Phần mở bài
Sau chiến tranh lạnh, tình hình thế giới diễn biến phức tạp đầy biến động. Trong tình hình đó nổi lên những xu thế chủ yếu trong quan hệ quốc tế: Hoà bình, ổn định và hợp tác để cùng phát triển, ngày càng trở thành đòi hỏi bức xúc của các quốc gia và dân tộc trên thế giới; xu thế liên kết khu vực, liên kết quốc tế về kinh tế, thương mại, chính trị ngày càng tăng, ý thức độc lập tự chủ, ý thức về chủ quyền và bản sắc dân tộc ngày càng được nâng cao, nổi bật là xu thế vừa hợp tác vừa
26 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1604 | Lượt tải: 4
Tóm tắt tài liệu Quan hệ ngoại giao Việt - Mỹ, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
đấu tranh trong cùng tồn tại hoà bình giữa các chế độ chính trị xã hội khác nhau.
Trước xu thế như vậy, Tổng thống Bill - Clinton tuyên bố thiết lập quan hệ ngoại giao với Việt Nam (11/7/1995) là phù hợp với xu thế phát triển của thế giới hiện nay. Đó là một mốc quan trọng, chấm dứt 50 năm quan hệ bất bình thường, mở ra một trang sử mới trong quan hệ hai nước.
Xuất phát từ nhận thức trên, việc nghiên cứu quan hệ Việt - Mỹ là rất cần thiết vì đây là một vấn đề có ý nghĩa chính trị, thời sự quan trọng được khu vực và thế giới quan tâm nghiên cứu. Qua đó làm rõ thực trạng và những vấn đề đặt ra trong quan hệ giữa hai nước, tiến tới đề xuất các kiến nghị, đóng góp vào chính sách đối ngoại của Việt Nam đối với Mỹ.
Từ thực tiễn quan hệ Việt - Mỹ hơn 5 năm qua kể từ khi hai nước bình thướng hoá quan hệ ngoại giao cho thấy sự lựa chọn đề tài này là phù hợp và cần thiết.
Thời gian 5 năm cũng mới chỉ là giai đoạn đầu của quá trình lâu dài còn đang tiếp tục tiếp diễn trong tương lai, nhiều vấn đề chưa bộc lộ hết còn đang tiềm ẩn. Do vậy đề tài chỉ đánh giá quan hệ Việt - Mỹ 5 năm qua để thấy rõ những biểu hiện cụ thể của hai nước. Từ đó rút ra bài học kinh nghiệm cần thiết và đưa ra những kiến nghị mới.
Chuyên đề được hoàn thành nhờ sự hướng dẫn, giúp đỡ tận tình của thầy giáo Thái Văn Long - Viện quan hệ quốc tế - Học viện chính trị quốc gia.
Do hiểu biết và trình độ có hạn, bài viết khó tránh khỏi thiếu sót. Tác giả rất mong nhận được sự chỉ bảo của thầy cô và các bạn.
Chương I
Lịch sử quan hệ ngoại giao Việt - Mỹ từ sau chiến tranh lạnh đến nay
I. Khái quát lịch sử quan hệ ngoại giao Việt - Mỹ
1. Quan hệ ngoại giao trong lịch sử
Trong lịch sử quan hệ Việt - Mỹ sự kiện 11/7/1995 không phải là lần đầu hai nước đặt quan hệ ngoại giao với nhau. Đã có rất nhiều lần hai bên chủ động tìm đến với nhau để thiết lập quan hệ ngoại giao mà hàng loạt các cơ hội thiết lập quan hệ ngoại giao giữa hai nước bị bỏ lỡ.
Năm 1853, đô đốc hải quân Mỹ Mathew C.Perry dẫn một hạm đội 4 tàu chiến vào vịnh TOKYO và năm sau lại trở lại và thuyết phục được người Nhật ký một Hiệp ước hữu nghị với Mỹ. Nhưng trước đó, năm 1832 Chính phủ Mỹ cứ đặc sứ Edmuad Roberts mang bức thư sang trình Quốc vương Việt Nam (kho đó là vua Minh Mạng) để hai nước giao hảo thông thương, nhưng tàu Mỹ đậu tại một bến của tỉnh Phú Yên cách xa thủ đô Huế. Vua Minh Mạng lệnh cho Viện ngoại lang Nguyễn Tri Phương và Tư vụ Lý Văn Phức hợp với tỉnh Phú Yên mở tiệc khoan đãi long trọng. Vua chuẩn bị cho lần sau đậu thuyền tại vịnh Trà Sơn (tức Cửa Hàn). Năm 1836 lần thứ hai phái bộ Mỹ vẫn do Edmund Roberts làm trưởng đoàn, cập bến vịnh Trà Sơn để xin được yết kiến trình quốc thư.
Ngay trong bức thư đầu tiên này, Tổng thống Andrew Jackson đã nói rõ ý định giao hảo của Chính phủ Hoa Kỳ "thư này sẽ được trình Bệ hạ bởi ngài Edmund Roberts, một công dân khả kính của Hoa Kỳ, được cử làm đặc sứ mang trọng trách chuyển tới Bệ hạ những việc hệ trọng của bản quốc. Tôi xin Bệ hạ bảo hộ cho ông ta trong khi phụng mệnh và đối đãi với ông ta một cách bao dung và tin cậy, xin hãy hoàn toàn tin tưởng vào những gì mà ông ta nhân danh nhắc lại lời cam đoan về tình hữu hảo và thiện chí đối với Bệ hạ" (1) Lưu Văn Lợi, Năm mươi năm ngoại giao Việt Nam, NXB Công an nhân dân, năm 1998, tập 2, trang 268
. Tuy nhiên, chuyến đi mở đường này tiếc thay lại chỉ dừng lại ở một bữa tiệc chiêu đãi và không giải quyết được vấn đề cụ thể. Nguyên nhân là do Edmund Roberts bị bệnh và mất đột ngột tại Ma Cao, không hoàn thành được nhiệm vụ và cũng bỏ lỡ cơ hội bang giao giữa hai nước.
