Tài liệu Quan hệ kinh tế thương mại Việt Nam - Hàn Quốc, thực trạng, triển vọng và giải pháp: ... Ebook Quan hệ kinh tế thương mại Việt Nam - Hàn Quốc, thực trạng, triển vọng và giải pháp
129 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1598 | Lượt tải: 1
Tóm tắt tài liệu Quan hệ kinh tế thương mại Việt Nam - Hàn Quốc, thực trạng, triển vọng và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU
Kể từ sau đổi mới kinh tế đến nay, Đảng và nhà nước ta luôn quan tâm đến việc mở rộng mối quan hệ nhiều mặt với các quốc gia, các khu vực trên thế giới khi xu thế hội nhập và toàn cầu hóa đang trở thành xu thế tất yếu của thời đại. So với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới, quan hệ Việt Nam – Hàn Quốc phát triển nhanh hơn và trên nhiều lĩnh vực khác nhau do có được sự quan tâm đặc biệt của Chính phủ hai nước. Kể từ khi hai nước thiết lập quan hệ ngoại giao chính thức năm 1992 đến nay, trải qua hơn một thập kỷ phát triển, mối quan hệ kinh tế giữa hai nước đã có những bước phát triển đáng tự hào, Hàn Quốc hiện đang đứng thứ 5 trong tổng số trên 100 nước có quan hệ buôn bán với Việt Nam và là nước đầu tư lớn thứ nhất vào Việt Nam.Nhưng bên cạnh đó vẫn còn nhiều tồn tại trong quan hệ kinh tế giữa hai nước hiện nay đó là sự mất cân đối quá lớn trong cán cân thương mại giữa hai nước, Việt Nam luôn bị nhập siêu và mức nhập siêu có xu hướng ngày càng tăng. Mặt khác, Việt Nam đã thu hút được lượng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài khá lớn từ Hàn Quốc, mà lĩnh vực đầu tư chủ yếu là: nhà ở, xây dựng khu đô thị, khách sạn, chung cư. Trong khi đó, lĩnh vực sản xuất công nghệ cao còn chiếm tỷ tọng nhỏ trong cơ cấu đầu tư, hơn nữa lượng vốn đầu tư còn chưa tương xứng với tiềm năng và mối quan hệ giữa hai nước, nhất là trong bối cảnh Việt Nam đã gia nhập tổ chức thương mại thế giới WTO.
Xuất phát từ đòi hỏi trên, nhóm tác giả đã bắt tay vào nghiên cứu đề tài “ Quan hệ kinh tế thương mại Việt Nam- Hàn Quốc, thực trạng, triển vọng và giải pháp” với hi vọng góp một phần nhỏ bé vào việc thúc đẩy mối quan hệ kinh tế giữa hai nước ngày càng trở nên phát triển hơn, đặc biệt sau khi Việt Nam đã gia nhập WTO.
Mục tiêu của đề tài là: Đi sâu vào phân tích thực trạng mối quan hệ kinh tế thương mại giữa hai nước Việt Nam- Hàn Quốc, những khó khăn còn tồn tại, triển vọng phát triển mối quan hệ từ đó đề ra giải pháp nhằm nâng mối quan hệ kinh tế giữa hai nước lên một tầm cao mới. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu của đề tài là: Nghiên cứu mối quan hệ kinh tế giữa hai nước, trên cơ sở của việc phân tích thực trạng mối quan hệ hợp tác về thương mại và đầu tư giữa hai nước. Trong đó chuyên đề chỉ tập trung vào các quan hệ xuất nhập khẩu giữa Việt Nam và Hàn Quốc và FDI của Hàn Quốc vào Việt Nam. Ngoài phần mở đầu và kết luận đề tài được kết cấu qua 3 phần chính:
Chương I : CƠ SỞ LÝ LUẬN CHUNG VỀ HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ VÀ TÁC ĐỘNG CỦA VIỆC HỘI NHẬP TỚI QUAN HỆ KINH TẾ VIỆT NAM- HÀN QUỐC
Chương II: THỰC TRẠNG QUAN HỆ KINH TẾ THƯƠNG MẠI
VIỆT NAM- HÀN QUỐC TỪ 1992 ĐẾN NAY.
Chương III: TRIỂN VỌNG VÀ GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG HỢP TÁC KINH TẾ THƯƠNG MẠI GIỮA VIỆT NAM – HÀN QUỐC
Em xin chân thành cảm ơn GS.TS Đỗ Đức Bình và Ông Nguyễn Đăng Hùng- Phó Vụ trưởng Vụ Hợp tác Kinh tế Đa phương, Bộ Ngoại giao đã tận tình hướng dẫn và giúp đỡ em hoàn thành chuyên đề thực tập này. Chuyên đề này mới là bước đầu em làm quen với công tác nghiên cứu, do đó không thể tránh khỏi những thiếu sót trong việc triển khai đề tài. Em mong nhận được sự thông cảm của quý Thầy Cô và các bạn sinh viên.
MỤC LỤC
Danh mục các bảng
Bảng 2.1: Kim ngạch xuất nhập khẩu Việt Nam – Hàn Quốc
giai đoạn 1983-1992
34
Bảng 2.2: Kim ngạch xuất nhập khẩu Việt Nam- Hàn Quốc
Giai đoạn 1993-2006
37
Bảng 2.3: Kim ngạch Xuất khẩu của Việt Nam sang Hàn Quốc giai đoạn 1993-2006
39
Bảng 2.4: Mười thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam
41
Bảng 2.5 : Hàng xuất khẩu chính của Việt Nam sang Hàn Quốc
42
Bảng 2.6 : Kim ngạch nhập khẩu của Việt Nam từ Hàn Quốc giai đoạn 1993-2006
44
Bảng 2.7: Các mặt hàng nhập khẩu chính của Việt Nam từ Hàn Quốc
46
Bảng 2.8 : Top mười đối tác có tổng vốn đầu tư cao nhất
55
Bảng 2.9 : Tình hình đầu tư trực tiếp nước ngoài của Hàn Quốc tại
Việt Nam( 1991-2006)
56
Bảng 2.10:Một số dự án đầu tư lớn của Hàn Quốc tại Việt Nam trước đây
58
Bảng 2.11: Một số dự án hàng đầu của Hàn Quốc tại Việt Nam hiệnnay
60
Bảng 2.12: Đầu tư FDI của Hàn Quốc vào các địa phương trong cả nước 2006
64
Danh mục các biểu đồ
Biểu đồ 2.1 : Kim ngạch xuất nhập khẩu Việt Nam- Hàn Quốc
giai đoạn 1983-1992.
35
Biểu đồ 2.2: Kim ngạch ngoại thương Việt Nam- Hàn Quốc
giai đoạn 1993-2006.
38
Biểu đồ 2.3: Kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang
Hàn Quốc giai đoạn 1993-2006
40
Biểu đồ 2.4: Kim ngạch nhập khẩu của Việt Nam từ Hàn Quốc
giai đoạn 1993-2006
45
Biểu đồ 2.5: Thể hiện tỷ lệ vốn đầu tư của Hàn Quốc trong tổng số vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam năm 2006
55
Biểu đồ 2.6: Tỷ lệ tăng của vốn đầu tư nước ngoài từ Hàn Quốc vào Việt Nam giai đoạn 1996-2006
57
Biểu đồ 2.7: Cơ cấu đầu tư của Hàn Quốc vào Việt Nam theo ngành kinh tế
62
Biểu đồ 2.8: Các lĩnh vực đầu tư chủ yếu của Hàn Quốc vào Việt Nam năm 2006
62
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
CÁC TỪ VIẾT TẮT
NGHĨA CỦA TỪ
NGHĨA TIẾNG ANH
NGHĨA TIẾNG VIỆT
ASEAN
Association of Southeast Asia Nations
Hiệp hội các Quốc gia Đông Nam Á
AFTA
ASEAN Free Trade Area
Khu vực Mậu dịch Tự do ASEAN
DOC
Department commerce
Bộ thương mại Hàn Quốc
DSM
Dispute Settlement Measures
Cơ chế giải quyết tranh chấp
EP
Export price
Giá xuất khẩu
IMF
International Monetary Fund
Quỹ Tiền tệ Quốc tế
ITC
International Trade Committee
Ủy ban Thương mại Quốc tế
MOT
Ministry Of Trade
Bộ Thương mại Việt Nam
UN
United Nations
Liên Hợp Quốc
USD
United States Dollar
Đô la Mỹ
VIETRADE
Viet Nam Trade Promote
Cơ quan Xúc tiến Thương mại
Việt Nam
WTO
World Trade Organization
Tổ chức Thương mại Thế giới
WB
World Bank
Ngân hàng thế giới
ADB
Asian Development Bank
Ngân hàng phát triển châu Á
KOTRA
Korea Trade- Investment Promotion Agency
Phòng xúc tiến thương mại và đầu tư Hàn Quốc
JETRO
Japan Extenal Trade Organization
Tổ chức xúc tiến thương mại
Nhật Bản
CHƯƠNG I
CƠ SỞ LÝ LUẬN CHUNG VỀ HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ VÀ TÁC ĐỘNG CỦA VIỆC HỘI NHẬP TỚI QUAN HỆ KINH TẾ
VIỆT NAM- HÀN QUỐC
1.1 - Hội nhập kinh tế - khái niệm và bản chất
1.1.1. Hội nhập kinh tế - vấn đề mang tính khách quan của các nền kinh tế hiện nay
Hội nhập kinh tế quốc tế là một quá trình phát triển tất yếu của nền kinh tế thế giới, từ thấp đến cao, từ quy mô hẹp đến quy mô ngày càng rộng lớn hơn, đặc biệt là trong điều kiện hiện nay, khi quá trình toàn cầu hóa, khu vực hóa và quốc tế hóa đang diễn ra hết sức nhanh chóng dưới sự tác động mạnh mẽ của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ. Trước đây, tính chất xã hội hóa của quá trình sản xuất chủ yếu mới lan tỏa bên trong phạm vi biên giới của từng quốc gia, nó gắn các quá trình sản xuất, kinh doanh riêng rẽ lại với nhau, hình thành các tập đoàn kinh tế quốc gia và làm xuất hiện phổ biến các loại hình công ty cổ phần trong nền kinh tế quốc gia. Qua đó quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất đã có sự thay đổi đáng kể, dần hình thành nên sở hữu hỗn hợp. Từ đó, việc đáp ứng yêu cầu về quy mô vốn lớn cho sản xuất kinh doanh ngày càng thuận lợi hơn. Tình hình này càng đòi hỏi sự tham gia ngày càng lớn của chính phủ các quốc gia có nền kinh tế phát triển. Bởi lẽ, các quốc gia này là những quốc gia có thế mạnh về vốn, công nghệ, trình độ quản lý... Ngày nay, một mặt do trình độ phát triển cao của lực lượng sản xuất làm cho tính chất xã hội hóa của chính nó càng vượt ra khỏi phạm vi biên giới quốc gia, lan tỏa sang các quốc gia khu vực và thế giới nói chung. Mặt khác, tự do hóa thương mại cũng đang trở thành xu hướng tất yếu, được xem là nhân tố quan trọng thúc đẩy buôn bán giao lưu giữa các quốc gia, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và nâng cao mức sống của mọi quốc gia. Chính vì vậy, hầu hết các quốc gia trên thế giới theo định hướng phát triển của mình đều điều chỉnh các chính sách theo hướng mở cửa, giảm và tiến tới dỡ bỏ các rào cản thương mại, tạo điều kiện cho việc lưu chuyển các nguồn lực và hàng hóa tiêu dùng giữa các quốc gia ngày càng thuận lợi hơn, thông thoáng hơn. Không ngừng đẩy mạnh trao đổi hàng hóa và dịch vụ, mở rộng sự phân công và hợp tác quốc tế trên các lĩnh vực kinh tế, khoa học kỹ thuật... là một nhu cầu không thể thiếu được của đời sống kinh tế và là một tất yếu khách quan của thời đại, dù đó là nước lớn hay nhỏ, nước công nghiệp phát triển hay kém phát triển, nước tư bản chủ nghĩa hay xã hội chủ nghĩa.
Mỗi quốc gia trong quá trình hội nhập để phát triển, trong bối cảnh cạnh tranh gay gắt đều phải chú ý đến các quan hệ trong và ngoài khu vực. Về lâu dài cũng như trước mắt, việc giải quyết các vấn đề của quốc gia đều phải tính đến và cân nhắc với xu hướng hội nhập toàn cầu để đảm bảo được lợi ích phát triển tối ưu của quốc gia. Việt Nam cũng không thể nằm ngoài quá trình này. Trong điều kiện hội nhập, các quốc gia dù giàu có hoặc phát triển đến đâu cũng không thể tự mình đáp ứng được tất cả các nhu cầu của chính mình. Trình độ phát triển càng cao càng phụ thuộc với mức độ nhiều hơn vào thị trường thế giới. Đó là một vấn đề có tính quy luật. Những quốc gia chậm trễ trong hội nhập kinh tế quốc tế thường phải trả giá bằng chính sự tụt hậu của mình, ngược lại những nước vội vã không phát huy nội lực, không chủ động hội nhập cũng đã bị trả giá. Bởi vậy, để hội nhập có hiệu quả, cần phải có quan điểm nhận thức đúng đắn, nhất quán, cơ chế chính sách thích hợp, tận dụng tốt cơ hội, không bỏ lỡ thời cơ, giảm thách thức, hạn chế rủi ro trong quá trình tiến lên của mình.
1.1.2. Khái niệm
Hội nhập kinh tế quốc tế là một thuật ngữ đã xuất hiện trong vài thập kỷ gần đây. Nhưng cho đến nay vẫn đang tồn tại các cách hiểu khác nhau về hội nhập kinh tế quốc tế. Có loại ý kiến cho rằng: hội nhập kinh tế quốc tế là sự phản ánh quá trình các thể chế quốc gia tiến hành xây dựng, thương lượng, ký kết và tuân thủ các cam kết song phương, đa phương và toàn cầu ngày càng đa dạng hơn, cao hơn và đồng bộ hơn trong các lĩnh vực đời sống kinh tế quốc gia và quốc tế. Loại ý kiến khác lại cho rằng hội nhập kinh tế quốc tế là quá trình loại bỏ dần các hàng rào thương mại quốc tế, thanh toán quốc tế và di chuyển các nhân tố sản xuất giữa các nước.
Mặc dù còn có những quan niệm khác nhau, nhưng hiện nay khái niệm tương đối phổ biến được nhiều nước chấp nhận về hội nhập như sau: Hội nhập kinh tế quốc tế là sự gắn kết nền kinh tế của mỗi quốc gia vào các tổ chức hợp tác kinh tế khu vực và toàn cầu, trong đó mối quan hệ giữa các nước thành viên có sự ràng buộc theo những quy định chung của khối. Nói một cách khái quát nhất, hội nhập kinh tế quốc tế là quá trình các quốc gia thực hiện mô hình kinh tế mở, tự nguyện tham gia vào các định chế kinh tế và tài chính quốc tế, thực hiện thuận lợi hóa và tự do hóa thương mại, đầu tư và các hoạt động kinh tế đối ngoại khác.
