MỤC LỤC
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
Chữ viết tắt tiếng Anh
APEC
Asia Pacific Economic Cooperation
Diễn đàn hợp tác kinh tế khu vực Châu Á- Thái Bình Dương
ASEAN
Association of Southeast Asian Nations
Hiệp hội các nước Đông Nam Á
ASEM
Asia- Europe Meeting
Hội nghị Á- Âu
BOT
CIF
Cost, Insurance and Freight
Giá hàng hóa đã tính cả phí bảo hiểm và vận chuyển đến nước nhập khẩu
EU
European Union
Liên minh Châu Âu
FDI
Foreign Direct Investment
Đầu tư trực tiếp nước ngoài
GDP
Gross Do
62 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1829 | Lượt tải: 2
Tóm tắt tài liệu Quan hệ kinh tế Việt Nam- Singapore, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
mestic Product
Tổng thu nhập quốc nội
ICAO
International Civil Aviation Organization
Tổ chức hàng không quốc tế
IMF
International Monetary Fund
Quỹ tiền tệ thế giới
IT
Internet Technology
Công nghệ thông tin
MRT
Mass Rapid Transit
Tàu điện ngầm Singapore
SARS
Severe acute respiratory syndrome
Hội chứng hô hấp cấp tính nặng
SGD
Singapore Dollar
Đô la Singapore
USD
United State Dollar
Đô la Mỹ
VCCI
Vietnam Chamber of commerce and industry
Phòng thương mại và công nghiệp Việt Nam
VSIP
Vietnam Singapore Industrial Park
Khu công nghiệp Việt Nam- Singapore
WB
World Bank
Ngân hàng thế giới
WTO
World Trade Organization
Tổ chức thương mại thế giới
Chữ viết tắt tiếng việt
CH
Cộng hòa
KNNK
Kim ngạch nhập khẩu
KNXK
Kim ngạch xuất khẩu
NHTM
Ngân hàng thương mại
TNHH
Trách nhiệm hữu hạn
TP.HCM
Thành phố Hồ Chí Minh
XNK
Xuất nhập khẩu
DANH MỤC CÁC HÌNH
Hình 1.1: Tổng sản phẩm quốc nội của Singapore giai đoạn 1995- 2007 15
Hình 1.2 : GDP/ đầu người của Singapore giai đoạn 2001- 2007 16
Hình 1.3 : Tốc độ tăng tăng trưởng kinh tế Singapore giai đoạn 2002-2007 18
Hình 1.4 : Cán cân thanh toán của Singapore giai đoạn 2004-2009 20
DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 1.1 Tổng sản phẩm quốc nội trong giai đoạn 1995- 2007 15
Bảng 1.2 GDP/ đầu người của Singapore giai đoạn 2001- 2007 16
Bảng 1.3: Tỷ lệ đóng góp vào GDP của ngành công nghiệp và dịch vụ Singapore 19
Bảng 1.4: Cán cân thanh toán của Singapore giai đoạn 2004-2009 20
Bảng 1.5: Đầu tư ra nước ngoài của Singapore giai đoạn 2000 - 2006 21
Bảng 1.6: Đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Singapore giai đoạn 2000-2006 23
Bảng 2.1 Kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang Singapore 28
Bảng 2.2 Các sản phẩm chính Singapore nhập từ Việt Nam năm 2006 29
Bảng 2.3: Kim ngạch nhập khẩu của Việt Nam từ Singapore trong giai đoạn 2000-2007 31
Đề tài: Quan hệ kinh tế Việt Nam- Singapore
MỞ ĐẦU
Tính tất yếu của đề tài
Trong xu hướng toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế, việc tăng cường quan hệ hợp tác, liên kết giữa các quốc gia, các khu vực ngày càng trở nên cần thiết và có tính tất yếu. Các nền kinh tế ngày càng gắn bó với nhau, phụ thuộc lẫn nhau, tạo động lực cho tăng trưởng kinh tế. Các thể chế đa phương và khu vực có vai trò ngày càng tăng cùng với sự phát triển của ý thức tự lực, tực cường của các dân tộc. Trước tình hình đó, hòa bình, ổn định và phát triển trên mọi lĩnh vực, đặc biệt là lĩnh vực kinh tế để cùng nhau phát triển ngày càng trở nên vô cùng cần thiết đối với mọi quốc gia trên thế giới.
Trong tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, từng bước hội nhập với nền kinh tế thế giới, Đảng và Nhà nước ta đã đưa ra quan điểm “ đa phương hóa, đa dạng hóa các hoạt động kinh tế đối ngoại, Việt Nam sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy của cộng đồng quốc tế, phấn đấu vì hòa bình, độc lập và phát triển”. Việt Nam gia nhập ASEAN và đã thiết lập quan hệ ngoại giao với các nước trong khối, trong đó có Singapore.
Việt Nam và Singapore bắt đầu thiết lập quan hệ ngoại giao từ 01/08/ 1973 và năm 2008 là một năm có ý nghĩa lịch sử đánh dấu 35 năm quan hệ Việt Nam- Singapore. Quan hệ hữu nghị và hợp tác giữa Việt Nam và Singapore được đánh giá là ngày càng phát triển trên nhiều lĩnh vực. Đến nay, hai nước đã ký 9 Hiệp định về thương mại, hàng không, hàng hải, đầu tư, quản lý và bảo vệ môi trường, du lịch, giáo dục đào tạo,... Ngoài ra còn có một số thoả thuận hợp tác như thanh niên, báo chí, văn hoá thông tin, cung cấp tín dụng, đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao,...
Quan hệ hợp tác kinh tế Việt Nam- Singapore là một khâu trọng yếu trong mối quan hệ hợp tác chiến lược phát triển giữa hai nước. Việc nghiên cứu mối quan hệ này sẽ rất có ý nghĩa trong việc tìm ra những luận cứ cho sự phát triển quan hệ kinh tế Việt Nam- Singapore trong điều kiện mới, qua đó thúc đẩy quan hệ hợp tác toàn diện giữa hai nước lên tầm cao mới.Vì thế em chọn nghiên cứu đề tài này.
Mục đích nghiên cứu đề tài
Mục đích nghiên cứu đề tài là phân tích và đánh giá thực trạng quan hệ hợp tác kinh tế Việt Nam- Singapore, đặc biệt trên lĩnh vực thương mại và đầu tư. Qua đó đề xuất một số giải pháp nhằm thúc đẩy quan hệ hợp tác kinh tế giữa hai nước.
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu đề tài
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là quá trình phát triển quan hệ kinh tế giữa hai nước. Phạm vi nghiên cứu là các hoạt động thương mại và đầu tư giữa hai nước. Thời gian nghiên cứu là từ năm 2000 trở lại đây.
Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu đó là phương pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sử kết hợp với phương pháp lịch sử và phương pháp logic. Những phương pháp này được sử dụng xuyên suốt trong tiến trình làm đề án. Ngoài ra còn có phương pháp thống kê, phương pháp tổng hợp và phương pháp so sánh- được sử dụng nhiều nhất trong quá trình phân tích thực trạng quan hệ kinh tế giữa hai nước.
Kết cấu của đề án
Ngoài lời mở đầu, phụ lục, tài liệu tham khảo, đề án gồm 3 chương chính như sau:
Chương 1: Tổng quan về nền kinh tế Singapore và quan hệ
Việt Nam- Singapore.
Chương 2: Thực trạng quan hệ kinh tế giữa Việt Nam và Singapore.
Chương 3: Giải pháp cho Việt Nam nhằm thúc đẩy quan hệ hợp tác
kinh tế Việt Nam- Singapore.
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ NỀN KINH TẾ SINGAPORE VÀ QUAN HỆ KINH TẾ VIỆT NAM- SINGAPORE
1.1. Tổng quan về nền kinh tế Singapore
1.1.1. Lịch sử hình thành và phát triển của Singapore
Vị trí địa lý: Nằm ở khu vực Đông Nam Á, giữa Malaysia và Indonesia.
Diện tích: 692,7 km2
Dân số: 4.553,009 người (ước tính đến tháng 7-2007), trong đó 76,8% là người Hoa; 13,9% người Mã Lai; 7,9% người Ấn Độ; Pakistan và SriLanka; 1,4% người gốc khác.
Ngôn ngữ: Tiếng Hoa (35%), tiếng Anh (23%), tiếng Malay (14.1%).
Đơn vị tiền tệ: Dollar Singapore (SGD)
Nhà lãnh đạo Kinh tế hiện nay: Thủ tướng Lý Hiển Long
Nguồn
Hơn 1.000 năm trước, Singapore còn là một vùng có nhiều đầm lầy rải rác khắp nơi, rừng cây rậm rạp, hoang vu không có bóng người, thỉnh thoảng có tàu thuyền đi ngang và ghé vào đây. Tương truyền, vào giữa thế kỷ 12, hoàng tử của vương quốc Sumatra đi ra ngoài săn bắn và đã phiêu bạt đến hòn đảo không có người ở này. Bỗng có một con quái vật chạy ngang qua. Hoàng tử hỏi người tùy tùng đó là con gì và nhận được câu trả lời là con sư tử. Hoàng tử mừng rỡ, cho đây là vùng đất lành và lệnh cho xây thành tại đây, đặt tên thành bằng tiếng Phạn là Zengabua, biến âm thành Singapore. Để nhớ lại câu chuyện này, người đời sau đã tạc nên pho tượng nửa hình sư tử nửa hình cá, ngày nay trở thành biểu tượng của đất nước Singapore.
Singapore là một hòn đảo nằm tại cuối phía nam eo biển Malacca, eo biển này là con đường ngắn nhất nối liền Ấn Độ và Trung Hoa. Các thủy thủ đã biết tới hòn đảo này từ thế kỷ thứ 3 sau Tây lịch. Vào giữa thế kỉ 1, Singapore trở thành chư hầu của đế quốc Majapahit đặt tên là Sumatra rồi sang thế kỉ 14 singapore lại có tên là Temasek và vẫn chỉ là một hòn đảo trơ trọi, nơi thường bị bọn cướp biển quấy phá.
Sang thế kỉ 15, người Bồ Đào Nha đã tiến vào eo biến Malacca với các khẩu đại bác để tranh giành độc quyền buôn bán của người Ả Rập về hương liệu và tiếp xúc với thương nhân người Trung Hoa. Sau đó Bồ Đào Nha chiếm được thành phố Malacca vào năm 1511 nên vua hồi giáo trị vì đã bỏ chạy sang phần phía nam của bán đảo Mã Lai và một quốc gia Hồi giáo được thiết lập ở đó, Singapore trở thành một căn cứ của vị quan cao cấp cho tới cuối thế kỉ 16.
