất với sự phát triển của Lực lượng sản xuất theo hướng Công nghiệp hóa - Hiện đại hóa ở Việt Nam trong thời kỳ quá độ, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
trò của từng mặt trong quan hệ sản xuất 3. Xu hướng phát triển của các bộ phận trong quan hệ sản xuất - Về quan hệ sở hữu: đa dạng các hình thức - Quan hệ phân phối: đa dạng hoá - Quan hệ tổ chức quản lý: xã hội hoá II. Lực lượng sản xuất - xu hướng phát triển trong thời đại ngày nay 1. Khái niệm - cấu trúc - Vai trò trong phương thức sản xuất - Khái niệm và bản chất - cấu trúc 2. Xu hướng phát triển Tính chất đặc biệt trong sự phát triển và thay đổi của từng bộ phận trong cấu trúc. Đây là sự biến đổi về chất. Khoa học dần trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp. - Những yêu cầu đặt ra trong sự phát triển lực lượng sản xuất III. Vai trò của quan hệ sản xuất với sự phát triển của lực lượng sản xuất - Vai trò quyết định của lực lượng sản xuất đối với quan hệ sản xuất - Vai trò của quan hệ sản xuất đối với sự phát triển của lực lượng sản xuất - Mối liên hệ tính thống nhất và mâu thuẫn của 2 mặt trong phát triển sản xuất B. Thực tiễn I. Công nghiệp hoá - hiện đại hoá ở Việt Nam 1. Khái niệm - Khái niệm - ý nghĩa của công nghiệp hoá - hiện đại hoá 2. Đặc điểm - mục tiêu công nghiệp hoá ở Việt Nam a. Đặc điểm: 4 đặc điểm b. Mục tiêu: - Mục tiêu cơ bản - Nội dung công nghiệp hoá - hiện đại hoá II. Thực trạng quan hệ sản xuất ở Việt Nam trong thời kỳ quá độ 1. Mặt tích cực Trong phân phối, quản lý, sở hữu: Đánh giá chung 2. Mặt tiêu cực: Đánh giá chung II. Phương hướng hoàn thiện và xây dựng quan hệ sản xuất 1. Về quan hệ sở hữu 2. Về quan hệ tổ chức quản lý 3. Về quan hệ phân phối Phát huy vai trò của các giai cấp và tầng lớp trong xã hội * Tổng kết chung Nhận xét và đánh giá chung A. Phần lý luận I. Tổng quan về quan hệ sản xuất 1. Khái niệm Con người là một thực thể của tự nhiên, là chủ thể của xã hội được nảy sinh, tồn tại và phát triển từ chính sự phát triển của giới tự nhiên. Và trong quá trình ấy con người nhất thiết phải có những tư liệu sinh hoạt: phục vụ cho đời sống. Những tư liệu và yếu tố ấy là rất kết quả của quá trình lao động sản xuất vật chất dù là hình thức lao động sơ khai nhất. Song nhu cầu của con người luôn luôn biến đổi, con người luôn luôn tiến hành sản xuất vật chất nhằm tạo ra những yếu tố thoả mãn nhu cầu phong phú của mình. Như vậy thực chất của quá trình sản xuất vật chất là quá trình cải biến lực lượng sản xuất, con người ngoài việc sử dụng các yếu tố trong lực lượng sản xuất ngưòi lao động, công cụ lao động, tư liệu lao động mà còn đòi hỏi một cách khách quan con người phải có sự liên kết, có mối quan hệ với nhau theo một cách thức nào đó hoặc trực tiếp hoặc gián tiếp. Các mác từng viết: "Trong sản xuất, người ta không chỉ quan hệ với giới tự nhiên. Người ta không thể sản xuất được nếu không kết hợp với nhau theo một cách nào đó để hoạt động chung và trao đổi với nhau. Muốn sản xuất được người ta phải có những mối liên hệ và quan hệ nhất định với nhau và quan hệ của họ với tự nhiên. Tức là việc sản xuất" - Các mác - Ph.Angghen - toàn tập - NXB. Chính trị quốc gia -Hà Nội 1993 - T6 - T152. Như vậy, quan hệ sản xuất là mối quan hệ giữa người với người trong quá trình sản xuất (sản xuất và tái sản xuất). Để hiểu rõ quan hệ sản xuất, cần thấy được bản chất và đặc điểm của nó. Trước hết, như trên, mối quan hệ sản xuất là mối quan hệ mang tính khách quan. Nó do con người tạo ra nhưng nó được hình thành một cách khách quan trong quá trình sản xuất không phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của con người. Sự thay đổi của các kiểu tổ chức quan hệ sản xuất phụ thuộc vào tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất. Thứ hai, quan hệ sản xuất là hình thức xã hội biểu hiện mối quan hệ giữa người với người trên cả 3 mặt chru yếu sở hữu, tổ chức quản ý, phân phối. Thực chất, đó không phải là toàn bộ các mối quan hệ của con người. Nó chỉ là một bộ phận của tổng thể các mối quan hệ giữa con người. Đó là những mối quan hệ kinh tế, những mối quan hệ của con người nảy sinh và phát triển trong phạm vi của sản xuất, phân phối, tiêu dùng. Như vậy, quan hệ sản xuất là một bộ phận của các quan hệ của con người. 