*Hội nhập kinh tế quốc tế nhằm giải quyết 6 vấn đề chủ yếu:
Đàm phán cắt giảm thuế quan;
Giảm, loại bỏ hàng rào phi thuế quan;
Giảm bớt các hạn chế đối với dịch vụ;
Giảm bớt các trở ngại đối với đầu tư quốc tế;
Điều chỉnh các chính sách thương mại khác;
Triển khai các hoạt động văn hóa, giáo dục, y tế... có tính chất toàn cầu.
1.1.3. Bản chất của hội nhập kinh tế quốc tế
Hội nhập là kết quả chính trị có chủ đích rõ ràng nhằm hình thành một tập hợp khu vực để thúc đẩy sản xuất, mở rộng thị trường cho sản phẩm dịch vụ nước mình. Do đó Hội nhập là hoạt động chủ quan của con người, ở đây là các chính phủ, nhằm lợi dụng sức mạnh của thời đại để tăng cường sức mạnh dân tộc mình. Hội nhập quốc tế trước kia cũng như hiện nay cùng có mục đích giống nhau là lợi dụng đến mức tối đa sự hợp tác quốc tế để tăng cường sức mạnh dân tộc. Hội nhập quốc tế ngày nay với toàn cầu hoá tuy là hai quá trình khác nhau vì hội nhập quốc tế là hành động chủ quan còn toàn cầu hoá là hiện tượng khách quan nhưng chúng có mối quan hệ thân thiết và phụ thuộc lẫn nhau. Do vậy, khi tham gia vào hội nhập kinh tế quốc tế cần phải có những bước đi cụ thể được tính toán cẩn thận, phải xây dựng lộ trình hội nhập phù hợp với khả năng và lợi ích của dân tộc. Hội nhập giúp chúng ta tìm được chỗ thích hợp nhất trong con tàu toàn cầu hoá, nhưng mặt khác toàn cầu hoá lại chỉ là con tàu chỉ chạy một chiều và không đậu lại ở một bến nào cả, nên muốn không bị nhỡ hoặc bị văng va khỏi con tàu này, tức là tụt hậu thì quá trình hội nhập nói chung và hội nhập kinh tế quốc tế nói riêng cũng phải khẩn trương và có những quyết định mạnh dạn.
Về bản chất, hội nhập kinh tế quốc tế được thể hiện chủ yếu ở một số mặt sau đây:
Hội nhập kinh tế quốc tế là sự đan xen, gắn bó và phụ thuộc lẫn nhau giữa các nền kinh tế quốc gia với nhau và với nền kinh tế thế giới. Nó vừa là quá trình hợp tác cùng phát triển, vừa là quá trình đấu tranh rất phức tạp, đặc biệt là đấu tranh của các nước đang phát triển để bảo vệ lợi ích của mình vì một trật tự công bằng, chống lại những áp đặt phi lý của các cường quốc kinh tế và các công ty xuyên quốc gia;
Hội nhập kinh tế quốc tế là quá trình xóa bỏ từng bước và từng phần các rào cản về thương mại và đầu tư giữa các quốc gia theo hướng tự do hóa kinh tế;
Hội nhập kinh tế quốc tế một mặt tạo điều kiện thuận lợi mới cho các doanh nghiệp trong sản xuất kinh doanh, mặt khác buộc các doanh nghiệp phải có những đổi mới để nâng cao sức cạnh tranh trên thương trường;
Hội nhập kinh tế quốc tế tạo thuận lợi cho việc thực hiện các công cuộc cải cách ở các quốc gia nhưng đồng thời cũng là yêu cầu, sức ép đối với mỗi nước trong việc đổi mới và hoàn thiện thể chế kinh tế, đặc biệt là các chính sách và phương thức quản lý vĩ mô.
Hội nhập kinh tế quốc tế chính là sự tạo dựng các nhân tố và điều kiện mới cho sự phát triển của từng quốc gia và cộng đồng quốc tế trên cơ sở trình độ phát triển ngày càng cao và hiện đại của lực lượng sản xuất.
Hội nhập kinh tế quốc tế chính là sự khơi thông các dòng chảy nguồn lực trong và ngoài nước, tạo điều kiện mở rộng thị trường, chuyển giao công nghệ và các kinh nghiệm quản lý.
1.2 Nội dung của các quan hệ kinh tế quốc tế( đặc biệt là quan hệ thương mại và đầu tư)
1.2.1 Quan hệ hợp tác về thương mại
1.2.1.1 Khái niệm về thương mại quốc tế
Thương mại quốc tế là việc trao đổi hàng hoá dịch vụ giữa các chủ thể có quốc tịch khác nhau (trong đó đối tượng trao đổi thường là vượt qua ngoài phạm vi địa lý của một quốc gia) thông qua hoạt động mua bán, lấy tiền làm môi gới. Đây là một trong những hình thức chủ yếu của hoạt động kinh doanh quốc tế.
Trong thập kỷ vừa qua, thương mại đóng vai trò ngày càng tăng đối với phần lớn các nền kinh tế thế giới. Một chỉ số để đánh giá tầm quan trọng của thương mại đối với một quốc gia là xem xét tương quan giữa quy mô thương mại của mỗi nước đối với tổng sản lượng của nước đó. Có những nước trên thế giới, chẳng hạn như Singapore, chỉ số này lớn hơn 100% (tức là giá trị thương mại của nước đó đã vượt quá giá trị hàng hoá và dịch vụ sản xuất ra).
1.2.1.2 Đặc điểm của thương mại quốc tế
Một là, hoạt động thương mại quốc tế diễn ra trên thị trường thế giới, có thể là thị trường toàn thế giới, thị trường khu vực hay thị trường của nước xuất khẩu hoặc nước nhập khẩu. ở đó diễn ra các hoạt động mua bán hàng hoá của các bên tham gia trao đổi.
Hai là, các bên tham gia thương mại quốc tế là những người khác quốc gia, có thể là các doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp tập thể hoặc tư nhân. Mục đích tham gia buôn bán quốc tế của họ là có lợi trong việc trao đổi. Cái lợi trong việc buôn bán quốc tế tư nhân là lợi nhuận có được do việc mua rẻ và bán đắt.
Ba là, hàng hoá trao đổi trong thương mại quốc tế là hàng hoá vật chất, hàng hoá dịch vụ… Trao đổi quốc tế về hàng hoá vật chất gọi là thương mại hàng hoá quốc tế, ở phạm vi một quốc gia gọi là ngoại thương. Hàng hoá vật chất là những hàng hóa tồn tại dưới dạng vật chất, định lượng được, dự trữ được như hàng hoá lương thực thực phẩm và phi lương thực thực phẩm. Trong trao đổi, người mua và người bán mua bán với nhau quyền sở hữu và sử dụng hàng hoá. Do có sự cách biệt về địa lý, hàng hoá vật chất có sự di chuyển qua biên giới từ nước xuất khẩu sang nước nhập khẩu. Cùng với các nghiệp vụ mua, bán hàng hoá có cả dịch vụ kèm theo như: vận chuyển, bảo quản, bảo hành, bảo hiểm, thanh toán quốc tế…
Trao đổi quốc tế về hàng hoá và dịch vụ gọi là thương mại dịch vụ quốc tế, ở phạm vi một quốc gia gọi là dịch vụ thu ngoại tệ. Hàng hoá dịch vụ là những hàng hoá tồn tại dưới dạng phi vật chất, khó định lượng được, không dự trữ được. Quá trình cung cấp diễn ra đồng thời với quá trình tiêu thụ (sử dụng) hàng hoá dịch vụ. Trong trao đổi người bán (người cung cấp dịch vụ) và người mua (người nhận dịch vụ) mua bán với nhau về quyền sử dụng hàng hoá dịch vụ. Do sự cách biệt về địa lý giữa người cung cấp và người nhận dịch vụ, hàng hoá dịch vụ có thể di chuyển hoặc không di chuyển qua biên giới.
Bốn là, phương tiện thanh toán trong thương mại quốc tế giữa người mua và người bán là đồng tiền có khả năng chuyển đổi.
Những đặc điểm phát triển thương mại quốc tế hiện nay:
Một là, thương mại quốc tế đang phát triển với quy mô lớn, tốc độ tăng nhanh. Năm 2000, tốc độ tăng trưởng thương mại quốc tế đạt 10%, cao hơn 2 lần so với 4,3% năm 1999 và hơn 2,5 lần so với mức 3,8% năm 1998. Những năm gần đây, sản xuất quốc tế mở rộng mạnh mẽ là do các liên kết kinh tế quốc tế được tăng cường trên khắp các châu lục. Sự phát triển liên kết kinh tế quốc tế đã giúp thương mại hàng hoá quốc tế tăng nhanh. Trao đổi hàng hoá quốc tế ngày càng thuận lợi nhờ phương tiện thông tin và giao thông vận tải phát triển. Điều kiện buôn bán quốc tế ngày càng thông thoáng do các nước áp dụng các biện pháp giảm dần thuế qua và bớt dần hàng rào phi thuế quan.
Hai là, các hình thức thương mại đa dạng. Những năm gần đây, thương mại quốc tế phát triển đa dạng về hình thức, như: thương mại hàng hoá, thương mại dịch vụ và thương mại các yếu tố sản xuất (vốn, sức lao động, khoa học công nghệ). Sự phát triển của thương mại quốc tế với đặc điểm nổi bật là sự gia tăng thương mại phi hàng hoá nhanh hơn sự gia tăng thương mại hàng hoá. Sự phát triển đa dạng của thương mại quốc tế đánh dấu bước phát triển mới trong trao đổi và phân công lao động quốc tế ở tầm cao không chỉ dừng ở mức thông qua thị trường quốc tế đơn phương mà đã tiến đến sự hợp tác song phương, đa phương, hợp tác khu vực trên các lĩnh vực trao đổi hàng hóa, dịch vụ, đầu tư, khoa học công nghệ… Sự phát triển nhanh chóng của thương mại phi hàng hoá phản ánh đặc điểm sản xuất quốc tế hiện nay với sự phát triển nhanh chóng của khoa học công nghệ thoả mãn nhu cầu tiêu dùng giữa các quốc gia không chỉ bằng những hàng hoá vật chất mà còn cả những hàng hoá phi vật chất. Tốc độ gia tăng nhanh chóng của thương mại phi hàng hoá tạo ra nguồn thu ngoại tệ lớn cho các nước đặc biệt là đối với các nước phát triển. Nếu thế kỷ XIX, xuất khẩu hàng hoá chiếm vị trí bao trùm thì trong thế kỷ XX, xuất khẩu tư bản ngày càng nổi trội: tổng số vốn đầu tư ra nước ngoài tăng nhanh. Năm 1990, đầu tư quốc tế trực tiếp (FDI) đạt 151 tỷ USD, năm 1999 đạt 865 tỷ USD.
Ba là, thương mại quốc tế phát triển lôi cuốn tất cả các quốc gia đều tham gia, nhưng cũng tập trung chủ yếu vào các nước công nghiệp phát triển. Những thập kỷ gần đây, trong xu thế phát triển của kinh tế thế giới - toàn cầu hoá và "mở cửa kinh tế" quốc gia, các nước trên thế giới không thể phát triển kinh tế riêng rẽ được, phải có hoạt động kinh tế với nước ngoài. Phát triển thương mại quốc tế là một trong những định hướng kinh tế được các nước lựa chọn. Ngày nay, tất cả các nước đều có thương mại quốc tế, song thương mại quốc tế phát triển chủ yếu tập trung ở các nước công nghiệp phát triển. Hai vấn đề này phản ánh lực lượng sản xuất của thế giới phát triển đáng kể và tiềm lực kinh tế của các nước công nghiệp ngày một tăng, ưu thế ngày càng lớn.
Bốn là, các trung tâm thương mại quốc tế đã và đang hình thành. Trên thế giới có 3 trung tâm kinh tế lớn là Mỹ - Canada, Tây Âu và Đông Bắc á, ngoài ra còn các khối, ASEAN, Trung Mỹ, Tây Phi… đã và đang hình thành. Nhìn chung, các trung tâm, từng khối kinh tế đang và ngày càng hoàn thiện, tận dụng các mối quan hệ thuận lợi của nhau về địa lý, tính văn hoá dân tộc, về lợi ích, khắc phục các mâu thuẫn, bất đồng, tăng cường đoàn kết, nhằm phát triển kinh tế và thương mại, mở rộng quan hệ kinh tế với các trung tâm, các khối bên ngoài để cùng phát triển.
1.2.1.3 Vai trò của thương mại quốc tế đối với sự phát triển kinh tế
- Thương mại quốc tế có vai trò rất quan trọng trong phát triển và tăng trưởng kinh tế. Xuất nhập khẩu có mối quan hệ nhân quả tới tăng trưởng kinh tế. (1), (2), (3), (4) Giáo trình kinh tế phát triển, trang 303, 305. Mối quan hệ này được thể hiện ở các khía cạnh: Xuất khẩu cho phép khai thác được các lợi thế so sánh, hiệu quả kinh tế theo qui mô, thực hiện chuyên môn hoá sản xuất; nhập khẩu bổ sung được hàng hoá, dịch vụ khan hiếm cho sản xuất và tiêu dùng; xuất nhập khẩu còn tạo ra các tác động ngoại ứng như: thúc đẩy trao đổi thông tin, dịch vụ, tăng cường kiến thức marketing cho các doanh nghiệp nội địa và lôi kéo họ vào mạng lưới phân phối toàn cầu. Tất cả các yếu tố này sẽ đẩy mạnh tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế.
- Trong hoạt động kinh tế đối ngoại, thương mại quốc tế giữ vị trí quan trọng, nó tạo điều kiện phát huy được lợi thế của từng nước trên thị trường quốc tế. Kết quả hoạt động thương mại quốc tế của một nước được đánh giá qua cân đối thu chi ngoại tệ dưới hình thức “cán cân thanh toán xuất nhập khẩu”, kết quả này sẽ làm tăng hoặc giảm thu nhập của đất nước, do đó mà nó tác động đến tổng cầu của nền kinh tế. Khi cán cân thanh toán có mức xuất siêu sẽ làm cho mức chi tiêu giảm, từ đó mà tác động đến GDP.
- Thông qua hoạt động xuất khẩu sẽ thu được nguồn ngoại tệ cho nước chủ nhà. Mặt khác là cơ sở để thu hút nguồn vốn đầu tư của các nước trên thế giới. Nhập khẩu sẽ giúp các nước thực hiện quá trình công nghiệp hoá, thông qua việc nhập khẩu các trang thiết bị kỹ thuật, khoa học công nghệ... sẽ thúc đảy sản xuất,thay đổi cơ cấu sản phẩm và nâng cao hiệu quả của sản xuất, trên cở sở đó thúc đẩy quá trình công nghiệp hoá- hiện đại hoá (CNH – HĐH) đất nước.
- Thông qua hoạt động thương mại quốc tế sẽ giúp các nước sử dụng hiệu quả các lợi thế của mình: nguồn lao động dồi dào, nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú... đồng thời giúp các nước nâng cao được trình độ của người lao động và cải thiện được đời sống của người lao động.
1.2.2 Quan hệ hợp tác về đầu tư( đặc biệt là FDI)
1.2.2.1 Khái niệm đầu tư trực tiếp nước ngoài:
Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) là một trong những loại hình phát triển nhất của đầu tư nước ngoài, gia tăng nhanh chóng và chiếm vị trí ngày càng cao trong lưu chuyển vốn quốc tế. FDI mang lại lợi ích cho cả nước đi đầu tư và nước nhận đầu tư. Chính vì thế xuất phát từ nhiều khía cạnh, góc độ, quan điểm khác nhau trên thế giới đã có nhiều khái niệm khác nhau về đầu tư trực tiếp nước ngoài .