Vào đầu thế kỉ 17, người Anh và người Hà Lan đã gửi đi các đoàn thám hiểm tới miền Đông Âu và người Hà lan đã thay thế người Bồ Đào Nha chiếm được Malacca và là lực lượng áp đảo tại quần đảo Mã Lai. Do chính sách bạo lực không đàn áp được người dân bản địa, lại làm ăn thua lỗ tại châu Á ,gặp thất bại khi giao chiến với nước Pháp nên khi chạy trốn sang nước Anh vua Hà Lan đã kí hiệp ước chấp nhận các lãnh thổ hải ngoại của Hà Lan sẽ tạm thời dưới quyền kiểm soát của người Anh để tránh cho những nơi này không rơi vào tay Pháp. Tuy nhiên đến năm 1814 do thất bại của Napoleon Anh đã phải trao trả lại miền đất Java và Malacca cho Hà Lan.
Do e ngại sự độc quyền thương mại của người Hà Lan nên Anh đã tăng cường ảnh hưởng của mình tại eo biển Malacca, đến 1819 lợi dụng sự vắng mặt của người Hà Lan, Anh đã đổ bộ lên khai hoang một miền đất tại bờ Đông Bắc của con sông Singapore và kéo cờ Anh lên. Người đứng đầu đội quân Anh đổ bộ vào Singapore – Raffles – đã nhận xét: “ Singapore là một địa điểm quan trọng nhất của miền Viễn Đông và nếu xét về những lợi ích hải quân và thương mại thì nơi đây có giá trị cao hơn các lục địa khác.
Ngày 17/3/1824, hiệp ước Anh- Hà Lan được kí kết tại London đã chia đôi miền Đông Ấn ra làm hai vùng ảnh hưởng bằng một lằn ranh dọc theo eo biển Malacca : nước Anh được quyền ở phía trên và Hà Lan có quyền kiểm soát miền đất phía Nam của lằn ranh này. Như vậy chính quyền Hà Lan đã công nhận rằng Singapore đã thuộc sở hữu của Anh, từ đây Singapore đã có chủ quyền ổn định, dù vậy, cho đến tận thập niên 1860 Singapore vẫn không được chính quyền Anh ở Calcutta giúp đỡ về các mặt xã hội, giáo dục, y tế…
Trong những năm đầu thuộc về chính quyền Anh thành phố Singapore đã phát triển dần từ một nơi có vài ngàn dân thành một hải cảng 85000 người và dần nâng cao vị thế của mình lên. Sau cuộc khủng hoảng kinh tế vào thập niên 1840, Singapore đã chứng tỏ đáng được coi là một thuộc địa trực tiếp của Anh đồng thời việc phát minh ra tàu thủy chạy bằng hơi nước đã khiến cho Singapore chịu ảnh hưởng trực tiếp về chính trị và kinh tế của London. Ngày 01/04/1867, Singapore chính thức trở thành một thuộc địa của Hoàng gia Anh.
Việc khánh thành kênh đào Suez năm 1869 và việc đưa vào sử dụng tàu hơi nước đã khẳng định thêm vị thế của Singapore, biến nó thành một trung tâm cho cả khu vực thương mại giữa Ðông và Tây. Thương mại của Singapore tăng một cách nhanh chóng: năm 1869 là 89 triệu USD thay vì 11 triệu USD vào năm 1824. Kết quả đạt được là nhờ các chính sách không thuế và các hạn chế được giữ ở mức thấp nhất đối với các tàu thuyền từ các nước như Ấn Độ, Thái Lan, Mã Lai, Trung Hoa, Nam Dương… của Singapore.
Năm 1903, Singapore trở thành 1 trong 7 thương cảng lớn nhất trên thế giới
Thế chiến thứ hai bùng nổ và thất bại của ban đầu của các nước đồng minh trong đó có Anh, Singapore đã nằm dưới ách đô hộ của Nhật Bản trong 3 năm tới tận năm 1945 khi thế chiến kết thúc. Năm 1946, Anh định lập lại chế độ thuộc địa nhưng gặp phải sự chống đối mạnh mẽ của Liên Bang Mã Lai vì thế đến hội nghị London 1956 Anh quyết đinh trao trả độc lập cho Malaysia, đến ngày 16/9/1963 Bang tự trị Singapore đã gia nhập Liên bang Mã lai tuy nhiên đến 1965 quan hệ giữa chính phủ Liên bang và bang tự trị Singapore ngày càng trở nên căng thẳng. Đến 9/8/1965 bang tự trị Singapore đã trở thành một nước độc lập đặt tên là nước Cộng hòa Singapore và là thành viên thứ 117 của Liên hiệp quốc.
Kể từ sau ngày độc lập vào năm 1965,đến nay Singapore trở thành một thành phố thành công và hiển đạt nhất phía nam châu Á.
1.1.2. Các điều kiện để phát triển kinh tế của Singapore
1.1.2.1. Điều kiện tự nhiên
* Vị trí địa lý
Singapore là một hòn đảo có hình dạng một viên kim cương được bao quanh bởi nhiều đảo nhỏ, nằm ở cực nam bán đảo Mã Lai. Eo biển phía nam Singapore nhìn sang quần đảo Indonesia. Eo biển phía bắc nối liền với Malaysia, là con đường huyết mạch từ Thái Bình Dương thông sang Ấn Độ dương, được coi là “Ngã tư phương Đông”. Vị trí đặc biệt này đã tạo điều kiện cho Singapore phát triển kinh tế đặc biệt trên lĩnh vực hàng hải. Tuy nhiên cũng đã gây tai họa cho “thành phố sư tử” vào thế kỷ 18th. (Năm 1819, nước Anh tranh giành thuộc địa với Hà Lan, cho hạm đội lướt sóng hướng tới Singapore, bỏ ra 8.000 bạc tiền Tây Ban Nha để lừa lấy tô giới ở đây, rồi tuyên bố Singapore là cảng biển tự do đầu tiên ở châu Á, sớm hơn Hồng Kông 23 năm. Từ đó, thương thuyền các nước tự do ra vào Singapore ăn hàng, dỡ hàng, tu sửa, chuyển tải… mà không phải chịu bất cứ khoản thuế quan nào)
* Khí hậu
Singapore có khí hậu nhiệt đới ẩm với các mùa không phân biệt rõ rệt. Đặc điểm của loại khí hậu này là nhiệt độ và áp suất ổn định, độ ẩm cao và mưa nhiều. Nhiệt độ thay đổi trong khoảng 22°C đến 34°C (72°–93°F). Trung bình, độ ẩm tương đối khoảng 90% vào buổi sáng và 60% vào buổi chiều. Trong những trận mưa lớn kéo dài, độ ẩm tương đối thường đạt 100%. Nhiệt độ cao nhất và thấp nhất đã từng xuất hiện là 18,4°C (65,1°F) và 37,8°C (100,0°F).
* Địa hình và tài nguyên thiên nhiên
Singapore có địa hình thấp với cao nguyên nhấp nhô, trong đó có lưu vực và những khu bảo tồn thiên nhiên đang được chính phủ hết sức bảo vệ. Quá trình đô thị hóa đã làm biến mất nhiều cánh rừng mưa nhiệt đới một thời nên hiện nay chỉ còn lại một trong số chúng là Khu bảo tồn thiên nhiên Bukit Timah, và nhiều công viên đã được giữ gìn với sự can thiệp của con người như Vườn Thực vật Quốc Gia. Kết hợp với khí hậu nhiệt đới ẩm thì các khu bảo tồn này đã đem lại nguồn lợi lớn cho ngành du lịch Singapore.
Tuy nhiên, nguồn tài nguyên Singapore lại rất ít ỏi chỉ có cá và cảng nước sâu; khoáng sản thì chỉ có một ít than, chì, nham thạch, đất sét; nguồn nước ngọt thì đặc biệt khan hiếm. Vì vậy, hầu hết các nguồn nguyên nhiên liệu đều phải nhập khẩu và không thế tự chủ trong quá trình sản xuất.
Bên cạnh đó, Singapore còn có một diện tích nhỏ hẹp chỉ với 692,7 km2 gồm 64 đảo, 1 đảo lớn và 63 đảo nhỏ, trong đó có 20 đảo có người ở; 1,9% diện tích đã được canh tác; 4,5% diện tích là rừng.. Diện tích đất đã được canh tác chủ yếu là để trồng cao su, dừa, rau và cây ăn quả, không dành nhiều cho trồng cây lương thực. Vì thế mà nền nông nghiệp phát triển không mạnh khiến Singapore hàng năm đều phải nhập khẩu một lượng lớn lương thực thực phẩm để đáp ứng nhu cầu trong nước.
1.1.2.2. Điều kiện xã hội
* Dân số
Singapore là một quốc gia trẻ, đa dân tộc, nhiều sắc thái văn hóa được hình thành trên nền tảng dân nhập cư từ Trung Quốc, Malaixia, Ấn Độ và người Âu. Tính đến tháng 7/2008 có 78,6 % là người Hoa; 13,9 %, là người Mã Lai; 7,9% là người Ấn Độ, Pakistan và Srilanca; 1,4 % là người gốc khác trong tổng 4,6 triệu dân
( Nguồn .
Đại đa số người Hoa theo Phật Giáo và Đạo Giáo, nói tiếng Hoa địa phương chủ yếu là tiếng Phúc Kiến. Người Malai theo Hồi giáo, nói tiếng mẹ đẻ, mang phong tục tập quán và luật kệ của Hồi Giáo. Người Ấn Độ lại chủ yếu theo đạo Hindu giáo và đạo Xích, nói tiếng Tamil (tiếng của miền Nam Ấn Độ) và theo phong tục đẳng cấp cao (Caste). Dân số trẻ hứa hẹn sẽ cung cấp lực lượng lao động khổng lồ cho Singapore nhưng vấn đề đa dân tộc, đa sắc tộc lại gây khó khăn cho Chính phủ Singapore trong việc ổn định kinh tế, chính trị.
* Ngôn ngữ
Singapore dùng tiếng Anh làm ngôn ngữ hành chính và một trong bốn ngôn ngữ chính thức, bên cạnh tiếng Phổ Thông (Trung Quốc), tiếng Mã Lai, và tiếng Tamil. Người dân Singapore thông thạo tiếng Anh đã giúp cho Singapore có thể học hỏi nhanh chóng các kĩ thuật cũng như dễ dàng hơn trong việc buôn bán thương mại. Nhưng có một điều ít ai đế ý đó là giới trẻ ngày nay, họ biết tiếng Anh nhưng khả năng tiếng Anh của họ không bằng người Anh hoặc người Mỹ. Bên cạnh đó, tiếng mẹ đẻ cũng trở nên thui chột và họ cũng không có được cảm giác ngôn ngữ như những người gốc bản xứ. Điều này dẫn đến nền văn hóa , nghệ thuật của họ không thể tiến xa được. Giữa họ giờ đây hình thành một ngôn ngữ giao tiếp mới, đó là Singlish.
