- Mục lục -
Nội dung:
Trang:
A. Phần mở đầu
B. Nội dung
I. Phạm trù sở hữu
Khái niệm sở hữu
Đối tượng sở hữu
Cơ cấu sở hữu
Quan hệ sở hữu
Đổi mới cơ cấu sở hữu trong thời kỳ quá độ
II. Các thành phần kinh tế ở Việt Nam
Cơ sở khách quan tồn tại nhiều thành phần kinh tế
Các thành phần kinh tế
Thực trạng và một số biện pháp đặt ra với thành phần kinh tế nước ta.
III. Mối quan hệ giữa sở hữu và các thành phần kinh tế
Các hình thức sở hữu trong thời kỳ quá độ
Mối quan hệ
17 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1839 | Lượt tải: 1
Tóm tắt tài liệu Quan hệ giữa sở hữu và các thành phần kinh tế, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
giữa sở hữu với thành phần kinh tế
IV. Một số vấn đề cần giải quyết
Giải quyết vấn đề sở hữu để tạo động lực phát triển trong thời kỳ đổi mới
Nắm vững định hướng XHCN trong việc xây dựng kinh tế nhiều thành phần
Một số vấn đề tiếp tục phát triển
C. Kết luận
1
2
2
2
3
3
4
4
5
5
5
9
10
10
10
13
13
14
14
16
a. mở đầu
Sau khi đất nước ta bước vào công cuộc đổi mới toàn diện, vấn đề sở hữu đã có sự thay đổi theo chiều hướng có lợi cho việc phát triển và đảm bảo lợi ích cho người lao động. Với sự tồn tại của nền kinh tế sản xuất hàng hoá nhiều thành phần, quan hệ sở hữu khác nhau người lao động có điều kiện tự do sản xuất, kinh doanh, phát huy tính năng động sáng tạo của mình, tìm được nơi làm việc thích ứng với hoàn cảnh sinh sống và năng lực của mình,bảo đảm cho lợi ích tốt hơn. Kinh tế thị trường với nhiều thành phần kinh tế, sở hữu quy định tính chất của các hình thức tổ chức kinh doanh và dựa vào đây để phân định các thành phần inh tế. Trong bài này tôi chỉ muốn trình bày vấn đề quan hệ giữa sở hữu và các thành phần kinh tế. Đại hội VI đã xác định quan điểm chính sách sử dụng và cải tạo các thành phần kinh tế trong thời ký quá độ lên chủ nghĩa xã hội của nước ta. Những chủ trương chính sách đó đã được cụ thể hoá và thể chế hoá trong nhiều văn bản pháp quy cuả Nhà nước. Được thực tiễn những năm qua kiểm nghiệm. Đồng thời cuộc sống cũng đòi hỏi phải tiếp tục làm rõ nhiều khía cạnh lý luận và đề ra một hệ thống chính sách cụ thể chung quanh vấn đề sở hữu và các thành phần kinh tế nhằm huy dộng mọi nguồn lực trong và ngoài nước, phục vụ sự nghiệp phát triển kinh tế, văn hoá, vì cuộc sống ấm no hạnh phúc của nhân dân.
Xem xét vấn đề "Quan hệ sở hữu và các thành phần kinh tế" là đi sâu vào nghiên cứu nhiều đề tài khoa học giúp ích cho việc xây dựng nền kinh tế thị trường phát triển theo định hướng XHCN.
Quá trình tiếp cận thông tin chưa được đầy đủ, đề án này còn nhiều hạn chế nên em rất mong được sự giúp đỡ của thầy giáo hướng dẫn.
Em xin trân thành cảm ơn !
B. Nội dung
I. Phạm trù sở hữu
1. Khái niệm sở hữu :
Con người sinh ra từ tự nhiên. Để tồn tại và phát triển, con người dựa vào tự nhiên, chiếm hữu tự nhiên để thoả mãn nhu cầu nhất định. Chiếm hữu là một phạm trù khách quan, tất yếu, vĩnh viễn, là điều kiện trước tiên của hoạt động lao động sản xuất. Chủ thể chiếm hữu là cá nhân, tập thể và xã hội. Đối tượng của sự chiếm hữu từ buổi ban đầu của loài người là những cái có sẵn trong tự nhiên. Cùng với sự phát triển của lực lượng sản xuất, các chủ thể không chỉ chiếm hữu tự nhiên mà cả xã hội, tư duy (trí tuệ), thân thể, chiếm hữu những cái hữu hình và cả chiếm hữu vô hình ... trong kinh tế, chiếm hữu không chỉ giới hạn bởi sự chiếm hữu đầu tiên (yếu tố và điều kiện của sản xuất) mà còn chiếm hữu qua phân phối, trao đổi và tiêu dùng.