Theo quỹ tiền tệ quốc tế (IMF) {1997}:
“Đầu tư trực tiếp ám chỉ số đầu tư được thực hiện để thu lợi ích lâu dài cho một hãng hoạt động ở một nền kinh tế khác với nền kinh tế của nhà đầu tư, mục đích của nhà đầu tư là dành được tiếng nói có hiệu quả trong công việc quản lí đó”.Ở Việt Nam cũng có nhiều định nghĩa khác nhau về FDI. Theo luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam sửa đổi, ban hành ngày 12/11/1996 tại điều 2 chương I:
“Đầu tư trực tiếp nước ngoài là việc nhà đầu tư trực tiếp nước ngoài đưa vào Việt Nam vốn bằng tiền hoặc bất kì tài sản nào để tiến hành hoạtđộng đầu tư theo quy định của luật này”.
Bộ luật tự do hoá chu chuyển vốn do tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế (OECD) ban hành thì lại nhấn mạnh về mục tiêu của FDI theo đó “ FDI được hiểu là các loại đầu tư nhằm tạo ra quan hệ kinh tế lâu dài với một doanh nghiệp ”.
Xét dưới góc độ vốn đầu tư, FDI lại được nhận xét là “ một loại hình di chuyển vốn quốc tế, trong đó người chủ sở hữu vốn đồng thời là người trực tiếp quản lý và điều hành hoạt động sử dụng vốn. Cũng có ý kiến khác nhau cho rằng “đầu tư trực tiếp nước ngoài là hình thức đầu tư quốc tế mà chủ đầu tư nước ngoài đóng góp một số vốn đủ lớn vào lĩnh vực sản xuất hoặc dịch vụ, cho phép họ trực tiếp tham gia điều hành đối tượng mà họ bỏ vốn đầu tư”. Có thể nói mỗi nhà kinh tế định nghĩa về FDI theo một cách khác nhau tuỳ theo khía cạnh mà họ tiếp xúc.
Như vậy, mặc dù có nhiều quan điểm khác nhau khi đưa ra khái niệm về FDI, song từ những khái niệm trên có thể đưa ra một khái niệm tổng quát nhất, đó là:
“Đầu tư trực tiếp nước ngoài là hình thức mà nhà đầu tư bỏ vốn để tạo lập cơ sở sản xuất kinh doanh ở nước tiếp nhận đầu tư. Trong đó, nhà đầu tư nước ngoài có thể thiết lập quyền sở hữu từng phần hay toàn bộ vốn đầu tư và giữ quyền quản lí, điều hành trực tiếp đối tượng mà họ bỏ vốn nhằm mục đích thu được lợi nhuận từ các hoạt động đầu tư đó trên cơ sở tuân theo quy định của luật đầu tư nước ngoài của nước sở tại.
1.2.2.2 Vai trò của đầu tư trực tiếp nước ngoài
Đối với nước đi đầu tư:
Xây dựng được thị trường cung cấp nguyên nhiên liệu và tiêu thụ hàng hoá ổn định.
Thu được lợi nhuận cao nhờ sử dụng nguồn tài nguyên thiên nhiên và nhân công rẻ của nước nhận đầu tư.
Tăng khả năng cạnh tranh, tránh được hàng rào thuế quan của nước nhận đầu tư do xây dựng được các doanh nghiệp nằm ngay trong lòng các nước sở tại.
Tạo điều kiện mở rộng, bành trướng và gây ảnh hưởng cả về chính trị và kinh tế đối với nước tiếp nhận đầu tư.
Xuất khẩu được những công nghệ đã lạc hậu so với nước đầu tư.
Có khả năng trực tiếp kiểm soát hoạt động của doanh nghiệp và đưa ra những quyết định có lợi nhất cho họ. Do vậy, vốn đầu tư được sử dụng với hiệu quả cao.
Đối với nước nhận đầu tư:
Đầu tư nước ngoài đã tạo một nguồn vốn bổ sung to lớn cho phát triển sản xuất, tiếp thu khoa học công nghệ tiên tiến, mở rộng thị trường trong và ngoài nước cũng như nâng cao trình độ quản lí kinh tế.
Các nước tiếp nhận vốn đầu tư, đặc biệt là các nước đang phát triển thì FDI là yếu tố quan trọng làm tăng cường vốn đầu tư trong nước trong điều kiện tỷ lệ tiết kiệm nội địa thấp, thiếu ngoại tệ và quá trình tích luỹ nội bộ chậm, không đáng kể so với nhu cầu phát triển chung của nền kinh tế.
FDI bổ sung nguồn vốn cho nước chủ nhà, giúp bù đắp sự thiếu hụt của nguồn vốn trong nước, mở rộng tích luỹ và góp phần vào việc nâng cao tốc độ phát triển kinh tế. Hầu hết các nước, nhất là các nước đang phát triển đều có nhu cầu về vốn để thực hiện công nghiệp hoá. Thực tế cho thấy, nhiều nước đang phát triển nhờ có FDI nên đã giải quyết được một phần khó khăn về vốn và đã thực hiện thành công quá trình công nghiệp hoá đất nước.
Thông qua FDI các công ty đã chuyển giao kĩ thuật công nghệ sang các nước chủ nhà. Nhờ sự chuyển giao này mà các nước chủ nhà có thể thu hút được kĩ thuật và công nghệ tiên tiến, kinh nghiệm quản lí kinh doanh và năng lực Marketing, đội ngũ lao động được đào tạo và bồi dưỡng về nhiều mặt.
Do tác động của vốn, của khoa học công nghệ hiện đại, FDI sẽ tác động mạnh mẽ đến việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Cơ cấu ngành, cơ cấu cùng, cơ cấu lao động, cơ cấu kĩ thuật, cơ cấu sản phẩm sẽ được biến đổi theo chiều hướng tiến bộ.
Nhờ có kĩ thuật và công nghệ hiện đại mà các nước chủ nhà có điều kiện khai thác một cách có hiệu quả nguồn tài nguyên thiên nhiên.
FDI là một trong những hình thức hợp tác đầu tư quốc tế. Thông qua FDI, các nước chủ nhà sẽ có thêm điều kiện mở rộng quan hệ kinh tế quốc tế.
FDI làm cho các tiềm năng phát triển kinh tế xã hội của đất nước có điều kiện để khai thác, điều đó tác động mạnh mẽ đến việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế, mặt khác tiếp nhận đầu tư trực tiếp, nước chủ nhà không phải lo trả nợ mà thông qua FDI nước chủ nhà có điều kiện xâm nhập thị trường thế giới. Các công ty thuộc các nước đang phát triển khó hoặc ít có cơ hội thâm nhập vào thị trường quốc tế, với sự liên doanh, liên kết với các công ty đa quốc gia các công ty thuộc các nước đang phát triển sẽ có điều kiện vươn tới các thị trường nước ngoài. Có thể nói đây là cách thức nhanh và có hiệu quả nhất giúp các công ty của nước nhận đầu tư đến với thị trường nước ngoài và thực hiện kinh doanh quốc tế.
Mặc dù có vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế, nguồn vốn FDI không phải là không có những tác động tiêu cực. Nó chỉ có thể phát huy tác dụng tốt trong môi trường kinh tế, chính trị xã hội ổn định, đặc biệt là Nhà nước biết sử dụng và phát huy vai trò quản lí của mình. Cụ thể một số mặt hạn chế mà nguồn vốn FDI đem lại như sau:
Nguồn vốn FDI đầu tư cho nước chủ nhà song trên thực tế do chủ đầu tư quản lí trực tiếp và sử dụng theo những mục tiêu cụ thể của mình. Do vậy, nước sở tại khó chủ động trong việc bố trí cơ cấu đầu tư theo ngành và lãnh thổ.
Nếu nước sở tại không có một quy hoạch đầu tư cụ thể và khoa học, dễ dẫn đến đầu tư tràn lan kém hiệu quả, tài nguyên thiên nhiên bị khai thác quá mức và nạn ô nhiễm môi trường trầm trọng.
Do trình độ nước sở tại còn kém nên nhiều nhà đầu tư trực tiếp nước ngoài đã lợi dụng những sơ hở trong luật pháp và trong quản lí của nước đó để lách luật, trốn thuế gây tổn hại đến lợi ích của nước chủ nhà.
Trong chuyển giao công nghệ nếu không làm tốt công tác thẩm định sẽ dẫn đến những hiện tượng tiêu cực như chuyển giao nhỏ giọt từng phần, chuyển giao công nghệ lạc hậu và nước chủ nhà sẽ nơi thải công nghiệp cho các nước phát triển.
Song song với hoạt động đầu tư của các nhà đầu tư nước ngoài đôi khi còn kèm theo những hoạt động tình báo, gây rối an ninh, chính trị của nước chủ nhà
Sự cần thiết huy động vốn FDI của Việt Nam.
Đối với nước ta, nhu cầu về vốn để thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá là rất lớn. Mặc dù hơn 10 năm qua, tốc độ tăng trưởng kinh tế của nước ta là khá cao( bình quân 6%/năm), lại không bị tác động mạnh bởi cuộc khủng hoảng kinh tế tài chính khu vực như các nước khác vào năm 1997, nền kinh tế đã có những bước phát triển vượt bậc những hiện tại Việt Nam vẫn bị tụt hậu khá xa so với các nước phát triển cũng như so với nhiều nước đang phát triển trong khu vực. Việt Nam vẫn là một trong những nước nghèo nhất thế giới, thu nhập bình quân đầu người thấp, cơ sở hạ tầng kinh tế xã hội yếu kém, tích luỹ nội bộ nền kinh tế thấp, cơ cấu kinh tế lạc hậu, về cơ bản vẫn là một nước nông công nghiệp với gần 80% dân số hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp.
Một hiện tượng có thể coi là căn bệnh nan y của các nước đang phát triển là thiếu vốn và Việt Nam cũng không nằm ngoài ngoại lệ ấy. Về tiết kiệm, mặc dù ta có nguồn lực dồi dào song lại không có điều kiện sử dụng nguồn lực ấy vì thiếu vốn đầu tư cho xây dựng cơ sở hạ tầng, mua sắm trang thiết bị máy móc, áp dụng khoa học công nghệ tiên tiến nguồn vốn trong nước chỉ có thể đáp ứng được 2/3 nhu cầu vốn cho phát triển, còn lại ta phải huy động vốn từ các nguồn ở bên ngoài. Trong đó cùng với ODA thì FDI là mộ._.t trong hai nguồn vốn quan trọng hàng đầu.
Đảng ta đã xác định Việt Nam trong quá trình trở thành một nước công nghiệp phải có những bước đi tuần tự hợp với quy luật phát triển, đồng thời tranh thủ thời cơ thuận lợi “ đi tắt, đón đầu” trong những ngành, lĩnh vực cho phép nhằm bắt kịp xu thế của thời đại. Một trong những thời cơ đó là tận dụng những lợi thế của nguồn vốn FDI. Theo Nghị quyết số 09/2001/NQ-CP của chính phủ về tăng cường thu hút và nâng cao hiệu quả FDI thời kì 2001-2005 là đề ra mục tiêu thu hút khoảng 12 tỷ USD vốn đăng kí của các dự án cấp giấy phép mới và 11 tỷ USD vốn thực hiện. Tóm lại, FDI không chỉ giúp ta thoả mãn nhu cầu về vốn đầu tư mà kèm theo đó còn là sự du nhập của khoa học công nghệ hiện đại, của trình độ quản lí tiên tiến, của những đỉnh cao trí thức nhân loại.
1.2.3. Mối quan hệ giữa đầu tư trực tiếp nước ngoài và ngoại thương: của các nước đang phát triển
1.2.3.1. Tác động trực tiếp
Cùng với quá trình toàn cầu hoá, vai trò của đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) đối với tăng trưởng kinh tế quốc gia ngày càng trở nên quan trọng. Đối với các nước đang phát triển FDI còn có ý nghĩa hơn vì nó cung cấp vốn và công nghệ, những nhân tố phục vụ sản xuất khan hiếm của các nước này. Hiện nay, các nước nhất là các nước đang phát triển ngày càng đánh giá cao vai trò của nguồn vồn đầu tư trực tiếp nước ngoài và các công ty xuyên quốc gia (TNCs). Sự chuyển hướng này phần nào nhờ vào sự đóng góp của FDI trong quá trình tăng trưởng,xuất khẩu và cán cân thanh toán của nước tiếp nhận đầu tư. Trên thực tế,sự đóng góp mạnh mẽ của nguồn vốn FDI và TNCs vào xuất khẩu của nước tiếp nhận đầu tư là một trong những nguyên nhân chính tạo ra bước chuyển biến trong nhận thức như vậy. Và các đóng góp này càng nhận đước sự ủng hộ hơn khi mà tăng trưởng dựa vào xuất khẩu trở thành chiến lược công nghiệp hoá mà đã thành công ở các nền kinh tế Đông á .
Xuất nhập khẩu có mối quan hệ nhân quả tới tăng trưởng kinh tế. Mối quan hệ này được thể hiện ở khía cạnh: xuất khẩu cho phép khai thác được lợi thế so sánh, hiệu quả kinh tế theo quy mô, thực hiện chuyên môn hoá sản xuất; nhập khẩu bổ sung được các hàng hoá, dịch vụ khan hiếm cho sản xuất và tiêu dùng; xuất nhập khẩu còn tạo ra các tác động ngoại ứng như thúc đẩy trao đổi thông tin, dịch vụ, tăng cường kiến thức kinh doanh cho các doanh nghiệp và đưa họ vào với mạng lưới phân phối toàn cầu. Bởi vậy, khuyến khích đầu tư nước ngoài hướng vào xuất khẩu luôn là ưu đãi đặc biệt trong chính sách thu hút đầu tư nước ngoài của nước chủ nhà. Đối với các nhà đầu tư nước ngoài (TNCs), xuất khẩu cũng đem lại nhiều lợi ích cho họ thông qua việc sử dụng các yếu tố đầu vào rẻ, khai thác được hiệu quả theo qui mô (không bị hạn chế bởi quy mô thị trường của nước chủ nhà) đồng thời thực hiện phân công chuyên môn hoá các chi tiết sản phẩm ở các nơi có lợi thế sản xuất chi tiết đó, sau đó thì lắp ghép chúng lại thành phẩm.
Từ những lợi ích trên, định hướng xuất khẩu ngày càng được chú trọng đối với cả nước chủ nhà và trong chiến lược phát triển của các TNCs. Trong hơn 3 thập kỷ gần đây, đầu tư FDI hướng vào xuất khẩu ngày càng gia tăng và nó đóng vai trò quan trọng trong thúc đẩy xuất khẩu của nước chủ nhà.