Từ đó về sau, trong tình hình thâm nhập ngày càng sâu của Chủ nghĩa thực dân Pháp ở Việt Nam, không có thêm cuộc tiếp xúc nào của Hoa Kỳ với Triều đình Huế.
Nửa cuối thế kỷ XIX, trong lúc Thiên Hoàng Minh Trị đang đưa nước Nhật Bản tiến mạnh mẽ vào con đường duy tân thì tình hình nước Việt Nam ngày càng có nguy cơ mất nốt Trung Kỳ, Bắc Kỳ. Vua Tự Đức nhu nhược trước âm mưu mở rộng xâm lược của thực dân Pháp, bác bỏ đề nghị cách tân của Nguyễn Trường Tộ và nhiều nhà cách tân tâm huyết khác. Tuy vậy, ông vẫn muốn nắm tình hình phương Tây để liệu điều chỉnh chính sách. Tháng 7/1873 Tự Đức cử Bùi Viện, một nhà nho thức thời và năng động, đi ra nước ngoài, trước hết là tới Hương Cảng. Do có sự giúp đỡ của Viện lãnh sự Mỹ tại Hương Cảng mà ông đã làm quen. Bùi Viện đáp tàu sang Mỹ với hy vọng tìm được người bạn mới giúp Việt Nam đánh Pháp. Tới Mỹ, ông được Tổng thống Ulysse Grant tiếp và hứa sẽ giúp Việt Nam bảo vệ đất nước nhưng cần có quốc thư uỷ nhiệm chính thức của Nhà nước Việt Nam. Khi Bùi Viện trở lại Mỹ, thực hiện chuyến công cán lần hai vào năm 1875 với quốc thư của Vua Tự Đức trong tay, nhưng tình hình quan hệ Mỹ - Pháp đã khác, Mỹ không còn muốn viện trợ cho Việt Nam chống Pháp nữa vì lúc này Mỹ chưa có điều kiện cạnh tranh với thực dân Pháp.
Nếu trước đây Edmund Roberts hai lần tới Việt Nam mà đại sự không thành thì Bùi Viện cũng hai lần sang Mỹ mà cũng trở về tay không, hai nước vẫn chưa thiết lập được quan hệ ngoại giao. Khi nước Việt Nam trở thành thuộc địa của Pháp, Mỹ đặt lãnh sự quán tại Sài Gòn và Hà Nội trong lúc đó họ cai trị Philippin sau khi đánh bại Tây Ban Nha.
Cả hai cuộc tiếp cận lịch sử đều thất bại và từ đó Hoa Kỳ từ bờ Thái Bình Dương đứng nhìn quá trình chủ nghĩa thực dân Pháp bóc lột nhân dân Việt Nam cho tới khi nó bị gót sắt của chủ nghĩa quân phiệt Nhật Bản đè bẹp trong chiến tranh thế giới thứ II.
Nằm dưới sự đô hộ, cai trị của chủ nghĩa thực dân Pháp, nhân dân Việt Nam đã không ngừng đấu tranh để giành lại độc lập tự do và khi cách mạng Tháng 8 - 1945 thắnglợi hoàn toàn, nước Việt Nam dân chủ cộng hoà ra đời đã chấm dứt hơn 80 năm chế độ Pháp thuộc. Nhưng ngay sau khi giành được độc lập, theo qui định của Hiệp ước Postdam, Đông Dương chia làm 2 khu vực để giải giáp quân Nhật: khu vực phía Bắc từ vĩ tuyết 16 trở lên, khu vực phía Nam từ vĩ tuyến 16 trở xuống. Quân Tưởng Giới Thạch kéo vào miền Bắc Việt Nam, quân Anh kéo vào miền Nam Việt Nam đại diện cho lực lượng đồng minh giải giáp quân Nhật.
Ngay trong thời kỳ này, giữa Việt Nam và Mỹ cũng bắt đầu có quan hệ bang giao thông qua hợp tác tích cực chống quân đội Phát xít. Trong chiến tranh thế giới thứ hai, khi nước Mỹ tham gia đồng minh, đang trong hàng ngũ lực lượng dân chủ toàn thế giới chống phe trục: Đức - ý - Nhật, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chủ động đặt quan hệ với Mỹ. Trong suốt thời gian lưu lại Trung Quốc, sau khi được chính quyền Tưởng Giới Thạch trả tự do (1943-1944), Hồ Chí Minh đã làm quen với một số sỹ quan Mỹ đang hoạt động ở Trung Quốc. Trong chuyến đi Côn Minh, Trung uý Mỹ Charles Fenn gặp Hồ Chí Minh ngày 17/3 rồi lại gặp ngày 20/3 Fenn ngỏ ý mong muốn được Việt Minh giúp đỡ. Hồ Chí Minh nhận lời nhưng nói không có phương tiện thông tin. Do sự sắp xếp của Fenn, Hồ Chí Minh gặp tướng Claire I.Chennault, tư lệnh quân đoàn không quân 14 của Mỹ. Ngày 27/4 Hồ Chí Minh trên đường về nước gặp thiếu tá Archimeder L.A.Patti thuộc tổ chức OSS tại một làng nhỏ gần Tĩnh Tây (Trung Quốc). Cùng đi với Người là 2 người Mỹ: Franckie Tan, gốc Hoa và Maxim.