Sở hữu là hình thức xã hội của sự chiếm hữu của cải. Phạm trù sở hữu khi được thể chế hoá thành quyền sở hữu được thực hiện thông qua một cơ chế nhất định gọi là chế độ sở hữu. Sở hữu là quan hệ cơ bản nhất của con người trong quá trình sản xuất, đó là sự chiếm hữu của một người hay một cộng đồng người đối với thực thể cua thế giới vật chất. Với đặc trưng thuộc về chủ thể sở hữu, đối tượng sở hữu do chủ thể sở hữu chiếm hữu tường xuyên hay tạm một phần hay tất cả.
Sở hữu là một phạm trù lịch sử, là hệ thống quan hệ xã hội giữa người và người trong quá trình sử dụng tư liệu sản xuất. Sơ hữu biến đổi tính chất của nó cùng với sự biến đổi các hình thái kinh tế xã hội trong lịch sử. Mỗi hình thái kinh tế xã hội có một hình thức sở hữu đặc trưng, biểu hiện bản chất của quan hệ sản xuất trong xã hội đó.
Chế độ sở hữu là vấn đề căn bản nhất của một chế độ kinh tế – xã hội. Chỉ có giải quyết đúng đắn vấn đề sở hữu mới có căn cứ giải quyết vấn đề động lực, lợi ích, chính trị, pháp quyền. Chế độ sở hữu do đó trở thành vấn đề then chốt cuả các hoạt động kinh tế mà Nhà nước phải đặt ra và giải quyết đầu tiên.
2. Đối tượng của sở hữu :
Nếu xét đối tượng của sở hữu trong xã hội loài người phát triển từ xưa đến nay thì thấy rằng: trong xã hội nô lệ, đối tượng của của sở hữu là con người – con người nô lệ, con người bị chiếm hữu và chiếm dụng. Bởi vậy bạo lực trực tiếp, hàng ngày đã trở thành một yếu tố gắn chặt với quanhệ sở hữu. Các chủ nô đàn áp bóc lột sức lao động của người nô lệ, mua bán họ, biến họ thành “công cụ biết nói”. Còn trong chế độ phong kiến, ruộng đất là đối tượng của sở hữu – các vua chúa phong kiến là người sở hữu tối cao về ruộng đất và một tài sản khác của đất nước. Người nông nô canh tác cật lực trên ruộng đất là để phục vụ lãnh chúa phong kiến, chứ bản thân họ không có quyền sở hữu nào.
Trong xã hội tư bản đối tượng sở hữu trước hết là các tư liệu sản xuất đặc biệt là công cụ lao động, công cụ này bị tách khỏi người lao động và độc lập với họ. Trong chế độ này dù có tiến bộ hơn chế độ trước, nhưng cũng không khắc phục được sự tách rời giữa người sản xuất với tư liệu sản xuất, tức là vẫn chưa đạt đến chỗ người sản xuất với tư liệu sản xuất thống nhất lại trong cùng một nhân vật để trở thành một sở hữu đầy đủ.
3. Cơ cấu sở hữu
Lịch sử phát triển loài người đã lần lượt chứng kiến và khảo nghiệm tính đa dạng và tính nhất thời của tất cả các hình thức, các kiểu sở hữu từng xuất hiện. Hình thức sở hữu đầu tiên là công hữu, sau đó do sự phát triển của lực lượng sản xuất, có sản phẩm dư thừa, có kẻ chiếm làm của riêng, xuất hiện tư hữu. Đó là hai hình thức sở hữu cơ bản thể hiện ở mức độ, quy mô và phạm vi sở hữu khác nhau, phụ thuộc vào trình độ phát triển của lực lượng sản xuất và lợi ích cua chủ sở hữu chi phối. Chẳng hạn, công hữu thể hiện thông qua sở hữu Nhà nước, sở hữu toàn dân; sở hữu tư nhân thể hiện ở tư bản tư hữu lớn, tư hữu nhỏ. Ngoài ra còn có hình thức sở hữu hỗn hợp. Nó phát sinh tất yếu do yêu cầu phát triển của lực lượng sản xuất cũng như quá trình xã hội hoá nói chung đòi hỏi. Đồng thời, nhằm thoả mãn nhu cầu, lợi ích ngày càng tăng và khắc phục sự bất lực, yếu kém của các chủ thể kinh tế trong quá trình sản xuất kinh doanh. Sở hữu hỗn hợp hình thành thông qua hợp tác, liên doanh, liên kết tự nguyện, phát hành mua bán cổ phiếu ...