Chiến lược hướng ngoại hay còn gọi là chiến lược hướng vào xuất khẩu đã được các nước đang phát triển áp dụng một cách rộng rãi, trong đó các nền kinh tế Đông á đóng vai trò tiên phong. Và vai trò không ngừng lớn mạnh của các TNCs trong xuất khẩu hàng chế tạo của các nước đang phát triển và đó là một xu hướng tất yếu quan trọng trong sự phát triển của đầu tư và thương mại quốc tế. Với sự lớn mạnh của các TNCs, họ đã đưa các nước đang phát triển cùng đi vào mạng lưới hoạt động quốc tế của họ, không chỉ với tư cách là nguồn cung ứng nguyên vật liệu, mà còn là các nhà cung cấp các sản phẩm chế tạo và các quy trình sản xuất đặc biệt, những sản phẩm mà trước đây các TNCs cũng có nhưng nay không còn được sản xuất trong nước nữa. Bởi vậy, xuất khẩu hàng chế tạo được coi là chiến lược phát triển mới ở các nước đang phát triển. Và quá trình chuyên môn hoá sản xuất là yếu tố quan trọng để các nước đang phát triển mở rộng xuất khẩu hàng chế tạo trong điều kiện có ít cơ hội tiếp cận với các nguồn thu ngoại tệ khác. Mặt khác, xuất khẩu giúp các nước đang phát triển bổ sung nguồn vốn để xây dựng kinh tế trong nước và thu hút đầu tư nước ngoài.
Từ năm 1970 đến năm 1980, nhập khẩu hàng chế tạo tiêu dùng của các nước OECD đã tăng 14,55 lần xét về giá trị danh nghĩa. Tổng nhập khẩu hàng chế tạo từ các nước đang phát triển tăng 10,84 lần. Các nền kinh tế thành công nhất là Hồng Kông, Đài Loan, và Hàn Quốc đã xuất khẩu một lượng lớn hàng chế tạo tiêu dùng tới các OECD, chiếm 72% tổng xuất khẩu từ các nước đang phát triển sang các nước OECD.
Theo báo cáo của UN, 1992 (UN,1992,World Development Report, New York: UN) cho thấy tỷ trọng xuất khẩu hàng chế tạo của các công ty có vốn đầu tư nước ngoài tại các nước đang phát triển đang tăng dần. Tỷ lệ này dao động từ mức 21,5% ở Fiji lên 85% ở Singapore vào giữa thập niên 80. Sự chú trọng xuất khẩu còn thể hiện trong xu hướng hướng về xuất khẩu, nghĩa là tỷ lệ xuất khẩu của các công ty có vốn đầu tư nướcngoài ngày càng lớn so với tổng lượng hàng hoá được tiêu thụ. Theo ước tính các công ty có vốn đầu tư của Nhật Bản ở các nước Inđônêxia, Malaixia, Philippin và Thái Lan xuất khẩu khoảng 50% sản lượng hàng chế tạo của họ trong năm 2005. Tỷ lệ này của các công ty có vốn đầu tư của Mỹ còn cao hơn, trung bình ở mức 52%, đạt 62% ở Malaixia và Thái Lan, 48% ở Philippin và chỉ có 4% ở Hàn Quốc.
Nhu cầu về vốn là rất lớn đối với các nước, kể cả nước có nền kinh té phát triển và nước có nền kinh tế đang phát triển, và vốn còn quan trọng hơn đối với các nước đang phát triển khi mà họ đang trong quá trình công nghiệp hoá đất nước. Mối quan hệ giữa nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài và ngoại thương được thể hiện rất rõ nét ở cả nước phát triển và nước đang phát triển. Và chúng ta dựa vào lợi thế so sánh để nêu rõ mối quan hệ này. Đối với các nước đang phát triển là những nước có lợi thế về vốn và các nước đang phát triển là những nước có lợi thế so sánh về tài nguyên, lao động...các nước phát triển đã đưa luồng vốn của mình ra nước ngoài, hay nói cách khác nước phát triển đã xuất khẩu nguồn vốn ra nước ngoài, mà cụ thể là vào các nước đang phát triển để khai thác nguồn nguyên liệu phục vụ cho sản xuất trong nước. Đối với các nước đang phát triển do thiếu vốn và khoa học công nghệ, thông qua đầu tư trực tiếp và ngoại thương thì các nước này đã nhạp khẩu nguồn vốn và khoa học công nghệ từ các nước phát triển, để phục vụ sản xuất trong nước, đồng thời xuất khẩu sang các nước đó các sản phẩm đã qua sở chế, để thu ngoại tệ, và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
Thông thường các công ty, các doanh nghiệp có vốn đầu tư FDI tham gia nhiều hơn vào hoạt động xuất nhập khẩu, bởi khi có đầu tư trực tiếp nước ngoài, mà nhất là được thực hiện bởi các TNCs thì các doanh nghiệp có lợi thế hơn về thị trường, bởi các TNCs có các chi nhánh rộng lớn trên toàn thế giới, do đó thị trường mở cũng sẽ rộng hơn. Mặt khác, các TNCs khi đầu tư vào các nước thì sản phẩm cuối cùng cũng thường do chính các TNCs nhập khẩu lại, và cũng có một số mặt hàng chế tạo mà trước đây các nước phát triển có sản xuất, song hiện nay đã không còn sản xuất nữa thì họ sẽ nhập từ các nước nhận đầu tư. Các công ty tham gia vào xuất khẩu thường có quy mô lớn hơn, năng xuất cao hơn, hàm lượng vốn và công nghệ cao hơn. Các công ty hoạt động tốt sẽ trở thành nhà xuất khẩu và có được phần lớn những chỉ số hoạt động như mong đợi. Các công ty có vốn FDI thường đóng góp nhièu hơn cho hoạt động xuất nhập khẩu của nước chủ nhà nhờ vào nguồn vốn và công nghệ vượt trội của họ. Các TNCs không chỉ đóng góp trực tiếp cho hoạt động xuất khẩu của nước chủ nhà, mà còn tạo ra hiệu ứng lan toả cho xuất khẩu và trở thành chất xúc tác cho hoạt động xuất khẩu của các nước đang phát triển.
Nhập khẩu máy móc thiết bị thường chiếm tỷ lệ khá cao trong tổng số giá trị nhập khẩu của các TNCs. ở một số nước tỷ lệ này cao hơn nhiều so với tỷ lệ tương ứng của các doanh nghiệp nội địa. Điều này phản ánh sự chú trọng của các nhà đầu tư nước ngoài trong việc sử dụng khoa học công nghệ hiện đại vào các dự án đầu tư của họ. Đây là yếu tố quan trọng để nâng cao năng suất lao động, khả năng cạnh tranh của sản phẩm, nhờ đó thúc đẩy tăng trưởng kinh tế của nước chủ nhà.
Đồng thời hoạt động ngoại thương mà diễn ra sôi động, thì chứng tỏ nước đó có nền kinh tế tăng trưởng và phát triển cao, do đó sẽ thu hút các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào. Đặc biệt là ở các nước đang phát triển,khi mà hiện nay họ đang chú trọng đầu tư vào cơ sở hạng tầng, xây dựng các khu công nghiệp, khu chế xuất để thu hút các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài. Đấy sẽ là cơ sở để tăng cường thu hút nguồn vốn FDI và thúc đẩy ngoại thương phát triển.
1.2.3.2. Tác động gián tiếp
Ngoài những tác động trực tiếp trên, thì đầu tư trực tiếp và ngoại thương còn có tác động gián tiếp thông qua các tác động ngoại ứng như: thúc đẩy trao đổi thông tin, cung cấp dịch vụ, liên kết sản xuất... Đây là những tác động rất quan trọng không chỉ thúc đẩy hoạt động xuất nhập khẩu và đầu tư trực tiếp mà còn thúc đẩy phát triển các ngành kinh tế- xã hội khác.
Thông tin thị trường đóng vai trò quan trọng đối với các chủ đầu tư cũng như các nước tiếp nhận đầu tư, nhờ các kênh thông tin thị trường chủ thể nắm bắt được tình hình và nhu cầu trên thị trường thế giới. Từ đó họ có cơ sở thực tế để điều chỉnh chiến lược kinh doanh của mình cho phù hợp với nhu cầu của thị trường. Thông qua các kênh thông tin thị trường thì giúp cho các nhà đầu tư thấy được đầu tư vào lĩnh vực gì, vào quốc gia nào thì có lợi nhất. Và các nước tiếp nhận đầu tư thì có thể kêu gọi, lựa chọn các dự án đầu tư phù hợp với sự phát triển của nền kinh tế.
Dịch vụ đóng vai trò quan trọng trong thúc đẩy các hoạt động xuất nhập khẩu và là nguồn thu ngoại tệ đáng kể của nước chủ nhà. Trong nhiều chi nhánh của các TNCs ở nước ngoài, giá trị dịch vụ (vận tải, bảo hiểm, thanh toán, tín dụng, viễn thông...) thường chiếm tỷ trọng khá lớn trong tổng giá trị xuất nhập khẩu giữa chúng. Ví dụ: giá trị dịch vụ trong các chi nhánh TNCs có sở hữu chủ yếu của Mỹ ở nước ngoài chiếm hơn 20% tổng giá trị xuất khẩu và gần 1% tổng giá trị nhập khẩu chúng. Nhu cầu lớn các loại dịch vụ phục vụ xuất nhập khẩu đã tạo nhiều cơ hội cho các doanh nghiệp nội địa tham gia vào các hoạt động xuất nhập khẩu. Các nước nhận đầu tư nếu hoạt động dịch vụ có hiệu quả, nhất là dịch vụ về giao thông vận tải, cơ sở hạ tầng, thông tin liên lạc... thường thu hút đước nhiều các dự án đầu tư trực tiếp. Mặt khác, cũng thúc đẩy được buôn bán ngoại thương, các hoạt động xuất nhập khẩu diễn ra nhanh hơn, hiệu quả hơn.
Liên kết sản xuất là một trong những tác động quan trọng của đầu tư trực tiếp nước ngoài đối với hoạt động ngoại thương. Qua đầu tư FDI sẽ cung ứng về vốn, về các kỹ thuật, khoa học công nghệ hiện đại, các loại dịch vụ phục vụ cho các doanh nghiệp của nước chủ nhà mở rộng và phát triển các năng lực sản xuất của mình (mở rộng sản xuất, bắt trước quy trình sản xuất và mẫu mã hàng hoá), còn đối với các nước đầu tư thì có thể tìm kiếm được nguồn nguyên vật liệu mà mình thiếu để phục vụ cho sản xuất hàng xuất khẩu. Liên kết sản xuất thường được các TNCs áp dụng, khi sản xuất ra một sản phẩm thì các công ty mẹ chỉ sản xuất các chi tiết chính, còn phân công cho các công ty con có lợi thế vế một linh kiện nào đó thì sẽ chịu trách nhiêm sản xuất linh kiện đó, sau đó được lắp ráp lại thành phẩm. Sự liên kết sản xuất này sẽ giúp các nước đang phát triển sau một thời gian có thể tự xuất nhập khẩu.
1.3 Tác động của hội nhập kinh tế quốc tế tới quan hệ kinh tế Việt Nam - Hàn Quốc
1.3.1. Hội nhập kinh tế quốc tế tạo môi trường thuận lợi thúc đẩy quan hệ Việt Nam-Hàn Quốc phát triển toàn diện
Chính sự gia tăng cường độ của các hình thức hợp tác đã tạo ra không khí hiểu biết lẫn nhau, tìm kiếm phương thức và cơ chế giải quyết các bất đồng về quan điểm và lợi ích của các bên. Sự gia tăng của FDI, ODA và thương mại song phương giữa Việt Nam và Hàn Quốc diễn ra trong hơn một thập niên qua là những minh chứng cụ thể.
Sự gia tăng đó vừa là kết quả của chính sách đối ngoại tích cực của Việt Nam, của chính sách hướng nam của Hàn Quốc, song đó cũng là kết quả của một môi trường hòa bình và hợp tác, ở đó hội nhập kinh tế quốc tế là một yếu tố nổi bật.
Như đã biết, từ sau chiến tranh lạnh kết thúc, quan hệ ngoại giao giữa hai nước được thiết lập.Chỉ trong quãng một thập niên, Hàn Quốc đã trở thành một trong 5 đối tác kinh tế hàng đầu của Việt Nam. Chính môi trường hòa bình, phụ thuộc, tin cậy lẫn nhau và hợp tác cùng phát triển đã tạo cơ sở cho Việt Nam và Hàn Quốc thúc đẩy các quan hệ kinh tế.
Cùng với việc phát triển quan hệ hợp tác kinh tế, hợp tác song phương trong các lĩnh vực khác cũng được đẩy mạnh, trong đó phải kể đến các quan hệ chính trị, văn hóa, khoa học kỹ thuật và hợp tác trong lĩnh vực an ninh.
Chính sách đối ngoại của Việt Nam là nhất quán và mang tính chiến lược, ở đó nhấn mạnh đến yếu tố “muốn là bạn với các quốc gia trên thế giới” và sẵn sàng thảo luận với đối tác trên tất cả các vấn đề cùng quan tâm. Tuy nhiên, những vấn đề an ninh và chính trị nhạy cảm trên bán đảo Triều Tiên vẫn là những thách thức không thể không quan tâm. Thái độ và chính sách của Hàn Quốc và Việt Nam đối với các vấn đề nhạy cảm này, chắc chắn sẽ ảnh hưởng đến quan hệ Việt Nam- Hàn Quốc.
Chúng ta vẫn có quyền hy vọng rằng, môi trường hòa bình hợp tác, và gia tăng xu thế liên kết kinh tế khu vực sẽ tiếp tục tác động tích cực đến quan hệ Việt Nam- Hàn Quốc trong tương lai.
1.3.2. Thúc đẩy cải cách hành chính
Theo nhiều nhà phân tích, Việt Nam là một trong các quốc gia có nền kinh tế chuyển đổi đã có phản ứng khá linh hoạt trước xu thế hội nhập gia tăng. Đó là một thực tế. Những chuyển động tích cực của Việt Nam từ đầu những năm 1990 trong chính sách đối ngoại thể hiện ở sự bình thường hóa các quan hệ đối ngoại với các nước phương Tây, với Hoa Kỳ, với ASEAN và xúc tiến các cuộc thương lượng song phương và đa phương với các thể chế quốc tế…
Kinh nghiệm của các nước trong khu vực cho thấy, việc khai thác các lợi thế của hội nhập khu vực sẽ bị hạn chế nếu các quốc gia không tiến hành cải cách hành chính và điều chỉnh chính sách cho phù hợp với những đòi hỏi của tiến trình hội nhập. Nói cách khác, hội nhập kinh tế quốc tế đã tác động tới cơ chế vận hành và phương thức hoạch định chính sách của các nước trong khu vực, trong đó có Việt Nam và Hàn Quốc.
Một bộ máy hành chính và một phương thức hoạch định chính sách có nhiều điểm tương đồng với các đối tác sẽ tạo cơ sở để các đối tác tìm thấy những lợi ích chung và xử lý các khác biệt dễ dàng hơn. Trước những đòi hỏi của tình hình kinh tế - xã hội trong nước và yêu cầu hội nhập, Việt Nam đã và đang xúc tiến cải cách hành chính.
Có thể nói, mức độ hội nhập kinh tế khu vực ở Việt Nam phục thuộc rất lớn vào hiệu quả của cải cách hành chính. Và cũng từ kinh nghiệm của các nước trong khu vực cho thấy cải cách hành chính vừa là điều kiện, vừa là kết quả của hội nhập kinh tế quốc tế và điều này cũng đúng với Hàn Quốc.