Ngày 16/7, thiếu tá Thomas cùng một số người Mỹ nhảy dù xuống làng Kimlung và được bố trí ở Tân Trào (Tuyên Quang). Số người Mỹ này làm việc liên lạc với cơ quan Mỹ ở Côn Minh và huấn luyện kỹ thuật cho một số cán bộ quân sự của quân giải phóng. Người Mỹ cũng đã cung cấp cho Việt Minh một số vũ khí, thuốc men bằng cách thả dù xuống khu căn cứ Việt Bắc hoặc đưa đến Nam Ninh (Trung Quốc) để Việt Minh chuyển về nước. Đến tháng 8 thì nhóm Thomas theo quân du kích của Hồ Chí Minh xuôi về Hà Nội, trở thành nhân chứng của một trong những sự tích thần kỳ nhất trong lịch sử Việt Nam - ngày Việt Nam tuyên bố độc lập.
Với cương vị Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hoà, lại trực tiếp phục trách công tác ngoại giao, Hồ Chí Minh đã thảo bản tuyên bố về chính sách ngoại giao trong đó khẳng định chủ trương quan hệ hoà bình hữu nghị với tất cả các nước trên thế giới, trên cơ sở bình đẳng, tôn trọng độc lập chủ quyền của mỗi nước. Với Mỹ, Hồ Chí Minh tiếp tục duy trì những quan hệ đã có trong chiến tranh. Nhân dân Chính phủ Việt Nam, Người đã gửi hàng chục bức thư, điện, công hàm tới Tổng thống Truman, Chính phủ và Bộ Ngoại giao Mỹ. Nội dung của các văn bản ấy xoay quanh vấn đề yêu cầu Mỹ ủng hộ nền độc lập của Việt Nam, khẳng định sự hợp tác của Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hoà.
Tháng 10/1945 Tổng thống Truman ra tuyên bố 12 điểm về chính sách đối ngoại của Mỹ, Hồ Chí Minh đã bày tỏ thái độ hoan nghênh và mong muốn Chính phủ Mỹ sẽ thực hiện đúng tinh thần của Bản tuyên bố, ủng hộ chủ quyền của các dân tộc nhược tiểu. Song lúc này Chính phủ Mỹ đã ngả hẳng sang chủ trương ủng hộ Pháp trở lại Đông Dương. Những cố gắng trong quan hệ ngoại giao chính thức với Mỹ đã không đạt kết quả. Tuy vậy, Việt Nam vẫn luôn chú ý đến việc giữ tôn trọng của Chính phủ mình đối với vai trò của Mỹ trong đồng minh, sự có mặt của đại diện phái bộ Mỹ trong các buổi lễ ký Hiệp định sơ bộ ngày 6/3/1946 cũng như trong các văn bản mà Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi cho Chính phủ Mỹ đã nói lên điều đó.
Trong thời gian này, tuy quan hệ ngoại giao chính thức không thành công nhưng quan hệ của Việt Nam với Chính phủ Mỹ vẫn có dấu hiệu khả quan thông qua hình thức ngoại giao nhân dân mà điển hình là Hội hữu nghị Việt - Mỹ.
Ngày 2/9/1947, trong thư gửi Việt - Mỹ ái hữu hội, Hồ Chủ Tịch đã viết: "Chúng ta không bao giờ quên sự hợp tác giúp đỡ thân ái của các bạn người Mỹ hồi chúng ta du kích chống Nhật và chúng ta mong rằng sự hợp tác đó được tiếp tục trong cuộc tranh đấu của chúng ta chống thực dân phản động Pháp giành thống nhất và độc lập. Chúng ta mong rằng Hoa Kỳ, nước đầu tiên đã tranh đấu cho nền độc lập và dân chủ của quốc gia,... sẽ giúp chúng ta trong công cuộc đấu tranh giải phóng hiện nay và trong công cuọc kiến thiết xây dựng sau này" (2) Hồ Chí Minh toàn tập, NXB Chính trị Quốc gia, trang 211
.
Năm 1947 Chính phủ Mỹ đã giúp Pháp tiến hành chiến tranh Việt Nam. Sự phát triển theo chiều hướng đó đã dẫn tới sự dính líu trực tiếp ngày càng sâu sắc của Mỹ vào cuộc chiến tranh ở Việt Nam.
2. Quan hệ ngoại giao trong chiến tranh Mỹ - Việt
Khi bước ra khỏi cuộc chiến tranh thế giới thứ nhất và thứ hai, Mỹ không những không bị hao hụt về người và của mà trái lại còn thu được nhiều lợi nhất nhờ làm giàu bằng việc bán vũ khí. Cùng thời gian này, cách mạng Việt Nam thành công, lập lên nước Việt Nam dân chủ cộng hoà. Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản do Chủ Tịch Hồ Chí Minh sáng lập, Cách mạng Việt Nam đã trở thành ngọn cờ tiêu biểu cho sự kết hợp các trào lưu cách mạng của thời đại, cho xu thế phát triển tất yếu của phòng trào giải phóng dân tộc lên chủ nghĩa xã hội.
