Quan hệ giữa sở hữu và thành phần kinh tế

Lời nói đầu Vấn đề sở hữu và sở hữu nhà nước là một vấn đề lý luận và thực tiễn hết sức quan trọng và rất phức tạp có nhiều ý kiến rất khác nhau về vấn đề này, do nội dung đề cập tương đối rộng đòi hỏi phải có sự thảo luận, nghiên cứu có quy mô và nghiêm túc. Tuy nhiên do khả năng kiến thức em khó có thể đề cập đầy đủ khía cạnh của vấn đề nay. Chắn em sẽ nhiều thiếu sót vì vậy em rất mong sự góp ý và chỉ bảo của thầy ! Em xin cảm ơn! Đặt vấn đề: Sở hữu và sở hữu nhà nước, lý do và tầm quan t

doc27 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1926 | Lượt tải: 1download
Tóm tắt tài liệu Quan hệ giữa sở hữu và thành phần kinh tế, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
rọng của việc nghiên cứu vấn đề này. Sở hữu là một phạm trù lịch sử, là hệ thống các quan hệ xã hội giữa người và người trong quá trình sử dụng TLSX. Sở hữu biến đổi tính chất của nó cùng với sự biến đổi của các hình thái kinh tế, xã hội tong lịch sử. Mỗi hình thái kinh tế xã hội có một hình thức sở hữu đặc trưng biểu hiện QHSX trong xã hội đó. Đây là một vấn đề có tính chất sống còn của mọi giai cấp, mọi tổ chức và cá nhân. Sở hữu về TLSX là cơ sở đầu tiên quyết định địa vị thống trị xã hội của giai cấp cầm quyền. Sở hữu là cơ sở kinh tế và là cơ sở pháp lý để các chủ thể thực hiện các quyền năng pháp lý của nhà nước. Đối với nước ta hiện nay, việc quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội không qua giai đoạn phát triển TBCN là một mô hình trước nay chưa từng có thì việc đòi hỏi phải củng cố và hoàn thiện một hệ thống lý luận khoa học sắc bén, trong đó có lý luận về vấn đề sở hữu" là tất yếu khách quan. Năm 1986 đât nước ta bắt đầu thực hiện đổi mới nền kinh tế từ cơ chế kế hoạch hóa tập trung sang cơ chế thị trường. Trong những năm đầu đổi mới, đất nước ta đã thu được những thành công nhất định tuy nhiên bên cạnh đó là một loạt những vấn đề nảy sinh. Trong đó, cải cách chế độ sở hữu nhà nước là một vấn đề hết sức nan giải nhưng không thể không tránh được. Những quan niệm về sở hữu nhà nước trước đây đã không còn phù hợp và hầu hết các doanh nghiệp này đều chưa thay đổi tư duy kinh tế, làm ăn kém hiệu quả buộc nhà nước phải dùng ngân sách để bù lỗ. Từ những quan điểm nêu trên, chúng ta có thể thấy rằng giải quyết sở hữu nhà nước là yêu cầu khách quan của nền kinh tế hàng hoá đặt ra, giảỉ quyết sở hữu nhà nước một cách đúng đắn sẽ tạo cơ sở vững chắc để tiếp tục sự nghiệp đổi mới kinh tế của đất nước. B. Giải quyết vấn đề: Phạm trù sơ hữu. Một số vấn đề lý luận về sở hữu nói chung. Trước khi đi vào phân tích nội dung của đề án em xin nhắc lại một số khái niệm về phạm trù sở hữu và sở hữu nhà nước : Sở hữu là quan hệ cơ bản nhất của con người trong quá trình sản xuất . Đó là sự chiếm hữu của một người hay một cộng đồng người đối với những thực thể của thế giới vật chất. Quan hệ sở hữu bao gồm quan hệ giữa chủ thể sở hữu với chủ thể sở hữu và chủ thể sở hữu với đối tượng sở hữu. Những quan hệ nay mang tính chất kinh tế xã hội, quyết đinh các hình thức phân phối tài sản, sản phẩm, thu nhập, giá trị giữa các chủ thể sở hữu. Quyền chiếm hữu là yếu tố đầu tiên, bao chùm của sở hữu. Nó tương đối ổn định, tĩnh tại nhưng đôi khi chỉ là quyền danh nghĩa. Đó là trường hợp chủ thể sở hữu không thực hiện được nó, không sử dụng nó mà giao lại cho người khác và chỉ giữ quyền thu nhập về sở hữu. Quyền sử dụng là quyền sử dụng đối tượng sở hữu theo mục đích và nguyện vọng của người sử dụng đối tượng sở hữu, có thể thống nhất ở một người hoặc phân chia giữa nhiều người. Điều này có nghĩa là người sử dụng đối tượng sở hữu có thể không phải là chủ sở hữu và ngược lại. Quyền định đoạt là quyền thực hiện toàn diện với đối tượng sở hữu theo bất cứ cách nào kể cả việc chuyển quyền sở hữu cho người khác, thậm chí từ bỏ nó. Trên thực tế người chủ sở hữu chỉ thực sự là chủ sở hữu khi người