Quan hệ phân phối ở nước ta

lời mở đầu Trong xã hội ngày naythì phân phối là một khâu không thể thiếu được củaquá trình taí sản xuất , phân phối là khâu quan trọng nối liền sản xuất và tiêu dùng.Phân phối phụ thuộc vào sản xuất nhưng phân phối tốt hay không tốt lại ảnh hưởng đến sản xuất, đến trao đổi tiêu dùng và đời sống nhân dân. Khi mà nền kinh tế của nước ta chuyển từ nền kinh tế tự cung tự cấp sang nền kinh tế thị trường thì phân phối giữ một vị trí hết sức quan trọng.Phân phối nối liền sản xuất với sản xuất,sản x

doc27 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1382 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Quan hệ phân phối ở nước ta, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
uất với tiêu dùng ,nối liền thị trường hàng tiêu dùng ,dịch vụ thị trường yếu tố sản xuất ,làm cho sự vận động của kịnh tế thị trương diễn ra thông suốt. Tuy nhiên,khichuyển sang kinh tế thị trường , hàng loạt các vấn đề thuộc lĩnh vực phân phối thu nhập như tiền lương,lợi nhuận,lợi tức ,địa tô và phân phối lao động ,các hình thúc phân phối khác phù hợp với nguyên lý kinh tế thị trường cũng như các tác đọng của chúng đối với sự phát triển kinhtế - xã hội ở nước tađang đòi hỏi có sư nghiên cứu nghiêm túc công phu. Vì vậy việc nghiên cứu vấn đề quan hệ phân phối ở việt nam hiện nay là hết sức cần thiết và cấp bách . Kết cấu đề tài này gồm hai chương Chương 1: Một số vấn đề cơ bản về quan hệ phân phối ở nứoc ta hiện nay Chương 2: Thực trạng quan hệ phân phối ở nứoc ta hiện nay và những giải pháp hoàn thiện quan hệ phân phối ở nứoc ta hiện nay Em xin chân thành cảm ơn thâỳ Trần Việt Tiến đã tận tình hướng dẫn,tạo điều kiện ,giúp đỡ cho em hoàn thành đề tài này . CHƯƠNG 1 Một số vấn đề cơ bản về quan hệ phân phối ở nước ta hiện nay 1.1. Tính tất yếu khách quancủa quan hệ phân phốỉ ở nước ta hiện nay Trong nền kinh tế thị trường thì phân phối giữ vi trí hết sức quan trọng .Trong quá trình tái sản xuất thi phân phối làm khâu trung gian nối liền giũa sản xuất với sản xuất, sản xuất với tiêu dùng, nó phục vụ và thúc đẩy sản xuất, phục vụ tiêu dùng. Nhưng sản xuất lại đóng vai trò quyết định đối với phân phối ,sản xất tao ra đối tượng và vật liệu cho phân phối ,quyết định quy mô và cơ cấu của cải để phân phối . Phân phối không thể vượt qúa khả năng cho phép của sản xuất,thu nhập thực tế chỉ có thể tăng lên theo đà phát triển của sản xuất nhưng tốc độ tăng của thu nhập thực tế phải chậm hơn tốc độ tăng lên của sản xuất ,có như thế mới đảm bảo tái sản xuất mở rộng . Hiện nay nứoc ta đang thực hiện công cuộc CNH-HĐH đất nước xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội . Chế độ xã hội chủ nghĩa là chế độ làm chủc tập thể của nhân dân lao động trên tất cả mọi lĩnh vực trong đó làm chủ tập thể về kinh tế là cơ sở .Trong chế độ làm chủ tập thể về kinh tế thì làm chủ về tư liệu sản xuất là cơ sở ,điều kiên để đảm bảo làm chủtập thể về phân phối. Một khi tư liệu sản xuất la thuộc sở hữu chung của nhân dân lao động thì của cải làm ra cũng thuộc sở hữu chung của họ và việc phân phối của cải làm ra chỉ có thể nhằm mục đích phục vụ lợi ích của nhân dân lao động .Trong điều kiện của nước ta hiện nay nền kinh tế vẫn còn ở tình trạng lạc hậu , nghèo nàn chưa đủ sản phẩm để phân phối theo nhu cầu .Vì thế việc thực hiện phân phối theo thu nhập trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội là mộ vấn đề vô cùng quan trọng đẻ tạo ra đọng lực mạnh mẽ góp phần tích cực thúc đẩy sản xuất phát triển ,ổn định tình hình kinh tế -xã hội nâng cao đời sống nhân dân thực hiện mục tiêu dân giầu nước mạnh xã hội công bằng ,dân chủ ,văn minh . 