Do vậy, sau khi Pháp thua, Mỹ đã thế chân Pháp can thiệp trực tiếp vào Việt Nam, dựng lên chính quyền tay sai Ngô Đình Diêm đã chứng tỏ rõ ràng ý đồ của Mỹ. Ngày 23/10/1954, khi Eisenhour gửi bức thư cho Ngô Đình Diệm cam kết Mỹ ủng hộ hoàn toàn và sẽ viện trợ đối với chế độ của ông ta. Điều đó có ý nghĩa rõ ràng rằng Hoa Kỳ chính thức và công khai cam kết chống lại Việt Nam dân chủ cộng hoà với miền Nam Việt Nam.
Cuộc chiến đấu của Đảng và nhân dân ta chống cuộc chiến tranh phá hoại ở miền Bắc và cuộc chiến tranh cục bộ ở miền Nam, đã khởi đầu trong sự so sánh lực lượng bất lợi cho ta. Thấm nhuần lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh "Không có gì quí hơn độc lập tự do", nhân dân cả 2 miền đều đứng lên kiên quyết chống Mỹ xâm lược.
Năm 1967 ta mở mặt trận ngoại giao phối hợp với mặt trận quân sự và mặt trận chính trị cùng đánh Mỹ. Ta tăng cường đoàn kết với Liên Xô và Trung Quốc cùng các nước xã hội chủ nghĩa khác, củng cố và phát triển mặt trận nhân dân Đông Dương, đoàn kết với phong trào phản chiến ở Mỹ, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại.
Tuy nhiên, Nhà nước Việt Nam luôn luôn phân biệt rõ bạn - thù, phân biệt rõ nhân dân Mỹ với những nhà cầm quyền của Mỹ theo đuổi chính sách chiến tranh. Mục đích của nhân dân Việt Nam là đấu tranh để giành độc lập tự do, đem lại hạnh phúc cho dân tộc và chung sống hoà bình với cộng đồng thế giới trên cơ sở bình đẳng, hữu nghị. Vì vậy Chính phủ và nhân dân Việt Nam sẵn sàng đàm phán với điều kiện là quân Mỹ phải rút khỏi cuộc chiến tranh Việt Nam. Với mục đích đó, ta chủ trương buộc địch xuống thang từng bước, giành thắng lợi từng phần. Sau thắng lợi tết Mậu Thân (1968), Mỹ buộc phải ngồi vào bàn đàm phán, mở cho ta cục diện vừa đánh vừa đàm, kết hợp đấu tranh quân sự và ngoại giao, tạo điều kiện cho thắng lợi sau này.
Sau bốn năm kiên trì đấu tranh, thương lượng, vào năm 1973, Mỹ phải ký Hiệp định Paris, chịu rút quân Mỹ và đồng minh ra khỏi miền Nam trong lúc quân miền Bắc vẫn ở lại miền Nam. Theo Hiệp định Paris 1973 thì "Hiệp định này sẽ tạo điều kiện thiết lập quan hệ mới, bình đẳng và cùng có lợi giữa Việt Nam dân chủ cộng hoà và Hoa Kỳ, trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền của nhau và không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau".
Ngày 29/4/1975: sứ quán Mỹ đã rút hết số nhân viên và đóng cửa.
Ngày 30/4/1975 ta giải phóng Sài Gòn, thống nhất đất nước mở ra một chương mới trong lịch sử 4.000 năm của dân tộc Việt Nam. Cũng từ đó, sau khi thua trên chiến trường, Mỹ lại quyết định lệnh cấm vận toàn Việt Nam. Việt Nam và Mỹ cắt đứt quan hệ ngoại giao.
3. Quan hệ ngoại giao Việt - Mỹ từ năm 1976 - 1995
Nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam chính thức ra đời ngày 2/7/1976 đánh dấu bước phát triển rực rỡ của nước Việt Nam. Cũng trong thời gian này, hai Chính phủ Việt Nam và Mỹ đã bắt đầu đàm phán để thiết lập quan hệ ngoại giao. Phía Việt Nam đã bày tỏ quan điểm của mình: Mỹ phải thực hiện đúng Hiệp định Pari 1973, theo đó Mỹ đã cam kết viện trợ tái thiết cho Việt Nam sau chiến tranh. Nhưng Tổng thống Mỹ G.Ford đã bác bỏ yêu cầu này và đặt ra 2 điều kiện tiên quyết cho việc bình thường hoá quan hệ ngoại giao: 2 điều kiện đó là: kiểm kê đầy đủ những người Mỹ bị coi là mất tích trong chiến tranh mà họ gọi là MIA và giải trình "những hành động gây căng thẳng liên tiếp của Việt Nam"(3) Lưu Văn Lợi, Năm mươi năm ngoại giao Việt Nam, Nhà Xuất Bản Công an nhân dân, năm 1998, tập II, tr273
ở Đông Nam á.
Trong 2 năm 1975-1976, Mỹ 3 lần phủ quyết việc Việt Nam gia nhập Liên Hiệp Quốc Ngân hàng thế giới (WB), Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF), Ngân hàng phát triển Châu á (ADB). Mỹ làm ngơ trước thiện chí mà Chính phủ ta đã nhiều lần bày tỏ để tạo điều kiện cho 2 bên có thể gặp nhau, nhằm giải quyết vấn đề còn lại giữa 2 bên.