đó có quyền định đoạt đối tượng sở hữu. Sở hữu toàn dân là sở hữu trong đó của cải tự nhiên được toàn dân sử dụng, các thành viên trong xã hội có quyền ngang nhau trong việc sử dụng của cải này. Sở hữu nhà nước là một phần của sở hữu toàn dân (bao gồm những tài nguyên thiên nhiên, tư liệu sản xuất nhất định...) được chuyển cho cơ quan nhà nước điều hành và sử dụng theo ý chí của nhân dân, theo quyết định của cơ quan quyền lực đại diện cho nhân dân với những điều kiện nhất định. Sở hữu tập thể là hình thức sở hữu mà chủ thể sở hữu không phải là một các nhân cụ thể mà là một tập hợp người, một tập thể cùng sở hữu. Sở hữu tư nhân là hình thức chiếm hữu trong đó những sản phẩm lao động rơi vào tay chủ thể và khác với sở hữu các nhân sở hữu tư nhân có quy mô lớn hơn nhiều. Như chúng ta đã biết mỗi hình thái kinh tế xã hội có một hình thức sở hữu đặc trưng biểu hiện QHSX trong xã hội đó. Trong các tác phẩm của Mác luôn xuyên xuốt một quan điểm: Sở hữu không phải là vật dụng mà con người có quyền sở hữu nó, càng không phải là quan hệ của con người với vật dụng. Sở hữu là một quan hệ khách quan giữa người với người trong sản xuất. Trong lịch sử không có một hình thái sở hữu nào mà không phản ánh những quan hệ trong sản xuất. Theo cách diễn đạt của Mác thì sở hữu được thực hiện chỉ thông qua chính nền sản xuất. ” Nơi nào không có một hình thái sở hữu nào cả thì ở đó cũng không thể có một nền sản xuất nào cả ”. Sở hữu- đó là những quan hệ về các điều kiện khách quan của sản xuất, phân phối, trao đổi và tiêu dùng những của cải vật chất. Sở hữu là quan hệ kinh tế luôn ở trạng thái vận động, đối tượng của sở hữu cũng luôn biến đổi và ngày càng được mở rộng. Lịch sử cho thấy đối tượng chủ yếu của sở hữu đã từng chuyển dịch từ sở hữu nô lệ, đất đai sang sở hữu tư bản( sở hữu vốn ) dưới dạng sức lao động, tư liệu sản xuất (máy móc, thiết bị . . . ). Trong điều kiện nước ta hiện nay thì đối tượng chủ yếu của sở hữu là những tư liệu sản suất quan trọng như đất đai, tài nguyên, nhà máy, hầm mỏ, phương tiện kỹ thuật hiện đại. Chủ nghĩa Mác đã khẳng định: "Không thể xoá bỏ ngay tư hữu và thiết lâp ngay chế độ công hữu về TLSX ” Sự bình đẳng về mặt xã hội của con người trong mối quan hệ qua lại của họ đối với TLSX tức là sự chiếm hữu mà tiêu chí duy nhất của nó là lao động sống. Lực lượng sản xuất: Phản ánh trình độ chinh phục tự nhiên của con người, nó biểu hiện năng lực thực tiễn của con người trong quá trình tạo ra của cải vật chất. Lực lượng sản xuất xã hôi bao gồm: Tư liệu sản xuất và người lao động với những kinh nghiệm sản xuất, kỹ năng, kỹ xảo và thói quen lao động của họ. Trong sự phát triển của lực lượng sản xuất do công cụ lao động và trình độ khoa học-kỹ thuật (ngày nay trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp là động lực phát triển nhanh, mạnh) phát triển, trong đó kỹ năng, lao động của con người là quyết định. Con người là nhân tố trung tâm là mục đích của nền sản xuất xã hội. Trong điều kiện ngày nay, cuộc cách mạng khoa học - kỹ thuật - công nghệ rất phát triển, vị trí trung tâm của con người càng được nhấn mạnh. Do vậy, việc nâng cao dân trí là nhu cầu bức bách. Nó vừa là đòi hỏi của nền sản xuất xã hội, vừa là điều kiện để thúc đẩy nền sản xuất xã hội phát triển nhanh hơn. Chính quá trình phát triển của nền kinh tế quốc tế mà trực tiếp nhất, sâu xa nhất là sự phát triển của lực lượng sản xuất với các cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật là động lực thúc đẩy nhanh mạnh nhất, nó cho biết rằng các quyền gắn liền với phạm trù sở hữu đã có sự biến đổi đáng kể. Thường ở thời kỳ đầu (Như trong thời kỳ CNTB cạnh tranh tự do) thì 3 quyền trong quyền sở hữu (quyền sở hữu, quyền quản lý và quyền sử dụng)thống nhất trong một chủ thể. Sự xuất hiện của tư bản cho vay đã làm cho quyền sở hữu và quyền sử dụng tách rời nhau. Khi lực lượng sản xuất được xã hội hoá (trong điều kiện của kinh tế