1.1.1.Bản chất và vị trí của phân phối. Quá trình tái sản xuất xã hội gồm bốn khâu:sản xuất, phân phối ,trao đổi, tiêu dùng.Cáckhâu này có quan hệ chặt chẽ với nhau,trong đó sản xuất là khâu cơ bản đóng vai trò quyết định;các khâu khác phụ thuộc vào sản xuất,nhưng chúng có quan hệ trở lại đối với sản xuất cũng như ảnh hưởng lẫn nhau chính vi có quá trinh phân phối này mới có sự tác động qua lại giữa sản xuất và tiêu dùngvà từ đó thúc đẩy sản xuất phát triển ,tăng quy mô tiêu dùng . Tính chất của quan hệ phân phối do quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất quyết định. Khi ta xét về quan hệ giữa người và người thì phân phối do quan hệ sản xuất quyết định. Quan hệ trong sản xuất như thế nào thì quan hệ trong phân phối như thế ấy. Xã hội luôn tồn tại mối quan hệ sản xuất và sản phẩm. Bản thân phân phối là sản phẩm của sản xuất không chỉ về nội dung mà cả về hình thức. Phân phối không phải là một lĩnh vực độc lập đứng bên cạnh sản xuất. Bản chất của quan hệ phân phối hoàn toàn do quan hệ sản xuất quyết định. Mặt khác ta thấy rằng phân phối không chỉ đơn thuần là một kết quả tiêu cực của sản xuất và trao đổi mà nó còn tác động mạnh mẽ ngược trở lại trao đổi và sản xuất. Phân phối có tính độc lập tương đối của nó,nó có chức năng cụ thể ,có những quy luật đặc thù tác động tích cực đến cáckhâu của quá trình tái sản xuất. Trước khi phân phối sản phẩm thì nó là: phân phối những công cụ sản xuất và điều này là một tính qui định nữa cũng của một mối quan hệ ấy - phân phối các thành viên xã hội theo những loại sản xuất khác nhau. Rõ ràng phân phối sản phẩm chỉ là kết quả của sự phân phối đó, sự phân phối này đã bao hàm trong bản thân quá trình sản xuất và quyết định trong cơ cấu sản xuất. Xem xét sản xuất một cách độc lập với sự phân phối đó, sự phân phối bao hàm trong sản xuất, thì rõ ràng là một sự trừu tượng trống rỗng, còn sự phân phối sản phẩm thì trái lại, đã bao hàm trong sự phân phối này là sự phân phối ngay từ đầu đã là một yếu tố của sản xuất. Cơ sở kinh tế của sự phân phối bao gồm cả sự phân phối cho sản xuất và phân phối cho tiêu dùng do đó tổng sản phẩm xã hội vừa được phân phối để tiêu dùng cho sản xuất, vừa được phân phối để tiêu dùng cho cá nhân mỗi thành viên trong xã hội . Nhưng vì sự phân phối bao giờ cũng gồm cả sự phân phối cho sản xuất xem là yếu tố của sản xuất và phân phối cho tiêu dùng xem là kết quả của quá trình sản xuất,cho nên không phải toàn bộ sản phẩm xã hội tạo ra đều được phân phối cho tiêu dùng cá nhân mà cần trích ra để bù đắp những tư liệu sản xuất hao phí, mở rộng sản xuất lập quỹ dự phòng, chi phí về quản lý hành chính tổ chức... Phần còn lại phù hợp với số lượng và chất lượng lao động. Như vậy,phân phối là tổng sản phẩm xã hội và phân phối để tiêu dùng cho sản xuất, vừa được phân phối để tiêu dùng cho cá nhân. I.2 Vai trò của quan hệ phân phối Bàn về vai trò của phân phối trong nền sản xuất xã hội, F.Ăngghen cho rằng:‘’ Sự phân phối chừng nào mà còn bị những lý do thuần tuý kinh tế chi phối, thì nó sẽ được điều tiết bởi lợi ích của sản xuất, rằng sản xuất sẽ được thuận lợi trên hết trong mọi phương thức phân phối mà mọi thành viên trong xã hội có thể phát triển, duy trì và thực hiện những năng khiếu của họ một cách toàn diện nhất.,, (1) Ta thấy rằng mỗi một hình thái kinh tế xã hội đều bao gồm cả một hệ thống phức tạp các lợi ích mà trong đó lợi ích kinh tế đóng vai trò quyết định. Các lợi ích kinh tế được quy định bởi quan hệ sản xuất cua mỗi chế độ xã hội, trong đó quan hệ sở hữu với tư liệu sản xuất có vai trò chi phối hệ thống lợi ích kinh tế. Bản chất của quan hệ sản xuất trong mối phương thức sản xuất được thể hiện qua hình thức sở hữu - đó không phải là quan hệ đơn thuần như mọi sự việc tồn tại trong xã hội mà nó là mối quan hệ phức tạp giữa con người với con người. Trong lịch sử không hề có một hình thái sở hữu nào mà không phản ánh những quan hệ trong sản xuất. ‘’Nơi nào không có một hình thái sở hữu nào cả thì ở đó không tồn tại một nên sản xuất nào cả, do đó cũng không một xã hội nào cả.,, (2) Sở hữu - đó là những quan hệ về các điều kiện khách quan của sản xuất, phân