Ở Hàn Quốc, cải cách hành chính đã được xúc tiến từ đầu những năm 1990. Những đòi hỏi phải nâng cao hiệu quả của bộ máy hành chính, phục vụ tốt hơn lợi ích của quốc gia đã tạo cơ sở cho nước này thực thi cải cách hành chính. Xây dựng một bộ máy hành chính gọn nhẹ, hiệu quả là mục tiêu của cuộc cải cách này ở Hàn Quốc.
Có thể nói, gia nhập vào tổ chức thương mại thế giới, dù ở mức độ nào, cũng tác động tới bộ máy hành chính ở cả Việt Nam và Hàn Quốc. Và đó là những tác động tích cực bởi nó đòi hỏi bộ máy hành chính vận hành có hiệu quả. Và bộ máy hành chính chỉ vận hành có hiệu quả một khi nó được cải cách, đổi mới. Nói cách khác, không có cải cách hành chính, thì tính quan liêu của bộ máy hành chính sẽ làm tổn hại đến chính sách kinh tế và thậm chí làm tổn hại đến cả chính sách kinh tế đối ngoại.
1.3.3. Thúc đẩy chuyển đổi cơ cấu kinh tế
Trên một góc độ nào đó, có thể nói giống với cải cách hành chính, chuyển đổi cơ cấu kinh tế vừa là điều kiện vừa là kết quả của những tác động hội nhập kinh tế quốc tế.
Rõ ràng là, không thể có hội nhập có hiệu quả nếu không có sự chuyển đổi cơ cấu kinh tế. Chuyển đổi cơ cấu kinh tế cần được xúc tiến theo hướng khai thác lợi thế so sánh của các nền kinh tế trên cơ sở mỗi nước xây dựng một chiến lược phát triển được xem xét kỹ lưỡng. Ở đó các yếu tố bên ngoài - tức là bối cảnh hội nhập- cần đặc biệt quan tâm. Sự thành công trong chyển đổi cơ cấu kinh tế ví dụ như của các “con hổ” Đông Á( trong đó có Hàn Quốc) cho thấy, họ đã biến những yếu tố bên ngoài thành nội lực, nhờ đó, từ những quốc gia nghèo về tài nguyên, họ đã trở thành những “con hổ”.
Kinh nghiệm của Hàn Quốc cho thấy, nhà nước đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy chuyển đổi cơ cấu kinh tế. Chính phủ Hàn Quốc không làm thay doanh nghiệp. Chính phủ xác định các mục tiêu cần đạt tới và hoạch định một chính sách ưu tiên đối với các ngành kinh tế then chốt phù hợp với yêu cầu phát triển của Hàn Quốc từng thời kỳ. Chẳng hạn trong 2 kế hoạch 5 năm đầu tiên, chính phủ Hàn Quốc chú trọng xây dựng các ngành công nghiệp nặng với 3 trụ cột, luyện kim, hóa chất, ô tô. Các chính sách tài chính và tiền tệ đựoc thực thi theo hướng hỗ trợ tích cực cho các nhà kinh doanh trong 3 nhóm ngành này, kích thích họ chú trọng kinh doanh hướng nội. Khi tình hình kinh tế thế giới biến động không thuận lợi( khủng hoàng dầu mỏ lần 1(1973) và đồng đô la bị thả nổi(1972)), chính phủ Hàn Quốc điều chỉnh chính sách tài chính – tiền tệ theo hướng khuyến khích các doanh nghiệp hoạt động trong 3 nhóm ngành này hướng mạnh vào thị trường thế giới. Điều lưu ý ờ đây là gì? Đó là chính phủ điều chỉnh các công cụ can thiệp vĩ mô còn việc thực thi sự chuyển đổi là do các doanh nghiệp và là các doanh nghiệp tư nhân, nhà nước không trực tiếp đầu tư một khoản vốn nào; Nhà nước chủ trương xây dựng các tập đoàn kinh tế mạnh( các Chaebol), các tập đoàn này là lực lượng chủ công thực hiện chuyển đổi cơ cấu kinh tế thành công ở Hàn Quốc. Và nội dung của chuyển đổi cơ cấu kinh tế gắn chặt với đa dạng hóa sản xuất kinh doanh, đa dạng hóa thị trường trên cơ sở phát triển thị trường mục tiêu.
1.3.4. Thúc đẩy các doanh nghiệp nâng cao năng lực cạnh tranh
Đối với các doanh nghiệp Viêt Nam, tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế vừa tạo ra những điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp Việt Nam mở rộng thị trường, liên doanh, liên kết với các đối tác Hàn Quốc, song nó cũng tạo ra không ít thách thức. Bởi vậy, muốn xác định vị thế trên thị trường và phát huy các lợi thế của mình ( như chi phí lao động rẻ, lao động có kỹ năng…) đòi hỏi doanh nghiệp Việt Nam phải đổi mới công nghệ, đổi mới quản lý, thực thi chiến lược marketing có hiệu quả, trong đó chú ý tới cả 4 yếu tố của marketing- mix( sản phẩm, phân phối và yểm trợ…) thì mới có thể nâng cao năng lực cạnh tranh.
Điều cần nhấn mạnh là năng lực cạnh tranh của doanh nghiêp Việt Nam hiện nay rất thấp. Những hạn chế về vốn, công nghệ và quản lý còn lâu mới được cải thiện. Những yếu kém trong chiến lược marketing của nhiều doanh nghiệp Việt Nam vẫn là một thách thức lớn.
Đối với các doanh nghiệp Hàn Quốc, nhất là với những doanh nghiệp đã và sẽ kinh doanh với Việt Nam cũng cần nghiên cứu kỹ hơn các đặc trưng văn hóa Việt Nam, nhu cầu và thói quen tiêu dùng của người Việt Nam thì hoạt động kinh doanh của họ mới có hiệu quả. Trên một góc độ nào đó, đây cũng là một giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp Hàn Quốc trong hoạt động kinh doanh ở Việt Nam.
1.3.5. Những tác động không thuận chiều
Kinh nghiệm của các nước trên thế giới cho thấy sự tác động của hội nhập không chỉ tạo ra tác động tích cực. Phản ứng dây chuyền của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ châu Á nổ ra năm 1997 là một ví dụ nổi bật. Rất có thể hậu quả sẽ không nghiêm trọng và phạm vi tác động sẽ không lớn nếu sự liên kết giữa các nước trong khu vực không chặt chẽ. Điều này cảnh báo rằng, liên kết kinh tế càng chặt chẽ thì hệ lụy xấu cũng là điều kiện khó tránh. Các quốc gia trong khu vực này, trong đó có Việt Nam va Hàn Quốc cần có sự chuẩn bị để có thể đối phó với những tác động không thuận chiều như vậy.
Mặc dù mối quan hệ giữa hai nước đã đạt được những thành tựu rất đáng tự hào. Song so với tiềm năng của hai nước thì những kết quả đạt được vẫn còn rất khiêm tốn. Để hiểu được những khó khăn và tồn tại dẫn đến những trở ngại đó, chúng ta cần tìm hiểu sâu hơn về thực trạng mối quan hệ kinh tế giữa hai nước trên cơ sở nghiên cứu về quan hệ thương mại Việt Nam- Hàn Quốc và tình hình đầu tư trực tiếp nước ngoài của Hàn Quốc vào Việt Nam hiện nay, từ đó đưa ra những giải pháp nhằm tăng cường mối quan hệ thương mại kinh tế giữa hai nước.
Chương II
THỰC TRẠNG QUAN HỆ KINH TẾ THƯƠNG MẠI
VIỆT NAM- HÀN QUỐC TỪ 1992 ĐẾN NAY.
Quan hệ Việt Nam- Hàn Quốc được khởi động bắt đầu từ thập kỷ 1980.Trước hết mối quan hệ này được bắt đầu trong lĩnh vực trao đổi hàng hoá. Sau đó, nó nhanh chóng được phát triển rộng ra sang nhiều lĩnh vực khác như đầu tư, trao đổi lao động, du lịch, hợp tác khoa học- kỹ thuật, và ngày nay, đã trở thành một mối quan hệ hợp tác toàn diện. Không những thế, trên hầu hết các lĩnh vực quan hệ, thành tựu đạt được là rất đáng kể. Hiện nay, Hàn Quốc là nước đầu tư lớn nhất, là thị trường xuất khẩu lớn thứ 9 (không kể kim ngạch xuất khẩu dầu thô), là nước cung cấp hàng hoá nhập khẩu lớn thứ 5 và là thị trường xuất khẩu lao động lớn thứ 4 của Việt Nam . Các dòng hàng hoá, dịch vụ, vốn và lao động được di chuyển giữa hai nước ngày càng gia tăng. Nhờ đó, Việt Nam có điều kiện tiếp cận với công nghệ hiện đại của Hàn Quốc, có thêm nhiều cơ sở sản xuất mới, từ đó làm phong phú thêm nguồn hàng xuất khẩu cũng như cho tiêu dùng trong nước, tạo thêm công ăn việc làm và có thêm nguồn thu nhập ngoại tệ. Đối với Hàn Quốc, Việt Nam là một trong những thị trường xuất khẩu lớn(đứng thứ 15 năm 2003). Thị trường Việt Nam có vai trò quan trọng đối với các nhà đầu tư Hàn Quốc. Nhiều nhà đầu tư nước này đã coi Việt Nam là điểm đầu tư hấp dẫn để có được nguồn tài nguyên và lao động rẻ cho các ngành cần nhiều lao động. Đầu tư sang Việt Nam, các nhà đầu tư Hàn Quốc có cơ hội xâm nhập và mở rộng thị trường ở các nước thứ ba thông qua xuất khẩu từ cơ sở FDI. Ngoài ra, Hàn Quốc đã và đang đặt Việt Nam trên một vị trí ưu tiên trong hoạt động hỗ trợ phát triển của mình. Trong nhiều năm qua Việt Nam luôn là một trong 4 nước nhận viện trợ không hoàn lại lớn nhất của nước này thông qua KOICA.
Để đánh giá một cách tốt nhất thực trạng quan hệ Việt Nam – Hàn Quốc trong thời gian qua, chúng ta sẽ xem xét mối quan hệ này trên một số lĩnh vực cụ thể là thương mại hàng hoá và đầu tư của Hàn Quốc vào Việt Nam.
2.1 Quan hệ thương mại Việt Nam- Hàn Quốc
Trước khi quan hệ ngoại giao chính thức giữa hai nước được thiết lập vào năm 1992, quan hệ thương mại giữa hai nước còn ở mức rất thấp. Kim ngạch xuất nhập khẩu của Việt Nam với Hàn Quốc năm 1983 (1 năm sau khi nước ta thực hiện đổi mới kinh tế) đạt 22,809 triệu USD và đến năm 1992 đạt 493,515 triệu USD gấp 9,03 lần so với năm 1987 (1 năm sau khi nước ta thực hiện đổi mới kinh tế) đạt 54,629 triệu USD.
Bảng 2.1: Kim ngạch xuất nhập khẩu Việt Nam – Hàn Quốc
giai đoạn 1983-1992
Năm
Cán cân thương mại
Nhập khẩu
Xuất khẩu
Kim ngạch
(1.000 USD)
Tăng / giảm
(%)
Kim ngạch
(1.000 USD)
Tăng/ giảm
(%)
Kim ngạch
(1.000 USD)
Tăng/ giảm
(%)
1983
22.809
-
12.544
-
10.265
-
1984
31.809
39,5
24.039
91,6
7.770
-24,3
1985
26.688
-16,1
15.055
-37,4
11.633
49,7
1986
61.217
129,4
34.850
131,5
26.367
126,7
1987
54.629
-10,8
38.545
10,6
16.084
-39
1988
75.732
38,6
61.881
60,5
13.851
-13,9
1989
86.770
14,6
44.891
-27,5
41.879
202.4
1990
150.205
73,1
116.825
160,2
33.380
-20,3
1991
240.102
59,8
198.948
70,3
41.154
23,3
1992
493.515
105,5
436.182
119,2
57.333
39,3
Trung bình năm
124.347
43,4
98.376
57,9
25.974
34,4
Nguồn: Korea International Trade Associations(www.kita.net)
Biểu đồ 2.1: Kim ngạch xuất nhập khẩu Việt Nam- Hàn Quốc
giai đoạn 1983-1992
Sau khi có quan hệ ngoại giao chính thức, các nhà lãnh đạo hai phía đã có nhiều chuyến thăm lẫn nhau, qua đó quan hệ giữa hai nước ngày càng được củng cố và hợp tác kinh tế ngày càng được mở rộng. hai nước đã ký kết được nhiều hiệp định cấp chính phủ trong hầu hết các lĩnh vực quan trọng. Một số hiệp định đã ký giữa hai nước:
- Hiệp định hợp tác kinh tế và khoa học kỹ thuật, tháng 2/1993
- Hiệp định thương mại tháng 5/1993
- Hiệp định khuyến khích và bảo hộ đầu tư, tháng 5/1993
- Hiệp định hàng không, tháng 5/1993
- Hiệp định tránh đánh thuế hai lần, tháng 5/1994
- Hiệp định hợp tác văn hoá, tháng 8/1994
- Hiệp định hợp tác hải quan, tháng 3/1995
- Hiệp định hợp tác vận tải biển, tháng 4/1995
- Hiệp định hợp tác khoa học công nghệ, tháng 4/1995
- Hiệp định miễn thị thực hộ chiếu ngoại giao, công vụ, tháng 12/1998
- Sửa đổi Hiệp định bảo hộ đầu tư, tháng 9/2003
…vv.vv
Trong thời gian gần đây, liên tục có các cuộc trao đổi lãnh đạo cao cấp của hai nước, đó là chuyến thăm chính thức Hàn Quốc của nguyên Thủ tướng Phan Văn Khải, chuyến thăm Việt Nam của Chủ tịch quốc hội Hàn Quốc, Bộ trưởng ngoại giao Hàn Quốc năm 2003 và đặc biệt là chuyến thăm chính thức Việt Nam của Tổng thống Roh MooHyun trong dịp hội nghị thượng đỉnh ASEM tổ chức tại Hà Nội tháng 10-2004.
Hiện nay, Hàn Quốc là một trong những đối tác quan trọng của
Việt Nam trên nhiều lĩnh vực, trong đó có lĩnh vực thương mại. Để có thể nghiên cứu sâu hơn về quan hệ thương mại Việt Nam- Hàn Quốc, ta có thể xem xét trên 3 khía cạnh cụ thể đó là: Kim ngạch ngoại thương hai chiều giữa Việt Nam- Hàn Quốc, Vể xuất khẩu của Việt Nam sang Hàn Quốc, Về nhập khẩu của Việt Nam từ Hàn Quốc.
2.1.1 Kim ngạch xuất nhập khẩuP
Quan hệ thương mại Việt Nam- Hàn Quốc tăng nhanh trong thập kỷ qua. Thời kỳ tăng trưởng nhanh mở đầu bằng năm 1993- một năm sau khi Hàn Quốc và Việt Nam thiết lập quan hệ ngoại giao chính thức, kim ngạch xuất nhập khẩu của Việt Nam với Hàn Quốc tăng đột biến, đạt 818 triệu USD, tăng 65,59 % so với mức 493,515 triệu USD năm 1992.
Năm 1993, Hàn Quốc chiếm tỷ trọng 6,4% trong tổng kim ngạch xuất nhập khẩu của Việt Nam. Những năm tiếp theo kim ngạch ngoại thương hai nước tiếp tục tăng với nhịp độ cao, và đạt đến 1.545 triệu USD vào năm 1995. So với năm 1993, kim ngạch thương mại hai chiều năm 1995 tăng lên gấp 1,89 lần, Hàn Quốc chiếm tỷ trọng 11,4% trong tổng kim ngạch ngoại thương của Việt Nam.