thị trường) thì 3 quyền trên tách rời giữa các chủ thể (khi đó lao động quản lý trở thành một nghề. Ví dụ trong công ty cổ phần, quyền sở hữu nằm trong tay các cổ đông, quyền điều hành chung thuộc Hội đồng quản trị, còn quyền quản lý trực tiếp thuộc về giám đốc(hoặc tổng giám đốc). Trong đó quyền sở hữu vẫn giữ vai trò quyết định chi phối quyền quản lý, sử dụng, phân phối. II. Sở hữu nhà nước: 1, Sở hữu nhà nước và các hình thức của sở hữu nhà nước. Về sở hữu nhà nước : Trước đây chúng ta thường dùng khái niệm sở hữu nhà nước với sở hữu toàn dân là một. Do nhầm lẫn như vậy, có thời gian dài người ta bỏ quên hình thức sở hữu nhà nước, chỉ quan tâm đặc biệt tới hình thức sở hữu toàn dân với chế độ công hữu tồn tại dưới hai hình thức sở hữu toàn dân và tập thể. Và cũng bởi vì sở hữu toàn dân gắn kết với sự phát triển của kinh tế quốc doanh. Vì vậy mà chúng ta đã ra sức quốc doanh hoá nền kinh tế với niềm tin cho rằng có như vậy mới có CNXH nhiều hơn. Trong một xã hội mà nhà nước còn tồn tại thì sở hữu toàn dân chưa có điều kiện vận động trên bề mặt của đời sống kinh tế nói chung. Hình thức sở hữu nhà nước, xét về tổng thể mới chỉ là kết cấu bên ngoài của sở hữu nhà nước ở nước ta, sở hữu nhà nước có thể tồn tại dưới các hình thức doanh nghiệp 100% vốn nhà nước, hoặc dưới hình thức doanh nghiệp mà vốn nhà nước nắm đa số hay nắm hàm lượng cổ phần chi phối, cổ phần đặc biệt hoặc có cổ phần trong các doanh nghiệp khác với hàm lượng chưa nhiều. Trong xã hội cộng sản nguyên thuỷ ở giai đoạn cuối do sự phát triển của LLSX sau ba cuộc phân công lao động xã hội (lần thứ 1, ngành trăn nuôi tách khỏi trồng trọt; lần thứ 2, thủ công nghiệp tách khỏi công nghiệp; lần thứ 3, với sự xuất hiện của tầng lớn thương nhân). Do năng xuất lao động đã lao hơn trước, con người có kinh nghiệm hơn v.v... Trong xã hội có sản phẩm dư thừa và xuất hiện những người chiếm đoạt của cải dư thừa đó và trở thành giàu có, (tư hữu riêng) đã đẩy nhanh quá trình phân hoá tầng lớp xã hội và giai cấp xuất hiện. Có giai cấp thì tất yếu có đấu tranh giai cấp. Để cuộc đấu tranh giai cấp nằm trong vòng trật tự nhất định không phá vỡ xã hội thì có một tổ chức đặc biệt ra đời để quản lý xã hội. Đó là nhà nứơc. Trong chế độ chiếm hữu nô lệ: Pháp luật của nhà nứơc chủ nô duy trì và bảo vệ chế độ sở hữu của chủ nô đối với tất cả các tư liệu sản xuất của xã hội ngay cả sở hữu bản thân người nô lệ (nô lệ là công cụ biết nói không được xem là người). ở đây, trình độ tư hữu của còn thấp nhưng tính chất khắc nghiệt và bất bình đẳng là tuyệt đối. Trong xã hội phong kiến: Sở hữu đẳng cấp phong kiến thể hiện rõ ở chế độ"phong tước, cấp điền" của các vua chúa phong kiến. Nhà nước và pháp luật phong kiến bảo vệ, duy trì chế độ sở hữu của địa chủ lãnh chúa phong kiến đối với ruộng đất và duy trì tình trạng nửa phong kiến của nông dân và giai cấp phong kiến. Trong chế độ tư bản chủ nghĩa: Trên cơ sở tan rã dần của sở hữu phong kiến đã xuất hiện và phát triển quan hệ sở hữu tư sản. Đó là chế độ chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất và bóc lột giá trị thặng dư (do công nhân làm thuê sáng tạo ra bị giai cấp tư sản chiếm không) Trong thời kỳ quá độ lên CNXH: Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin thì có 2 phương thức quá độ lên CNXH. Đối với những nước như nước ta quá độ lên CNXH từ một nước nghèo, lạc hậu chưa qua giai đoạn phát triển TBCN, thì nhất thiết cần có một thời kỳ lịch sử với sự tồn tại của đa thành phần kinh tế với đa hình thức sở hữu, trong đó có sở hữu tư nhân để sử dụng sức mạnh và ưu thế của các thành phần kinh tế trong nền kinh tế hàng hoá, tất cả nhằm tạo ra tiền đề xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cần thiết cho CNXH. Mặc dù vậy, trong sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá ở nước ta hiện nay nhằm phát triển LLSX thì sở hữu nhà nước, kinh tế nhà nước vẫn giữ vai trò chủ đạo để định