Đầu năm 1977, Jimmy Carter lên làm Tổng thống và ngày 16/3/1977 Carter cử đoàn phái viên của Tổng thống sang Việt Nam, do ông L.Woodcook dẫn đầu để thăm do khả năng bình thường hoá quan hệ với Việt Nam. Cũng trong tháng 3/1977, Tổng thống J.Carter cũng cho phép tàu thuỷ, máy bay các nước khác trở hàng cho Việt Nam được ghé qua các sân bay của Mỹ để lấy nhiên liệu. Đây là một cố gắng của Chính phủ Mỹ nhằm đạt được sự bình thường hoá với Việt Nam.
Trong khi các cuộc đàm phán giữa Việt Nam và Hoa Kỳ chưa có một chút biến chuyển gì thì tình hình quốc tế có nhiều thay đổi. Năm 1978, Mỹ và Trung Quốc bắt đầu có sự hợp tác để đi đến bình thường hoá quan hệ, Mỹ đã bàn với Trung Quốc để xây dựng mối quan hệ chiến lược lâu dài giữa 2 nước trong đó có cả việc phối hợp để chống Liên Xô (4)
. Cuối 1978, Trung Quốc và Mỹ xúc tiến đàm phán để bình thướng hoá quan hệ. Đối với Việt Nam, Tổng thống Mỹ J.Carter đã quyết định xếp lại kế hoạch đàm phán. Vậy là cơ hội thiết lập quan hệ ngoại giao Việt - Mỹ một lần nữa lại tuột khỏi tầm tay và bị bỏ lỡ.
Năm 1979 các cuộc đàm phán để bình thường quan hệ Việt - Mỹ ngừng trệ. Vì phía Mỹ cho rằng Việt Nam đã vi phạm Luật quốc tế khi đưa quân vào Campuchia để lập ra chính quyền Campuchia - Hiengxemrin. Mỹ đã lấy lý do này để lôi kéo các nước ủng hộ những hành động chống phá Việt Nam dưới danh nghĩa bảo vệ ổn định an ninh thế giới. Vấn đề Campuchia đã kéo theo sự dính líu của nhiều nước và sự phân cực gay gắt trong nền chính trị khu vực. Từ đó đánh dấu thời kỳ băng giá trong quan hệ Việt - Mỹ.
Tháng 1/1981, Tổng thống Mỹ Regan tuyên hệ nhậm chức. Dưới sức ép mạnh mẽ về vấn đề MIA, ông đã hứa coi việc tìm kiếm người mất tích là ưu tiên cao nhất của ông. Nhưng trong nhiệm kỳ đầu của ông, ngoại giao giữa hai nước ít đạt được kết quả. Năm 1986, Việt Nam tiến hành đổi mới cải thiện vị thế của mình trong khu vực và trên thế giới nên Mỹ bắt đầu thay đổi chính sách quan hệ với Việt Nam.
Từ tháng 1 đến 3/8/1987 Tướng Vétxi đặc phái viên của Tổng thống Regan thăm Việt Nam lần thứ nhất, thảo luận vấn đề nhân đạo mà 2 bên cùng quan tâm.
Ngày 20/1/1988 Tổng thống Regan tuyên bố: Trong khung cảnh một giải pháp cho vấn đề Campuchia bao gồm Việt Nam rút hoàn toàn quân đội ra khỏi Campuchia, Mỹ sẵn sàng đi vào bình thường hoá quan hệ với Việt Nam trên cơ sở tiến bộ trong vấn đề MIA trở lại trại cải tạo (5) Lưu Văn Lợi: Năm mươi lăm ngoại giao Việt Nam, NXB Công an nhân dân, năm 1998, tập II, trang 275
.
Năm 1989, Tổng thống Bush đắc cử và đã quyết định thay đổi chính sách đối với Việt Nam, mở ra một thời kỳ mới với nhiều hy vọng.
Ngày 26/9/1989, Việt Nam hoàn thành việc rút quân khỏi Campuchia.
Ngày 6/8/1990 đối thoại Việt - Mỹ vòng 1 giữa đại sứ Trịnh Xuân Lãng và Phó trợ lý Bộ trưởng Ngoại giao K.Quyn về quan hệ Việt - Mỹ.
Từ ngày 29 đến 30/9/1990 Bộ trưởng ngoại giao Nguyễn Cơ Thạch gặp Bộ trưởng Ngoại giao Giêm UBây - Cơ tại Niu Joóc.
Ngày 9/4/1991, phía Mỹ đưa ra lộ trình (Roadmaping) bốn bước bình thường hoá quan hệ với Việt Nam lần đầu tiên đưa ra công khai, chính thức chính sách đối với Việt Nam.
Ngày 20/4/1991, Tướng Vétxi vào Việt Nam lần 2, bàn về vấn đề lập văn phòng MIA tại Hà Nội.
Ngày 25/4/1991 phía Mỹ tuyên bố lần đầu tiên viện trợ 1 triệu USD giúp Việt Nam về lĩnh vực chân tay giả.
Ngày 23/10/1991 Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Mạnh Cầm gặp bộ trưởng Ngoại giao Mỹ Giêm Bây - Cơ tại Pari nhân dịp ký Hiệp định Pari về Campuchia.
Từ 31/1/1992 đến 1/2/1992 đặc phái viên tướng G. Vét - xi vào Việt Nam lần thứ tư bàn về các biện pháp thúc đẩy vấn đề MIA và các vấn đề khác trong quan hệ Việt - Mỹ.
Ngày 8/10/1992 Bộ trưởng ngoại giao Nguyễn Mạnh Cầm gặp ngoại trưởng Mỹ Eagleburger và Bộ trưởng quốc phòng Mỹ Chenry lần đầu tiên tại Bộ ngoại giao Mỹ trao đổi về quan hệ giữa hai nước.