* Giao thông
Hệ thống giao thông công chính ở Singapore rất phát triển. Chất lượng đường bộ của đảo quốc này được đánh giá là vào loại tốt nhất thế giới. Giao thông tại Singapore được vận hành theo mô hình của Anh, trái với giao thông tay phải của Châu Âu lục địa.
Singapore có nhiều loại phương tiện giao thông công cộng, trong đó hai phương tiện phổ biến nhất là xe bus và tàu điện ngầm mà người Singapore thường gọi là MRT (Mass Rapid Transit). Hệ thống tàu điện ngầm của Singapore có 42 ga (hiện vẫn tiếp tục phát triển) và có giờ làm việc là từ 06:00 tới 24:00. Taxi cũng là một phương tiện giao thông khá phổ biến ở Singapore và không quá đắt.
Singapore cũng có phương tiện giao thông đường thủy phổ biến là thuyền máy nhỏ, tuy nhiên đa só chúng chỉ được dùng cho mục đích du lịch. Các du khách tới Singapore có thể tham quan thành phố bằng đường thủy trên sông Singapore trong những tour kéo dài khoảng 30 phút.
* Giáo dục
Với tống số dân gần 4,6 triệu người trong đó số người biết đọc, biết viết đạt 91%; nam: 95,9%; nữ: 86,3%. Singapore áp dụng chính sách giáo dục bắt buộc và miễn phí 10 năm (từ 6 đến 16 tuổi), sau khi học xong 6 năm tiểu học, học sinh phải học 4 năm trung học, có tới 100% học sinh học qua tiểu học vào khoảng 70% học lên trung học. Tất cả trẻ em học xong trung học có thể vào học ở các trường dạy nghề hoặc đại học. Singapore được 123 nước trên thế giới công nhận nền giáo dục.
( Nguồn
Đây là điều kiện thuận lợi nhằm thu hút nhân tài quốc tế tạo điều kiện cho việc phát triển kinh tế quốc gia. Singapore được đánh giá là quốc gia có chính sách thu hút nhân tài bài bản nhất thế giới.
1.1.3. Tình hình phát triển kinh tế của Singapore thời gian 2000 đến nay
Singapore có nền kinh tế thị trường tự do, Chính phủ nắm vai trò chủ đạo, đây là một trong những nền kinh tế thịnh vượng nhất thế giới, đồng thời Singapore cũng là một trung tâm công nghiệp, thương nghiệp, giao lưu hàng hóa và tiền tệ, du lịch sôi động ở Đông Nam Á. Sau khi giành được độc lập, Singapore ra sức tranh thủ thời cơ và sức mạnh, vận dụng vị trí địa lý thuận lợi và sức lao động phong phú dồi dào, ra sức phát triển ngành công nghiệp gia công về vận tải và mậu dịch.
Singapore có các khu chế xuất, đóng tàu, sửa chữa tàu, thăm dò dầu khí, là trung tâm chế tạo giàn khoan đế bằng thăm dò dầu khí, chiếm 1/3 số lượng giàn khoan loại này trên thế giới. Cả nước có 7 nhà máy lọc dầu, mỗi năm lọc khoảng 50 triệu tấn dầu, đứng vào hàng thứ ba về trung tâm lọc dầu, sau Mỹ và Hà Lan. Công nghiệp điện tử Singapore đi sau các ngành công nghiệp khác, nhưng lại rất phát triển, các mặt hàng như máy tính, máy vi tính, các sản phẩm điện tử của Singapore đều có bán ở khắp nơi trên thế giới, giá trị,sản lượng và chất lượng đứng đầu các nước Đông Nam Á.
Singapore còn có cảng biển chuyển tải lớn nhất khu vực, đây là một nguồn lợi lớn của Singapore. Cảng rộng và sâu, tàu có trọng tải 10.000 tấn cập bến một cách dễ dàng. Hiện có hơn 250 luồng tàu của hơn 370 hải cảng và hơn 150 công ty hàng hải của hơn 80 nước đặt trạm hàng hải tại đây. Trung bình cứ 10 phút có một chuyến tàu ra vào. Việc vận chuyển container ở Singapore phát triển rất nhanh, xuất và nhập hơn 100 triệu tấn, đứng đầu thế giới.
Đây là trung tâm hàng không nối liền Châu Âu, Châu Á và Châu Đại Dương, nối đường hàng không với 53 nước và 101 thành phố trên thế giới, là một quốc gia có ngành hàng không dân dụng phát triển đứng thứ hai ở Châu Á, chỉ sau Nhật Bản.
* Tổng sản phẩm quốc nội
Trong giai đoạn từ 1995-2007, tổng sản phẩm quốc nội của Singapore theo giá cả thị trường có xu hướng tăng, ước tính theo IMF(Quỹ tiền tệ thế giới)
Hình 1.1: Tổng sản phẩm quốc nội của Singapore giai đoạn 1995- 2007
Năm
Tổng sản phẩm quốc nội ( triệu USD)
1995
119,470
2000
159,840
2005
194,360
2007
224,412
Bảng 1.1 Tổng sản phẩm quốc nội trong giai đoạn 1995- 2007
(Nguồn
Từ bảng 1.1 và đồ thị trên hình 1.1 trên đây chúng ta có thể thấy: từ 1995 đến 2000, tổng sản phẩm quốc nội của Singapore đã tăng xấp xỉ 33,8%; 5 năm sau đó tiếp tục tăng gần 21,6%. Năm 2007 so với năm 2005 đã tăng 15,5%, và so với năm 1995 tăng 87,8%. Như vậy, trong 13 năm( từ 1995- 2007) tổng sản phẩm quốc nội của Singapore liên tục tăng với các con số ấn tượng. Tính đến hết năm 2007, sau 13 năm thì tổng sản phẩm quốc nội của Singapore đã tăng gấp gần 2 lần. Đây là kết quả của sự nỗ lực từ phía Chính phủ cũng như người dân Singapore trong việc đẩy mạnh các hoạt động sản xuất, kinh doanh góp phần tăng trưởng kinh tế Singapore.
*GDP/đầu người
Không chỉ có tổng sản phẩm quốc nội mà GDP/ đầu người cũng không ngừng tăng lên
Hình 1.2 : GDP/ đầu người của Singapore giai đoạn 2001- 2007
Năm
GDP/người( USD)
2001
22,680
2002
22,040
2003
21,230
2004
27,180
2005
28,100
2006
31,400
2007
34,152
Bảng 1.2 GDP/ đầu người của Singapore giai đoạn 2001- 2007
(Nguồn Tư liệu kinh tế bảy nước thành viên ASEAN 2001-2007)
Theo biểu 1.2 và đồ thị trên hình 1.2 ta thấy GDP/đầu người của Singapore có xu hướng giảm trong giai đoạn 2001- 2003: giảm gần 6,8 %. Nguyên nhân là do chịu ảnh hưởng nặng nề của cuộc suy thoái kinh tế toàn cầu.
Sau thời kỳ chịu ảnh hưởng của cuộc suy thoái kinh tế toàn cầu, với sự nỗ lực từ phía Chính phủ Singapore trong việc điều chỉnh tỷ giá, cân bằng cung cầu, cân bằng cán cân thương mại…..thì trong giai đoạn 2003- 2007 GDP/đầu người có xu hướng tăng liên tục. Năm 2007, GDP/đầu người đã tăng thêm gần 50,6% GDP/đầu người so với năm 2001.
* Tăng trưởng GDP của Singapore
Vào những năm 1998, nền kinh tế Singapore có bước suy giảm đáng kể, tốc độ tăng trưởng kinh tế đạt -8,5% do ngành sản xuất điện tử và các linh kiện điện tử gặp nhiều khó khăn bởi nhu cầu thế giới giảm mạnh. Nhưng nhờ có những biện pháp tích cực nhằm tăng tính cạnh tranh như cắt giảm chi phí kinh doanh, giảm tiền lương 5-8%, đầu tư thêm cho cơ sở hạ tầng, mở rộng một số ngành công nghiệp mới để thu hút lao động… từ năm 2000 nền kinh tế Singapore đã dần dần phục hồi với tốc độ tăng trưởng kinh tế năm 2000 đạt gần 10%.
Từ năm 2002 đến 2007, nhìn chung tốc độ tăng GDP cũng tăng một cách đáng kể tuy có sự sụt giảm vào năm 2003 và năm 2005 do ảnh hưởng của sự kiện 11/9/2001 và dịch SARS, do sự chững lại của các nền kinh tế lớn trên thế giới như Mỹ, EU và Nhật Bản.
Tốc độ tăng trưởng kinh tế Singapore được minh họa bằng đồ thị trong hình 1.3 dưới đây:
Hình 1.3 : Tốc độ tăng tăng trưởng kinh tế Singapore giai đoạn 2002-2007
(Nguồn: www.nationmaster.com/time.php?stat=eco_gdp-economy-gdp&country=sn-singapore)
Theo số liệu mới nhất từ chính phủ Singapore thì lần đầu tiên kể từ năm 2001, chính phủ Singapore công bố kinh tế nước này rơi vào suy thoái và chỉ có thể tăng trưởng ở mức 1% trong năm tới do ảnh hưởng từ khủng hoảng tài chính toàn cầu.
Trong quý 3/2008, kinh tế nước này suy giảm 6,8%, là mức cao hơn mức dự kiến 6,3%. So với cùng kỳ năm ngoái, kinh tế nước này suy giảm 0,6%. Quý 2/2008, tổng sản phẩm quốc nội của nước này đã giảm 5,3%. Hai quý liên tiếp tăng trưởng âm đồng nghĩa với kinh tế rơi vào suy thoái.
Chính phủ Singapore dự tính kinh tế năm 2009 sẽ có mức tăng 1-2% và hạ mục tiêu năm nay xuống mức 2,5% từ dự báo 3%. Tỷ lệ lạm phát cho năm tới trong khoảng 1-2% thay vì mức 2,5-3,5% trước đó.
Hiện nay Singapore được coi là nước đi đầu trong việc chuyển đổi sang nền kinh tế tri thức. Singapore đang thực hiện kế hoạch đến năm 2018 sẽ biến thủ đô của nước này thành một thành phố hàng đầu thế giới, một đầu mối của mạng lưới mới trong nền kinh tế toàn cầu và Châu Á .