hướng cho sở hữu tư nhân nói riêng và nền kinh tế nước ta nói chung đi theo đúng quĩ đạo. 2, Quá trình hình thành và phát triển sở hữu nhà nước ở Việt Nam. a. Giai đoạn 1945 – 1959: Cách mạng tháng tám thành công ngày 02/9/1945 nước Việt Nam dân chủ cộng hoà, một nhà nước công - nông đầu tiên ở khu vực Đông Nam á ra đời với mục tiêu xây dựng một chế độ xã hội mới theo con đường phát triển của chủ nghĩa cộng sản. Hiến pháp 1946 đã tạo cơ sở pháp lý và từ đây quyền sở hữu tài sản riêng của công dân trở thành quyền hiến định. Nhiệm vụ cấp bách của cách mạng Việt Nam lúc đó phải xoá bỏ quyền sở hữu đối với tư liệu sản xuất quan trọng của thực dân Pháp, của các đế quốc khác, các thế lực phản động và thù nghịch, của giai cấp địa chủ phong kiến Pháp luật giai đoạn 1945 - 1959 đã tạo ra những tiền đề quan trọng trong việc xác lập quan hệ sở hữu mới dưới chính quyền dân chủ nhân dân. Từ đó xây dựng cơ sở vật chất bảo đảm cho sự tồn tại và phát triển của chế độ mới. Trong giai đoạn này ta đã dùng chính quyền vô sản làm công cụ cải tạo xã hội thiết lập quan hệ sản xuất XHCN, chúng ta coi công hữu là mục tiêu. b. Giai đoạn 1959 – 1960: Miền Bắc tiến lên CNXH, còn miền nam tiếp tục tiến hành cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trong điều kiện mới để đi đến cuộc tổng tiến công và nổi dậy ngày 30/4/1975 giải phóng miền Nam, thống nhất tổ quốc, cả nước đi lên CNXH. Miền Bắc về cơ bản hoàn thành cải tạo XHCN đối với các thành phần kinh tế phi XHCN. Nhiệm vụ chủ yếu thời kỳ này ta xác lập và hoàn thiện chế độ sở hữu XHCN ở miền Bắc. Điều 12, hiến pháp 1959 khẳng định "Kinh tế quốc doanh thuộc sở hữu toàn dân giữ vai trò lãnh đạo nền kinh tế quốc dân". Trong đó tồn tại các hình thức sở hữu là: Sở hữu nhà nước, sở hữu của các nhà tư sản dân tộc, sở hữu của tiểu thương, thợ thủ công, hộ nông dân cá thể; sở hữu tập thể của các HTX, được quy định tại điều 11 Hiến pháp 1959... thực hiền các Nghị quyết Đại hội Đảng, lần thứ III, IV, là vừa xây dựng vừa cải tạo, trong cải tạo có xây dựng sở hữu thời kỳ này tạo tiền đề quan trọng có ý nghĩa to lớn cho thời kỳ tiếp theo. c. Giai đoạn 1980 – 1986: Hiến pháp 1980 thay thế hiến pháp 1959 đã ghi nhận phạm vi và bản chất của sở hữu toàn dân. Trong đó tại các điều 18, 19, 23, 24, 27 của hiến pháp 1980 đã quy định các hình thức sở hữu cơ bản sau: Sở hữu toàn dân đối với đất đai, hầm mỏ, rừng núi sông hồ... (Điều 19); Sở hữu tập thể; sở hữu của công dân. Tuy nhiên, xét về thực tế nước ta quá độ lên CNXH từ một nước nông nghiệp lạc hậu, trình độ lực lượng sản xuất thấp kém, năng suất lao động thấp, dân trí thấp vv... Còn về chủ quan, do quá nhiệt tình, cộng với sự thiếu hiểu biết nhận thức không đúng nhiều luận điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, nên đã tuyệt đối hoá tính hơn hẳn của sở hữu XHCN. Một thời gian dài chúng ta đã định kiến với sở hữu cá nhân của người lao động, thậm chí coi nó là hình thức đối lập với XHCN, là mầm mống khôi phục chế độ bóc lột. Thật ra, sở hữu cá nhân không biến thành tư bản, không biến thành công cụ để bóc lột người lao động. Sở hữu cá nhân chủ yếu đối với các vật phẩm tiêu dùng, nhằm thỏa mãn các nhu cầu của người lao động phụ thuộc vào trình độ của sở hữu xã hội. Trong "tuyên ngôn Đảng cộng sản" đã chỉ ra "Chúng tôi cần gì phải xoá bỏ sở hữu ấy, sự tiến bộ của công nghiệp đã xoá bỏ và hàng ngày vẫn tiếp tục xoá bỏ cái đó rồi. Do nhấn mạnh đề cao, tuyệt đối hoá vai trò và tính ưu việt của kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể (HTX) nên đến một thực tế. Năng suất lao động thấp kém, hàng hoá khan hiếm thiếu lương thực, khủng hoảng kinh tế, xã hội. Trước tình hình đó Đảng ta đã nhìn nhận lại, nhận thức lại và thừa nhận sai lầm khuyết điểm do chủ quan nóng vội muốn có ngay CNXH và vận dụng quy luật kinh tế sai (đặc biệt là quy luật quan hệ sản xuất - lực lượng sản xuất). Từ đây, đường lối đổi mới toàn diện