2. Cấu trúc của quan hệ sản xuất Như đã phân tích, quan hệ sản xuất là quan hệ của con người với con người thể hiện chủ yếu trên 3 mặt. Như vậy, quan hệ sản xuất có cấu trúc gồm 3 phần: 1, Quan hệ giữa người với người trong việc chiếm hữu tư liệu sản xuất chủ yếu của xã hội. Gọi tắt là quan hệ sở hữu. 2, Quan hệ giữa người với người trong việc tổ chức quản lý sản xuất xã hội và trong trao đổi hoạt động cho nhau: gọi là quan hệ tổ chức quản lý. 3. Quan hệ giữa người với người trong phân phối và lưu thông sản phẩm xã hội: quan hệ phân phối lưu thông. Các mặt nói trên của quan hệ sản xuất có mối quan hệ mật thiết tác động qua lại lẫn nhau và có một vai trò nhất định trong quan hệ sản xuất. Về quan hệ sở hữu, quá trình sản xuất là quá trình biến đổi giới tự nhiên phù hợp nhu cầu con người. Nói cách khác, quá trình sản xuất cũng được coi là quá trình kết hợp các yếu tố của lực lượng sản xuất. Đó là sự kết hợp của sức lao động và tư liệu sản xuất nhờ công cụ lao động. Trong quá trình kết hợp ấy, giữa con người này sinh các mối quan hệ kinh tế trực tiếp với nhau. Các hoạt động đó phải được tổ chức lại, được quản lý vận hành dưới các hình thức kinh tế nhất định. Đó chính là quan hệ tổ chức quản lý. Quan hệ này tác động trực tiếp đến quá trình sản xuất, tổ chức và điều khiển quá trình sản xuất. Nhưng để tiến hành các quan hệ tổ chức, quản lý lại phải giải quyết vấn đề về tư liệu sản xuất. Đó là quan hệ sản xuất về sở hữu các yếu tố của lực lượng sản xuất. Đặc biệt là về tư liệu sản xuất. Nó là việc giải quyết các câu hỏi, các yếu tố của lực lưỡng thuộc về ai? Ai là người có quyền sở hữu và sử dụng tư liệu đó? Lịch sử loài người đã chứng kiến 2 loại hình thức sở hữu cơ bản về tư liệu sản xuất: sở hữu tư nhân và sở hữu công cộng. Các hình thức sở hữu này là cơ sở của nền kinh tế nhiều thành phần, và quyết định các hình thức phân phối. Tất cả các hình thức tổ chức, quản lý, sản xuất kinh doanh quy cho đến cùng đều để thực hiện lợi ích kinh tế của các chủ thể kinh tế, chủ thể sở hữu. Vì vậy chỉ có thể giải quyết được vấn đề sở hữu khi giải quyết được mối quan hệ phân phối sản phẩm làm ra giữa những con người với nhau. Đó chính là hệ thống các quan hệ phân phối sản phẩm của xã hội ở tầm vĩ mô hay vi mô. Tóm lại trong 3 mặt của quan hệ sản xuất, quan hệ sở hữu là quan hệ xuất phát, quan hệ cơ bản và đặc trưng cho quan hệ sản xuất trong từng xã hội. quan hệ này quyết định quan hệ về tổ chức quản lý, quan hệ phân phối sản phẩm. Nó buộc quan hệ tổ chức quản lý phải phù hợp và thích ứng phù hợp. Ngoài ra cũng cần thấy rằng quan hệ phân phối sản phẩm mặc dù do quan hệ sở hữu, quan hệ tổ chức quản lý chi phí song nó kích thích trực tiếp đến lợi ích của con người. Vì vậy nó tác động đến thái độ của con người trong lao động sản xuất. Có thể thúc đẩy hoặc kìm hãm sản xuất. Phải khẳng định rằng: cái trực tiếp đối với quá trình sản xuất là những quan hệ về tổ chức quản lý, lớp biểu hiện có tính chất nhạy cảm nhất chính là quan hệ phân phối. Song cơ chế và nền tảng của 2 quan hệ trên chính là quan hệ sở hữu. 3. Xu hướng phát triển của các bộ phận trong quan hệ sản xuất. Tính đặc thù trong sự biểu hiện của hệ thống quan hệ sản xuất. Ngày nay, dưới sự tác động của khoa học công nghệ, sự phát triển rực rỡ của nền văn minh nhân loại, các bộ phận của quan hệ sản xuất cũng có chiều hướng biến đổi. Nó đang ngày càng biến đổi sao cho có sự thích ứng và phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Về