Bảng 2.2: Kim ngạch xuất nhập khẩu Việt Nam- Hàn Quốc
Giai đoạn 1993-2006
Năm
Kim ngạch Xuất khẩu
Kim ngạch nhập khẩu
Tổng kim ngạch XNK
Kim ngạch
Tăng giảm
Kim ngạch
Tăng giảm
Kim ngạch
Tăng giảm
(triệu USD)
(%)
(triệu USD)
(%)
(triệu USD)
(%)
1993
90
-
728
-
818
-
1994
114
26,67
1027
41.07
1141
39.47
1995
194
70,17
1351
31.55
1545
35.41
1996
216
11,34
1450
7.33
1666
7.83
1997
238
10,18
1603
10.55
1841
10.50
1998
230
-3,36
1422
-11.29
1652
-10.27
1999
319
38,69
1440
1.26
1759
6.48
2000
352
10,34
1730
20.14
2082
18.36
2001
406
15,34
1894
9.48
2300
10.47
2002
466
14,78
2285
20.64
2751
19.61
2003
492
5,58
2624
14.84
3116
13.27
2004
603
22,56
3328
26.83
3831
22.95
2005
694
15,09
3432
3.13
4126
7.70
2006
802
15,56
3703
7.89
4505
9.19
Nguồn: Thống kê Hải quan Việt Nam
Nửa cuối thập kỷ 90, do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ khu vực tác động đến cả Việt Nam và Hàn Quốc, nên ngoại thương hai chiều sau khi tăng đến mức cao nhất vào năm 1997 với 1843 triệu USD, đã giảm 10,4%, chỉ đạt 1652 triệu USD vào năm 1998, năm 1999 tăng được 6,5% và đạt 1759 triệu USD, nhưng vẫn chưa bằng năm 1997.
Từ năm 2000 đến nay, ngoại thương hai chiều của Việt Nam với Hàn Quốc tăng trở lại với tốc độ nhanh, và đã vượt mốc 2 tỷ USD vào năm 2000. Quy mô thương mại giữa Việt Nam và Hàn Quốc đã thực sự có bước phát triển nhanh chóng, hiện tại, Hàn Quốc là đối tác thương mại lớn thứ 6 của Việt Nam, chỉ sau Nhật Bản, Trung Quốc, Singapore, Đài Loan và Mỹ. Kim ngạch thương mại hai chiều Việt Nam–Hàn Quốc chiếm khoảng 6,94 % tổng kim ngạch xuất nhập khẩu của Việt Nam trong giai đoạn 2002-2006
Biểu đồ 2.2: Kim ngạch ngoại thương Việt Nam- Hàn Quốc
giai đoạn 1993-2006
Năm 2004, xuất khẩu của Việt Nam đạt 603 triệu đôla Mỹ, tăng 18,1% so với năm 2003, trong khi đó xuất khẩu của Hàn Quốc đạt 3.328,5 triệu đôla Mỹ, tăng 26,8 % đưa tổng kim ngạch lên tới hơn 3,9 tỷ đôla Mỹ. Năm 2006, xuất khẩu của Việt Nam đạt 802 triệu USD, tăng 15,56 % so với năm 2005, trong khi đó xuất khẩu của Hàn Quốc đạt 3.703, 65 triệu USD, tăng 7,89 %. Xuất khẩu của Việt Nam trong năm 2004 có mức tăng cao hơn hẳn so với năm 2003 là do trong năm này ta đã xuất được dầu thô với trị giá 51,64 triệu USD. Trong năm 2005, do Hàn Quốc không mua dầu thô nữa nên kim ngạch chung không tăng. Tuy nhiên, nếu không tính dầu thô, thì xuất khẩu của ta vẫn tăng khoảng 10%. Trong giai đoạn 1993-2006, kim ngạch xuất nhập khẩu của Việt Nam – Hàn Quốc tăng nhanh chóng, từ 818 triệu USD lên đến 4.505 triệu USD, tăng 5,5 lần.
2.1.2 Về Xuất khẩu
Trong những năm 1991- 1997, xuất khẩu của Việt Nam sang Hàn Quốc tăng nhanh, từ 41 triệu USD lên đến 238 triệu USD, tăng 5,8 lần.
Bảng 2.3: Kim ngạch Xuất khẩu của Việt Nam sang Hàn Quốc giai đoạn 1993-2006
Năm
Kim ngạch Xuất khẩu
Tổng kim ngạch XNK
Tỷ trọng XK/XNK
Kim ngạch
Tăng giảm
Kim ngạch
Kim ngạch
(triệu USD)
(%)
(triệu USD)
(%)
1993
90
-
818
11.01
1994
114
26,67
1141
9.99
1995
194
70,17
1545
12.56
1996
216
11,34
1666
12.97
1997
238
10,18
1841
12.93
1998
230
-3,36
1652
13.93
1999
319
38,69
1759
18.14
2000
352
10,34
2082
16.91
2001
406
15,34
2300
17.65
2002
466
14,78
2751
16.94
2003
492
5,58
3116
15.79
2004
603
22,56
3831
15.74
2005
694
15,09
4126
16.82
2006
80._.m hiểu rằng trong giai đoạn hiện tại, muốn chiếm lĩnh thị trường, họ không thể bán ra các sản phẩm họ có, mà phải tạo nên các sản phẩm mà người tiêu dùng cần để bán cho họ với mức giá cạnh tranh so với các đối thủ. Ngoài ra, các doanh nghiệp cũng cần phải quan tâm đến việc đạt được tính khác biệt trong các sản phẩm xuất khẩu của mình. Chính đặc trưng này sẽ tạo nên sự hấp dẫn của sản phẩm đối với người tiêu dùng và khuyến khích họ mua hàng.
Các kết quả từ hoạt động nghiên cứu thị trường phải được phổ biến một cách hiệu quả và nhanh nhất đến các đói tượng quan tâm. Chúng có thể được cập nhật trên trang Web của Bộ, hoặc được cung cấp dưới dạng các ấn phẩm. Ngoài ra, để đẩy mạnh xuất khẩu Chính phủ cũng cần có chính sách và những chương trình hỗ trợ các doanh nghiệp xuất khẩu :
Thứ nhất, hoàn thiện tổ chức và nâng cao hiệu quả đối với công tác xúc tiến xuất khẩu ở tầm quốc gia. Về cơ bản, mạng lưới tổ chức hoạt động xúc tiến thương mại của Việt Nam đã được hình thành và phát huy tác dụng, đã có những tác động tích cực trong việc hỗ trợ các doanh nghiệp Việt Nam tham gia thị trường quốc tế và đẩy mạnh xuất khẩu. Tuy nhiên, do mới hình thành và phát triển, nên hệ thống xúc tiến thương mại của nước ta còn nhiều bất cập, như thiếu sự liên kết giữa các tổ chức thành viên trong hệ thống, năng lực thực hiện xúc tiến xuất khẩu còn yếu, các luồng thông tin thương mại chưa được lưu thông thông suốt trong toàn bộ hệ thống, chưa đáp ứng được yêu cầu thông tin cho các đối tác trong hệ thống, cơ sở hạ tầng cho xúc tiến xuất khẩu còn chưa hoàn thiện và thiếu nguồn kinh phí cần thiết. Như đã phân tích ở trên, mạng lưới xúc tiến xuất khẩu của Hàn Quốc đã được phát triển rất mạnh và rất thành công. Vì thế, trong việc hoàn thiện tổ chức đối với mạng lưới xúc tiến xuất khẩu của Việt Nam, chúng ta có thể học tập nhiều từ Hàn Quốc. Có hai tổ chức giữ vai trò khá quan trọng trong mạng lưới xúc tiến xuất khẩu của Hàn Quốc là Tổ chức Xúc tiến Thương mại Hàn Quốc (KOTRA) và Công ty Thương mại Quốc tế Hàn Quốc (KOTI). KOTRA cung cấp các dịch vụ cho các nhà kinh doanh và đầu tư trên khắp thế giới thông qua hệ thống thông tin thương mại được lưu giữ tại trụ sở chính ở Seoul, 10 chi nhánh ở trong nước và 82 trung tâm thương mại ở nước ngoài. Bên cạnh việc cung cấp thông tin, KOTRA còn thực hiện các dự án nghiên cứu, nhằm hỗ trợ các nhà xuất khẩu Hàn Quốc xác định các cơ hội kinh doanh mới ở nước ngoài, sắp xết các cuộc gặp gỡ vì mục đích kinh doanh giữa các nhà sản xuất Hàn Quốc với các người mua hàng nước ngoài, đưa ra các đề xuất cho các hoạt động thương mại đối lưu và giúp đỡ một cách hiệu quả cho các nhà nhập khẩu Hàn Quốc. Với tư cách là một tổng công ty thương mại, KOTI có nhiệm vụ thực hiện hoạt động xuất khẩu các hàng hoá do 3000 doanh nghiệp vừa và nhỏ của Hàn Quốc sản xuất ra và nhập khẩu các hàng hoá cần thiết từ nước ngoài cho thị trường trong nước. Với 7 chi nhánh được thành lập trên cả nước, KOTI đã và đang tập trung vào việc tìm kiếm thị trường tiêu thụ sản phẩm cho các doanh nghiệp thành viên thông qua việc tham gia vào các hội chợ, triển lãm quốc tế và trong nước.
Qua so sánh, có thể thấy rằng Cục Xúc tiến Thương mại thuộc Bộ Thương mại Việt Nam thực hiện các nhiệm vụ tương đương như của KOTRA. Trong điều kiện Cục chưa thành lập được nhiều trung tâm thương mại ở nước ngoài, hoạt động xúc tiến xuất khẩu và nghiên cứu thị trường thường do các thương vụ Việt Nam ở nước ngoài đảm nhận. Thực tế đó đòi hỏi phải có sự kết hợp rất chặt chẽ giữa hai tổ chức này. Rất may mắn là Thương vụ Việt Nam tại Hàn Quốc là một trong số 42 thương vụ Việt Nam ở nước ngoài. Theo đánh giá của các chuyên gia Bộ Thương mại, hoạt động của các thương vụ đạt kết quả khá tốt trong lĩnh vực cung cấp thông tin về sự phát triển kinh tế - xã hội của nước sở tại, về hệ thống chính sách, trong đó đặc biệt là chính sách thương mại và đầu tư của họ, về các cơ hội xuất khẩu và nhu cầu nhập khẩu của các thị trường tương ứng, tham gia chuẩn bị nội dung và phục vụ các đoàn công tác của chính phủ và giới kinh doanh đi công tác và khảo sát thị trường nước ngoài, cung cấp các thông tin cần thiết cho các doanh nghiệp phục vụ cho hoạt động sản xuất và xuất khẩu của họ, tổ chức các đoàn doanh nghiệp Việt Nam tham dự hội chợ ở nước ngoài... Bên cạnh đó, hoạt động của các thương vụ vẫn còn nhiều bất cập cần khắc phục, như chưa cung cấp thường xuyên thông tin về cơ quan bộ, chưa có trang Web riêng, nội dung của việc nghiên cứu thị trường nước sở tại còn nghèo nàn, chưa đáp ứng yêu cầu trong nước. Đặc biệt, thương vụ ở Hàn Quốc một thị trường mà Việt Nam bị nhập siêu lớn chưa đề xuất được các giải pháp hữu hiệu để giảm nhập siêu. Trong điều kiện đó, trước mắt, để nâng cao vai trò của các thương vụ trong việc thực hiện chiến lược phát triển xuất khẩu quốc gia, cần xác định rõ nhiệm vụ của họ, tạo cơ sở vật chất và kỹ thuật cũng như năng lực cán bộ để họ có thể thực hiện tốt công tác nghiên cứu thị trường theo đúng như yêu cầu mà công tác xúc tiến xuất khẩu đòi hỏi và cung cấp thông tin cần thiết về trong nước một cách liên tục và kịp thời thông qua mạng thông tin nội bộ.
Trong dài hạn, hoạt động xúc tiến xuất khẩu (được hiểu theo nghĩa rộng) của các thương vụ cần phải đặt dưới sự quản lý của Cục Xúc tiến Thương mại và nếu cần, chúng có thể bộ phận (chi nhánh) của Cục này.
Ngoài ra, cần nâng cao năng lực hoạt động xúc tiến xuất khẩu của các hiệp hội ngành hàng, qua đó, có thể hỗ trợ hoạt động xuất khẩu cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ, bởi lẽ các thành viên của các hiệp hội này phần lớn là các doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Thứ hai, cần mở rộng khả năng tiếp cận nguốn vốn cần thiết cho hoạt động xuất khẩu. Theo ý kiến của các nhà xuất khẩu, các doanh nghiệp xuất khẩu hàng Việt Nam sang Hàn Quốc nhìn chung rất khó tiếp cận với nguồn tài chính từ Quỹ Hỗ trợ Phát triển nói riêng và từ nguồn tín dụng cho xuất khẩu nói chung. Thực tế này gây khó khăn cho những doanh nghiệp xuất khẩu, đặc biệt là xuất khẩu hàng hoá nông sản, như cà phê, chè..., vì họ luôn cần lượng vốn lớn khi đến vụ thu hoạch. Vì thế, nên có những ngoại lệ đối với các trường hợp này. Bên cạnh đó, các doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam thường có qui mô vừa và nhỏ, với nguồn tài chính hạn hẹp, nên chính phủ cần đưa ra các chính sách thích hợp nhằm mở rộng khả năng tiếp cận với nguồn tín dụng của chính phủ, đồng thời đáp ứng các yêu cầu của các hiệp định trong phạm vi WTO, như bảo lãnh vay tín dụng, áp dụng các qui chế tiếp cận vốn riêng cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ .
Thứ ba, hỗ trợ doanh nghiệp nâng cao khả năng cạnh tranh của sản phẩm xuất khẩu. Trong tương lai, khi quá trình hội nhập khu vực và quốc tế ngày càng được tăng cường, cuộc cạnh tranh giành thị trường, giành nguồn cung cấp đầu vào sẽ rất gay gắt. Trong cuộc cạnh tranh này, sản phẩm có khả năng cạnh tranh hơn sẽ là những sản phẩm làm thoả mãn sở thích, mong muốn của người tiêu dùng lớn hơn. Chính vì thế, để có được những mặt hàng thoả mãn ở mức độ ngày càng cao sở thích của người tiêu dùng, các doanh nghiệp cần phải tập trung nhiều hơn vào việc nghiên cứu thị trường người tiêu dùng, thiết kế sản phẩm và tạo ra những sản phẩm có thương hiệu riêng với những đặc trưng riêng của mỗi doanh nghiệp. Để làm được điều đó, các doanh nghiệp cần được sự hỗ trợ của nhà nước trong việc cung cấp các thông tin về các thị trường xuất khẩu, cụ thể là Hàn Quốc, và người tiêu dùng ở đó. Ngoài ra, các doanh nghiệp cần quan tâm hơn nữa đến vấn đề đảm bảo các qui định về tiêu chuẩn khi tham gia xuất khẩu. Đây hiện đang là một rào cản phi thuế quan được sử dụng khá phổ biến tthế giới. Vừa qua, Việt Nam có thể gia tăng mạnh xuất khẩu thuỷ sản vào thị trường Hàn Quốc, một phần bởi số doanh nghiệp Việt Nam được Trung tâm kiểm tra chất lượng vệ sinh thuỷ sản Hàn Quốc công nhận đủ tiêu chuẩn xuất khẩu vào thị trường này tăng lên. Để làm được việc này, chính phủ cần trang bị kiến thức cho các doanh nghiệp về vấn đề tiêu chuẩn nói chung, giới thiệu về tiêu chuẩn của các thị trường xuất khẩu cụ thể...