*Cơ cấu GDP theo ngành:
Nông nghiệp không đóng góp vào GDP của Singapore do Singapore không có nhiều tiềm năng để phát triển nông nghiệp bởi 4,5% diện tích đất tự nhiên là rừng; diện tích đất được canh tác thì lại chủ yếu là trồng cao su, rau và cây ăn quả chứ không được sử dụng để trồng cây lương thực. Vì thế, Singapore đã coi công nghiệp và dịch vụ là hai ngành cơ bản nhất của nền kinh tế quốc dân. Và sự phát triển kinh tế dựa vào ngành dịch vụ được coi là đặc điểm kinh tế nổi bật nhất của Singapore.
Năm
Tỷ trọng
2003
2004
2006
Công nghiệp
30%
32,2%
34,8%
Dịch vụ
70%
67,8%
65,2%
Bảng 1.3: Tỷ lệ đóng góp vào GDP của ngành công nghiệp và dịch vụ Singapore
(Nguồn Tư liệu kinh tế bảy nước thành viên ASEAN)
* Thương mại:
Cả kim ngạch xuất khẩu và kim ngạch nhập khẩu từ 2000 đến nay đều có xu hướng tăng lên do chính phủ Singapore thực hiện chiến lược tự do hóa thương mại với việc biến thị trường Singapore thành một thị trường xuất nhập khẩu hoàn toàn tự do( thuế suất= 0). Chính phủ Singapore không sử dụng các rào cản như biện pháp hạn chế thương mại, cơ sở hạ tầng, dịch vụ phục vụ cho hoạt động xuất nhập khẩu. Điều này đã tạo điều kiện thuận lợi rất lớn đối với các doanh nghiệp xuất nhập khẩu Singapore nói riêng và các doanh nghiệp xuất nhập khẩu nước ngoài nói chung. Vì thế, kim ngạch thương mại của Singapore liên tục tăng thể hiện ở biểu 1.4 sau đây:
Hình 1.4 : Cán cân thanh toán của Singapore giai đoạn 2004-2009 (Tác giả thu thập số liệu và tổng hợp)
Năm
2004
2005
2006
2007
2008
2009
KNXK
201
232
275
301
322
333
KNNK
168
195
230
252
275
287
Bảng 1.4: Cán cân thanh toán của Singapore giai đoạn 2004-2009
( 2008 , 2009 là giá trị dự đoán, đơn vị:triệu USD)
(Nguồn www.nationmaster.com/time.php?stat=eco_gdp-economy-gdp&country=sn-singapore)
* Đầu tư
Bảng 1.5: Đầu tư ra nước ngoài của Singapore giai đoạn 2000 - 2006
(Đơn vị: triệu USD)
Tên nước
2000
2001
2002
2003
2004
2005
2006
Tổng vốn
98,271.6
132,069.0
147,096.0
153,572.0
179,742.2
202,072.67
226,266.1
Châu Á
57,459.3
64,058.1
70,344.4
76,736.9
85,334.1
104,517.5
111,680.6
Bruney
98.1
56.8
56.9
61.4
63.6
63.4
70.0
Trung Quốc
15,706.2
15,717.3
18,042.1
19,816.1
22,182.6
27,277.4
30,697.6
Hồng Kông
8,508.0
11,372.5
11,841.1
11,058.6
11,768.4
15,331.3
14,109.6
Ấn Độ
884.7
489.1
-12,4
626.2
653.6
1,259.1
2,160.6
Indonesia
5,450.5
5,589.3
7,657.2
10,289.0
12,024.4
14,631.1
16,406.8
Nhật Bản
993.9
1,466.4
1.640.1
1,969.1
2,255.2
2,541.8
2,227.5
Hàn Quốc
2,403.3
2,754.0
2,477.5
2,554.2
2,830.5
3,386.8
3,119.4
Malaysia
9,749.9
11,237.9
12,323.9
13,591.5
14.432.8
17,885.4
17.513.3
Myanmar
1,028.0
1,045.2
1,061.7
1,132.3
701.8
1,464.9
1,311.7
Philippin
2,555.6
2,741.7
2,863.0
3,193.0
2,981.1
3,294.6
3,620.7
Đài Loan
3,571.4
3,586.3
3,344.3
3,687.6
3,814.9
4,710.3
4,979.7
Thái Lan
3,494.4
4,506.0
4,103.5
4,705.8
7,220.7
8,555.5
11,291.8
Việt Nam
1,069.7
1,067.0
1,386.5
1,461.5
1,525.5
1,718.2
1,687.0
ASEAN(1)
23,553.4
26,472.4
30,762.1
34,744.2
39,457.1
47,838.1
52,142.4
Châu Âu
8,998.9
12,691.8
15,449.2
13,543.1
16,591.9
17,511.2
25,995.7
Pháp
103.5
163.7
248.9
411.4
238.0
263.5
237.8
Đức
120.9
156.3
113.2
107.2
393.4
607.8
644.0
Hà Lan
1,188.0
1,293.0
1,205.5
739.3
992.2
2,532.6
2,471.1
Thụy Sĩ
211.2
447.8
531.0
601.8
598.0
624.9
625.4
Anh
4,903.4
6,79.0
6,907.5
7,534.2
7,222.0
7,219.9
15,777.6
EU(2)
7,155.6
10,341.1
11,311.0
10,214.2
11,234.0
12,452.1
20,231.0
Mỹ
6,187.5
6,316.8
7,251.8
8,057.6
9,668.6
9,826.5
8,544.7
Canada
285.1
55.7
22.1
107.7
122.1
237.5
253.1
Úc
2,486.9
2,318.6
3,355.2
4,467.7
11,081.0
8.935.3
9,538.2
Newzeland
866.0
512.6
883.4
1.067.1
1,287.2
1,346.4
1,304.4
Nam và Trung Mỹ và Caribe
12,791.2
39,606.9
42,260.0
42,220.2
42,762.6
47,293.9
51,944.9
Các nước khác
9.196.8
6,308.4
7,758.0
7,191.7
12,894.8
12,404.4
17.004.5
(Nguồn
(1) ASEAN bao gồm: Brunei, Indonesia, Malaysia, Philippines, Thái Lan, Việt Nam, Lào, Mianma. Cho đến năm 1999 có thêm Campuchia
EU bao gồm: Bỉ, Đan Mạch, Pháp, Đức, Hi Lạp. Ai len. Ý, Lucxembua, Hà Lan, Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha, Vương quốc Anh, Áo, Phần Lan, Thụy Điển. Cho đến năm 2004 có thêm CH Séc, Estonvila, Latvia, Lithuania, Malta, Slovakia, Slovenia,CH Cyprus.
(2) EU bao gồm Áo, Bỉ, Đan Mạch, Phần Lan, Pháp, Đức, Hi lạp, Ai Len, Ý, Lucxembua, Hà Lan, Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha, Thụy Điển, Anh (từ 1995à 2003). Cùng với Cyprus, CH Séc, Estonia, Hungari, Latvia, LithuaniaMalta, Ba Lan, Slovakia, Slovenia (từ 2004).
Từ bảng số liệu trên ta thấy trong giai đoạn 1996-2006 đầu tư của Singapore ra nước ngoài có xu hướng tăng dần, trung bình mỗi năm tỷ lệ đầu tư này tăng lên khoảng 12.6%. Giai đoạn này nhìn chung đầu tư ra nước ngoài của Singapore không ổn định, đáng chú ý là năm 1997 tỷ lệ vốn đầu tư ra nước ngoài giảm khoảng 0.24% ( do ảnh hưởng phần nào của cuộc khủng hoảng tài chính năm 1997 khiến các quốc gia đang đầu tư tại Singapore gặp khó khăn về nguồn vốn), nhưng đã tăng trở lại vào ngay sau đó với mức tăng là 18.4% so với năm trước vì Singapore vẫn là một môi trường đầu tư hấp dẫn vì quốc đảo này được đánh giá là ít chịu sự ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ năm 1997.
Khu vực mà Singapore đầu tư vào nhiều nhất là Châu Á với tỷ lệ đầu tư hàng năm luôn chiếm hơn 50%, trung bình là 53.1%/năm (lớn nhất là đầu tư vào Malaysia và Indonesia). Tuy nhiên, đầu tư vào khu vực này lại đang có xu hướng giảm đi do Singapore đang chuyển hướng đầu tư vào khu vực Châu Âu. Sở dĩ như vậy vì đây là khu vực nhiều tiềm năng, đầu tư vào những ngành công nghệ cao đòi hỏi trình độ và nguồn vốn lớn nhưng lại đem lại lợi nhuận cao. Vì thế, Singapore trong những năm gần đây đã rút dần vốn đầu tư vào khu vực Châu Á để chuyển dần sang khu vực Châu Âu. Tuy nhiên, lượng giảm này không đáng kể cho nên hiện nay Châu Á vẫn là khu vực mà Singapore đầu tư vốn vào nhiều nhất.