4. Quan hệ sở hữu:
Quan hệ sở hữu là quan hệ giữa người với người, quan hệ giữa các giai cấp với nhau, biểu hiện thông qua các mối quan hệ giữa vật với vật. Quan hệ sở hữu xác định tài sản thuộc về ai, được định đoạt và sử dụng như thế nào. Đó chính là một loại quan hệ kinh tế, biểu hiện cụ thể mối quan hệ giữa con người với con người về mặt chiếm hữu tư liệu sản xuất. Quan hệ sở hữu tồn tại khách quan trong mọi chế độ xã hội và gắn liền với QHSX, là một trong những biểu hiện cụ thể của QHSX.
Mỗi chế độ xã hội khác nhau có một cách xử lý khác nhau về quan hệ sở hữu và phương thức chiếm hữu tư liệu sản xuất, tức là có chế độ sở hữu khác. Quan hệ sở hữu biểu hiện mối quan hệ giữa chủ thể sơ hữu và đối tượng sở hữu.
5. Đổi mới cơ cấu sở hữu trong thời kỳ quá độ :
- ở nước ta, nhiều năm trước đây đã ồ ạt xoá bỏ chế độ tư hữu, xác lập chế độ công hữu về tư liệu sản xuất dưới hai hình thức sở hữu toàn dân và sơ hữu tập thể. Đại hội lần thứ VI của Đảng đã phát hiện và kiên quyết thông qua đổi mới để khắc phục sai lầm đó, bằng cách thừa nhận vai trò và sự tồn tại của hình thức tư hữu trong tính đa dạng các hình thức sở hữu. Đây là một bước ngoặt mang tầm vóc chiến lược mới, thể hiện sự đổi mới từ gốc của Đảng ta.
- Với tư cách là nền tảng kinh tế của một chế độ xã hội, vì vậy việc xác lập chế độ sở hữu phải trên cơ sở định hướng XHCN, để tiến tới mục tiêu của CNXH.
- Phải xuất phát từ trình độ phát tiển của lực lượng sản xuất để đổi mới và xác lập các hình thức sở hữu về tư liệu sản xuất trong cơ cấu của nó.
- Phải lấy hiệu quả kinh tế – xã hội làm thước đo việc đổi mới và xác lập chế độ sở hữu trong từng thời kỳ.
- Để tránh tình trạng sở hữu hình thức, làm chủ hình thức như trước đây, cần gắn sở hữu với lợi ích kinh tế, vì lợi ích kinh tế là bản chất kinh tế của sở hữu.
- Phải đặt nó trong mối quan hệ với trình độ xã hội hoá lực lượng sản xuất; trong mối quan hệ với quan hệ quản lý và quan hệ phân phối; trong mối quan hệ với tính đặc thù của từng lĩnh vực, từng ngành nghề sản xuất, kinh doanh, dịch vụ.
- Việc đổi mới và xác lập các hình thức sở hữu phải gắn với toàn bộ tiến trình phát triển tự nhiên của lịch sử, vận động theo đúng các quy luật khách quan, phù hợp với đặc tính của đặc tính dân tộc, phù hợp với nguyện vọng chính đáng của nhân dân lao động Việt Nam.
- Không nên dừng lại ở kết cấu bên ngoài của sở hữu mà phải đổi mới kết cấu bên trong của sở hữu, chất lượng và hiệu quả của sở hữu.