phối, trao đổi và tiêu dùng những của cải vật chất. Sở hữu với tư cách là những quan hệ sản xuất, nó là cơ sở của các lợi ích. Hệ thống các quan hệ sản xuất của mỗi chế độ xã hội sẽ quy định hệ thống các lợi ích vốn có trong giai đoạn phát triển của nó. Trong hệ thống các lợi ích thì lợi ích kinh tế giữ vai trò chủ đạo. Lợi ích kinh tế được hiểu là những quan hệ kinh tế phản ánh những nhu cầu, những động cơ khách quan về sự hoạt động của các gia cấp, những nhóm xã hội hoặc của từng người làm viêc riêng biệt do quan hệ sản xuất quyết định. Nói lợi ích kinh tế là hình thức biểu hiện của những quan hệ kinh tế của mỗi xã hội nhất định nghĩa là lợi ích kinh tế là phạm trù kinh tế khách quan, nó chỉ xuất hiện khi giưa những người sản xuất có những mối quan hệ kinh tế khác nhau. Lợi ích kinh tế vừa mang tính chất khách quan vừa mang tính chủ quan. Nó mang màu sắc khách quan bởi vì nó luôn tồn tại và vận động. Thông qua sự vận động của các quy luật kinh tế do nó trực tiếp sinh ra mà quan hệ sản xuất ảnh hưởng tới quá trình sản xuất. Còn nó mang màu sắc chủ quan là ở chỗ nó biến các tác động khách quan của các quy luật kinh tế thành các động cơ hành đọng kinh tế cử con người. Lợi ích kinh tế có vai trò quan trọng là động lực mạnh mẽ đối với sự phát triển của xã hội. Những hình thức chủ yếu của lợi ích kinh tế trong hệ thống này luôn được đặc trưng bằng tính đại diện và tính thống nhất giữa ba nhóm lợi ích cơ bản. Đó là lợi ích nhà nước, lợi ích tập thể lợi ích và lợi ích của bản thân người lao động. Sự thống nhất giữa các hình thức lợi ích kinh tế khác nhau trong xã hội sẽ dẫn đến sự liên hệ chặt chẽ và thâm nhập nhau giữa chúng. Trong đó lợi ích cá nhân trực tiếp là động lực mạnh mẽ nhất đối với sự phát triển của xã hội. Sự tồn tại nền kinh tế nhiều thành phần trong thời kỳ quá độ đã nói lên sự không đồng nhất về lợi ích kinh tế xã hội. Tuy nhiên đây là một xu thế tất yếu bởi điểm xuất phát đi lên là thấp trong khi đó yêu cầu hội nhập quốc tế là cách duy nhất để thực hiện mục tiêu công nghiệp hoá hiện đại hoá. Tương ứng với quá trình đó, trong nền kinh tế sẽ có nhiều quy luật vận động. Các quy luật kinh tế phát sinh trên cơ sở những quan hệ kinh tếa tương ứng và cũng trực tiếp quy định sự hình thành các lợi ích kinh tế của từng giai cấp từng tầng lớp dân cư trong xã hội. Tuy nhiên bên cạnh sự thống nhất giữa các lợi ích kinh tế cơ bản, không loại trừ những mâu thuẫn giữa chúng cũng như trong phạm vi mỗi nhóm lợi ích. Vì vậy cần phải phát hiện kịp thời các mâu thuẫn giữa các lợi ích và tìm cách giải quyết các mâu thuẫn đó. Việc giải quyết các quan hệ về lợi ích kinh tế được thực hiện thông qua quan hệ phân phối. Khi phương thức sản xuất còn phù hợp (lợi ích của giai cấp thống trị còn phù hợp với lợi ích của xã hội) thì người ta còn bằng lòng với sự phân phối của xã hội. Nhưng khi nó thoái trào thì không còn điều kiện để tồn tại phân phối bởi phân phối khi đó đã không còn là công cụ đẩm bảo cho sự công bằng xã hội, bất công ngày càng sâu sắc đẫn đến đấu tranh xã hội và cuối cùng là một phương thức sản xuất mới ra đời. Như vây quan hệ phân phối mang tính lịch sử và thước đo mức độ tiến bộ của một hình thái xã hội. Nó chỉ có thể thay đổi khi quan hệ sản xuất đẻ ra quan hệ phân phối đó mất đi - đó là thông qua cách mạng xã hội.Bởi trong mỗi hình thái kinh tế thì quan hệ phân phối giải quyết những mâu thuẫn về lợi ích kinh tế và đến khi nào nó không thể giải quyết được nữa thì tất yếu sẽ bị thay thế bằng hình thức phân phối khác cho phù hợp. 1.3. Các hình thức phân phối ở nước ta hiện nay Đại hội đai biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng đã khẳng định và Đại hội Đảng lần thứ IX cũng tiếp tục khẳng định nền kinh tế nước ta trong thời kỳ quá độ là nền kinh tế nhiều thành phần có sự quản lý của nhà nước ,tương ứng với nó là nhiều hình thức phân phối nhưng lấy phân phối theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế là chủ yếu , đồng thời phân phối dựa trên mức đóng góp nguồn lực khác vào kết quả sản xuất - kinh doanh và phân phối thông qua phúc lợi xã hội. Trong nền kinh tế này xuất hiện nhiều chủ thể kinh tế khác nhau với các hình thức sở hữu khác nhau và cũng vì lẽ đó mà xuất hiện nhiều phương thức phân phối khác nhau.Mỗi thành phần kinh tế có phương thức sản xuất –kinh doanh khác nhau nên kết quả kinh doanh khác nhaudo đó cần các hình thức phân phối khác nhau Vì vậy ở nước ta hiện nay không thể tồn tại một hình thức phân phối duy nhất 1.3.1. Phân phối theo lao động Trong thời kỳ quá độ hiện nay ,hình thức phân phối theo lao động là hình thức phân phối căn bản , là nguyên tắc phân phối chủ yếu và thích hợp nhất với các thành phần kinh tế dựa trên chế độ công hữu về tư liệu sản xuất (kinh tế nhà nước)hoặc các hợp tác xã cổ phần mà góp vốn của các thànhviên bằng nhau (kinh tế hơp tác ) Phân phối theo lao động là hình thức phân phối căn bản, là nguyên tắc phân phối chủ yếu thích hợp nhất với các thành phần kinh tế dựa trên chế độ sở hữu công hữu về tư liệu sản xuất. Do đó dựa trên cơ sở của chế độ công hữu về tư liệu sản xuất mà chế độ người bóc lột người bị xoá bỏ.Người lao động làm chủ những tư liệu sản xuất nên tất yếu cũng làm chủ phân phối theo thu nhập . Lao động đang trở thành cơ sở quyết định địa vị và phúc lợi vật chất của mỗi người. Chính vì vậy mà phân phối theo lao động là phù hợp với quan hệ sản xuất của các thành phần kinh tế đang tồn tại ở nước ta. Trước đây nước ta đã thực hiện sự phân phối bình quân là phân phối cho mỗi người một lượng sản phẩm như nhau, không phân biệt mức đóng góp của từng người vào sản xuất xã hội. Phân phối bình quân đã gây ra sự bất hợp lý và tiêu cực trong xã hội.Trong thời kỳ quá độ ở nước ta hiện nay thì phân phối theo lao động là hình thức thức căn bản, là nguyên tắc phân phối chủ yếu thích hợp nhất với các thành phần kinh tế dựa trên chế độ sở hữu công hữu về tư liệu sản xuất. Trong thành phần kinh tế này tất cả mọi người dều có quyền bình đẳng đối với tư liệu sản xuất, thì chỉ có thể thực hiện phân phối giữa những người lao động với nhau thông qua việc láy lao động làm thước đo. Đối với các thành phần kinh tế thì việc phân phối theo lao động là một điều tất yếu. Bởi nhiều nguyên nhân: Nhờ dựa trên chế độ công hữu mà chế độ người bóc lột người bị xoá bỏ. Quyền làm chủ về mặt kinh tế được xác lập. Lao động đang trở thành cơ sở quyết định địa vị xã hội và phúc lợi vật chất của mỗi người.Chính vì vậy mà phân phối theo lao động và phù hợp với các thành phần kinh tế đang tồn tại ở nước ta hiện nay. Lý do thứ hai khiến phân phối theo lao động là cần thiết là: trình độ phát triển của lực lượng sản xuất còn thấp, chưa có đủ sản phẩm để phân phối theo nhu cầu. Tiếp đó là sự khác biệt về tính chất và trình độ lao động .... Dẫn đến mỗi người có cống hiến khác nhau đến kết quả lao động do đó phải căn cứ vào lao động đã cống hiến cho xã hội để phân phối. Thêm một nguyên nhân nữa cho thấy sự cần thiết phải phân phối theo lao động là lao động chưa trở thành nhu cầu của cuộc sống, nó còn là phương tiện để kiếm sống, còn là ‘’nghĩa vụ,, và quyền lợi của mỗi công dân. Hơn nữa còn những tàn dư về tư tưởng của xã hội cũ như thái độ ‘’muốn trút bỏ gánh nặng cho người khác, làm ít hưởng nhiều ,, . Do đó cần phải có hình thức phân phối để các thành viên trong xã hội dựa vào đó là cơ sở, động lực trong các hoạt động của mình. Như vậy việc phân phối theo lao động là một điều tất yếu và phù hợp với hoàn cảnh của đất nước ta hiện nay, phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất trong giai đoạn đầu của quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá. Nguyên tắc thực hiện phân phối theo lao động là phải lấy kết quả lao động làm thước đo để phân phối sản phẩm tiêu dùng cá nhân. Lấy số lượng lao động