Ngày 23/10/1992, Tổng thống Bush tuyên bố rằng Mỹ sẽ nhanh chóng tiến tới bình thướng hoá, kể cả bãi bỏ cấm vận, nếu những tấm ảnh và bằng chứng mà Việt Nam trao có thể bổ xung cho việc giải quyết số phận các quân nhân Mỹ bị mất tích, những người mà Mỹ tin rằng Việt Nam có những tin tức cuối cùng.
Năm 1993, Bill Clinton đắc cử Tổng thống Mỹ. Chính quyền của Clintơn cũng kế thừa chính sách "lộ trình" của chính quyền G.Bush, trong đó cốt lõi của quá trình bình thường hoá quan hệ vẫn là "tốc độ và qui mô" của quá trình bình thường hoá bị tác động bởi sự hợp tác của Việt Nam về vấn đề POW/MIA. Tuy rằng lộ trình 4 giai đoạn cho quá trình bình thường hoá quan hệ với Việt Nam do chính quyền Mỹ công bố tháng 4/1991 không chính thức được coi là bản chỉ dẫn tuyệt đối cho việc cải thiện quan hệ 2 nước nhưng trên thực tế nhiều bước đi đã diễn ra theo đúng lịch trình này. ở giai đoạn 3, có 2 điều kiện Việt Nam phải thực hiện là:
- Tiếp tục ủng hộ và khuyến khích sự ủng hộ của Chính phủ Phnôm Pênh với Hiệp định hoà bình Campuchia, rút hết các cố vấn, lực lượng quân sự Việt Nam ra khỏi Camuchia.
- Giải quyết các trường hợp POW/MIA không trùng khớp thông tin. Trên thực tế, điều một Việt Nam đã hoàn thành và điều hai cũng được giải quyết tích cực với sự giúp đỡ to lớn của Việt Nam. Phía Mỹ đã thực hiện đầy đủ các điều ghi trong khoản 3: Huỷ bỏ hoàn toàn lệnh cấm vận kinh tế đối với Việt Nam ngày 3/2/1994, mở văn phòng liên lạc và ngoại giao tại Hà Nội và mời Việt Nam lập văn phòng tại Washingtơn cũng như ủng hộ các cơ quan hành chính quốc tế viện trợ để đáp ứng các nhu cầu cơ bản của con người ở Việt Nam.
ở giai đoạn 4, không có đòi hỏi bổ xung yêu cầu Việt Nam thực hiện trong giai đoạn này, Mỹ sẽ lập quan hệ ngoại giao cấp Đại sứ với Việt Nam, xem xét việc giành chế độ tối huệ quốc cho buôn bán với Việt Nam của Mỹ.
Ngày 28/1/1995, Chính phủ Việt Nam và Chính phủ Mỹ chính thức thông báo mở cơ quan liên lạc ở thủ đô 2 nước.
Với nỗ lực và thiện trí của cả hai bên, 7/1995 chính thức bình thường hoá quan hệ ngoại giao. Đây là một bước đi quan trọng đáp ứng nguyện vọng của nhân dân hai nước, phù hợp với xu thế phát triển hiện nay của tình hình quốc tế, đồng thời góp phần vào sự nghiệp hoà bình, ổn định và phát triển ở Đông Nam á.
chương II
Sự phát triển quan hệ ngoại giao Việt - Mỹ từ năm 1995 đến nay
I. Những nhân tố tác động đến quan hệ Việt - Mỹ
1. Tình hình thế giới và khu vực.
Sau khi Liên Xô và Đông Âu sụp đổ, trật tự hai cực cũng chấm dứt theo. Mỹ trở thành 1 cực duy nhất còn lại sau chiến tranh lạnh, với đầy đủ thực lực và tham vọng làm bá chủ thế giới.
Thời kỳ chiến tranh lạnh đã đánh dấu thời kỳ vàng son của nước Mỹ, với vai trò, vị trí của mình trên trường quốc tế cùng âm mưu bá chủ thế giới, nhưng sau chiến tranh lạnh, nước Mỹ có phần nào suy yếu, do chạy đua vũ trang, chi phí ngân sách quá lớn cho các cuộc chiến tranh. Hơn nữa, Mỹ còn phải đương đầu với các đồng minh chiến lược của Mỹ, được Mỹ trợ giúp về vốn, kỹ thuật. Giờ đây đang trở thành đối thủ cạnh tranh quyết liệt với Mỹ. Thêm vào đó là vai trò của nước vừa và nhỏ ngày càng tăng lên. Với sức mạnh kinh tế, trình độ khoa học và công nghệ ngày càng có vị trí hơn trong các vấn đề quốc tế như Australia, Canada, ASEAN,... Do đó, thế giới đang ở thời kỳ chuyển tiếp từ trật tự 2 cực chuyển sang trật tự thế giới mới, có nhiều trung tâm nổi lên. Tuy phải đối mặt với nhiều thách thức và nguy cơ không thuận lợi lắm nhưng hiện tại Mỹ vẫn là siêu cường duy nhất và đang quá độ từ nước bá chủ thể giới sang vai trò làm người lãnh đạo thế giới.