II. Các thành phần kinh tế ở nước ta
1. Cơ sở khách quan tồn tại nhiều thành phần kinh tế
Trong bất cứ hình thái kinh tế xã hội nào cũng tồn tại phương thức sản xuất tàn dư, thống trị và mầm mống đồng thời đan xen. Trong mỗi hình thái kinh tế xã hội có nhiều phương thức sản xuất biểu hiện thành thành phần kinh tế.
Khi giành được chính quyền, giai cấp công nhân và nhân dân lao động tiếp quản nền kinh tế chủ yếu dựa và tư hữu do vậy hình thành kinh tế cá thể và tư bản chủ nghiã. Quá trình quốc hữu hoá đã hình thành thành phần kinh tế tư bản nhà nước.
Sự phát triển của mỗi quốc gia đã hình thành quan hệ sản xuất khác nhau do vậy hình thành các thành phần kinh tế không giống nhau. Để củng cố và phát triển hệ thống xã hội, chính trị, nhà nước xây dựng hệ thống cơ sở kinh tế nhà nước. Do nhu cầu liên doanh hợp tác trong thời đại ngày nay đã hình thành kinh tế tư bản nhà nước.
2. Các thành phần kinh tế ở Việt Nam
Nền kinh tế của bất kỳ một nước nào cũng có thành phần kinh tế nhà nước và thành phần kinh tế tư nhân và cũng đồng thời diễn ra cả quá trình tư nhân hoá và nhà nước hoá. Cả hai đều là động lực cho sự tăng trưởng nhanh và bền vững của nền kinh tế thị trường định hươngs xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Sự thành công của mỗi nước trong việc phát triển inh tế đều tuỳ thuộc vào phạm vi hợp lý của khu vực và hai quá trình này. Vi phạm mức độ hợp lý sẽ dẫn đến nền kinh tế trì trệ, chậm phát triển, thậm chí khủng hoảng.
2.1. Kinh tế nhà nước:
Nhà nước là chủ sở hữu các loại tài sản thuộc sở hữu toàn dân. Kinh tế nhà nước bao gồm các doanh nghiệp nhà nước, kết cấu hạ tầng, hệ thống ngân hàng, ngân sách, các công trình trong các lĩnh vực kinh tế, văn hoá, xã hội, khoa học, kỹ thuật, ngoại giao, quốc phòng, an ninh ...
ở nước ta, kinh tế nhà nước đang nắm giữ những ngành và những lĩnh vực then chốt trong nền kinh tế. Kinh tế nhà nước phải trở thành bà đỡ cho các thành phần kinh tế khác phát triển. Trước đây chúng ta chỉ hiểu và bó hẹp kinh tế nhà nước là các xí nghiệp quốc doanh nhưng hiện nay cần hiểu khái niệm kinh tế nhà nước rộng hơn. Kinh tế nhà nước không chỉ bao gồm các doanh nghiệp inh doanh của Nhà nước mà còn có rất nhiều hoạt động dịch vụ công cộng như: y tế, giáo dục, quốc phòng, an ninh .... Nhà nước cần đảm nhiệm và định hướng cho nền kinh tế phát triển, đảm bảo sự ổn định tăng trưởng, hiệu quả và công bằng.
2.1.1. Không nên và không thể đồng nhất kinh tế nhà nước với doanh nghiệp nhà nước. Doanh nghiệp nhà nước chỉ là một cấu thành quan trọng của kinh tế nhà nước. Sức mạnh của kinh tế nhà nước là tổng hoà các sức mạnh và hoạt động có hiệu quả của các bộ phận cấu thành. Sức mạnh đó còn được nâng lên gấp bội nếu chúng được sự hỗ trợ của một chiến lược phát triển kinh tế – xã hội quốc gia đúng đắn và một hệ thống các chính sách kinh tế vĩ mô tác động cùng hướng, cùng chiều.
Sự phát triển của kinh tế nhà nước, cần được đặt trong mối quan hệ gắn bó hữu cơ với kinh tế tư nhân. Không thể có một khu vực kinh tế tư nhân lớn mạnh nếu sự phát triển của nó biệt lập với hu vực kinh tế nhà nước. Một khu vực kinh tế nhà nước đủ mạnh và hoạt động có hiệu quả là tiền đề tiên quyết cho sự phát triển của khu vực kinh tế tư nhân. Nhưng nếu phát triển vượt quá khả năng và giới hạn cho phép của nền kinh tế, hoạt động độc quyền và không có hiệu quả thì khu vực kinh tế nhà nước lại là lực cản cho sự phát triển của khu vực kinh tế tư nhân và trở thành gánh nặng cho xã hội và cho ngân sách.