Bảng 1.6: Đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Singapore giai đoạn 2000-2006
(Đơn vị: triệu USD)
Tên nước/Khu vực
2000
2001
2002
2003
2004
2005
2006
Tổng
187,001.7
216,45.5
230,149.1
246,185.4
276,819.2
323,821.1
363,935.0
Châu Á
49,403.8
51,171.3
54,783.7
57,755.3
62,252.9
78,253.9
81,475.2
Brunei
312.6
351.1
362.9
341.2
357.9
380.7
308.8
TQuốc
890.9
876.8
960.6
856.8
359.7
910.0
1,474.8
HongKong
6,170.9
5,587.5
4,777.9
3,905.8
3,196.8
4,701.5
6,079.7
Ấn Độ
264.4
349.7
405.5
353.5
481.0
1,303.1
1,612.8
Indonesia
1,646.3
1,611.5
1,765.4
1,662.9
1,091.2
683.7
568.1
Nhật Bản
29,154.7
29,910.9
33,055.2
33,959.2
37,502.0
44,812.5
45,017.4
Hàn Quốc
295.7
33.6
1,147.8
1,681.7
846.7
1,267.5
1,645.6
Malaysia
5,371.4
5,910.4
5,249.0
4,445.3
5,032.7
8,159.4
8,430.3
Myanma
35.3
6.8
7.2
7.2
7.6
14.8
17.6
Philippin
685.8
681.5
621.5
516.4
707.6
739.8
857.0
Đài Loan
3,378.6
4,751.9
5,054.6
5,906.3
5,730.8
7,211.2
7,496.5
Thái Lan
675.6
601.2
737.6
985.1
1,035.1
1,369.4
1,467.9
Việt Nam
8.2
10.8
28.3
24.0
32.7
21.1
11.6
ASEAN
8,735.5
9,174.0
8,._.772.5
7,982.5
8,265.7
11,369.9
11,661.7
Châu Âu
71,302.6
84,498.9
92,452.6
103,936.1
120,505.7
139,987.4
171,860.2
Pháp
4,749.5
4,430.6
4,899.1
5,161.7
6,349.7
7,003.7
8,061.5
Hà Lan
28,223.0
34,704.7
24,560.6
26,901.9
31,560.8
32,142.1
48,272.4
Đức
4,187.8
6,320.3
7,338.2
6,136.5
7,278.5
8,189.2
8,035.2
Nauy
3,532.8
3,903.2
2,826.0
4,467.8
6,217.2
8,565.6
14,782.2
Thụy Sĩ
16,073.5
15,527.9
15,153.7
16,836.1
14,444.3
22,273.1
27,018.2
Anh
8,701.8
13,629.7
31,509.0
38.092.2
43,924.4
49,593.0
54,781.7
EU(1)
51.326.4
64,272.6
74,106.7
82,093.9
97,711.9
108,947.3
129.774.4
Mỹ
31.356.6
36,782.6
34,482.0
37,162.6
41,019.5
40.574.4
37,111.6
Canada
3,068.6
3,180.0
2,768.1
2,576.7
2,836.1
2,588.7
2,648.1
Úc
3,227.1
2,629.3
2,503.3
2,069.9
2,674.3
2,846.9
2,827.9
Newzeland
208.3
196.8
204.6
139.6
132.7
1,482.0
1,664.7
Trung- Nam Mỹ và Caribe
25.995.0
34,723.7
39,125.9
38,086.7
41,672.7
50,141.6
59,472.5
Các nước khác
2,439.6
3,272.0
3,828.9
4,458.5
5,725.2
7,946.2
6,874.7
(Nguồn:
Theo bảng số liệu trên ta thấy đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Singapore giai đoạn 2000-2006 tăng trung bình khoảng 12% một năm. Khu vực Châu Âu có số vốn đầu tư nhiều nhất, trung bình 36,4%/năm, số vốn đầu tư từ khu vực này vào Singapore mỗi năm tăng 2%, năm có số vốn đầu tư lớn nhất là 2006 chiếm 47,2% số vốn đầu tư vào Singapore. Châu Á đứng vị trí thứ 2 với tỷ lệ đầu tư trung bình chiếm 22,8%. Những nước đầu tư lớn nhất vào Singapore có Anh, Nhật, Mỹ.
Sở dĩ, Singapore thu hút được nguốn vốn đầu tư lớn như vậy là do chính phủ Singapore đã thực hiện một loạt các chính sách nhằm khuyến khích đầu tư về nước mình như chính sách bảo hộ đầu tư và tránh đánh thuế hai lần, chính sách khuyến khích đầu tư cho hợp đồng thương mại quốc tế…
1.2. Tổng quan về quan hệ kinh tế Việt Nam- Singapore
1.2.1. Cơ sở lý luận và thực tiển của việc hình thành và phát triển các quan hệ hợp tác kinh tế quốc tế
* Quan hệ kinh tế quốc tế xét về nội dung gồm các quan hệ hoạt động thương mại liên quan đến thương mại quốc tế, đầu tư quốc tế, hợp tác quốc tế về lĩnh vực kinh tế, khoa học công nghệ và các dịch vụ thu ngoại tệ. Tính chất của quan hệ kinh tế quốc tế được thể hiện qua mối quan hệ thỏa thuận tự nguyện giữa các quốc gia, giữa các tổ chức kinh tế, quan hệ kinh tế quốc tế diễn ra theo nhu cầu của các quy luật kinh tế, chịu sự tác động của luật pháp, chính sách, thể chế của từng quốc gia cũng như các điều ước quốc tế.
* Các quan hệ kinh tế quốc tế xuất hiện từ hàng ngàn năm nay do yêu cầu tất yếu của việc giao lưu quốc tế và sự phát triển lực lượng sản xuất vượt ra ngoài phạm vi quốc gia. Ban đầu người ta tổ chức và triển khai các quan hệ kinh tế một cách tự phát. Càng về sau việc phát triển các quan hệ kinh tế đòi hỏi một cơ sở lý luận vững chắc với sự chứng minh về những lợi ích mà các quan hệ quốc tế mang lại. Các học thuyết kinh tế đề cập đến nguồn gốc của thương mại quốc tế có thể kể đến như : chủ nghĩa trọng thương, lý thuyết về lợi thế tuyệt đối của Adam Smith, lý thuyết về lợi thế tương đối của David Ricardo, lý thuyết về sự cân bằng giữa các yếu tố sản xuất của Heckscher- Ohlin….
Các quan hệ kinh tế quốc tế ra đời là một tất yếu khách quan của thực tiễn phát triển kinh tế của mỗi quốc gia. Ban đầu, do sự khác biệt về điều kiện tự nhiên giữa các quốc gia như đất đai, khí hậu, khoáng sản…. dẫn đến tình trạng mỗi quốc gia có lợi thế về việc sản xuất một sản phẩm nào đó và họ phải trao đổi cho nhau nhằm cân bằng giữa phần dư thừa sản phẩm này với sự dư thừa sản phẩm khác.
Mặt khác, do sự khác nhau về khoa học- kỹ thuật và sự phát triển không đồng đều giữa các gia đưa đến sự khác nhau về điều kiện tái sản xuất giữa chúng nên các quốc gia cần mở rộng phạm vi trao đổi quốc tế như di chuyển vốn, sức lao động, công nghệ….
Bên cạnh đó, do quá trình phát triển kinh tế tất yếu dẫn đến phân công lao động. Sự phân công này dần dần vượt ra ngoài phạm vi biên giới quốc gia, đưa đến sự chuyên môn hóa và sự hợp tác hóa lẫn nhau giữa các công ty thuộc các quốc gia khác nhau. Điều này càng làm mở rộng thêm đối tượng và phạm vi trao đổi quốc tế.
Đặc biệt, không phải mỗi quốc gia đều có thể tự mình sản xuất được mọi hàng hóa nhằm phục vụ cho nhu cầu trong nước mặc dù họ có đủ nguồn lực cần thiết. Cho nên các quan hệ kinh tế quốc ra ra đời nhằm hướng cho mỗi quốc gia tiến hành chuyên môn hóa để đạt tới quy mô sản xuất tối ưu.
Hơn nữa, sự đa dạng hóa trong nhu cầu tiêu dùng ở mỗi quốc gia cũng là một cơ sở quan trọng cho việc phát triển các quan hệ kinh tế quốc tế.
Như vậy, cơ sở của sự phát triển các quan hệ kinh tế quốc tế không chỉ là sự khác biệt về điều kiện tự nhiên, về trình độ phát triển, về các nguồn lực sẵn có giữa các quốc gia mà còn ở sự đa dạng hóa nhu cầu, ở sự ưu việt của chuyên môn hóa và ưu thế của quy mô tối ưu trong sự phân công lao động quốc tế.
1.2.2. Cơ sở pháp lý cho việc thiết lập quan hệ kinh tế Việt Nam – Singapore
Việt Nam và Singapore thiết lập quan hệ vào ngày 1/8/1973, nhưng quan hệ giữa hai nước chỉ được bình thường hoá và tiến triển nhanh chóng, tốt đẹp từ những năm đầu thập niên 90 của thế kỷ XX- sau khi chiến tranh lạnh kết thúc và đặc biệt từ khi Việt Nam trở thành thành viên chính thức của ASEAN (28/7/1995).
Qua 35 năm thiết lập quan hệ ngoại giao, các chuyến thăm giữa hai nước của các nhà lãnh đạo cấp cao liên tục được tổ chức, khẳng định những nỗ lực thúc đẩy ngoại giao và hợp tác nhiều mặt của cả hai bên.
Việt Nam và Singapore đã tiến hành kí kết các hiệp định trên rất nhiều lĩnh vực như thương mại, đầu tư, y tế, giáo dục, văn hoá... Đặc biệt trong lĩnh vực kinh tế bao gồm:
1) Hiệp định hàng hải thương mại (16/4/1992);
2) Hiệp định thương mại (24/9/1992);
3) Hiệp định về khuyến khích và bảo hộ đầu tư (29/10/1992);
4) Hiệp định tránh đánh thuế hai lần (02/3/1994);
5) Tuyên bố chung về Khuôn khổ hợp tác toàn diện Việt Nam –
Singapore trong thế kỷ 21 (08/3/2004);
6) Hiệp định khung về kết nối Việt Nam – Singapore (6/12/2005).
1.2.3. Những sự kiện quan trọng trong quan hệ song phương Việt Nam- Singapore trong thời gian gần đây
Các chuyến thăm Singapore gần đây của các nhà lãnh đạo cấp cao Việt Nam:
Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Văn An (tháng 12-2003).
Thủ tướng Phan Văn Khải (tháng 3-2004): Hai bên đã ký "Tuyên bố chung về khuôn khổ hợp tác toàn diện trong thế kỷ 21", tạo cơ sở pháp lý và điều kiện thuận lợi thúc đẩy quan hệ hữu nghị và hợp tác nhiều mặt giữa hai nước.
Phó Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng sang Singapore dự Hội thảo: "Việt Nam, nơi đến của các nhà đầu tư" do Bộ Kế hoạch và Đầu tư Việt Nam chủ trì ngày 15-3-2001; tham dự Chương trình giao lưu với Thủ tướng Lý Quang Diệu từ ngày 26 đến ngày 29-7-2004; thăm, làm việc và ký kết Hiệp định khung về kết nối Việt Nam – Singapore (từ ngày 5 đến ngày 7-12-2005).
Phó Thủ tướng kiêm Bộ trưởng Ngoại giao Phạm Gia Khiêm thăm chính thức Singapore kết hợp dự khai mạc "Lễ hội Việt Nam" tại Singapore từ ngày 20/05/2006 đến 21/05/2006, theo lời mời của Bộ trưởng Ngoại giao Singapore George Yeo.
13/8/2007, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng và phu nhân cùng đoàn đại biểu cấp cao Chính phủ Việt Nam rời Hà Nội đi thăm chính thức Singapore từ ngày 13-14/8 theo lời mời của Thủ tướng Lý Hiển Long. Đây là chuyến thăm chính thức đầu tiên của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng tới Singapore kể từ khi nhậm chức, đồng thời, cũng là chuyến thăm xã giao theo thông lệ của lãnh đạo mới các nước thành viên ASEAN. Chuyến thăm Singapore diễn ra trong bối cảnh quan hệ hai nước đang phát triển tốt đẹp đặc biệt sau khi Việt Nam ký “Tuyên bố chung về khuôn khổ hợp tác toàn diện trong thế kỷ 21” với Singapore vào tháng 3/2004
- Các chuyến thăm Việt Nam gần đây của các nhà lãnh đạo cấp cao Singapore:
Tổng thống S. R Nathan (tháng 2-2001).