quan hệ sở hữu, với sự phát triển như vũ bão và trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp của khoa học công nghệ thì kinh tế tri thức đã bắt đầu xuất hiện. Nó làm cho các hình thức sở hữu phát triển ngày càng đa dạng và đan xen nhau phức tạp, trong đó sở hữu hỗn hợp ngày càng phát triển. Phạm vi của nó không chỉ dừng lại ở tư liệu sản xuất mà sở hữu trí tuệ, sở hữu công ngày càng có vai trò quan trọng. Với xu thế toàn cầu hoá, kéo theo các nền kinh tế khác nhau xâm nhập vào thì sở hữu không chỉ mang yếu tố quốc gia mà còn mang tính chất quốc tế. Như vậy các hình thức sở hữu quốc tế đã thâm nhập vào từng quốc gia làm đa dạng các quan hệ sở hữu. Và do đó, quan hệ sản xuất của từng quốc gia phong phú hơn. Về quản lý: xu hướng chung là vai trò của Nhà nước trong nền kinh tế ngày càng cao. Song Nhà nước không trực tiếp quản lý sản xuất kinh doanh. Mà chủ yếu sử dụng các công cụ quản lý theo hướng xã hội hoá với việc xuất hiện các hình thức mới như các Công ty cổ phần. Giúp trong quản lý và tổ chức. Về mặt phân phối ngày càng đa dạng hoá các hình thức phân phối. Ngoài phân phối theo lao động, còn có phân phân phối ngoài thù lao lao động thông qua các quỹ phúc lợi xã hội và tập thể. Phát triển cả hình thức phân phối theo nguồn lực đóng góp. Bởi sự phát triển của các hình thức phân phối theo nguồn lực đóng góp. Bởi sự phát triển của các hình thức phân phối là cơ sở công bằng xã hội. II. Lực lượng sản xuất - xu hướng phát triển trong thời đại ngày nay 1. Khái niệm - cấu trúc Con người muốn tồn tại và phát triển phải tác động cải biến giới tự nhiên, tất yếu phải có những mối quan hệ với giới tự nhiên. Và lực lượng sản xuất biểu hiện mối quan hệ giữa con người với giới tự nhiên này. Đó chính là tổng thể các nhân tố vật chất, kỹ thuật được sử dụng trong quá trình sản xuất của xã hội. Như vậy khái niệm lực lượng sản xuất biêu hiện mối quan hệ giữa con người với giới tự nhiên - mối quan hệ này mang tính chất khách quan - tất yếu. Con người luôn luôn muốn tồn tại và phát triển do đó tất yếu phải quan hệ với tự nhiên. Mặt khác, trình độ phát triển của lực lượng sản xuất thể hiện trình độ chinh phục tự nhiên của con người. Nó chính là năng lực sản xuất của một quốc gia ở một thời kỳ nhất định. Về cấu trúc, lực lượng sản xuất gồm người lao động với kỹ năng lao động của họ và tư liệu sản xuất trước hết là công cụ lao động. Trong quá trình sản xuất, sức lao động của con người kết hợp với tư liệu lao động thông qua công cụ lao động thành tư liệu sản xuất. Trong các yếu tố cấu thành nên lực lượng sản xuất "lực lượng sản xuất hàng đầu của toàn thể nhân loại là công nhân, là người lao động". Người lao động chính là chủ thể của quá trình sản xuất. Nhưng cần xác định rõ, nhân tố trung tâm là sức lao động của con người mới có ý nghĩa là lực lượng sản xuất sức lao động ấy bao gồm từ các nhân tố từ thể lực đi đến trí lực, từ kinh nghiệm đến kỹ năng. Và ngày nay có cả yếu tố đạo đức. Cùng với quá trình lao động sản xuất, kinh nghiệm, kỹ năng, thể lực, trí lực ngày càng được phát triển. Đặc biệt là trí tuệ của con người không ngừng được tăng lên. Và do đó trí thuệ đóng vai trò ngày càng chính yếu. Có thể nói, nhân tố con người chứa đựng sức lao động là nhân tố cơ bản và trung tâm của lực lượng sản xuất. Các nhân tố khác đều là sản phẩm của người lao động. Nhờ có lao động của con người mà lực lượng sản xuất mới thực sự có ý nghĩa là lực lượng sản xuất . Bộ phận thứ hai rất quang trọng đó là tư liệu sản xuất. Nó bao gồm 2 yếu tố cơ bản công cụ lao động và đối tượng lao động. Trong đó công cụ lao động được xác định vai trò quyết định trong tư liệu sản xuất. Công cụ lao động do con người sáng tạo ra "là sức mạnh của tri thức đã được vật thể hoá". Nó "nhận" sức mạnh của con người trong quá trình sản xuất. Công cụ lao động là nhân tố