Kinh tế nhà nước phải đóng vai trò mở đường, định hướng và chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân ở nước ta hiện nay, còn doanh nghiệp nhà nước trong khi đóng vai trò chủ đạo phải cạnh tranh trên thị trường cùng với các thành phần kinh tế khác. Do vậy đổi mới doanh nghiệp nhà nước đang là vấn đề nổi cộm trong tiến trình đổi mới hiện nay.
2.1.2. Từ nghiên cứu kinh nghiệm của các nước và xuất phát từ đòi hỏi của thực tiễn phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt nam, kinh tế nhà nước cần thiết và có khả năng tiếp tục phát triển nhằm góp phần quyết định trong việc:
- Tạo những tiền đề vững chắc cho sự ổn định, tăng trưởng nhanh và bền vững, công bằng và hiệu quả của toàn bộ nền kinh tế trong quá trình chuyển sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
- Thúc đẩy sự phát triển của kinh tế thị trường trong nông nghiệp và nông thôn, góp phần giải phóng sức lao động xã hội trong nông nghiệp và nông thôn, tạo thêm nhiều việc làm mới, nhiều ngành nghề phi nông nghiệp mới.
- Nâng cấp và xây dựng mới hệ tống kết cấu hạ tầng đáp ứng được yêu cầu phát triển của nền kinh tế nhằm thúc đẩy một bước công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
- Thu hút và sử dụng có hiệu quả vốn đầu tư hợp tác với nước ngoài.
2.2. Kinh tế hợp tác
Kinh tế hợp tác là sự quá độ, đan xen các hình thức sở hữu và trong từng hình thức sở hữu. Trong kinh tế hợp tác có nhiều hình thức tổ chức kinh doanh như hợp tác xã, công ty cổ phần v.v...
Kinh tế hợp tác là loại hình kinh tế rất hiệu quả trong qúa trình phát triển kinh tế. ở nước ta do đất đai hẹp, vốn ít, nếu không phát triển kinh tế hợp tác sẽ khó tập trung nguồn lực để sửu dụng có hiệu quả. Kinh tế hợp tác cũng chỉ có thể phát triển khi quyền sở hữu cá nhân được xác định. Khi mỗi cá nhân có quyền sở hữu về tài sản họ mới có thể góp vốn, đóng cổ phần, và lựa chọn các hình thức kinh doanh hiệu quả.
Trước hết, cần khẳng định sự tồn tại và phát triển của kinh tế hợp tác là cần thiết, phù hợp với con đường tiến hoá tự nhiên của nền kinh tế nước ta. Đó là một thực tại khách quan, không thể vì những sai lầm trong việc phát triển và quan lý các hợp tác xã trước đây mà phủ nhận hoặc bác bỏ sự tồn tại và phát triển của chúng. Kinh tế hợp tác xã là một bộ phận hông thể tách rời trong cơ cấu kinh tế nhiều thành phần ở nước ta. Nó đóng vai trò hỗ trợ cho kinh tế nhà nước, kinh tế tư nhân và giải quyết những yêu cầu của nền kinh tế mà hai thành phần kinh tế trên không đảm nhận và nếu đảm nhận thì không có hiệu quả hoặc không hiệu quả bằng.
Để đảm đương được vai trò và nhiệm vụ mà nền kinh tế giao phó, kinh tế hợp tác phải được đổi mới căn bản và đồng bộ về quan hệ sở hữu, quan hệ quản lý và quan hệ phân phối, áp dụng tiến bộ hoa học và công nghệ mới. Kinh tế hợp tác phải được tạo lập từ những hợp tác xã mới về chất.
2.3. Kinh tế tư nhân :
ở nước ta, kinh tế tư nhân còn rất nhỏ bé. Đại đa số là kinh tế của những người sản xuất nhỏ ở nông thôn và thành thị. Kinh tế hộ nông dân đang chiếm đa phần ở nông thôn và ở thành thị mới chủ yếu là kinh doanh nhỏ. Phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế trong khu vực này sẽ góp phần quan trọng đối với tăng trưởng kinh tế và nâng cao đời sống, sức mua của dân.