Thủ tướng Goh Chok Tong (tháng 3-1994; tháng 12-1998; tháng 3-2003).
Thủ tướng Lý Hiển Long (tháng 4-2000 với tư cách Phó Thủ tướng; ngày 6 đến ngày 7-12-2004; ngày 25 đến ngày 26-9-2006).
10/12/2007 Cựu Thủ tướng Singapore Goh Chok Tong sang thăm Việt Nam trên tư cách Bộ trưởng cao cấp, theo lời mời của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng.
Chuyến thăm chính thức Việt Nam của Tổng thống Cộng hòa Singapore S.R.Nathan theo lời mời của Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết từ ngày 25/02/2008 à 29/02/2008.
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG QUAN HỆ KINH TẾ GIỮAVIỆT NAM-SINGAPORE
2.1. Thực trạng quan hệ thương mại
2.1.1. Tình hình xuất khẩu của Việt Nam sang Singapore
Từ năm 2000, Singapore giảm dần nhập khẩu những mặt hàng nguyên liệu thô, sơ chế, nguồn gốc từ sản phẩm nông, lâm nghiệp,thực phẩm, bởi những mặt hàng này vừa tốn nhân lực, lại kém hiệu quả khi tái xuất khẩu. Trong cơ cấu hàng xuất khẩu của Việt Nam, kim ngạch những mặt hàng trên chưa lớn lắm, nhưng hướng lâu dài sẽ trở thành nhóm mặt hàng tiềm năng có thể làm tăng kim ngạch, khối lượng xuất khẩu với mức trung bình khoảng 1 tỷ USD/năm. Dưới đây là những số liệu diễn tả cụ thể kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang Singapore trong giai đoạn 2000-2007
Năm
2000
2001
2002
2003
2004
2005
2006
2007
KNXK
885,9
1.043,7
961,1
1.024,5
1.360,0
1.800,0
2.000,0
2.202,0
Bảng 2.1 Kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang Singapore
(Nguồn Trade Development Board Singapore, đơn vị: triệu USD)
Theo bảng số liệu trên ta thấy kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang Singapore nhìn chung đều có xu hướng tăng lên tuy trong giai đoạn 2001- 2002 có sự suy giảm do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính từ vụ tấn công 11/09/2001 ở Mỹ.
Năm 2005, kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang Singapore đạt 1,8 tỷ USD, chiếm 0,91% tổng kim ngạch nhập khẩu của Singapore. Trong đó, dầu mỏ chiếm khoảng 78% và các mặt hàng khác chiếm khoảng 22% giá trị kim ngạch xuất khẩu. Ngoài dầu thô, các mặt hàng xuất khẩu có kim ngạch khá là: Giầy dép (57,1 triệu USD, tăng 13,7%); máy xử lý dữ liệu (29,4 triệu USD, tăng 33,9%); cá tươi & đông lạnh (18,3 triệu USD, giảm 8,8%); và các thiết bị mạch điện (12,9 triệu USD, giảm 35,3%).
Ngoài ra, có một số mặt hàng tỷ lệ tăng trưởng xuất khẩu rất cao nhưng trị giá xuất khẩu vẫn còn nhỏ, như: Đồ gỗ tăng 20,3% nhưng kim ngạch chỉ gần 10 triệu USD; cà phê tăng 52,5% kim ngạch chỉ trên 7,6 triệu USD; dụng cụ cơ khí tăng 530,7%, kim ngạch chỉ trên 6,9 triệu USD....( Theo số liệu từ Vnembassy in Singapore)
Đến năm 2006, kim ngạch xuất khẩu sang Singapore của Việt Nam đã tăng thêm 0,2 tỷ USD so với năm 2005. Các sản phẩm xuất khẩu chính của Việt Nam sang Singapore trong năm 2006 được mô tả cụ thể trong bảng sau
Bảng 2.2 Các sản phẩm chính Singapore nhập từ Việt Nam năm 2006
Đơn vị tính: triệu USD
Các ngành chính
Nhập khẩu
từ Việt Nam
(triệu USD)
Tốc độ tăngtrưởng
“02-06”
Các sản phẩm chính
(tỷ trọng trong ngành)
Tổng NK
238.704,17
20%
NK từ VN
1.651,52 (0,69%)
19%
Nhiên liệu, dầu khoáng chất và sản phẩm chưng cất…
1.136,15
19%
Dầu thô( 99.1%); dầu và sản phẩm chưng cất khác(0.1%)
Lò phản ứng hạt nhân, nồi hơi và máy móc, v.v..
78,00
44%
Máy xử lý dữ liệu tự động, đầu đọc quang (69,6%); bộ phận máy móc (7,7%); bộ phận và thiết bị máy vi tính, máy văn phòng (5,7%); bơm không khí, chân không, nắp chụp quạt (4,4%); nồi hơi nước/hơi khác, nồi hơi quá nhiệt(1.6%)
Giày dép, ghệt và sản phẩm tương tự, và bộ phận
63,93
31%
Giày dép có mũ bằng da (52%); Giày dép khác (30%); giày dép có đế ngoài bằng nguyên liệu dệt (14,2%); giày dép có đế ngoài hoặc mũ bằng cao su, chất dẻo (3,2%); Giày ko thấm nước, có đế ngoài/mũ bằng cao su/chất dẻo,,(0.2%)
Thiết bị điện, điện tử
58,78
13%
Biến thế điện (17,7%); mạch điện tử tích hợp và vi mạch điện tử (16,5%); động cơ điện và máy phát điện (13,8%); bộ phận chuyên dùng cho bo mạch, cầu chì…(11,2%); máy thu truyền hình(9%).
Thủy tinh, sản phẩm bằng thủy tinh
50,62
300%
Kính thuộc nhóm 70.03, 70.04 hoặc 70.05, đã uốn cong, gia công cạnh…(97,5%); các sản phẩm khác bằng thủy tinh (1,3%)
Nguồn: Trademap.net
Năm 2007, kim ngạch thương mại giữa hai nước đạt 10,303 tỷ USD, trong đó xuất khẩu từ Việt Nam đạt 2,202 tỷ USD, chiếm 10,5 % tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang thị trường châu Á. Đây cũng là năm đánh dấu tăng trưởng xuất khẩu của VN sang thị trường này, tăng 36.7% so với năm trước, tập trung vào các mặt hàng mà Singapore có nhu cầu cao: thuỷ sản, nông sản, rau quả, dệt may, giày da, đồ gỗ, dây cáp điện, linh kiện điện tử. Singapore trở thành 1 thị trường xuất khẩu lớn của Việt Nam tại Châu Á.
Theo số liệu thống kê từ Tổng cục thống kê, được biết 5 tháng đầu năm 2008, giá trị xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam sang thị trường Singapore đạt 948.501.383 USD. Riêng tháng 5/2008, Việt Nam đã xuất khẩu hàng hoá sang Singapore đạt trị giá 240.666.277 USD.
Dầu thô; máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện; cà phê; dây điện và cáp điện; hàng hải sản; hàng dệt may...là những mặt hàng xuất khẩu chính của Việt Nam sang thị trường Singapore trong 5 tháng đầu năm.
2.1.2. Tình hình nhập khẩu của Việt Nam từ Singapore
Tuy Việt Nam xuất khẩu sang Singapore với giá trị tương đối lớn ( như mục 2.1.1 đã trình bày) nhưng Việt Nam lại nhập khẩu từ Singapore với giá trị lớn hơn nhiều. Nếu so sánh giữa giá trị xuất khẩu và giá trị nhập khẩu giữa Việt Nam và Singapore trong giai đoạn 2000-2007 ta có thể thấy rằng Việt Nam là nước nhập siêu từ Singapore.
Năm
2000
2001
2002
2003
2004
2005
2006
2007
KNNK
2.694,3
2.478,3
2.533,5
2.878,2
3.440,0
4.300,0
5.700,0
8.101,0
Bảng 2.3: Kim ngạch nhập khẩu của Việt Nam từ Singapore trong giai đoạn 2000-2007
(Nguồn Trade Developvement Board Singapore, đơn vị: triệu USD)
Tính đến hết năm 2004, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu giữa Việt Nam và Singapore đạt khoảng 4,8 tỷ USD, trong đó kim ngạch nhập khẩu của Việt Nam từ Singapore là 3,44 tỷ USD. Các mặt hàng nhập khẩu chủ yếu từ Singapore là phân bón, xăng dầu, máy móc thiết bị phụ tùng, đồ uống có cồn, vật tư ngành ảnh……
Năm 2005, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu giữa Việt Nam và Singapore chiếm 1,45% tổng kim ngạch xuất nhập khẩu của Singapore với thế giới, trong hàng Việt Nam nhập khẩu từ Singapore chiếm 1,93% tổng kim ngạch xuất khẩu của Singapore. Cùng năm này, Việt Nam nhập khẩu của Singapore tăng mạnh lên tới 37,2% so với năm 2004.
Mặt hàng nhập khẩu chủ yếu là: Các sản phẩm dầu mỏ (trên 2,1 tỷ USD, tăng 55,4% so với cùng kỳ 2004) chiếm trên 49,3% tổng kim ngạch nhập khẩu); phụ tùng máy xử lý dữ liệu văn phòng (trên 155 triệu USD, tăng 85,2%); nguyên liệu sản xuất thuốc lá (trên 134 triệu USD, tăng 40,7%); máy xử lý dữ liệu (123,5 triệu USD, tăng 1,9%); và các thiết bị cơ khí công trình (99,5 triệu USD, tăng 42,1%)....
Điều đáng lưu ý là trong tổng kim ngạch 4,3 tỷ USD Việt Nam nhập khẩu của Singapore, chỉ có 2,6 tỷ USD là hàng sản xuất tại Singapore, còn lại khoảng 1,7 tỷ USD là hàng Singapore nhập của các nước khác rồi tái xuất sang Việt Nam.
Năm 2006 đánh dấu việc Việt Nam trở thành thị trường xuất khẩu lớn thứ 14 của Singapore, với kim ngạch xuất khẩu từ nước này sang Việt Nam đạt 5,7 tỷ USD, tăng 20% so với năm 2005.