Các giải pháp định hướng nhập khẩu bao gồm:
Thứ nhất, tăng cường thu hút đầu tư của Hàn Quốc vào các ngành công nghiệp phụ trợ và một số ngành mà Việt Nam có lợi thế so sánh, như sản xuất nguyên liệu cho ngành dệt may, phát triển công nghệ thông tin chẳng hạn. Tại kỳ họp Uỷ ban liên chính phủ Việt Nam - Hàn Quốc năm 2003, hai bên đã nhất trí rằng cần khuyến khích và tạo điều kiện cho các nhà đầu tư Hàn Quốc tăng cường đầu tư vào Việt Nam, nhất là trong một số ngành công nghiệp dết, may, da giày, công nghệ thông tin, thông tin liên lạc, khai khoáng, năng lượng và vào một số lĩnh vực có thể xuất khẩu quay trở lại Hàn Quốc được như nuôi, trồng và chế biến thuỷ sản, nông sản. Vào đầu năm 2004, một dự án của Hàn Quốc về việc đầu tư xây dựng 4 xí nghiệp liên kết nhau để sản xuất phụ liệu cho ngành dệt, may đã được phê duyệt. Dự kiến trong năm 2007, dự án này sẽ hoàn tất và đi vào hoạt động và có thể tuyển dụng tới 215.000 lao động. Đây là hướng đi thích hợp để giảm bớt nhập khẩu nguyên liệu đầu vào từ Hàn Quốc. Bên cạnh đó, Việt Nam và Hàn Quốc đã ký kết Chương trình hợp tác trong lĩnh vực công nghệ thông tin. Trong chương trình này, Hàn Quốc đã chú trọng đến việc đào tạo nguồn nhân lực Việt Nam cho ngành công nghiệp quan trọng này không chỉ để giúp Việt Nam nâng cao trình độ nguồn nhân lực, mà còn cung cấp lao động có đủ trình độ và kỹ năng cho các cơ sở có vốn đầu tư của Hàn Quốc ở nước ta, và có thể còn xuất khẩu lao động có kỹ năng sang Hàn Quốc.
Thứ hai, cần tăng cường và khuyến khích tìm nguồn nguyên liệu thay thế trong nước. Trước thực tế rằng hiện nay, các sản phẩm xuất khẩu của Việt Nam phần lớn đều là những hàng hoá có giá trị gia tăng thấp, do phải nhập khẩu các nguyên liệu đầu vào. Đặc điểm này được thể hiện rất rõ nét trong trao đổi hàng hoá Việt Nam - Hàn Quốc. Các chuyên gia kinh tế đã cho rằng trong ngành may mặc chẳng hạn, nếu Việt Nam sản xuất được, hoặc chỉ cần chủ động được nguồn nguyên liệu đầu vào, cụ thể là vải các loại, thì giá trị xuất khẩu có thể tăng gấp 4-5 lần. Chúng ta đã xác định rằng Việt Nam có lợi thế cạnh tranh trong sản xuất sợi, đặc biệt là sợi tơ chải kỹ. Trong điều kiện đó, nếu có được công nghệ thích hợp, Việt Nam có thể sản xuất được nhiều loại vải cho ngành may mặc.
3.4) Các giải pháp thúc đẩy đầu tư trực tiếp nước ngoài của Hàn Quốc vào Việt Nam
Thời gian qua chúng ta đã đạt được những thành tựu quan trọng đáng biểu dương trong việc thu hút nguồn vốn đầu tư trực tiếp từ nước ngoài song bên cạnh đó vẫn còn không ít mặt khó khăn và hạn chế mà chúng tôi đã trình bày trong những nội dung trước.Vì vậy trong thời gian tới để tăng cường lượng vốn FDI từ Hàn Quốc hơn nữa nên tiến hành các nhóm biện pháp lớn sau đây:
3.4.1)Về pháp luật chính sách:
Hoàn thiện đồng bộ hệ thống pháp luật ,nhất là luật đầu tư để có thể thu hút các nhà đầu tư nước ngoài
Cần triển khai thực hiện tốt Luật doanh nghiệp và luật đầu tư chung, ban hành các Nghị định và thông tư hướng dẫn hai luật nói trên, tuyên truyền, phổ biến nội dung của các luật mới; kịp thời hướng dẫn cụ thể về chuyển đổi thủ tục hành chính ,củng cố,hoàn thiện tổ chức bộ máy quản lý đầu tư nước ngoài phù hợp với quy định của luật mới.Coi trọng việc giữ vững sự ổn định, không làm ảnh hưởng đến hoạt động của các doanh nghiệp FDI khi áp dụng các luật mới .
Ban hành chính sách ưu đãi, khuyến khích mọi thành phần kinh tế,nhất là kinh tế tư nhân và đầu tư nước ngoài phát triển cơ sở hạ tầng, kinh doanh bất động sản đáp ứng nhu cầu và thực tế hội nhập kinh tế quốc tế.
Bổ sung cơ chế,chính sách xử lý các vấn đề pháp lý có liên quan đến việc thực hiện các cam kết của nước ta trong lộ trình AFTA và các cam kết đa phương và song phương trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế,nhất là mở cửa trong lĩnh vực dịch vụ như:bưu chính viễn thông ,vận chuyển hàng hoá, y tế giáo dục đào tạo v.v…
Đẩy mạnh việc đa dạng hoá hình thức đầu tư để khai thác thêm các kênh đầu tư mới như cho phép thành lập công ty hợp danh, đầu tư nước ngoài theo hình thức mua lại và sáp nhập….Sớm ban hành quy chế công ty quản lý vốn để điều hành chung các dự án.Tổng kết việc thực hiện thí điểm cổ phần hoá các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài để nhân rộng.
Đặc biệt quan trọng ở Việt Nam là giải quyết các vấn đề liên quan đến giải phóng mặt bằng và đền bù. Xây dựng các cơ sở hạ tầng một cách đồng bộ và hiện đại,xây dựng các khu công nghiệp, khu chế xuất để thu hút các nhà đầu tư nước ngoài
3.4.2) Về quản lý nhà nước trong hoạt động đầu tư nước ngoài
Đối với các nhà đầu tư những ưu đãi về thuế,tiền thuê đất,về thời hạn thuê đất ,về thời hạn của dự án,về giá nhân công rẻ…vẫn rất quan trọng nhưng quan trọng hơn là hiệu quả quản lý của bộ máy nhà nước,từ Trung ương đến địa phương .Quản lý nhà nước còn bao gồm cả việc xử lý vi phạm pháp luật,nhưng cần tách bạch giữa vi phạm của cá nhân thực hiện dự án với ,hoặc liên quan đến dự án với chính lợi ích khi được triển khai của dự án sẽ mang lại .Cần coi việc xử lý vi phạm là bắt buộc chứ không phải là để đối phó với các nhà đầu tư,cản trở các hoạt động kinh doanh và đầu tư của doanh nghiệp.Cân nhận thức rõ,bản chất của vốn FDI là của tư nhân ,do đó họ có quyền trong việc lựa chọn địa điểm đầu tư.Chỉ cầc phải chờ đợi hoặc gặp trở ngại mà không rõ khi nào xử lý xong họ sẽ chuyển đầu tư của mình sang địa điểm khác .
Cần có những biện pháp cải cách hành chính hợp lý và đơn giản hoá,gọn nhẹ hoá bộ máy quản lý nhà nước.Thống nhất và tiêu chuẩn hoá việc xây dựng thẩm định và xét duyệt các dự án đầu tư .
Đẩy mạnh việc triển khai phân cấp quản lý nhà nước giữa chính phủ và chính quyền tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; chú trọng vào công tác, hướng dẫn kiểm tra, giám sát việc thực hiện chính sách pháp luật của các đia phương tránh tình trạng ban hành chính sach ưu đãi vượt khung; giảm dần sự tham gia trực tiếp của cơ quan quản lý trung ương đến địa phương thông qua tổ chức tập huấn, đào tạo ngắn hạn.
Tiếp tục thực hiện nghiêm túc chỉ thị 13 củ thủ tướng chính phủ,trong đó có việc tiến hành đều đặn chương trình giao ban vùng,duy trì,nâng cao chất lượng các cuộc đối thoại với cộng đồng các nhà đầu tư,kịp thời giải quyết các khó khăn vướng mắc trong hoạt động kinh doanh của nhà đầu tư.
Thực hiện có hiệu quả cơ chế một cửa và giải quyết kịp thời các vấn đề phát sinh giúp các doanh nghiệp triển khai dự án thuận lợi;khuyến khích họ đầu tư có chiều sâu,mở rộng sản xuất để đạt hiệu quả kinh tế-xã hội cao hơn. Đây là cách tốt nhất để chứng minh có sức thuyết phục về môi trường đầu tư nước ngoài ở Việt Nam đối với các nhà đầu tư tiềm năng .
Hỗ trợ, thúc đẩy các doanh nghiệp Việt Nam đầu tư ra nước ngoài bằng cơ chế chính sách khuyến khích, ưu đãi trong lập quỹ,vay vốn đầu tư, đơn giản hoá thủ tục hành chính trong việc cấp phép, mở rộng chế độ đăng ký cấp phép.Tiếp tục mở rộng việc ứng dụng công nghệ tin học vào công tác quản lý nhằm nâng cao hiệu quả điều hành hoạt động đầu tư nước ngoài ở cả trung ương lẫn địa phương .
3.4.3) Đổi mới và đẩy mạnh hoạt động xúc tiến đầu tư
Tiếp tục tăng cường và đổi mới công tác vận động và xúc tiến đầu tư chú trọng các đối tác chiến lược,cũng như tăng cường quảng bá hình ảnh của đất nước Việt Nam đối với các nhà đầu tư quốc tế.Cùng với việc tổ chức các cuộc hội thảo giới thiệu về môi trường đầu tư chung tại các địa bàn và đối tác đã được nghiên cứu,qua các kinh nghiệm đầu tư, cần tăng cườn vận động trực tiếp các tập đoàn lớn đầu tư vào các dự án cụ thể .Có thể nói hướng thu hút đầu tư có hiệu quả nhất của Việt Nam là tập trung vào các doanh nghiệp nhỏ và vừa,các ngành có sử dụng nhiều nhân công,các ngành chế biến và lắp ráp. Đặc biệt cần đẩy mạnh hơn nữa thu hút đầu tư của các ngành sử dụng nhiều nhân công vì giá nhân công thấp là điểm hấp dẫn nhất của Việt Nam (giá nhân công ở Trung Quốc cũng có xu hướng nâng lên và hiện đã cao hơn ở Việt Nam).Một số ngành có thể lưu ý là :dệt may, lắp ráp điện tử máy móc.Một khi thu hút được các nhà máy lắp ráp sẽ gián tiếp thu hút các nhà sản xuất và cung cấp.
Bên cạnh việc tiếp tục cải thiện môi trường đầu tư trên các mặt chính sách và pháp luật,hạ tầng cơ sở, đào tạo nhân lực thì một yếu tố quyết định thành công là việc giải quyết kịp thời các vướng mắc của các nhà đầu tư.Vì sự hài long và thành công của các nhà đầu tư là một minh chứng sinh động nhất để tiếp tục thuyết phục và thu hút các nhà đầu tư khác vào Việt Nam
Ngoài việc có những ưu đãi đầu tư thuận lợi, Việt Nam cần có những chương trình xúc tiến phù hợp kể cả việc các nhà lãnh đạo cao cấp tiếp cận và gặp gỡ để bàn bạc trực tiếp,có thể kết hợp với những chuyến đi thăm,làm việc nước ngoài của những nhà lãnh đạo Đảng , chính phủ để tổ chức các cuộc hội thảo giới thiệu môi trường đầu tư,mời các nhà lãnh đạo Đảng ,Nhà nước phát biểu tại các cuộc hội thảo nhằm xây dựng hình ảnh tốt về sự quan tâm của chính phủ đối với đầu tư nước ngoài.Các cơ quan nhà nước phải coi xúc tiến đầu tư là chức năng đầu tiên của mình ,thành lập quỹ xúc tiến đầu tư chung trên phạm vi toàn quốc,với việc xúc tiến đầu tư theo từng thời kỳ,có từng địa chỉ cụ thể ,tập trung vào vận dụng các đối tác đầu tư phù hợp với mục tiêu đặt ra ,nhất là các đối tác có công nghệ cao ,công nghệ nguồn:
Đối với các đối tác lớn như Hoa Kỳ, Nhật Bản,EU…cần có các dự án lớn định hướng vào các tập đoàn xuyên quốc gia hang đầu của từng nước để trao đổi trực tiếp nhằm trong một thời gian ngắn các nhà đầu tư có thể đi đến quyết định đầu tư
Phối hợp triển khai đề án kết nối kinh tế Việt Nam-Singapore nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh thu hút đầu tư nước ngoài.
Nâng cao trang thông tin website về đầu tư nước ngoài .Biên soạn lại các tài liệu về đầu tư nước ngoài như:guidebook, in tờ gấp giới thiệu về cơ quan quản lý đầu tư, cập nhật các thông tin về chính sách, pháp luật liên quan đến đầu tư nước ngoài …
Nghiên cứu các địa bàn tiềm năng ở nước ngoài để hướng dẫn hoạt động đầu tư ra nước ngoài của các doanh nghiệp Việt Nam nhằm nâng cao hiệu quả .
3.4.4) Giải pháp về thuế
Chính sách và luật thuế phải đáp ứng được quá trình hội nhập và mở cửa thị trường.Chính sách pháp luật thuế hiện hành được sửa đổi bổ sung theo hướng giảm điều tiết nhưng mở rộng đối tượng chịu thuế, tiến gần đến mục tiêu đảm bảo nghĩa vụ thuế công bằng,bình đẳng hơn giữa các thành phần kinh tế, giữa doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài,giữa người trong nước và người nước ngoài, thực hiện đúng các cam kết hợp tác, hội nhập kinh tế quốc tế và lộ trình cắt giảm thuế nhập khẩu theo CEPT/AFTA, EU, Hoa Kỳ và đặc biệt là WTO.
Để đảm bảo chính sách nhất quán mở cửa thị trường nói chung và thực hiện nghiêm túc các cam kết quốc tế, cần phải tiếp tục hoàn thiện hệ chính sách pháp luật thuế theo hướng đồng bộ, cơ cấu hợp lý,khuyến khích đầu tư,xuất khẩu, đổi mới công nghệ , đồng thời hiện đại hoá công tác quản lý thuế ,hải quan nhằm đảm bảo chính sách động viên FDI phù hợp với điều kiện Việt Nam và tiến dần tới thông lệ quốc tế.