Quá trình toàn cầu hoá được thúc đẩy mạnh mẽ do cuộc cách mạng về khoa học kỹ thuật và liên lạc viễn thông bùng nổ hình thành mạng lưới hệ thống liên lạc toàn cầu. Tính quốc tế hoá nền kinh tế thế giới ngày càng diễn ra nhanh và rộng. Kinh tế thế giới, toàn cầu hoá đã góp phần chấm dứt việc hai hệ thống mô hình kinh tế đối lập nhau biểu hiện là trong những năm 80 khu vực các nước XHCN với mô hình kinh tế kế hoạch và bao cấp chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường,... từ đầu năm 1990, sự phụ thuộc kinh tế giữa các nước lớn và nhỏ ngày càng gia tăng và có quy mô ngày một rộng hơn. Quan hệ giữa các nước giờ đây không chỉ đơn thuần là quân hệ ngoại giao mà còn là mối quan hệ ràng buộc về kinh tế. Sau chiến tranh lạnh, cùng với toàn cấu hoá, khu vực hoá nền kinh tế cũng trở thành ưu tiên trọng điểm trong sách lược của mỗi nước. Các quốc gia đều coi trọng chính sách khu vực, ưu tiên quan hệ với các nước láng giềng, đẩy mạnh liên kết khu vực, đồng thời cân bằng với các nước lớn, khai thác khả năng và những điểm đồng nhất để từ đó mở rộng hợp tác vì lợi ích của mỗi bên.
Tuy nhiên, trong quá trình hợp tác và hội nhập vào nền kinh tế thế giới có khoảng cách giữa các nước giàu và nước nghèo là rất lớn dẫn đến sự phát triển không đồng đều giữa các nước. Những nước nghèo và kém phát triển sẽ bị cạnh tranh trong tình trạng bất bình đẳng bởi các nước giàu có vốn, khoa học kỹ thuật cao sẽ luôn đặt ra những điều kiện khắt khe khi hợp tác kinh tế mà với khả năng của mình các nước nghèo chưa thể đáp ứng được. Do vậy vấn đề đặt ra là các nước có nền kinh tế kém phát triển như nước ta phải làm thế nào để vượt qua những thách thức mà lại tận dụng được các mặt lợi của quá trình hội nhập và những thành tựu mới của khoa học công nghệ để công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước thành công.
Đối với khu vực Châu á - Thái Bình Dương trong thời kỳ sau chiến tranh lạnh đã khiến toàn thế giới coi trọng, đó là sự phát triển năng động của nền kinh tế khu vực này với tốc độ tăng trưởng cao nhất thế giới. Điều đó không phải là vấn đề mới mà nó đã có ngay từ những năm khi chiến tranh lạnh ở đỉnh cao nhất. Bắt đầu là "sự thần kỳ" của Nhật Bản vào cuối thập niên 60 và sự xuất hiện của 4 con rồng Châu á vào cuối thập niên 70, sau đó là Thái Lan, Malaysia,... Điều mới cần nói ở đây là sau chiến tranh lạnh, kinh tế Châu á - Thái Bình Dương vẫn giữ được đà phát triển ngoạn mục đó không chỉ với các nước đi theo nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa mà cả đối với những nước trước đây vốn có nền kinh tế tập trung bao cấp và nay chuyển sang kinh tế thị trường nhưng vẫn theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Điều này có ý nghĩa rất quan trọng trong việc đánh giá vai trò của Châu á - Thái Bình Dương và giúp cho các nước có cơ sở khách quan trong việc hoạch định chiến lược phát triển của mình trong những thập kỷ tới.
2. Lợi ích của hai bên trong việc bình thường hoá quan hệ.
Việc bình thường hoá quan hệ Việt - Mỹ đã có những bước tiến dài khác xa so với trước nhờ một phần sự tác động của đặc điểm, xu thế của thế giới, một phần cũng là do lợi ích chiến lược của mỗi nước cùng với sự điều chỉnh chiến lược của Mỹ kết hợp với đường lối đổi mới, chính sách mở cửa của Việt Nam. Đây là một trong những nhân tố quan trọng giúp cho việc bình thường hoá quan hệ ngoại giao giữa hai nước được khai thông.
a. Lợi ích của Mỹ khi thiết lập quan hệ ngoại giao với Việt Nam.
Với một siêu cường như Mỹ muốn nắm giữ vai trò "Người lãnh đạo thế giới" thì cần phải có sự điều chỉnh chiến lược và sách lược của mình cho phù hợp với tình hình thế giới.
Tổng thống đầu tiên của nước Mỹ trong thời kỳ sau chiến tranh lạnh, người có tham vọng để lại dấu ấn trong lịch sử nước Mỹ bằng một chiến lược mới thay cho chiến lược "ngăn chặn" của thời kỳ chiến tranh lạnh, đó là chiến lược "mở rộng dân chủ" của Bill Clintơn. Ngày 27/19/1993 trong diễn đàn đầu tiên đọc trước Đại hội đồng Liên hợp quốc nói rõ: "Trong chiến tranh lạnh chúng ta tìm cách ngăn mối đe doạ đối với sự sống còn của các thể chế tự do,... giờ đây chúng ta tìm cách mở rộng tập hợp các quốc gia sống dưới các thể chế tự do đó". (6) Phan Doãn Nam, sự điều chỉnh chiến lược của một số nước lớn sau chiến tranh lạnh, Tạp chí nghiên cứu quốc tế số 20
.