Năm 2007, kim ngạch xuất khẩu của Singapore đạt 8,1 tỷ USD tăng 43,1% so với năm 2006. Thị trường Việt Nam trở thành thị trường xuất khẩu lớn thứ 13 của Singapore. Kim ngạch nhập khẩu từ Singapore gấp gần 4 lần so với kim ngạch mà Việt Nam xuất khẩu sang quốc đảo này. Các mặt hàng nhập khẩu chủ yếu từ thị trường Singapore trong năm nay vẫn chủ yếu là xăng dầu, thiết bị tin học…Thị trường Singapore (51,5 triệu USD, chiếm 36,8% kim ngạch nhập khẩu) là thị trường nhập khẩu thiết bị tin học dẫn đầu. Mặt hàng nhập khẩu chủ yếu từ Singapore là bảng mạch (17,6 triệu USD); linh kiện vi tính (11,8 triệu USD) và máy in (5,7 triệu USD). Thị trường Nhật Bản (31,5 triệu USD chiếm 22,6% kim ngạch nhập khẩu) đứng thứ 2. Nhập khẩu từ Nhật Bản chủ yếu là linh kiện vi tính (17,8 triệu USD) và bảng mạch (12,6 triệu USD).
Tháng 8/2008, Singapore tiếp tục là thị trường cung cấp xăng dầu lớn nhất nước ta đạt 450,5 nghìn tấn với trị giá 412,54 triệu USD. Đồng thời Singapore cũng dẫn đầu về thị trường nhập khẩu thiết bị tin học trong tháng với kim ngạch đạt 51,6 triệu USD, chiếm 32,7% kim ngạch nhập khẩu thiết bị tin học trong tháng sang tất cả các thị trường, trong khi đó xuất khẩu sang thị trường này là 10,6 triệu USD chiếm 6,7%. Mặt hàng nhập khẩu chủ yếu sang thị trường này là linh kiện vi tính (15 triệu USD) và bảng mạch các loại (11,6 triệu USD).
* Nhận xét:
Như vậy, nếu xét về cơ cấu hàng xuất nhập khẩu giữa Việt Nam và Singapore có thể thấy các mặt hàng dầu mỏ chiếm tỷ trong rất lớn, có tính quyết định đến sự tăng, giảm xuất nhập khẩu giữa hai nước.
Việt Nam xuất khẩu dầu thô sang Singapore có kim ngạch lớn nhưng cũng nhập lại nhiều các sản phẩm hóa dầu của các nhà máy lọc dầu Singapore để phục vụ nhu cầu trong nước. Năm 2005, giá dầu và các sản phẩm hóa dầu trên thị trường thế giới tăng cao, nhất là vào các tháng cuối năm là yếu tố quan trọng làm tăng tổng kim ngạch XNK hai chiều giữa hai nước lên 34,3%.
Ngoài dầu thô, gạo, và một vài mặt hàng khác đến nay ta vẫn chưa có được mặt hàng xuất khẩu chủ lực, có trị giá kinh tế cao, đủ mạnh để cạnh tranh xâm nhập thị trường một cách bền vững, lâu dài, nhất là đối với Singapore một thị trường mang đậm đặc thù chuyển tải, tái xuất.
Về nhập khẩu, ngoài sản phẩm hóa dầu chiếm tỷ trọng lớn, Việt Nam nhập khẩu của Singapore chủ yếu là các mặt hàng: máy móc thiết bị, nguyên phụ liệu cho sản xuất cho hàng xuất khẩu. Nhập khẩu hàng tiêu dùng chiếm tỷ trọng rất nhỏ. Trong điều kiện nền kinh tế của nước ta hiện nay, cơ cấu xuất nhập khẩu này là có thể chấp nhận được.
Nghiên cứu quan hệ thương mại Việt Nam- Singapore, ta có thể thấy được một số thuận lợi cho Việt Nam trong việc phát triển quan hệ giữa hai quốc gia như:
+ Hai mặt hàng của Việt Nam có triển vọng trên thị trường Singapore là hàng thủ công và đồ gỗ. Bên cạnh đó, các mặt hàng nông sản, hải sản, hàng hoá sử dụng trong gia đình, do có truyền thống sản xuất đạt chất lượng yêu cầu nên trong tương lai, Việt Nam vẫn có thể tiếp tục xuất sang thị trường Singapore.
+Việt Nam có thể tận dụng lợi thế của Singapore về vị trí địa lý và thế mạnh về kinh tế nhằm đẩy mạnh các hoạt động giao thương của mình với thế giới bên ngoài. Hơn nữa Singapore lại có quan hệ giao thương tốt đẹp với thị trường thế giới. Các nhà sản xuất Việt Nam nên tận dụng mạng lưới này của Singapore để mở rộng quan hệ thương mại với các thị trường khác, đặc biệt là các mặt hàng hải sản, may mặc và cao su.
+Singapore là thị trường xuất nhập khẩu hoàn toàn tự do, 96% hàng hóa xuất nhập khẩu không có thuế (thuế suất = 0); Chính phủ không sử dụng những rào cản như biện pháp hạn chế thương mại; cơ sở hạ tầng, dịch vụ phục vụ cho hoạt động xuất nhập khẩu (như thanh toán, trọng tài thương mại, cảng khẩu …). Điều này là một thuận lợi lớn cho các doanh nghiệp Việt Nam trong việc đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu.
+ Vì các sản phẩm của Việt Nam và Singapore mang tính chất bổ sung cho nhau nên hầu như là không có sự cạnh tranh. Đây là điểm thuận lợi và cũng là điểm khó khăn đối với các doanh nghiệp XNK ở Việt Nam và Singapore.
+ Đặc biệt, có thể thấy rằng chính sách thương mại của 2 quốc gia đã tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển quan hệ thương mại trong thời gian vừa qua.
Ví dụ:- Năm 2006, Hải quan Singapore đã đưa ra 2 sáng kiến quan trọng nhằm tạo thuận lợi cho thương mại - Đó là Kế hoạch thuế hàng hoá và dịch vụ (GST) kho ngoại quan 0 % và Hệ thống TradeXchangeTM.
- Nếu một công ty Việt Nam cam kết sử dụng Singapore là nơi trung chuyển để xuất khẩu một lượng lớn hàng hoá, thì cơ quan chức năng của Singapore sẽ xem xét hạ mức thuế DN cho các công ty đó. Ngoài ra, khi các DN Việt Nam có mặt tại thị trường Singapore, họ có thể được tiếp cận các quỹ vốn đầu tư và liên doanh để thành lập các liên doanh tại Singapore.
Mặc dù vậy, trong quan hệ thương mại Việt Nam- Singapore, hai bên cũng gặp không ít những khó khăn:
+ Dù chúng ta xuất khẩu sang thị trường Singapore là lớn nhưng nước bạn cũng xuất khẩu trở lại thị trường nước ta với giá trị không nhỏ hơn gây nên sự mất cân bằng cán cân thanh toán. Việt Nam liên tục là nước nhập siêu từ thị trường Singapore( năm 2004 nhập siêu khoảng 2,08 tỷ USD thì đến năm 2005 nhập siêu lên đến 4,5898 triệu USD, trong khi xuất khẩu chỉ đạt 1,8 tỷ USD; quý I/2007 nhập siêu lên tới con số 826,23 triệu USD
+ Vì các sản phẩm của Việt Nam và Singapore mang tính chất bổ sung cho nhau nên hầu như là không có sự cạnh tranh. Điều này làm cho các doanh nghiệp XNK ở Việt Nam cũng như ở Singapore thụ động trong việc cải tiến công nghệ sản xuất, thay đổi cơ cấu mặt hàng XNK cũng như mở rộng quy mô sản xuất hàng xuất khẩu.
+ Hầu hết các doanh nghiệp Singapore đều than phiền rằng, hàng hoá của họ bị hải quan Việt Nam giữ lại quá lâu. Và họ gặp nhiều khó khăn trong việc tìm kiếm đối tác/đại lý thương mại Việt Nam. Bên cạnh đó việc cấp phép XNK hàng hóa còn khá chậm.
+ Singapore còn có nhiều hạn chế đối với việc nhập khẩu
Singapore không áp đặt bất kỳ một hạn chế hạn ngạch nào đối với hàng hoá nhập khẩu và hầu hết hàng hoá đều có thể được nhập khẩu theo giấy phép chung không hạn chế ngoại trừ đối với những hàng hoá nhập khẩu từ Irắc. Nhưng có một số những mặt hàng sau bị cấm nhập khẩu như kẹo cao su, bật lửa (có dạng hình súng ngắn và súng lục ổ quay), pháo và các loài động vật quý hiếm và các sản phẩm phụ. Những mặt hàng cần phải có giấy phép cụ thể bao gồm động vật; vũ khí và chất nổ; Chlorofluocarbon (CFCs); hoa quả tươi và ướp lạnh; mũ bảo hiểm; thịt và các sản phẩm từ thịt; phân hữu cơ; các xuất bản phẩm; băng video và cassetle đã thu thanh; gạo (ngoại trừ cám gạo); thiết bị viễn thông và phát xạ chẳng hạn như điện thoại vô tuyến, máy phát, máy thu và phát vô tuyến xách tay; dược phẩm và chất độc. Thuế hàng hoá và dịch vụ 3% đánh vào tất cả hàng hoá và dịch vụ ở Singapore và hàng hoá nhập khẩu vào trong nước. Giá trị đánh thuế đối với hàng nhập khẩu dựa trên giá CIF.
Yêu cầu ghi nhãn ở Singapore áp dụng đối với thực phẩm, ma tuý và rượu, sơn và chất dung môi. Các nhà sản xuất phải ghi rõ khối lượng, nước xuất xứ, tên và địa chỉ của nhà sản xuất.
2.2. Thực trạng quan hệ hợp tác đầu tư
Quan hệ đầu tư Việt Nam- Singapore được tiến hành từ đầu thập niên 90 của thế kỷ XX. Ngay sau khi chính phủ Singapore tuyên bố bãi bỏ lệnh cấm vận thương mại đối với Việt Nam vào cuối 1989, tháng 10/1990 công ty Kiều My Trading Pte.Ltd của Singapore đã trở thành doanh nghiệp ASEAN đầu tiên có giấy phép đầu tư tại Việt Nam.
Nếu năm 1995, Singapore mới chỉ có 116 dự án đầu tư vào Việt Nam với tổng vốn đầu tư là 1,5 tỷ USD thì đến năm 2000, số dự án của Singapore đầu tư vào Việt Nam đã tăng lên 255 dự án với tổng vốn đầu tư 6,839 tỷ USD. Singapore trở thành nước đứng thứ 1 trong khối ASEAN đầu tư vào Việt Nam và đứng thứ 4 trong top 10 nước đầu tư lớn nhất vào Việt Nam.