Để hỗ trợ và thúc đẩy sự nghiệp phát triển của khu vực kinh tế tư nhân, theo chúng tôi cần nhìn nhận đúng đắn với trò của khu vực kinh tế này trong cơ cấu của nền kinh tế nhiều thành phần đang từng bước phát triển ở nước ta.
2.4. Kinh tế tư bản nhà nước:
Kinh tế tư bản nhà nước được hình thành và phát triển dựa trên nền tảng của sự hỗn hợp, đan xen giữa sở hữu nhà nước và sở hữu tư nhân do kết quả của sự liên doanh dưới hình thức hợp vốn và tham dự cổ phần. Các chủ thể kinh tế tham gia là các doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp tư nhân (trong và ngoài nước), doanh nghiệp tập thể và người lao động.
Thành phần kinh tế này có xu hướng ngày càng gia tăng cùng với sự lớn mạnh của các nhà đầu tư trong nước, sự gia tăng của các nhà đầu tư nước ngoài, sự đa dạng hoá sở hữu và cổ phần hoá có hiệu quả các doanh nghiệp nhà nước. Chính phủ đã tạo được lòng tin với các nhà đầu tư tư nhân thông qua việc tạo lập môi trường đầu tư thuận lợi, chính sách khuyến khích đầu tư thông thoáng, cởi mở và ổn định v.v...
Kinh tế tư bản nhà nước đóng vai trò rất quan trọng trong việc thu hút vốn, hiện đại hoá công nghệ và quản lý các nhà đầu tư tư nhân, đặc biệt là các nhà đầu tư nước ngoài. Nó đóng góp vào quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo yêu cầu của kinh tế thị trường và yêu cầu của công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
2.5. Kinh tế hỗn hợp:
Sự hỗn hợp giữa các hình thức sở hữu có xu hướng diễn ra rất phong phú, đa dạng trên tất cả các lĩnh vực và ngành nghề. Kinh tế hỗn hợp đã có những đóng góp không nhỏ vào việc tập trung nguồn vốn, mở rộng quy mô sản xuất, phát triển ngành nghề và mặt hàng mới, đổi mới trang thiết bị và công nghệ mới, thúc đẩy sự tăng trưởng nền kinh tế, góp phần cân đối từng bước cán cân ngoại thương và nâng cao trình độ quản lý kinh tế. Trong quá trình phát triển của kinh tế hỗn hợp nhất định sẽ diễn ra sự biến động về tỷ trọng giưã các hình thức sở hữu. Do đó, Nhà nước cần có chủ trương định hướng cho phát triển, giải quyết từng bước những vấn đề tồn tại và khiếm khuyết của thành phần kinh tế hỗn hợp.
Xu hướng thâm nhập hay đan xen giữa các hình thức chế độ sở hữu sẽ ngày càng nhiều, cho nên Nhà nước cần có chính sách tác động khiến cho nhân tố kinh tế công hữu trong các tổ chức kinh tế hỗn hợp ngày càng lớn mạnh, đủ sức chi phối được phương hướng phát triển sản xuất kinh daonh theo chiều hướng có lợi cho quốc kế dân sinh.
3. Thực trạng và một số biện pháp đặt ra với các thành phần kinh tế này:
Trong thực tế điều hành do chưa đánh giá đúng vai trò của mỗi thành phần kinh tế hoặc còn tư tưởng e ngại khả năng chệch hướng XHCN, phục hồi chủ nghĩa tư bản nên việc ban hành và thực thi các chính sách cụ thể còn có những phân biệt đối xử giữa các thành phần kinh tế vừa gây nên tình trạng lãng phí nguồn lực, vừa không động viên tối đa các nguồn lực để góp phần vào xây dựng đất nước phát triển sức sản xuất - điều kiện đảm bảo cho sự thắng lợi của chủ nghĩa xã hội.