của Đảng cộng sản Việt Nam được tập trung trong văn kiện Đại hội VI (1986) và tiếp tục sau này được các Đại hội VII, VIII khẳng định là: Chúng ta xây dựng nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng XHCN. d: Cơ cấu sở hữu trong nền kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay: Chúng ta tiến hành công cuộc đổi mới, tiến hành hoàn thiện quan hệ sản xuất XHCN, trước hết là điều chỉnh các hình thức sở hữu vốn có, là kết hợp một cách tối ưu các lợi ích. Lợi ích cá nhân, lợi ích tập thể với lợi ích của nhà nước. Sự đa dạng hoá các hình thức sở hữu việc phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần không phải là"thụt lùi" không làm "Mất CNXH" như một số người lầm tưởng mà chính là một chủ trương lớn để khai thác, phát huy mọi tiềm năng của toàn xã hội cũng như tranh thủ các nước và các tổ chức quốc tế. Cơ sở lý luận của việc xác lập tính đa dạng các hình thức sở hữu thể hiện ở luận điểm của C.Mác và Ănghen cho rằng các hình thức sở hữu đựơc xác lập bởi trình độ xã hội hoá sản xuất. Vì vậy, chủ trương phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, đa dạng hoá sở hữu là một thành tựu lớn cả về lý luận và thực tiễn của công cuộc đổi mới. Với những thành tựu đáng mừng về kinh tế - xã hội của đất nước ta sau hơn 10 năm đổi mới đã chứng tỏ đường lối đổi mới của Đảng là hoàn toàn đúng đắn, hợp lý. Thực tế cũng cho thấy một nền kinh tế nhiều thành phần đương nhiên phải bao gồm nhiều hình thức sở hữu để phù hợp với tính chất đặc điểm của từng thành phần kinh tế và phù hợp cũng như khai thác, thúc đẩy được các yếu tố của lực lượng sản xuất ở các trình độ khác nhau phát triển. Khi thực hiện chính sách đổi mới của Đảng, Nhà nứơc ta đã ban hành nhiều văn bản pháp luật thể chế hoá về sở hữu phản ánh trình độ xã hội hoá của lực lượng sản xuất nước ta còn thấp không đồng đều. Vì thế ứng vói nó là các hình thức sở hữu đa dạng. Bởi vì: phát triển nền kinh tế - xã hội, nâng cao đời sống nhân dân, thực hiện dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng văn minh là mục đích cuối cùng của chế độ xã hội ta. Trong phạm vi hẹp có thể coi sở hữu là một trong những phương tiện để đạt mục tiêu này và bước đầu thực hiện CNH, HĐH đất nước (văn kiện hội nghị đại biểu giữa nhiệm kỳ khoá VII 1/1994) vai trò của mỗi hình thức sở hữu trong một chế độ sở hữu có ý nghĩa và tác dụng khác nhau trong nền kinh tế quốc dân. Điều 15, hiến pháp 1992, quy định"cơ cấu kinh tế nhiều thành phần với các hình thức tổ chức sản xuất - kinh doanh đa dạng dựa trên chế độ sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể, sở hữu ta nhân trong đó sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể là nền tảng". Ta lần lượt xem xét xu hướng vận động và biến đổi của các hình thức sở hữu, ở nước ta hiện nay. 3, Đánh giá về việc thực hiện sở hữu nhà nước ta hiện nay. a. Thực trạng sở hữu nhà nước thuộc các doanh nghiệp nhà nước: Sở hữu nhà nước và gắn liền với nó là khu vực kinh tế nhà nước luôn được Đảng và nhà nước ta xác định giữ vai trò chủ đạo trong hệ thống sở hữu và trong nền kinh tế quốc dân. Nhưng thực trạng sở hữu nhà nước hiện nay ra sao ? Hiệu quả của các doanh nghiệp nhà nước trong nền kinh tế thị trường như thế nào? Rất nhiều lời giải đáp cho những câu hỏi này thường xuyên được đăng trên các tạp trí chính trị, kinh tế khoảng chục năm trở lại đây. Sở dĩ như vậy là bởi vì những câu hỏi này rất nóng, rất thời sự . Tìm ra câu trả lời cho những câu hỏi này đồng nghĩa với việc xác định các doanh nghiệp nhà nước đang đứng ở đâu, đang có trong tay những gì và những doanh nghiệp này đang và sẽ phải đương đầu với những thách thức gì ? Qua hơn mười năm thực hiện đổi mới, tính đến cuối tháng sáu năm 1998 cả nước còn 5700 doanh nghiệp nhà nước. Hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp đã được nâng lên. Tốc độ tăng trưởng GDP của các doanh nghiệp nhà nước gần gấp rưỡi so với bình quân toàn