và chất lượng lao động của mỗi người làm căn cứ trả công. Tuy nhiên nguyên tắc này phải gắn liền với yêu cầu đảm bảo công ăn việc làm cho những người có năng lực lao động, và tất yếu không thể nằm ngoài yêu cầu đảm bảo những nhu cầu cơ bản về đời sống vật chất tinh thần của người lao động. Trong quá trình phân phối theo lao động cần chống hai sai lầm cơ bản khi thực hiện, đó là chủ nghĩa bình quân tiểu tư sản trong việc trả công lao động, vì nó gạt bỏ hoàn toàn nuyên tắc lợi ích vật chất, kìm hãm động lực lao động của người lao động. Thứ hai là khuynh hướng đòi mở rộng quá mức khoảng cách giữa các bậc lương, thang lương một cách không có căn cứ kinh tế và những đòi hỏi có sự ưu đãi đặc biệt đối với một số người. Thực hiện tốt phân phối theo lao động sẽ có nhiều tác dụng to lớn đối với xã hội và bản thân người lao động. Bởi lẽ nó đáp ứng được những đòi hỏi cấp bách của sự công bằng xã hội đang đặt ra ở nước ta, nó kết hợp chặt chẽ lợi ích của sản xuất xã hội với lợi ích của từng cá nhân lao động. Nó khuyến khích người lao động đi sâu vào nghề nghiệp chuyên môn làm cho đội ngũ lao động lành nghề ngày càng đông đảo. Điều đó còn thúc đẩy người lao động ra sức học tập văn hoá kỹ thuật, góp phần làm cho sự khác biệt giữa lao động trí óc và lao động bằng chân tay bị xoá bỏ dần. Tạo điều kiện cho việc phân bổ và sử dụng nguồn sức lao động được ổn định trong cả nước đảm cho sản xuất xã hội cân bằng và có kế hoạch. Thêm vào đó nó góp phần giáo dục về quan điểm, thái độ và kỷ luật lao động đối với mỗi thành viên xã hội. Nó làm cho bản thân người lao động vì lợi ích vật chất của mình mà quan tâm đến kết quả lao động của mình , từ đó ra sức mà đẩy mạnh sản xuất. Tuy nhiên để thực hiện được mục tiêu ‘’làm theo năng lực hưởng theo nhu cầu,, thì còn nhiều việc phải làm. Bởi theo Mac phân phối theo lao động vẫn là một thứ pháp quyền tư sản, quyền bình đẳng vẫn nằm trong khuôn khổ tư sản, tức là trong xã hội sản xuất hàng hoá được thực hiện theo nguyên tắc trao đổi ngang giá và quyền của người lao động tỷ lệ với lao động người ấy cung cấp thì điều đó vẫn còn thiếu xót. Bởi vởi với một công việc ngang nhau một phần tham dự như vào quỹ tiêu dùng xã hội nhưng trên thực tế người này vẫn được hưởng nhiều hơn người kia. Chế độ phân phối theo lao động vẫn còn những thiếu xót nhưng đó là những thiếu xót không thể tránh khỏi trong giai đoạn đầu của chủ nghĩa công sản. Nếu như trong xã hội tư bản phân phối dựa trên cơ sở ‘’người có của, kẻ có công,, thì trong xã hội XHCN được dựa trên nguyên tắc ‘’ người làm nhiều hưởng nhiều, người làm ít hưởng ít, không làm kong hưởng,, đó là bình đẳng. Mặc dù còn tồn tại thiếu xót nhưng với tác dụng của mình thì phân phối theo lao động vẫn là hình thức phân phối phù hợp nhất trong điều kiện vừa thực hiện công nghiệp hoá - hiện đại hoá vừa đảm bảo công bằng cho các thành viên trong nền kinh tế hoạt động có hiệu quả. Vì vậy việc thực hiện phân phối theo lao động trong các đơn vị kinh tế thuộc thành phần kinh tế dựa trên cơ sở công hữu về tư liệu sản xuất là tất yếu vì: Thứ nhất ở nước ta trong điều kiện hiện nay lực lượng sản xuất phát triển chưa cao, chưa đến mức có đủ sản phẩm để phân phối theo nhu cầu. Tiếp đó là sự khác biệt về tính chất và trình độ lao động... dẫn đến mỗi người có cống hiến khác nhau do đó phải căn cứ vào lao động đã cống hiến cho xã hội để phân phối. Thứ hai hiện tại nước ta vẫn còn sự khác biệt giữa các loại lao động như lao động trí óc , lao động chân tay ,lao động giản đơn ,lao động chân tay ….Do vậy cùng một đơn vị thời gian ,những lao động khác nhau đưa lại kết quả ít nhiều , tốt xấu khác nhau.Do đó cần phải dựa vào kết quả lao động để phân phối . Mặt khác trong xã hội nước ta hiện nay vẫn còn những người “ muốn trút bỏ gánh nặng lao động cho người khác”, do đó trong tình hình nước ta hiện nay thì phân phối theo lao động là phù hợp với tình hình