Tính đến hết năm 2003, Singapore là nhà đầu tư lớn nhất tại Việt Nam với với 289 dự án còn hiệu lực, vốn đăng ký 7,8 tỷ USD, trong đó vốn đầu tư thực hiện gần 3 tỷ USD.
Năm 2005, Singapore đã có 396 dự án đầu tư vào Việt Nam với số vốn đăng kí 7,6 tỷ USD, vốn thực hiện đạt 3,45 tỷ USD và trở thành nước đứng thứ 2 trong hơn 80 nước đầu tư vào Việt Nam.
Tính đến hết năm 2006, Singapore là nước đứng đầu trong số 65 nước và vùng lãnh thổ có vốn đầu tư vào Việt Nam với 402 dự án, tổng vốn đăng ký gần 7,7 tỷ USD. Các dự án đều tập trung vào các ngành như: kinh doanh bất động sản, khách sạn, văn phòng, căn hộ; thăm dò và khai thác dầu khí; sản xuất công nghiệp; chế biến nông, lâm, hải sản...
Theo công bố của Cục Đầu tư nước ngoài (thuộc Bộ Kế hoạch và Đầu tư), tính đến hết năm 2007 Singapore đã có 474 dự án đầu tư tại Việt Nam với tổng vốn đăng ký là 9,07 tỷ USD. Singapore đứng thứ 2 trong tổng số 78 quốc gia và vùng lãnh thổ đầu tư tại Việt Nam.
Tính đến tháng 7/2008, Singapore có 48 dự án được cấp phép đầu tư mới tại Việt Nam, với tổng vốn đăng ký trên 4 tỷ USD, trong đó có quy mô đầu tư lớn nhất là Dự án liên doanh viễn thông tại TP.HCM (vốn đăng ký 1,2 tỷ USD). Như vậy, tính đến nay, Singapore có hơn 580 dự án còn hiệu lực, với tổng vốn đăng ký gần 15 tỷ USD, đứng thứ 4 trong tổng số hơn 80 quốc gia và vùng lãnh thổ đang đầu tư tại Việt Nam.
Tính đến tháng 10/2008, Singapore đứng thứ 5 trong số các quốc gia và vùng lãnh thổ đầu tư lớn vào Việt Nam với mức đầu tư khoảng 15 tỷ USD.
Về lĩnh vực đầu tư
Các dự án đầu tư của Singapore tập trung chủ yếu vào lĩnh vực cơ sở hạ tầng, dịch vụ và kinh doanh bất động sản, được các chuyên gia kế hoạch và đầu tư đánh giá là đạt hiệu quả cao, đóng góp đáng kể vào việc giải quyết việc làm, phát triển xuất khẩu và tăng trưởng kinh tế Việt Nam.
Năm 2006, Singapore đầu tư vào lĩnh vực dịch vụ với 207 dự án và có tới hơn 5,5 tỷ USD chiếm khoảng 60,7% tổng số vốn đăng ký; lĩnh vực xây dựng và công nghiệp với 230 dự án và số vốn đăng ký khoảng 3,3 tỷ USD, chiếm khoảng 36,4% tổng vốn đăng ký.
Các dự án và doanh nghiệp đầu tư tiêu biểu của Singapore tại Việt Nam
Sức sống và mức độ gắn kết của các doanh nghiệp Singapore tại Việt Nam có thể được minh hoạ thông qua hình ảnh của các dự án hoạt động hiệu quả tại Việt Nam. Một trong số đó là Công ty Liên doanh Khu công nghiệp Việt Nam-Singapore. Đây là liên doanh giữa Công ty Thương mại và Đầu tư với Công ty Vietnam Singapore Industrial Park Pte., Ltd (VSIP) với tổng vốn đầu tư tính đến hết năm 2007 là trên 139,1 triệu USD, phía Việt Nam chiếm 49%, Singapore chiếm 51%. VSIP đã triển khai xong việc góp vốn đầu tư cho cả 2 giai đoạn với tổng diện tích khoảng 600 ha đất, đã lấp đầy khoảng 88%. ( Nguồn
Trong những ngày cuối năm 2007, VSIP đã triển khai kế hoạch mở rộng đầu tư tại một số tỉnh phía Bắc bằng lễ động thổ Dự án Khu đô thị, công nghiệp và dịch vụ Việt Nam – Singapore tại tỉnh Bắc Ninh. Với diện tích 700 ha, dự án thứ 3 này của VSIP sẽ dành 500 ha cho việc phát triển một khu công nghiệp sạch, có tiêu chuẩn môi trường và công nghệ sản xuất tiên tiến. 200ha còn lại bao gồm các dự án thương mại, khách sạn, siêu thị, nhà ở, căn hộ chất lượng cao. Hiện VSIP Bắc Ninh đã thu hút được 15 dự án đầu tư với tổng số vốn ước tính 200 triệu USD, cam kết thuê trên 120 ha. Ngày 11/12/2007, dưới sự chứng kiến của Phó thủ tướng Hoàng Trung Hải và Bộ trưởng cấp cao Chính phủ Singapore Goh Chok Tong, Công ty Cổ phần Phát triển đô thị và Khu công nghiệp Việt Nam - Singapore đã long trọng tổ chức lễ động thổ Dự án Khu đô thị, Công nghiệp và dịch vụ Việt Nam - Singapore (VSIP) tại tỉnh Bắc Ninh, trao giấy chứng nhận đầu tư cho 7 nhà đầu tư đầu tiên trong dự án.
Sau 2 dự án thành công tại Bình Dương, Phó thủ tướng Hoàng Trung Hải đánh giá, Khu công nghiệp VSIP Bắc Ninh là một minh chứng cho tình hữu nghị, sự hợp tác kinh tế bền chặt giữa Việt Nam và Singapore.
Một gương mặt khác trong ngành công nghiệp của Việt Nam là Công ty TNHH NATSTEELVINA. Đây là liên doanh giữa Tổng công ty Thép Việt Nam với hai công ty Natsteel Ltd. Singapore và Southern Steel Berhad – Malaysia, trong 30 năm tại thành phố Thái Nguyên, để sản xuất và kinh doanh sản phẩm thép. Tổng vốn đầu tư: 21,7 triệu USD. Hiện liên doanh đã góp vốn thực hiện là 12,1 triệu USD, có doanh thu từ 1995 với mức doanh thu bình quân mỗi năm khoảng 20-25 triệu USD và hoạt động có lãi liên tục từ năm 1997 đến nay. Công ty Cổ phần hữu hạn Vedan cũng là một điểm sáng trong hợp tác Việt Nam-Singapore. Đây là công ty 100% vốn của Công ty Burghley Enterprise Pte.Ltd.-Singapore (được chuyển nhượng từ Công ty Vedan trong tháng 9 năm 2002), để sản xuất bột ngọt với công suất thiết kế 5.500 tấn/tháng tại Đồng Nai.
Năm 2008, hai dự án tiêu biểu của Singapore đầu tư tại Đà Nẵng là Chi nhánh Công ty TNHH Nước ngọt Coca Cola Non Nước với tổng vốn đầu tư 25 triệu USD, dự án liên doanh Tanda Motor giữa Công ty Cơ khí ô-tô và Thiết bị điện Đà Nẵng (DAMACO) với 2 doanh nghiệp thuộc Tập đoàn Tan Chong tại Singapore và Malaysia (cấp phép ngày 19-7-2005). Tổng số vốn giai đoạn 1 của dự án là 4 triệu USD.
Công ty bất động sản Mapletree thuộc tập đoàn Temasek Holding của Singapore vừa ký một hiệp định đầu tư phát triển dự án khu thương mại 400 triệu USD tại Khu liên hợp- Công nghiệp- Dịch vụ- Đô thị Bình Dương hôm 14/10/2008. Dự án khu thương mại có quy mô 75 ha thuộc tỉnh Bình Dương, Việt Nam với số vốn đầu tư 400 triệu USD. Đây là khu phức hợp công nghệ sản xuất, kinh doanh đầu tiên của Mapletree tại Việt Nam, nhằm phục vụ cho các công ty trong lĩnh vực phát triển phần mềm công nghệ cao, gia công phần mềm, nghiên cứu và phát triển sản phẩm và sản xuất hàng hoá có giá trị gia tăng.
Dự án sẽ được đầu tư xây dựng thành nhiều giai đoạn, giai đoạn 1 bắt đầu từ năm 2009. Với dự án này, Mapletree đã nâng tổng số vốn đầu tư vào Việt Nam lên con số 700 triệu USD.
Đây là dự án khu công nghiệp vận tải thứ 2 mà Mapletree đầu tư vào Việt Nam, khu thứ nhất nằm ở khu công nghiệp Việt Nam – Singapore I (VSIP I), mở cửa tháng 1/2007. Khu vận tải thứ 2 này được xây dựng tại VSIP II, trị giá 110 triệu USD, đáp ứng khoảng 420.000m2 mặt bằng kho chứa cho thuê.
Bên cạnh đó, Mapletree đã khánh thành kho vận 68 ha nằm trong Khu công nghiệp Việt Nam-Singapore II, có vốn đầu tư 110 triệu USD.
Mới đây, TP.HCM đã chào mời khoảng 27 dự án đầu tư bất động sản lớn dưới nhiều loại hình và quy mô khác nhau, như Dự án Khu Tây Bắc TP.HCM; Dự án Trường học quốc tế Fosco và Dự án Khu công nghệ cao Sài Gòn; Dự án Bãi đậu xe ngầm, khu vui chơi giải trí và khu động vật hoang dã Safari... Đặc biệt, Dự án Trung tâm đô thị mới Thủ Thiêm, với diện tích trên 6,2 triệu m2 và nhiều hạng mục đầu tư, như khu dân cư, khu thương mại, sân vận động, giải trí..., được xem là tâm điểm chú ý của các nhà đầu tư Singapore. Dự án chính như dự án xây văn phòng, căn hộ tại Hồ Chí Minh của tập đoàn TA Associates International, trị giá 1,2 tỷ USD, cấp phép mới đây nhất 11/6/2008; Dự án xây dựng khu đô thị mới ở Đồng Nai 750 triệu USD do Công ty Water Front đầu tư.
Một loạt các dự án xây khách sạn, văn phòng, căn hộ có trị giá trên 200 triệu USD như Công ty Lap An Development Pte, Singapore xây khách sạn ở Thừa Thiên Huế 298 triệu USD, Công ty C.R.D.Pte.Ltd, Singapore xây khách sạ._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 22684.doc