nền kinh tế và gấp đôi so vứi khu vực kinh tế ngoài quốc doanh. Tỷ trọng của doanh nghiệp nhà nước trong thu nhập quốc dân tăng từ 32% năm 1990 lên 42% năm 1996. Các doanh nghiệp nhà nước đã đóng góp một phần không nhỏ cho ngân sách nhà nước. Tuy nhiên mức đóng góp đó hoàn toàn chưa tương xứng với sự đầu tư, sự mong đợi của nhà nước và phần lớn có được là từ thuế doanh thu, thuế tiêu thụ đặc biệt chỉ có một phần rất nhỏ là từ thuế lợi nhuận. Số lượng các doanh nghiệp nhà nước vẫn còn quá nhiều và bố trí không được hợp lý, hiệu quả sử dụng vốn không cao. Quy mô của các doanh nghiệp nhà nước còn quá nhỏ bé, gần 40% tổng số các doanh nghiệp nhà nước có vốn dưới một tỉ đồng. Hầu hết công nghệ kỹ thuật của các doanh nghiệp rất lạc hậu, các máy móc, thiêt bị phần lớn thuộc thập kỷ 60 thậm trí lâu hơn thế. Việc quản lý đối với các doanh nghiệp nhà nước còn rất nhiều yếu kém và không nhất quán. Hệ thống quản lý hành chính địa phương, trung ương và hệ thống quản lý các doanh nghiệp theo ngành không rõ ràng, chồng chéo lên nhau ảnh hưởng nghiêm trọng tới quyền tự chủ, khả năng quyết đoán trong kinh doanh của các doanh nghiệp. Rất nhiều doanh nghiệp chưa thích ứng kịp với cơ chế mới nên không có khả năng trụ lại trước sự cạnh tranh và thử thách khắc nghiệt của thị trường. Cụ thể là 40% trong tổng số các doanh nghiệp nhà nước hiện nay đang ở trong tình trạng thua lỗ. b, Thực trạng sở hữu nhà nước thuộc các doanh nghiệp ngoài quốc doanh : Tuy mới chỉ xuất hiện ở nước ta hơn chục năn trở lại đây nhưng khu vực kinh tế liên doanh với nước ngoài tăng lên nhanh chóng cả về tuyệt đối lẫn tương đối. Tỷ trọng đóng góp trong GDP của khu vực liên doanh năm 1997 là : 6,1 %, năm 1998 : 8,2 %, năm 1999 là : 9,8 %, năm 2000 là : 11,1 %. Hầu hết các doanh nghiệp này đều làm ăn có hiệu quả, giải quyết một lượng lớn việc làm cho người lao động đặc biệt là lao động dư thừa ở nông thôn, cho phép tận dụng vốn và công nghệ hiện đại của nước ngoài. Năm 1996 vốn nước ngoài trực tiếp đầu tư thông qua liên doanh chiếm 18,6 %, năm 1997 là 20,3 % trong tổng số vốn đầu tư của cả nước ( so với các nưởctrong khu vực thì tốc độ đầu tư của nước ngoài như vậy vẫn còn thấp và hiện nay đang có xu hướng chững lại). Bên cạnh những thành tựu đã đạt được, những năm gần đây trong các doanh nghiệp liên doanh nổi cộm lên rất nhiều điều bất hợp lý cần được nhanh chóng làm rõ ràng và giải quyết chiệt để. Năm 1997-1998 một loạt các công ty liên doanh như : P & G, công ty CocaCola Việt Nam, công ty BGI lần lượt tuyên bố lỗ lớn và đề nghị giải pháp chuyyển sang 100% vốn nước ngoài. Sự thua lỗ hàng loạt ở các liên doanh trên đã làm cho dư luận nghi ngờ dẫn đến nhiều ý kiến khác nhau thậm trí trái ngược về hình thức đầu tư này.Vẫn biết được thua, lỗ lãi là việc rất bình thường sự cạnh tranh của kinh tế thị trường, có thể xẩy ra đối với bất cứ doanh nghiệp nào làm ăn không hiệu quả chứ không hề phụ thuộc vào hình thức sở hữu của doanh nghiệp đó. Nhưng hàng loạt các công ty liên doanh (phía đối tác nước ngoài rất nổi tiếng, có nhiều kinh nghiệm cạnh tranh trên thị trường thế giới ) tuyên bố lỗ nặng thì quả là không bình thường, và liệu tình hình trên có còn tiếp tục hay không, nguyên nhân của nó là gì, đã có rất nhiều ý kiến khác nhau trong việc trả lời câu hỏi trên. Có ý kiến cho rằng nguyên nhân hiện tượng trên là do thị trường Việt Nam còn quá nhỏ bé trong khi đó các dự án đầu tư của cùng một loai sản phẩm lại quá nhiều hay định hướng đầu tư của Việt Nam chưa tốt. Nhiều người khác lại đưa ra ý kiến cho rằng, các công ty nước ngoài đã lợi dụng thậm chí đã lừa gạt phía đối tác Việt Nam, bắt đầu từ việc liên doanh, rồi cố tình tạo ra thua lỗ nặng để cuối cùng xin đổi sang 100% vốn nước ngoài. Trong khi trước đó doanh nghiệp Việt Nam đã giúp phía nước ngoài lo các thủ tục pháp lý, lập văn phòng, giúp làm quen và định hướng thị trường Việt Nam. Phía Việt Nam do góp vốn