động nhất trong lực lượng sản xuất. Và nó luôn được hoàn thiện và phát triển trình độ phát triển đó là thước đo trình độ chinh phục tự nhiên của con người. Là tiêu chuẩn để phân biệt các thời đại kinh tế trong lịch sử. 2. Xu thế phát triển của lực lượng sản xuất hiện đại. Lực lượng sản xuất hiện đại đã có nhiều thay đổi với nhiều nước phát triển, nhiều tính chất đặc biệt. Song tính chất tiêu biểu nhất đó là vai trò quan trọng của khoa học trong sự phát triển của lực lượng sản xuất. Sự phát triển của khoa học gắn liền và là động lực thúc đẩy trực tiếp quá trình sản xuất. Ngày nay, khoa học phát triển đến mức trở thành nguyên nhân những biến đổi to lớn trong đời sống sản xuất. Nó đang và sẽ trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp. KHoa học với những tri thức nói chung về kinh tế, xã hội, tự nhiên, nhân văn khi được công nghiệp hoá, kỹ thuật hoá là tiền đề cho những phát minh khoa học. Nó chính là điểm xuất phát ra đời những ngành mới, máy móc mới, công nghệ mới, nguyên vật liệu mới. Sự thâm nhập ngày càng sâu của khoa học đã làm cho lực lượng sản xuất có bước nhảy vọt, tạo thành cuộc cách mạng. Yếu tố trí lực trong sức lao động đặc trưng cho lao động hiện đại không còn là kinh nghiệm và thói quen của người lao động mà là tri thức khoa học sự phát triển không ngừng nghỉ của khoa học công nghệ là đặc trưng cho lực lượng sản xuất hiện đại. Như vậy lực lượng sản xuất đã có sự biến đổi về chất. III. Vai trò của quan hệ sản xuất với sự phát triển của lực lượng sản xuất. Trước hết, để thấy được vai trò của quan hệ sản xuất đến sự phát triển của lực lượng sản xuất. Cần xem xét vai trò quyết định đến quan hệ sản xuất của lực lượng sản xuất. Quả thực, sự vận động, phát triển của lực lượng sản xuất quyết định và làm thay đổi quan hệ sản xuất cho phù hợp. Để xác định được những quan hệ sở hữu, quản lý, phân phối sản xuất như thế nào, dưới hình thức gì, theo cách thức ra sao là tuỳ thuộc vào thực trạng và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất phụ thuộc vào hình thức kết hợp giữa các yếu tố của lực lượng sản xuất. Mặc dù, quan hệ sản xuất về mặt khách quan có tính ổn định tương đối, trong khi lực lưỡng là yếu tố động luôn luôn biến đổi. Song quan hệ sản xuất không phải là sản phẩm chủ quan của con người. Do đó, những biến đổi trong lực lượng sản xuất tất yếu nhất định sẽ dẫn đến những biến đổi trong hệ thống quan hệ sản xuất. Lực lượng sản xuất đóng vai trò quyết định. Tuy nhiên, bên cạnh mặt bị động của quan hệ sản xuất đối với lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất cũng có tác động to lớn trở lại đối với sự phát triển của lực lượng sản xuất. Nó được thể hiện trên các khía cạnh phân phối, trao đổi và tiêu dùng, được thực hiện thông qua tình trạng kết hợp giữa các yếu tố người và vật ***lực lượng sản xuất quyết định. Trình trạng kết hợp này đã quy định thái độ lao động của người lao động, quy định việc sử dụng và cải tiến các tư liệu sản xuất do chính họ tạo ra. Nói tóm lại, chính quan hệ sản xuất có ảnh hưởng trực tiếp đến mức độ phát huy các yếu tố sản xuất của lực lượng sản xuất. Và do đó ảnh hưởng thường xuyên đối với sự phát triển lực lượng sản xuất. (Nó quyết định đến mục đích, tổ chức phân công lao động xã hội). Mặt khác, khi quan hệ xã hội không phù hợp, lỗi thời, lạc hậu hợc "tiên tiến" hơn một cách giả tạo so với tính chất, trình độ của lực lượng sản xuất làm kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất. yêu cầu thay thế bằng một quan hệ sản xuất mới phù hợp hơn. bằng các cuộc cách mạng, cải cách xã hội. Như vậy, giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất không chỉ có mối quan hệ thống nhất biện chứng mà còn tồn tại những mâu thuẫn. Quan hệ sản xuất có thể thúc đẩy hoặc kìm hãm lực lượng sản xuất. Yêu cầu đặt ra cho sự phát triển của lực lượng sản xuất là sự phù