xã hội kể trên Thứ ba trong điều kiện nước ta hiện nay , nền kinh tế phát triển chưa đến mức có đủ sản phẩm để phân phối theo nhu cầu .Trong điều kiện lượng sản phẩm còn có hạn , để phân phối công bằng cần phải dựa vào kết quả lao động của từng người .Hơn nữa lao động chưa trở thành một nhu cầu của cuộc sống , nó còn là phương tiện để kiếm sống, là nghĩa vụ và quyền lợi , còn những tàn dư ý thức , tư tưởng cảu xã hội cũ để lại ,như : coi khinh lao động , ngại lao động chân tay, chây lười ,thích làm ít hưởng nhiều , so bì giữa cống hiến và hưởng thụ …. Trong điều kiện đó , phải phân phối theo lao động để khuyến khích người chăm , người giiỏi , giáo dục kẻ lười người xấu , gắn sự hưởng thụ của mỗi người với sự cống hiến của họ .Đây cũng là hình thức nhằm khắc phục những tư tưởng tàn dư của xã hội cũ , không chỉ trong thời kỳ quá độ mà cả trong khi chủ nghĩa xã hội đã được xác lập phân phối vẫn là hình thức phân phối chủ yếu Tóm lại phân phối theo lao động là phù hợp với chế độ công hữu về tư liệu sản xuất, phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, phù hợp với mô hình sản xuất và trình độ phát triển của đất nước. Nó có những cơ sở cụ thể để phân phối một cách hợp lí như :trình độ, số lượng lao đọng, môi trường lao động, tính chất của lao động ,tiền công, tiền thưởng ….Trong mỗi hoàn cảnh kinh tế, điều kiện làm việc khác nhau mà nẩy sinh các hình thức thúc đẩy nhân công làm việc khác nhau như :tác động đến vật chất, đến văn hoá….Tuy nhiên , phân phối theo lao động còn có những hạn chế nhưng đó là những hạn chế khong thể tránh khỏi trong giai đoạn đàu của xã hội cộng sản chủ nghĩa. Chỉ khi nào cùng với sự phát triển toàn diện của mỗi cá nhânthì khi đó con người mới có thể thưc hiện việc phân phói theo nhu cầu và xã hội khi đó mới thực sự bình đẳng. 1.3.2. Phân phối theo tài sản hay vốn và những đóng góp khác Bên cạnh việc thực hiện phân phối theo lao động thì nước ta còn sử dụng hình thức phân phối theo tài sản hay vốn và những đóng góp khác. Nền kinh tế nước ta trong bước quá độ định hướng lên chủ nghĩa xã hội . Với cơ cấu nhiều thành phần ,nên tất yếu co nhiều hình thức sở hữu về tư liệu sản xuất và cũng sẽ xuất hiện nhiều hình thức sản xuất kinh doanh khác nhau Một đặc điểm rõ nét của nước ta trong quá độ định hướng lên CNXH từ một nền sản xuất nhỏ là tình trạng thiếu vốn phân tán vốn. Quá trình sản xuất, tích tụ và tập trung vốn chưa cao, một phần tương đối lớn vốn vốn sản xuất hiện nay còn nằm rải rác ,phân tán trong tay người tư hữu nhỏ ,tư sản nhỏ ,trong đó có cả dưới dang jtư liệu sản xuất , vàng bạc ngoại hối và tiền mặt vv…. Để sử dụng nguồn vốn đó cho sản xuất thì không thể sử dụng cá chính sách ắp đặt như trưng thu, trưng mua hoặc đóng góp cổ phần một cách bình quân. Từ sau nghị quyết hội nghị lần thứ VI Ban chấp hành trung ương (khoá VI) thì ở nước ta đã xuất hiện các biện pháp huy động vốn của dân cư dưới các hình thức vay vốn, hùn vốn và góp cổ phần không hạn chế, với mức lãi suất hợp lý. Cách làm như vậy có tác dụng đưa được vốn nhàn rỗi đi vào chu chuyển. Qua đó kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể nắm quyền sử dụng một nguồn vốn to lớn hơn nhiều nguồn vốn tự có. Như vậy mặc dù sở hữu vốn là tư nhân, nhưng việc sử dụng vốn đã mang tính xã hội. Xét tình hình đất nước ta thì cần phải tạo điều kiện pháp lý cho các thành phần kinh tế tư nhân cá thể và tất cả mọi thành viên trong xã hội yên tâm và mạnh dạn đầu tư vốn và sản xuất kinh doanh. Bên cạnh đó thực hiện phân phối kết quả sản xuất kinh doanh theo vốn và theo tài sản của mỗi cá nhân đóng góp vào quá trình sản xuất xã hội dươí hình thức “lợi tức”và “lợi nhuận” và được coi là hình thức phân phối hợp pháp và được sự bảo hộ của pháp luật. Do sự liên doanh liên kết giữa các thành phần kinh tế, giữa các chủ thể sản xuất kinh doanh nên đã xuất hiện các công ty liên doanh, các xí nghiệp