ít 30%-40%, chủ yếu là góp bằng quyền sử dụng đất, thường bị thao túng và không được điều hành, có rất nhiều khoản chi phí không theo kế hoạch như đã được duyệt trước khi ký giấy phép. Đặc biệt là chi phí : chi phí cho quảng cáo sản phẩm, trả lương cho người nước ngoài, chuyên gia tư vấn, hội họp... ví dụ như công ty P&G đã tự ý chi 31% doanh thu cho quảng cáo, khuyến mại như vậy là đã vượt quá 26% tổng doanh thu cho công viềc này. Kế hoạch là sử dụng 6 người nước ngoài nhưng thực tế họ lại sử dụng 16 người với mức lương rất cao và chi phí 11 tỷ đòng cho chuyên gia tư vấn. Máy móc thiết bị và nguyên liệu của liên doanh đều được mua theo địa chỉ đã được chỉ định từ phiá nước ngoài. Lợi dụng sự thiếu thông tin về giá cả (vô ý hoặc cố ý ) của phía Việt Nam phia nước ngoài mặc sức đưa vào liên doanh những máy móc thiết bị đã được tân trang và khống giá lên rất cao so với thực tế. Sau khi khảo sát 42 doanh nghiệp liên doanh, bộ lao động và thương binh xã hội đã phát hiện 76% may móc thuộc thế hệ những năm 50 -60, 70% máy móc đã hết khấu hao, 50% thiết bị đã được tân trang. Trong khi các doanh nghiệp liên doanh sau khi chuyển sang 100% vốn nước ngoài thì họ đã có sẵn một thị phần, sản phẩm của họ đã được người Việt Nam biết tới. Một cán bộ cao cấp của GMX - công ty tư vấn quốc tế đang thực hiên dự án hỗ trợ chuyển giao công nghệ tại Việt Nam đã nhận xét như sau :” Liên doanh có lỗ cũng là lẽ thường, có thể lỗ trong những năm đầu để lãi trong những năm sau, vấn đề là Việt Nam không đủ trường vốn để làm đối tác cùng chịu lỗ với họ thì không nên liên doanh mà nên theo hình thức nước ngoài đầu tư 100% vốn “. Tiếp đó là một vấn đề rất nhạy cảm tại các liên doanh hiện nay đó là : sự xâm phạm nhân quyền của công nhân Việt Nam. Tác phong làm việc của công nhân Việt Nam từ lâu vẫn chậm chạp chưa đáp ứng được những đòi hỏi của các “ông chủ “ nước ngoài, một số người lại không nghiêm túc, làm giả ăn thật, trộm cắp... Trong khi đó các nước Tư Bản lại có thói quen trừng phạt nghiêm khắc đối với những hành vi này và ở một số doanh nghiệp sự trừng phạt này đã đi quá đà dẫn đến xung đột giữa người nước ngoài với người địa phương. Như vậy lỗi lầm nay không hoàn toàn thuộc về một bên nào. Tuy nhiên tranh cãi đúng sai hoặc thổi phồng vấn đề lên sẽ không thể cải thiện tình hình tốt hơn được mà chỉ làm cho tình hình nghiêm trọng, rắc rối hơn. Nếu tính từ thời điểm doanh nghiệp nhà nước đầu tiên thực hiện cổ phần hóa (doanh nghiệp Đại lý liên hiệp vận chuyển bán 82% cổ phần, nhà nước chỉ giữ lại 18% cổ phần) đến nay đã được gần 9 năm. Tính đến ngày 13-12-2000 đã có 525 doanh nghiệp nhà nước thực hiện cổ phần hóa. Tổng số vốn của 18 doanh nghiệp đầu tiên thực hiện cổ phần là 121318 triệu đồng. Các doanh nghiệp này đã thu được những thắng lợi rât đáng khích lệ. Vốn bình quân tăng 45%/năm, doanh thu tăng 56,9 %/năm, lợi nhuận tăng bình quân 70,2%/năm, các khoản nộp ngân sách tăng 98%, thu nhập người lao động tăng 20%/năm, tỉ suất lợi nhuận so với vốn tăng 74,6%. Phương thức quản lý thay đổi, chế độ thành lập hội đồng quả trị theo tỷ lệ cổ phần, bầu chọn giám đốc và các chức danh khác đã làm cho đội ngũ lãnh đạo này có trách nhiệm cao hơn, quyền lợi gắn liền với trách nhiệm. Tình trạng lãng phí, mất mát tài sản giảm xuống nhanh chóng. Thu nhập của công nhân tăng lên bình quân là 700.000 nghìn đồng/tháng, tạo ra một không khí nhiệt tình sản xuất. Tuy nhiên quá trình cổ phần hoá hiện nay tiến triển rất chậm và rụt rè do quan điểm cổ phần hoá vẫn chưa thống nhất. Ai đại diện cho số cổ phần của nhà nước, xác định đối tượng và giá trị các doanh nghiêp cổ phần, bán cổ phần cho các nhà đầu tư nước ngoài với tỉ lệ bao nhiêu, tiền bán cổ phần được sử dụng vào đâu, giải quyết lượng lao động bị cắt giảm khi thực hiện cổ phần như thế nào đến nay vẫn chưa có giải pháp thực sự hợp lý, khoa học. Có một số quan niệm lệch lạc đánh giá chưa đúng về vai trò