Đưa ra chiến lược này, nhưng mức độ áp dụng vào từng khu vực như thế nào là còn tuỳ thuộc vào tầm quan trọng của khu vực đó đối với Mỹ. Với khu vực Châu á - Thái Bình Dương, Mỹ cho rằng đây là khu vực sẽ đem lại lợi ích cho nước Mỹ và Mỹ đã đặt khu vực này vào vị trí ưu tiên ngang hàng với Châu Âu. Bởi lẽ, Châu á Thái Bình Dương là một trong những khu vực có nền kinh tế phát triển năng động của thế giới. "Trong thập kỷ này, hơn 60% của sự phát triển kinh tế thế giới là từ Châu á, khu vực chiếm hơn 1/2 dân số thế giới". Với tổng số 13.400 tỷ USD, Châu á - Thái Bình Dương chiếm 54% GDP của thế giới, và do vậy, khu vực này có vị trí ngày càng quan trọng đối với các nước lớn trong đó có Mỹ. Đặc biệt đây cũng là khu vực bao gồm hầu hết các nước lớn mà Mỹ phải quan tâm và kiêng nể như Nga, Nhật Bản, Trung Quốc.
Với Nga, trước đây là đối thủ của Mỹ trong chiến tranh lạnh, hai nước từng tranh giành vị trí, ảnh hưởng với nhau. Giờ đây, khi Liên Xô mất đi thì vị thế của Nga thay vào đó không còn nguyên vẹn như xưa nhưng tiềm lực về quân sự của Nga vẫn là điều mà Mỹ đáng quan tâm.
Với Trung Quốc, là một nước có dân số đông nhất thế giới, là thị trường tiêu thụ hàng hoá đầy tiềm năng. Thêm vào đó, Trung Quốc lại đang hiện đại hoá quân đội, phổ biến vũ khí hạt nhân tăng ngân sách quốc phòng, đây là điều mà Mỹ lo ngại và Mỹ đã điều chỉnh lại chính sách đối với Trung Quốc. Từ chỗ xem Trung Quốc là "là con bài" là "đồng minh thực tế" trong việc ngăn chặn và kìm chế Liên Xô sang thành một đối thủ. Đã diễn ra một cuộc đấu tranh gay gắt trong nội bộ giới cầm quyền Mỹ về hoạch định một chính sách mới đối với Trung Quốc trong thời kỳ sau chiến tranh lạnh này. Nhưng thực tế thì Mỹ đã thi hành chiến lược kép đối với Trung Quốc. Tức là vừa dính líu vừa kìm chế, Trung Quốc luôn bị coi là vật cản trong bước đường tiến đến chủ nghĩa bá quyền của Mỹ. Hơn nữa, mối lo ngại tiềm ẩn của Mỹ về việc Trung Quốc hợp nhất với Đài Loan, Ma Cao thì Trung Quốc sẽ là một Đại Trung Hoa, điều đó sẽ thách thức đối với vai trò vị thế của Mỹ ở khu vực. Do vậy, Mỹ cố gắng củng cố vị trí của mình ở khu vực Châu á - Thái Bình Dương nhằm ngăn chặn bất cứ cường quốc nào nổi lên thách thức vai trò vị trí ảnh hưởng ấy, thực hiện "diễn biến hoà bình" với các nước XHCN còn lại.
Đối với các nước Đông Dương, chính sách của Mỹ chuyển từ gây căng thẳng, chia rẽ các quốc gia sang lôi kéo, thu hút tăng cường ảnh hưởng của Mỹ với các quốc gia ở khu vực này.
Qua phân tích chính sách của Mỹ với các nước lớn trong khu vực ta thấy mục tiêu của Mỹ khi quan hệ với Việt Nam không nằm ngoài mục tiêu chung trong chiến lược toàn cầu hay chính sách với Đông Nam á của siêu cường này. Một trong những mục tiêu Mỹ hướng tới khi quyết định bình thường hoá quan hệ với Việt Nam là muốn thu hút, lôi kéo Việt Nam lại gần Mỹ và tách Việt Nam ra khỏi các đối tác truyền thống. Tuy nhiên, để đi đến bình thường hoá quan hệ với Việt Nam, trong Quốc hội Mỹ còn có nhiều tranh luận gay gắt và nó đã chi phối phần lớn chính sách của Mỹ trong suốt 20 năm qua.
Việc Mỹ thiết lập quan hệ với Việt Nam còn để làm nguôi ngoai nỗi đau của người dân Mỹ và trong tuyên bố bình thường hoá quan hệ với Việt Nam Tổng thống Bill Clintơn đã nói "Bước đi này sẽ giúp đất nước chúng ta tiến lên phía trước về một vấn đề chia rẽ người Mỹ với nhau quá lâu rồi. Chúng ta hãy hướng về tương lai, chúng ta có quá nhiều việc phải làm ở phía trước. Đây là lúc tạo cho chúng ta cơ hội để hàn gắn các vết thương của chúng ta. Những vết thương này đã không chịu lành quá lâu rồi. Giờ đây chúng ta có thể tiến tới một cơ sở chung, bất kể những gì đã chia rẽ chúng ta trước đây, chúng ta hãy xếp vào quá khứ, hãy để giây phút này, theo từ của kinh thánh là một thời điểm để kiến tạo" (7) Tuyên bố bình thường hoá quan hệ với Việt Nam. Báo nhân dân, ngày 12/7/1995, trang 10
Mỹ mong muốn sự hợp tác với Việt Nam để giải quyết vấn đề POW-MIA, vấn đề về tù binh chiến tranh và quân nhân Mỹ mất tích. Đây là điều kiện Mỹ đặt hàng đầu để quan hệ với Việt Nam cũng là để giải quyết "Hội chứng Việt Nam" trong lòng dân Mỹ. Thêm vào đó,._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- R0172.doc