Vì vậy, vấn đề có tính chất tiên quyết hiện nay ở nước ta cần phải có sự giải phóng thực sự về tư tưởng mà lấy việc phát triển sức sản xuất, nâng cao đời sống nhân dân ... làm mục tiêu hàng đầu đúng như tinh thần Nghị quyết VII đã vạch ra. Ngoài ra, cần có định hướng và giải pháp cụ thể để khuyến khích tất cả các thành phần kinh tế cùng phát triẻen. Với mục tiêu trên, dưới đây xin đề cập một số phương hướng cơ bản nhằm phát triển các thành phần kinh tế hiện nay ở nước ta.
iii. quan hệ giữa sở hữu và các thành phần kinh tế
1. Các hình thức sở hữu trong thời kỳ quá độ:
Đại hội Đảng VII (6-1991) và Đại hội Dảng VIII (6 – 1996) đã khẳng định về đường lối phát triển kinh tế của đất nuớc ta hiện nay: "thực hiện nhất quán lâu dài chính sách phát triển nền inh tế hàng hoá nhiều thành phần. Lấy việc giải phóng sức sản xuất, động viên tối đa mọi nguồn lực bên trong và bên ngoài cho công nghiệp hoá, hiện đại hoá, nâng cao hiệu quả kinh tế xã hội, cải thiện đời sống ucả nhân dân làm mục tiêu hàng đầu trong việc khuyến khích phát triển các thành phần kinh tế và hình thức tổ chức kinh doanh .... " trên cơ sở đó Đảng ta cũng nhất quán chủ trương đa hoá các hình thức sở hữu; nhờ đó một mặt được phát huy sự tự chủ, tự chịu trách nhiệm của mỗi cá nhân, tập thể, cộng động, mặt khác lại phát huy được vai trò điều tiết vĩ mô tập trung của nhà nước theo định hướng XHCN.
Thực tế vừa qua bước đầu cho thấy, việc đa dạng hoá các hình thức sở hữu là hợp lý nhưng hình thức sở hữu Nhà nước phải từng bước chiếm địa vị nền tảng và phát huy vai trò chủ đạo cua nó trong cơ chế thị trường, chấp nhận cạnh tranh, chấp nhận mở cửa. Do trình độ xã hội hoá sản xuất ở nước ta còn thấp, không đồng đều nên ứng với nó có các hình thức sở hữu cơ bản như sau:
Thành phần kinh tế nhà nuớc
Thành phần kinh tế hợp tác
Thành phần kinh tế tư bản nhà nuớc
Thành phần kinh tế cá thể
Thành phần kinh tế tư bản tư nhân
2. Mối quan hệ giữa sở hữu với thành phần kinh tế và các hình thức doanh nghiệp:
Vấn đề sở hữu có liên quan đến thành phần kinh tế, vì nó là cơ sở kinh tế – một căn cứ để xác định thành phần kinh tế. Trong thời kỳ quá độ mỗi phương thức sản xuất chỉ tôn tại với tư cách là một bộ phận, một mảnh hợp thành kết cấu kinh tế – xã hội, chúng vừa có tính độc lập tương đối vừa tác động lẫn nhau, đan xen với nhau, vừa cạnh tranh vừa hợp tác với nhau, mỗi bộ phận đó được coi là một thành phần kinh tế. Như vậy, khái niệm thành phần kinh tế và khái niệm phương thức sản xuất (tức sự thống nhất hay phù hợp giữa quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất) co sự trùng hợp về nội dung, nhưng không đồng nhất với nhau. Sự khác nhau giữa hai khái niệm đó là ở chỗ: Một phương thức sản xuất nào đó khi nó chưa hoặc không đóng vai trò thống trị, cũng không ở địa vị bị chi phối honà toàn, mà tồn tại như bộ phận tương đối tự lập, nhưng không biệt lập, mà đan xen với các bộ phận khác nhau trong kết cấu kinh tế – xã hội thì đó là thành phần kinh tế. Còn khi một bộ phận nào đó đã giữ được vai trò thống trị đối với các bộ phận hác, các bộ phận này tuy tồn tại nhưng không ở vào vị trí thống trị hoặc giữ vị trí không đáng kể, thì bộ phận giữ vị trí thống trị được gọi là phương thức sản xuất đại diện cho chế độ kinh tế của xã hội đó. Như vậy, đến khi kết thúc thời kỳ quá độ lên CNXH, nền kinh tế tuy còn các thành phần, nhưng không là đặc trưng kinh tế nổi bật. Sự phân tích trên giúp ta hiểu rõ hơn chủ trương thực hiện nhất quán chính sách nền kinh tế nhiều thành và là chiến lược có ý nghĩa lâu dài của Đảng và Nhà nước ta.