cổ phần. ở các loại xí nghiệp này, việc phân phối dựa trên cơ sở vốn cổ phần, dưới hình thức lợi tức cổ phần. Phân phối thu nhập dưới hình thức lợi tức tiền gửi của các cá nhân hoặc tập thể vào ngân hàng. 1.3.3. Phân phối thông qua phúc lợi tập thể , phúc lợi xã hội Phân phối theo lao động và phân phối theo tài sản và vốn đều là tất yếu khách quan trong quá độ hiện nay ở nước ta , vì các hình thức phân phối đó đều nhằm mục đích thúc đẩy nền sản xuất phát triển và tạo lập sự công bằng xã hội giữa mọi thành viên trong xã hội. Nhưng trong điều kiện cụ thể của nước ta hiện nay , nhưng ngoài những người khoẻ mạnh có khả năng lao động và đang lao động, được trả công theo lao động, những có vốn và tài sản đóng góp vào qúa trình sản xuất để được nhận lợi tức và lợi nhuận, thì trong xã hội còn có những người vì lẽ này hay lẽ khác, không thể tham gia vào lao động được trả công của xã hội. Đời sống số đông người này được gia đình đảm bảo. Mặt khác, ngay cả mức sống của cán bộ công nhân viên chức Nhà nước và những người làm việc trong tất cả các thành phần kinh tế cũng không chỉ dựa vào tiền công cá nhân. Bởi mức tiền công theo qui định của Nhà nước chưa đảm bảo được mức sống. Họ phải dựa một phần vào các quĩ phúc lợi công cộng của Nhà nước, của các doanh nghiệp và các tổ chức kinh tế xã hội khác. Vì vậy mà ngoài việc phân phối theo lao động, theo tài sản và theo vốn thì trong xã hội còn tồn tại hình thức phân phối ngoài thù lao lao động, thông qua quĩ phúc lợi xã hội. Đây không phải là phân phối theo nhu cầu, cũng không phải là phân phối là phân phối theo lao động mà đây mới chỉ là phân phối của thời kỳ quá độ mà thôi. Đây là hình thức phân phối bổ sung cần thiết và quan trọng đối với nguyên tắc phân phối theo lao động. Nó thích hợp với việc thoả mãn những nhu cầu công cộng của xã hội. Nó có lợi trước hết cho những gia đình mà thù lao lao động tính theo đầu người tương đối thấp. Nó không những bảo đảm cho tất cả mọi thành viên trong xã hội đều có mức sống bình thường tối thiểu mà còn có tác dụng kích thích lao động sản xuất, kích thích sự phát triển toàn diện của mọi thành viên trong xã hội. Đây là hình thức phân phối của thời kỳ quá độ, nó góp phần thúc đẩy sự phát triển của một đất nước. Cả ba hình thức phân phối trên đều là những hình thức phân phối cơ bản ở nước ta hiện nay trong đó phân phối theo lao động giữ vai trò chủ đạo.Phân phối ngoài thù lao lao động qua các quĩ phúc lợi xã hội ngày càng trở nên quan trọng trong quá trình phát triển xã hội. Đồng thời phân phối theo tài sản, vốn và những đóng góp khác ngày nay cũng trở thành một tất yếu, hợp qui luật. 1.4. Kinh nghiệm một số nước về quan hệ phân phối 1.3/ Kinh nghiệm một số nướcvề quan hệ phân phối 1.3.1/Kinh nghiệm về quan hệ phân phối ở liên xô Kinh nghiệm từ sự vân dụng nguyên tắc phân phối của các nước trên thế giới đặc biệt là nguyên tắc phân phối của CNXH ở Liên Xô đáng để nước ta nghiên cứu và học hỏi. Trong lĩnh vực phân phối, chính quyền Xô Viết đã kiên quyết tiếp tục thay thế việc buôn bán bằng chế độ phân phối sản phẩm một cách có kế hoạch và có tổ chức trên qui mô toàn quốc. Mục đích là tổ chức toàn thể nhân dân vào các công xã sản xuất và tiêu dùng có khả năng phân phối các sản phẩm cần thiết một cách nhanh chóng nhất, có kế hoạch nhất và tiết kiệm nhất, bằng cách tập trung chặt chẽ bộ máy phân phối. Hợp tác xã là là một phương tiện quá độ để đạt tới mục đích đó. Đảng cộng sản Liên Xô đã buộc tất cả các đảng viên của mình phải làm việc trong các hợp tác xã, lãnh đạo các hợp tác xã đó theo tinh thần cộng sản. Bên cạnh đó chính quyền Xô Viết trung ương thực hiện việc phân phối công bằng lương thực trong xã hội, từng bước khôi phục công nghiệp và bảo đảm việc sản xuất và phân phối XHCN một cách đúng đắn, bảo đảm toàn bộ nền trật tự xã hội. Nhà nước đã thay đổi chế độ trưng thu là thuế lương thực, việc kiểm kê và giám sát