hợp của quan hệ sản xuất. B. Thực tiễn ở Việt Nam I. Công nghiệp hoá - hiện đại hoá ở Việt Nam 1. Khái niệm công nghiệp hoá - hiện đại hoá: Từ thế kỷ XVII, XVIII, công nghiệp hoá được hiểu là quá trình thay thế lao động thủ công bằng lao động sử dụng máy móc. Kế thừa chọn lọc những văn minh của nhân loại, Đảng ta đã xác định: công nghiệp hoá - hiện đại hoá là quá trình chuyển đổi căn bản. toàn diện các hoạt động sản xuất kinh doanh dịch vụ và quản lý kinh tế từ sử dụng sức lao động thru công là chính sang sử dụng một cách có phổ biến sử dụng sức lao động kết hợp với công nghệ tạo ra năng suất lao động cao. Công nghiệp hoá - hiện đại hoá là một trong những biện pháp khắc phục nguy cơ tụt hậu về kinh tế, tạo cơ sở vật chất và là nền tảng cho sự phát triển kinh tế, xã hội. 2. Đặc điểm - mục tiêu công nghiệp hoá ở Việt Nam. a. Đặc điểm: Do những biến đổi của nền kinh tế thế giới và điều kiện cụ thể của đất nước, công nghiệp hoá - hiện đại hoá ở Việt Nam hiện nay có những đặc điểm chủ yếu sau dây. 1. Công nghiệp hoá phải gắn với hiện đại hoá. Đây là đặc điểm bắt nguồn từ các cuộc cách mạng khoa học. Công nghiệp hoá gắn với hiện đại hoá để tranh thủ ứng dụng các thành tựu khoa học kỹ thuật tiếp cận kinh tế tri thức, hiện đại hoá các ngành, các khâu những lĩnh vực có điều kiện nhảy vọt. 2. Công nghiệp hoá nhằm mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. ở nước ta công nghiệp hoá nhằm xã hội cơ sở vật chất kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội, tăng cường sức mạnh để bảo vệ nền độc lập dân tộc. 3. Công nghiệp hoá ở nước ta có sự quản lý vĩ mô của Nhà nước, và dưới nền kinh tế thị trường. Song công nghiệp hoá không xuất phát từ chủ quan của Nhà nước, nó đòi hỏi phải vận dụng các quy luật khách quan mà trước hết là các quy luật thị trường. 4. Công nghiệp hoá - hiện đại hoá nền kinh tế quốc dân trong bối cảnh toàn cầu hoá vì thế giới mở cửa nền kinh tế, phát triển các quan hệ quốc tée là tất yếu đối với nước ta. Những đặc điểm trên đây ảnh hưởng không nhỏ đến quá trìn công nghiệp hoá ở nước ta hiện nay. b. Mục tiêu: Mục tiêu tổng quát của sự nghiệp công nghiệp hoá của nước ta được Đảng cộng sản xác định và khẳng định tại Đại hội lần thứ IX là "Đưa đất nước ta ra hkỏi tình trạng kém phát triển, nâng cao rõ rệt đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp hoá theo hướng hiện đại". (Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX. Chính trị quốc gia Hà Nội - 2001, tr89). Mục tiêu này đã được thể hiện rất sâu sắc và xuyên suốt trong nội dung công nghiệp hoá - ở Việt Nam. 1 là phát triển lực lượng sản xuất, cơ sở vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội trên cơ sở thực hiện cơ khí hoá nền sản xuất xã hội và áp dụng các thành tựu khoa học công nghệ hiện đại. 2 là chuyển đổi cơ cấu kinh tế theo hướng hiện đại hoá hợp lý và hiệu quả cao. 3 là thiết lập uan hệ sản xuất phù hợp theo định hướng xã hội chủ nghĩa. II. Thực trạng quan hệ sản xuất ở Việt Nam trong thời kỳ quá độ. Những mâu thuẫn nảy sinh trong quá trình phát triển lực lượng sản xuất và hoàn thiện quan hệ sản xuất ở nước ta. Trước hết, về mặt tích cực trong việc hoàn thiện quan hệ sản xuất. Mặc dù còn gặp nhiều khó khăn, thử thách gay gắt, song việc xây dựng và hoàn thiện quan hệ sản xuất ở nước ta đã đạt được một số thành tựu đáng kể. Quam hệ sản xuất đã có bước đổi mới phù hợp hơn với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Và thúc đẩy sự hình thành nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Sự biến đổi của quan hệ sở hữu trước hết được thể hiện ở việc thừa nhận, thừa nhận nhiều hình thức sở hữu là cơ số thừa nhận nền kinh tế nhiều thành phần định hướng xã hội chủ nghĩa. Đây là sự biến đổi đầu tiên mang tính chất đột phá là biến đổi quan trọng nhất trong những năm xây dựng nền kinh tế ở nước ta. Đi làm với việc