của cổ phần hoà cho rằng cổ phần hoá là đi chệch với định hướng XHCN hay chỉ cần cổ phần hoá các doanh nghiệp lỗ còn các doanh nghiệp làm ăn có lãi thì không cần cổ phần. Các doanh nghiệp sau cổ phần thường bi. coi như “ con nuôi “, bị phân biệt đối xử và bất bình đẳng so với các doanh nghiêp nhà nước đặc biệt là trong chính sách về vay vốn, tín dụng, thuế... III. Các giải pháp cơ bản giải quyết sở hữu nhà nước ta hiện nay: 1, Tiếp tục phát triển và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước. Trong 5 năm tới, phấn đấu hoàn thành cơ bản việc sắp xếp, cơ cấu lại các DNNN hiện cũ, đồng thời lựa chọn thành lập mới những DNNN ở các ngành, lĩnh vực và địa bàn quan trọng thật sự cần thiết. Thực sự tập trung cho sự phát triển của DNNN ở những ngành, lĩnh vực then chốt và địa bàn quan trọng. Trong những ngành, lĩnh vực then chốt và địa bàn quan trọng, DNNN nói chung cần có quy mô lớn, đợc Nhà nớc tạo điều kiện đầu tư đủ vốn cho hoạt động, công nghệ sản xuất và quản lý được hiện đại hoá; một bộ phận giữ vốn nhà nớc 100%, bộ phận còn lại phần lớn có cổ phần nhà nước chi phối.Phải làm cho DNNN trong các ngành và lĩnh vực này nhanh chóng mạnh lên, làm đòn bẩy đẩy nhanh sự phát triển của toàn bộ nền kinh tế . Tiếp tục thực hiện cổ phần hoá bộ phận DNNN mà Nhà nớc không cần giữ 100% vốn là một hướng quan trọng để thực hiện có hiệu quả vốn đầu tư thuộc sở hữu nhà nớc, tạo động lực cho hoạt động kinh doanh, thu hút thêm vốn đầu tư của xã hội, phát huy vai trò làm chủ xí nghiệp và kinh tế của người lao động tại doanh nghiệp và tăng cường sự kiểm soát của xã hội, chống lãng phí, tham nhũng có hiệu quả. Phần vốn thuộc diện do bán cổ phần thu được chỉ được dùng để hỗ trợ, đầu tư cho chính các công ty cổ phần hoá và một phần để đầu tư cho các lĩnh vực sản xuất, kinh doanh quan trọng của DNNN. Cần bổ sung, sửa đổi chính sách đối với doanh nghiệp và người lao động sau khi cổ phần hoá; quy định phơng thức tiến hành cổ phần hoá; quy định về sự lãnh đạo của tổ chức cơ sở đảng trong DNNN sau cổ phần hoá. Chấm dứt sự phân biệt đối xử đối với những DNNN sau khi đã cổ phần hoá. Đối với những DNNN có quy mô nhỏ không nằm trong những ngành, lĩnh vực then chốt, sớm thực hiện việc giao, bán hoặc khoán kinh doanh, cho thuê, làm cho các doanh nghiệp này có khả năng sống động trong cơ chế thị trờng, tiếp tục duy trì hoạt động và tạo thêm việc làm cho xã hội. Để tăng được sức cạnh tranh của DNNN, trong vài ba năm tới thực hiện những giải pháp đồng bộ và kiên quyết để xử lý dứt điểm tình trạng nợ nần tồn đọng lớn, làm lành mạnh hoá tình hình tài chính của DNNN, trớc hết là đối với những DNNN có quy mô lớn trong các ngành, lĩnh vực then chốt. Đối với số lao động dư thừa, có kế hoạch khẩn trương, chủ động và cơ chế, chính sách phù hợp để trong khoảng vài ba năm cơ bản có thể chuyển hết số lao động này ra khỏi doanh nghiệp, sau đó tiếp tục giải quyết dần. Đồng thời, đối với số doanh nghiệp mà Nhà nớc có 100% vốn hoặc có cổ phẩn chi phối, cần có chương trình và cơ chế, chính sách phù hợp để đổi mới, hiện đại hoá công nghệ sản xuất và quản lý, nâng cao trình độ của công nhân và trình độ đội ngũ cán bộ quản lý tại doanh nghiệp, coi đây là vấn đề sống còn để nâng cao chất lợng sản phẩm, giảm chi phí sản xuất, tăng sức cạnh tranh của DNNN . Thực hiện chế độ công ty đối với các doanh nghiệp có vốn nhà nước (công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên là Nhà nuớc, hoặc công ty cổ phần có vốn nhà nước) và tổ chức các Công ty đầu tư tài chính Nhà nước theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 4 (khoá VIII). Theo chế độ công ty, Nhà nước không giao vốn mà chuyển sang phương thức đầu tư vốn cho doanh nghiệp thông qua Công ty đầu tư tài chính Nhà nuớc, đồng thời doanh nghiệp tự bổ sung vốn thông qua thị trường vốn; vốn và tài sản của ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc35268.doc
Tài liệu liên quan