được áp dụng khắp nơi một cách phổ biến tuyệt đối về số lượng lao động và phân phối sản phẩm. Đó thực chất là cuộc cải tạo XHCN, một khi giai cấp vô sản đã giành được và bảo đảm được nền thống trị chính trị. Nhà nước Xô Viết thành công trong việc phân phối công bằng còn do đã biết biến những công việc trên trở thành sự nghiệp của quần chúng nhân dân, Nhà nước cùng nhân dân phối hợp thực hiện 1.3.2/Kinh nghiệm một số nước của các nước Asean về quan hệ phân phôi Trong kho tàng kinh nghiệm phát triển kinh tế của các nước ASEAN thì vấn đề điều tiết thu nhập đang được các nhà kinh tế thế giới nói chung và Việt nam nói riêng lưu tâm nghiên cứu . Những thành công và cả những thất bại của họ lằnhững bài học quý giá đối với chúng ta ,đặc biệt là chuyển sang nền kinh tế thị trường hiện nay 1.4.1. Singapore Là một đất nước giầu có và có thu nhập cao sự tăng trưởng kinh tế cao và liên tục trong nhiều thập niên đã làm cho việc xoá bỏ nghèo khổ ở đây ít nan giải hơn tỷ lệ nghèo tuyệt dối giảm từ19 % xuống còn chỉ 13 %. Trong những năm gần đây, chính phủ Singapore đã có những cố gắng đáng khể để tăng kỹ năng và chất lượng của toàn bộ lực lượng lao động. Chi phí cho giáo dục tăng nhanh từ đầu năm 80 trở đi, chủ yếu là tập chung vào các lĩnh vực đào tạo chuyên ngành. ở Singapơre có sự can thiệp của nhà nước về thị trường lao động và giáo dục có tác dụng tạo nên nguồn vốn nhân lực trong các hộ gia đình và cá nhân. Các biện pháp trên tuy không trực tiếp loại bỏ mức thu nhập thấp và những bất bình đẳng về của cải. Nhưng nó đã giúp cho mọi cá nhân có cơ hội công suất phản kháng được việc làm tốt với mức thu nhập xứng đáng. Là một quốc gia giàu có , có thu nhập cao trong khu vực cũng như trên thế giới nên việc giảm bớt nghèo khổ,chênh lệch có những đặc điểm khác.Quốc đảo này có tỉ lệ thất nghiệp nhỏ và mức lương tối thiểu đã làm cho tỉ lệ nghèo từ 19%những năm 53-54 giảm xuống còn 0,3% vào những năm1982-1983.Một chiến lược quan trọng nhằm làm giảm nghèo khổ là đàu tư vào con người.Chi phí giáo dục tăng nhanh từ đầu những năm 80 trở đi,chủ yếu là tập trung cho các lĩnh vực kĩ thuật, đào tạo chuyên ngành.Mặt khác từ đầu năm 1979 các chính sách được áp dụng đéu khuyến khích công nhân có tay nghê cao. Chính sự can thiệp mạnh mẽ cuả nhà nước vào thị trường lao động và giáo dục có tác động tạo nên nguồn vốn nhân lực trong các hộ gia đình và các cá nhân.Nó giúp cho mọi cá nhân có cơ hội có được việc làm tốt hơn. 1.4.2. Malayxia ở Malayxia trong những thập niên 60 – 70 sự phát triển kinh tế kèm theo sự gia tăng bất bình đẳng trong phân phối thu nhập những nhà tư sản người hoa và các quan chức hành chính, chính trị người Malay là những người được hưởng thụ phần lớn kết quả của sự tăng trưởng kinh tế nhanh của những năm 60 . Hậu quả là các quan hệ xã hội trở nên hét sức căng thẳngcác vụ bạo động lật đổ đã nổ ra vào cuối những năm đó. Khi những người được gọi là TURKS trẻ nên nắm chính quyền đã đưa ra chính sách kinh tế mới, tạo điều kiện về mặt kinh tế xã hội nhằm đạt được sự đoàn kết dân tộc trên cơ sở chính sách tái phân phối thu nhập công bằng hơnnhờ đó mà tỷ lệ người nghèo ở Malayxia đã giảm từ 49,3 % xuống còn 17,3 %. Tuy nhiên việc giảm tỷ lệ nghèo ở Malayxia chủ yếu là kết quả của mức tăng trưởng kinh tế cao liên tục trong nhiều năm chứ không phải do thu nhập nhiều hơn. ở Malayxia chi phí từ ngân sách cho các hoạt động xã hội tăng liên tục từ 18 % trong suốt thời kỳ 1970 đến 37 % trong thời kỳ 1988. Trong các dịch vụ xã hội thì giáo dục được dành vị trí ưu tiên hàng đầu, tiếp theo là nhà ở, y tế và các dịch vụ chung. Nhờ nỗ nực của chính phủ và sự phát triển kinh tế chủa xã hội nói chung tỷ lệ học sinh sơ cấp tăng từ 88 % lên 96,4 %. Các chỉ số về y tế như tỷ lệ sinh tỷ lệ chết tuổi thọ trung bình đều có những tiến bộ đáng kể. Tuy nhiên._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docV0431.doc