thừa nhận tính chất nhiều thành phần đó, có một biến đổi cùng mang tính chất cách mạng của Đảng ta là việc thừa nhận các hình thức khác nhau của chế độ sở hữu tư nhân trong nền kinh tế. Đó là chế độ sở hữu mà trước đó chúng ta đã ra sức xoá bỏ "đào tận gốc, trốc tận rễ". Nền kinh tế với thành phần kinh tế Nhà nước có 2 xu hướng phát triển về sở hữu thu hẹp phạm vi và số lượng doanh nghiệp Nhà nước bằng việc chuyển đổi hình thức sở hữu 100% vốn Nhà nước thành các hình thức sở hữu khác kèm theo việc mạnh dạn thay đổi chế độ sở hữu trong cá doanh nghiệp Nhà nước trước đây. Đây là một biện pháp nhằm đa dạng hoá các hình thức sở hữu. thứ hai là xu hướng tập trung hoá quy mô sở hữu của một doanh nghiệp Nhà nước theo mô hình tổng Công ty từ năm 1994 cho tới nay đx có trên 100 tổng Công ty cả loại. Đây là cơ sở hình thành một số tập đoàn kinh tế mạnh. Ngoài ra còn hình thành và phát triển hình thức tổ chức kinh doanh mới đó là các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Kể từ khi ban hành luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam (1987) và qua nhiều lần sửa đổi (1990, 1992, 1996) đến nay đã có hàng chục tỷ USD từ nước ngoài dầu tư vào Việt Nam. Đây là nguồn lực phát triển kinh tế Việt Nam. Như vậy, nền kinh tế Việt Nam hiện nay là nền kinh tế nhiều thành phần với đa hình thức sở hữu, cùng tồn tại một cách độc lập hoặc đan xen vào nhau. Trong những đổi mới căn bản về quan hệ quản lý thì thành tựu to lớn nhất (của việc đổi mới quan hệ quản lý) ở nước ta là sự chuyển đổi từ cơ chế kế hoạch hoá tập trung, quan liêu sang cơ chế thị trường có sự quản lý vĩ mô của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Nhờ sự chuyển đổi này mà cơ chế và do đó các quan hệ quản lý thay đổi cả ở tầm vĩ mô và vi mô. Tạo ra sự thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Đó là một sự biến đổi quan trọng trong quan hệ sản xuất ở Việt Nam. Trong những thập niên qua với cơ chế thị trường, cơ chế quản lý đã có những thay đổi căn bản và điển hình. Nó thể hiện ở việc nâng cao vai trò chủ thể tự chủ kinh doanh theo cơ chée thị trường của các pháp nhân, thể nhân sản xuất hàng hoá. Đó là việc cơ chế quản lý gắn liền với vịec hình thành trọn vẹn chủ thể sản xuất hàng hoá độc lập. Đây là sự thay đổi căn bản về phương thức sản xuất. Trong thời kỳ cơ chế kế hoạch hoá tập trung, mọi quyết định kinh doanh của doanh nghiệp và hợp tác xã đều được áp đặt từ các cơ quan quản lý bao cấp thì giờ đây trong cơ chế thị trường mọi quyết định kinh doanh đều do các chủ thể tự quyết căn cứ vào tín hiệu của thị trường, có tính đến khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp. Sự biến đổi thứ 3 về quản lý xét vè phương diện quan hệ sản xuất gắn liền với sự hình thành cơ chế thị trường đổi mới đó là sự tách bạch ngày càng rõ ràng hơn vai trò quản lý vĩ mô của Nhà nước khắc phục sự chồng chéo lên chức năng cảu các chủ thể kinh tế khác. Nhà nước xây dựng một hệ thống pháp luật, điều hành các công cụ kinh tế vĩ mô nhằm đảm bảo môi trường kinh tế thông thoáng, hấp dẫn với các nhà đầu tư, các doanh nghiệp tự mình xây dựng chiến lược, kế hoạch kinh doanh và thực thi để đạt hiệu quả cao nhất. Có thể nói, sự biến đổi căn bản trong quan hệ quản lý đã tạo động lực thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển giúp nền kinh tế đứng vững hơn trong cơ chế thị trường. Về sự thay đổi trong nguyên tắc phân phối trong sản xuất. Trong thời kỳ đổi mới, chuyển sang nền kinh tế nhiều thành phần trên cơ sở của các chế độ và hình thức sở hữu khác nhau, nguyên tắc phân phối đã có sự thay đổi đáng kể. Trong nghị quyết đại hội 8 của Đảng đã xây dựng kế hoạch thực hiện phân phối theo nhiều hình thức phân phối. Ngoài phân phối theo lao động mà còn dựa trên nguồn lực đóng góp, không chỉ đề cập đến phân phối lần đầu mà cả phân phối lại dưới hình thức phúc lợi