Tóm lại quyết tâm xây dựng để tạo nên sự bền vững của dòng vốn FDI vào Việt Nam trong giai đoạn sắp tới còn rất nhiều việc phải làm. Dòng vốn đó nếu được đón nhận bằng môi trưòng thuận lợi về pháp lý và về quản lý nhà nứoc sẽ đảm bảo sự tăng trưởng với tốc độ cao và sự bền vững.
3.4.5) Hoàn thiện về môi trường đầu tư
Từ năm 2004 dòng chảy FDI toàn cầu đã có dấu hiệu hồi phục sau 3 năm giảm liên tục ( 2001 đến 2003).Với xu thế toàn cầu hóa nhanh chóng sự cạnh tranh về thu hút FDI trên thế giới và trong từng khu vực ngày càng diễn ra gay gắt. Nhiều nước trên thế giới kể cả các nước phát triển và đang phát triển đều tham gia vào cuộc chạy đua này. Đây vừa là thuận lợi vừa là thách thức đối với Việt Nam. Thách thức ở đây chính là Việt Nam phải làm sao đẩy nhanh được quá trình cải thiện môi trường đầu tư, tăng cường tính cạnh tranh so với các đối thủ khác đặc biệt là Trung Quốc và Thái Lan. Sự thay đổi môi trường đầu tư không chỉ theo hướng là ngày càng hoàn thiện hơn so với các thời kì trước mà còn phải theo hướng hấp dẫn và hoàn thiện hơn so với các nước khác, có nghĩa là Việt Nam không chỉ cần chạy nhanh mà còn phải chạy nhanh hơn các đối thủ của mình.Theo đó chúng tôi đưa ra các giải pháp cơ bản sau nhằm cải thiện hơn nữa môi trường đầu tư của Việt Nam.
Xây dựng ngành công nghiệp phụ trợ phát triển, hỗ trợ tốt nhất cho các doanh nghiệp đặc biệt là doanh nghiệp FDI
Muốn thu hút đầu tư trực tiếp của nước ngoài (FDI), công nghiệp hỗ trợ phải đi trước một bước, tạo nên cơ sở hạ tầng để cung cấp sản phẩm đầu vào cần thiết cho các ngành công nghiệp lắp ráp. Để làm được điều này trước tiên Chính phủ Việt Nam phải có nhận thức đầy đủ về tầm quan trọng của ngành công nghiệp phụ trợ. Từ đó đưa ra các chính sách thúc đẩy các ngành công nghiệp phụ trợ, bao gồm ưu đãi về thuế, các biện pháp hỗ trợ kinh doanh, cần xây dựng trên cơ sở không phân biệt doanh nghiệp trong nước với doanh nghiệp nước ngoài.
Ở Việt Nam, sự nở rộ và phát triển của doanh nghiệp tư nhân cần phải được sự ủng hộ và hỗ trợ của chính phủ. Bởi theo kinh nghiệm của các nước cho thấy doanh nghiệp tư nhân đóng vai trò quan trọng hàng đầu cho sự phát triển của ngành công nghiệp phụ trợ.
Một điều hết sức hiển nhiên là nguồn nhân lực có vai trò quan trọng đối với sự phát triển của ngành công nghiệp phụ trợ. Do đó chúng ta phải có một chiến lược dài hạn trong việc phát triển nguồn nhân lực. Và trọng trách đó được đặt lên vai của ngành giáo dục. Chừng nào các trường đại học, cao đẳng, các trường trung cấp chưa đổi mới việc giảng dạy còn quá chú trọng tính lý thuyết hiện nay chừng đó Việt Nam chưa thể có một đội ngũ lao động đặc biệt là các kỹ sư có năng lực về lý thuyết cũng như thực tiễn. Thực trạng đó chỉ ra rằng, cần phải cải cách triệt để đào tạo đại học theo hai hướng, đó là phần cứng ( bằng trang thiết bị) và phần mềm ( chương trình đào tạo và phương thức giảng dạy) nhằm tạo ra những kỹ sư có trình độ làm việc trong ngành công nghiệp phụ trợ.
Lấy một ví dụ điển hình cho sự phát triển ngành công nghiệp phụ trợ đó là Thái Lan, đối thủ cạnh tranh trực tiếp của Việt Nam trong thu hút FDI. Họ đã có một ngành công nghiệp phụ trợ khá phát triển do nước này đã thành lập ủy ban hỗ trợ về vấn đề này và cùng với các tổ chức chuyên lo phát triển, xây dựng, hình thành những mối liên kết công nghiệp hỗ trợ trong nước. Tiến sĩ Techakanont, Đại học Thammasat, Thái Lan, cho biết: “Hiện chúng tôi có đến 19 ngành công nghiệp phụ trợ ở ba cấp: lắp ráp, cung cấp thiết bị – phụ tùng – linh kiện và dịch vụ”. Việt Nam muốn cạnh tranh thu hút FDI với Thái Lan trước tiên hãy xây dựng cho mình một ngành công nghiệp phụ trợ phát triển không kém Thái Lan hiện nay, trước mắt là để nội địa hóa sau đó là xuất khẩu.
Cải thiện nâng cấp cơ sở hạ tầng
Theo bà Tucker, Tổng giám đốc công ty Nike Inc, nếu như cơ sở hạ tầng của Việt Nam không được nhanh chóng nâng cấp hoàn thiện, thì sẽ rất khó có thể đủ khả năng để đón đầu luồng vốn đầu tư được dự báo là sẽ tăng mạnh vào Việt Nam ngay khi trở thành thành viên chính thức của WTO. Do đó đẩy mạnh xây dựng cải thiện cơ sở hạ tầng là điều kiện tiên quyết để đẩy nhanh thu hút FDI vào Việt Nam.
Chính phủ cần tiếp tục kêu gọi các khoản viện trợ, sự hỗ trợ về vốn và công nghệ của nước ngoài đặc biệt là Nhật, EU, Mỹ nhằm đẩy nhanh hơn nữa việc nâng cấp cơ sở hạ tầng ( Gần đây, ngày 10/11/2005, Bộ trưởng Kinh tế, Thương mại và Công nghiệp Nhật Bản cho biết Nhật Bản sẽ tiếp tục giúp Việt Nam nâng cấp cơ sở hạ tầng thông qua chương trình Viện trợ Phát triển Chính thức (ODA) để thu hút thêm đầu tư nước ngoài). Ngoài ra Chính phủ cần ban hành quy chế khuyến khích tư nhân đầu tư nâng cấp các công trình giao thông, cảng biển, dịch vụ viễn thông, cung cấp điện nước, phấn đấu không để xảy ra tình trạng thiếu điện cho hoạt động sản xuất kinh doanh.
Giảm chi phí kinh doanh đến mức thấp nhất có thể
Chi phí kinh doanh cần được giảm càng nhiểu càng tốt. Việc này bao hàm tất cả mọi khía cạnh của chi phí sản xuất: phụ tùng và vật liệu, lao động, đất đai, giao thông, điện, điện thoại, internet, nước, nhà xưởng và cuối cùng và cũng không kém phần quan trọng là chi phí thời gian và tài chính để giải quyết những thủ tục rườm rà. Chi phí kinh doanh của Việt Nam không phải là cao nhất trong khu vực Đông Á nhưng vẫn cao hơn các quốc gia cạnh tranh với Việt Nam trong thu hút FDI.
Để giảm chi phí kinh doanh thì từng bộ phận chi phí cần được xem xét kỹ lưỡng để giảm thiểu tới mức có thể. Nỗ lực giảm chi phí cần phải được thực hiện theo tầm nhìn quốc tế và có các chiến lược dài hạn. Mục đích cuối cùng là để xác lập vị trí và quảng bá Việt Nam như một trong những nơi có chi phí thấp nhất ở Đông Á.
Ngoài một số các nội dung cơ bản trên, Việt Nam còn cần phải thực hiện tốt quá trình cải cách hệ thống hành chính theo hướng ngày càng gọn nhẹ, minh bạch và tạo điều kiện thuận lợi nhất cho các nhà đầu tư nước ngoài. Minh bạch hóa thông tin kinh tế đặc biệt là ở cấp vi mô, doanh nghiệp giúp cho các nhà đầu tư nước ngoài có thể tiếp cận được các nguồn thông tin đáng tin cậy và hữu ích. Hình thành thị trường lao động chất lượng cao đáp ứng nhu cầu của các doanh nghiệp FDI đặc biệt là các doanh nghiệp ứng dụng công nghệ cao, xây dựng các trường dạy nghề và phải đào tạo tốt cho công nhân học các kỹ thuật cơ bản trước khi vào DN có vốn đầu tư nước ngoài làm việc. Tăng cường đào tạo lao động trình độ cao, nhất là đào tạo về ngoại ngữ, nghiệp vụ thương mại...
Việt Nam có tận dụng được cơ hội vàng đang đến để thu hút một lượng lớn đầu tư trực tiếp nước ngoài cho phát triển kinh tế hay không? Nó phụ thuộc rất lớn vào nỗ lực của Việt Nam trong việc cải thiện môi trường đầu tư. Các doanh nghiệp FDI đánh giá cao những nỗ lực này của Việt Nam. Tuy nhiên vấn đề Việt Nam đang gặp phải không chỉ là cải thiện môi trường đầu tư mà còn là làm sao đem hình ảnh một Việt Nam đang đổi mới, luôn có những nố lực lớn để cải thiện môi trường đầu tư, mong muốn được tiếp thu khoa học công nghệ hiện đại, trình độ quản lý tiên tiến…đến với các nhà đầu tư tiềm năng. Có rất nhiều nhà đầu tư muốn đến đầu tư và làm ăn ở Việt Nam tuy nhiên họ lại rất thiếu những thông tin về thị trường có hơn 80 triệu dân này. Những thông tin mà họ có được rất sơ sài hoặc là không phản ánh đúng về môi trường đầu tư hiện tại của Việt Nam nó có thể là những con số của những năm trước đây. Như vậy Việt Nam cần phải có một chiến lược tiếp thị hình ảnh, thương hiệu quốc gia nhằm đem đến cho các nhà đầu tư nước ngoài những thông tin chính xác và hữu ích nhất về môi trường đầu tư ở Việt Nam, những cơ hội làm ăn sinh lời ở đây.
KẾT LUẬN
Có thể nói, quan hệ kinh tế song phương Việt Nam – Hàn Quốc đã được mở rộng nhanh chóng trong suốt thập kỷ qua. Kim ngạch thương mại song phương giữa hai nước đã có những bước phát triển vượt bậc, Việt Nam có lợi thế xuất khẩu chủ yếu ở các nguồn tài nguyên, hải sản, nông sản và một số sản phẩm công nghiệp nhẹ, trong khi Hàn Quốc lại có thế mạnh ở các sản phẩm công nghiệp nặng và hoá chất. Một lượng lớn vốn FDI của Hàn Quốc đã chảy vào Việt Nam đặc biệt trong năm 2006 vừa qua. Nhưng bên cạnh đó thâm hụt thương mại của Việt Nam vẫn còn lớn so với kim ngạch thương mại song phương giữa hai nước. Và Việt Nam cũng đang phải cạnh tranh rất gay gắt với các nước trong khu vực trong việc thu hút dòng vốn FDI từ Hàn Quốc.
Tuy nhiên, tiềm năng hợp tác kinh tế giữa Việt Nam và Hàn Quốc là rất lớn và trên nhiều lĩnh vực. Điều này là hoàn toàn có cơ sở bởi vì :
Thứ nhất, mỗi bên đều có nhiều lợi thế và có thể hỗ trợ lẫn nhau. Hàn Quốc có thế mạnh về vốn, kỹ thuật, kỹ năng quản lý; Việt Nam có nguồn lao động rẻ, sẵn nguyên vật liệu và các nguồn tài nguyên thiên nhiên khác. Những lợi thế này chính là cơ sở đảm bảo cho quan hệ giữa hai nước phát triển mạnh hơn nữa.
Thứ hai, việc triển khai chiến lược toàn cầu hoá và cải cách cơ cấu kinh tế của Hàn Quốc diễn ra đồng thời với các cố gắng đẩy mạnh cải cách về mọi mặt và tăng cường hoà nhập vào khu vực và thế giới của Việt Nam sẽ giúp cả hai nước Việt Nam và Hàn Quốc phát triển nhanh hơn, đồng thời nâng cao vài trò của mỗi bên trong khu vực và trên thế giới.
Với những gì mà quan hệ hai nước đã đạt được trong thời gian vừa qua và trước đòi hỏi mới của tình hình hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế, chúng ta tin tưởng rằng quan hệ kinh tế giữa Việt Nam và Hàn Quốc sẽ ngày càng phát triển hơn nữa góp phần tích cực vào quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá của Việt Nam và chính sách toàn cầu hoá của Hàn Quốc.
Danh mục tài liệu tham khảo
Gi¸o tr×nh “Quan hÖ kinh tÕ quèc tÕ - LÝ thuyÕt vµ thùc tiÔn”; GS - PTS T« Xu©n D©n, PTS Vò ChÝ Léc; Nhµ xuÊt b¶n Hµ néi 1997.
S¸ch tham kh¶o “Hµn Quèc – c©u chuyÖn kinh tÕ vÒ mét con rång” – Hoa H÷u L©n – Nhµ xuÊt b¶n Hµ néi 2002.
Chủ biên GS.TS Nguyễn Văn Thường (2005) tăng trưởng kinh tế Việt Nam: những rào cản cần phải vượt qua, NXB Lý luận chính trị.
Bµi “Nh×n l¹i quan hÖ 10 n¨m ViÖt Nam – Hµn Quèc” – NguyÔn
C¶nh HuÖ, NguyÔn Trinh NghiÖu – T¹p chÝ nghiªn cøu §«ng Nam
Á th¸ng 2/ 2003.
Bµi “Nhµ ®Çu t Hµn Quèc quan t©m tíi ViÖt Nam” – Thêi b¸o kinh tÕ ViÖt Nam – Sè 160 – 6/10/2003.
Chỉ đạo biên soạn Thứ trưởng bộ thương mại – Lương Văn Tự (2006) tìm hiểu Tổ chức thương mại thế giới (WTO).
Chủ biên GS.TS Đỗ Đức Bình – PGS.TS Nguyễn Thường Lạng giáo trình kinh tế quốc tế, NXB Lao động – Xã hội.
Chủ biên GS.PTS Tô Xuân Dân (1998) chính sách kinh tế đối ngoại – lý thuyết và kinh nghiệm quốc tế, NXB Thống kê.
Chủ biên PGS.TS Nguyễn Thị Hường (2002) giáo trình quản trị dự án và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài – FDI, NXB Thống kê.
Tạp chí kinh tế thế giới, số tháng 1-2007.
Tạp chí đầu tư và phát triển Việt Nam, số tháng 9- 2006
PGS.TS Lê Bộ Lĩnh- Viện kinh tế và Chính trị thế giới, quan hệ kinh tế Việt Nam – Hàn Quốc: Thực trạng và Triển vọng, Thời báo kinh tế Việt Nam số tháng 9- 2003
Trang web của tổ chức ngoại thương Hàn Quốc www.kita.net
Trang web của bộ Thương mại www.mot.gov.vn
Trang web của bộ Kế hoạch và Đầu tư www.mpi.gov.vn
Trang web của đại sứ quán Hàn Quốc tại Việt Nam www.hanquocngaynay.com
Trang web của Tổng cục Thống kê Việt Nam www.gso.gov.vn
Trang web của Bộ ngoại giao Việt Nam www.mofa.gov.vn/
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 28523.doc