xã hội. Nguyên tắc phân phối mới đã động viên tối đa sức sáng tạo và mọi cống hiến mọi nguồn lực để thúc đẩy sản xuất kinh doanh. Có thể nó đây là một sự biến đổi mang tính chất cách mạng. Bên cạnh những thành tựu đã đạt được trong quá trình hoàn thiện quan hệ sản xuất vẫn bộc lộ những hạn chế đó là những mâu thuẫn đòi hỏi phải tiếp tục tháo gỡ. Thứ nhất, các quan hệ sản xuất cũ vấn còn tàn dư. Điều này thể hiện ở việc "tôn vinh, đề cao" chế độ sở hữu xã hội chủ nghĩa. Với đường lối đổi mới thừ nhận tính đa dạng của sự tồn tại và phát triển các hình thức sở hữu, thừa nhận nhiều thành phần kinh tế. Nhưng lại đưa ra các chính sách còn chưa phù hợp đã gây nên sự bất bình đẳng, sự mặc cảm đối với từng hình thức sở hữu, thành phần kinh tế. Điều đó cản trở sự phát triển của lực lượng sản xuất cản trở sự phát huy các nguồn lực từ nội bộ nền kinh tế. Vào phát triển kinh tế - xã hội đất nước. Nhiều chính sách như chính sách đầu tư, chính sách thuế, sử dụng đất, các chính sách khác mới chỉ dành chủ yếu cho các doanh nghiệp thuộc sở hữu Nhà nước. Còn các doanh nghiệp, các đơn vị sản xuất kinh doanh thuộc sở hữu Nhà nước. Còn các doanh nghiệp, các đơn vị sản xuất kinh doanh thuộc các hình thức sở hữu, thành phần kinh tế khác thì ít được quan tâm hoặc không được quan tâm ngang tầm với vị trí cống hiến của chúng. Ngoài ra còn phải kể đến việc thực hiện còn gặp nhiều lúng túng, đắn do và do đó gây cản trở đến mức độ huy động và phát huy sức mạnh tổng hợp của các thành phần kinh tế trong phát triển lực lượng sản xuất. Ví dụ việc ưu tiên, ưu đãi trong đầu tư, trong việc thực hiện quyền sử dụng đất, trong chính sách thuế, chính sách tín dụng còn thiên về theo thành phần chứ chưa thiên về mục tiêu, nhiệm vụ và lĩnh vực kinh doanh….và do đó sự bất bình đẳng cũng như tính độc quyền vẫn chưa được tập trung tháo gỡ một cách hiệu quả. Từ thực trạng quan hệ sản xuất như vậy hiện nay ở Việt Nam đã đặt ra yêu cầu phải có các chính sách thay đổi hoàn thiện và xây dựng quan hệ sản xuất sao cho phù hợp. Đó cũng là yêu cầu tất yếu cần thiết và cấp bách phải giải quyết ngay trong giai đoạn quá độ hiện nay. III. Phương hướng cơ bản xây dựng và hoàn thiện quan hệ sản xuất. Định hướng xã hội chủ nghĩa trong thời kỳ quá độ ở Việt Nam. Như đã nói, việc xây dựng và hoàn thiện quan hệ sản xuất định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay là một yêu cầu, một đòi hỏi khách quan, xuất phát từ chính mục tiêu của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Xuất phát từ thực tiễn đất nước, từ bối cảnh quốc tế và từ những quan điểm chỉ đạo của Đảng - Nhà nước có thể thấy được phương hướng cơ bản của xây dựng và hoàn thiện quan hệ sản xuất ở nước ta trên 3 mặt sau. 1. Về quan hệ sở hữu. Quan hệ sở hữu là nhân tố cơ bản có vai trò quyết định đối với nhân tố khác của hệ thống quan hệ sản xuất. Do vậy xây dựng và hoàn thiện quan hệ sở hữu được đặt lên hàng đầu cần coi trọng các vấn đề sau: Thừa nhận và tạo điều kiện cho mọi hình thức sở hữu tương ứng với các trình độ phát triển khác nhau của lực lượng sản xuất cùng tồn tại. Đây chính là cơ sở để động viên mọi chủ sở hữu tham gia vào phát triển kinh tế, phát triển sản xuất hàng hoá. Tạo didều kiện cho lực lượng sản xuất phát triển. Khi lực lượng sản xuất đạt đến một trình độ nào đó sẽ lầm cho tính chất xã hội hoá của sản xuất ngày càng cao. Nó là sơ sở làm nảy sinh nhu cầu xác lập sở hữu xã hội chủ nghĩa về tư liệu sản xuất và tạo điều kiện thúc đẩy văn minh của con người hướng tới cuộc sống cộng đồng song cần phân biệt vai trò của mỗi hình thức sở hữu cũng như vai trò của các thành phần kinh tế. Khẳng định vai trò và vị thế không thể thay thế của sở hữu Nhà nước và thành phần kinh tế Nhà nước. Nó là nhân tố thúc đẩy sự phát triển của các hình thức sở hữu và các thành phần kinh tế khác. Như vậy mối quan hệ giữa các thành phần kinh tế phải vừa bình đẳng, vừa cạnh tranh phát triển, vừa hình thành cơ cấu tái sản xuất mở rộng của nền kinh tế. Thứ hai, mong xây dựng và hoàn thiện các quan hệ sở hữu định hướng xã hội chủ nghĩa. Mọi biện pháp hướng vào mục tiêu chủ yếu là phát triển lực lượng sản xuất. Sự phát triển của lực lượng sản xuất và nâng cao trình độ xã hội hoá của nó là cơ sở kinh tế làm nảy sinh nhu cầu xác lập sở hữu xã hội chủ nghĩa. Về tư liệu sản xuất và tạo điều kiện thúc đẩy văn minh còn người hướng tới cuộc sóng công cộng. Đây chính là mục tiêu và mục đích hoàn thiện và phát triển quan hệ sở hữu. 2. Về quan hệ phân phối. Quan hệ phân phối có vai trò đặc biệt quan trọng đối với tăng trưởng và phát triển kinh tế nhất là trong điều kiện nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần và thực hiện nhiệm vụ công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Vì thế trong xây dựng và hoàn thiện quan hệ phân phối trong giai đoạn hiện nay cần tập trung. Phát huy mọi nguồn lực, tính năng động sáng tạo của các chủ thể kinh tế vao sản xuất, do đó phải chấp nhận trong một thời gian dài có sự chênh lệch thu nhập giữa người giam gia vào quá trình sản xuất đồng thời cần tạo ra được những quan hệ đồng thuận cơ bản giữa các động lực. Bên cạnh đó, muốn tạo ra động lực kinh tế, phải tôn vinh những tài năng, những cá nhân biết làm giàu chính đáng. Nhà nước phải phát huy vai trò điều chỉnh một cáhch linh hoạt và hợp lý các chính sách thu thập khuyến khích mọi công dân phát triển sản xuất kinh doanh, làm trong sạch bộ máy Nhà nước. Để đảm bảo cho tăng trưởng và phát triển kinh tế lâu dài, tạo điều kiện cơ bản cho việc xây dựng và hoàn thiện quan hệ phân phối chính sách phân phối trong giai đoạn thực hiện cần phải tạo thuận lợi cho các doanh nghiệp tích luỹ để thực hiện tái sản xuất mở rộng. Chính sách thuế, chính sách kiểm tra, kiểm soát đối với doanh nghiệp phải nhằm mục tiêu "đất nước giàu có lên từ doanh nghiệp". Tạo điều kiện cho tích luỹ mở rộng sản xuất và giàu có ở doanh nghiệp cũng đồng thời là tạo điều kiện để tăng thu cho ngân sách Nhà nước. Thứ hai, hình thành cơ chế tái phân phối hợp lý và hiệu quả nhằm tạo nguồn thu cho ngân sách để giải quyết các vấn đề kinh tế - xã hội của đất nước, nâng cao phồn vinh và phúc lợi xã hội. Cùng với việc hoàn thiện quan hệ phân phối đối với đầu ra của quá trình sản xuất, cần coi trọng việc đổi mới và hoàn thiện phân phối các nguồn lực, các yếu tố đầu vào của sản xuất. Việc phân phối các yếu tố nguồn lực phải đổi mới theo hướng. Lấy tiêu chuẩn hiệu quả là chủ thể làm căn cứ phân phối và thực hiện trên cơ sở cơ chế thị trường kết hợp với cơ chế kế hoạch nền kinh tế. Các nguồn lực cần được ưu tiên phân phối cho các chủ thể kinh tế nào sử dụng chúng một cách hiệu quả, phù hợp với đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước không kể các chủ thể đó thuộc thành phần kinh tế nào. 3. Về quan hệ quản lý: Nâng cao hiệu quả vai trò và hiệu lực quản lý vĩ mô của Nhà nước. Nhà nước phải thực hành quản lý theo đúng pháp luật. Xây dựng cơ chế quản lý Nhà nước có hiệu quả, phục vụ tốt cho việc sản xuất kinh doanh của các chủ thể thuộc mọi thành phần kinh tế. Ngoài việc phục vụ tốt cho phát triển kinh doanh, các đơn vị kinh tế, các chủ thể kinh tế phải hướng vào khắc phục những khuyết tật. Xây dựng đội ngũ cán bộ tốt, giỏi về nghề nghiệp, có đạo đức và phẩm chất tốt phục vụ cho đất nước. Nâng cao năng lực quản lý của các thủ thể kinh tế thuộc các hình thức sở hữu, các thành phần kinh tế. Tạo môi trường kinh doanh thuận lợi và môi trường cạnh tranh bình đẳng cho một chủ thể. Chú trọng nâng cao trình độ quản lý của đội ngũ các nhà kinh doanh. Ngoài sự hoàn thiện trong 3 năm phân phối, sở hữu, tổ chức quản lý còn cần phá._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docT0430.doc
Tài liệu liên quan