Các thành phần kinh tế trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội có mối quan hệ và tác động qua lại lẫn nhau, hoạt động đan xen vào nhau trong cơ cấu kinh tế quốc dân thống nhất. Vai trò của mỗi thành phần kinh tế, tỷ lệ giữa các thành phần kinh tế phụ thuộc vào trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, hiệu quả sản xuất inh doanh và sự đóng góp của chúng vào sự phát triển của nền kinh tế.
Mỗi thành phần kinh tế dựa trên một hình thức sở hữu nhất định về tư liệu sản xuất. Các hình thức sở hữu về tư liệu sản xuất tuy có sự độc lập tương đối và có bản chất riêng, nhưng trong hoạt động sản xuất kinh doanh không có sự ngăn cách và có thể hỗn hợp, đan kết với nhau (cùng một chủ sở hữu có thể tham gia nhiều quan hệ sơ hữu, cùng một đối tượng sở hữu có nhiều quan hệ sở hữu) , hình thành các tổ chức kinh doanh đa dạng. Trong nền kinh tế quốc dân thống nhất do nhà nước hướng dẫn, điều tiết, kiểm soát, cùng với việc kinh tế nhà nước nắm giữ các vị trí kinh tế then chốt, các chủ thể sản xuất kinh doanh thuộc các thành phần kinh tế hợp tác với nhau, bổ sung cho nhau, vừa cạnh tranh với nhau, bình đẳng trước pháp luật.
Trên cơ sở nhiều hình thức sở hữu, tất yếu tồn tại nhiều thành phần kinh tế. Chính sự tồn tại khách quan này đã có tác động tích cực đến việc giải phóng sức sản xuất, phát triển lực lượng sản xuất, cải thiện đời sống nhân dân, thực hiện công bằng xã hội. Những thành phần kinh tế đặc trưng cho phương thức sản xuất cũ chỉ mất đi khi không còn tác dụng đối với sự phát triển lực lượng sản xuất. Những thành phần kinh tế đặc trưng cho phương thức sản xuất mới ngày càng phát triển, dẫn dắt, chuyển hoá các thành phần kinh tế khác hội nhập vào phương thức sản xuất mới.
Thành phần kinh tế là khu vực kinh tế đặc trưng cho một kiểu quan hệ kinh tế dựa trên một hình thức sở hữu cơ bản nhất định về tư liệu sản xuất. Thành phần kinh tế tồn tại ở những hình thức tô chức kinh tế (tổ chứuc kinh doanh ) nhất định. Có thể quan niệm các tổ chức kinh tế là những tổ chức sản xuất kinh doanh độc lập, có tư cách pháp nhân, trong đó có thể có những hình thức sở hữu khác nhau về vốn và tài sản mà ở đó các thành phần kinh tế ddược thể hiện. Hình thức sở hữu không đồng nhất với hình thức tổ chức kinh tế nhưng quyết định tính chất của tổ chức kinh tế. Bên cạnh những tổ chức kinh tế hoạt động dựa trên một hình thức sơ hữu duy nhất, xuất hiện ngày càng nhiều các tổ chức kinh tế dựa trên nhiều hình thức sở hữu khác nhau, trong đó có một hình thức sở hữu đóng vai trò chi phối, quyết định tính chất của tổ chức kinh tế đó.
Trong nền kinh tế quá độ ở nước ta có các hình thức tổ chức kinh tế chủ yếu sau:
Các doanh nghiệp nhà nước hoạt động trên cơ sở toàn bộ hoặc phần vốn chủ yếu thuộc sở hữu toàn dân.
Hợp tác xã, tổ hợp tác là những tổ chức kinh tế tự nguyện của người lao động hoạt động trên vốn và tài sản của tập thể là chủ yếu, song vẫn có một phần tài sản thuộc sở hữu toàn dân (ruộng đất đối với HTX nông nghiệp ... ) một phần thuộc sở hữu của các hộ gia đình xã viên.
Hộ cá thể, tiểu chủ là những tổ chức kinh tế hoạt động dựa vào vốn, sức lao động của từng hộ là chủ yếu. Hình thức này có thể tồn tại các công ty: công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần, công ty hợp doanh...
Doanh nghiệp tư bản tư nhân là tổ chức kinh tế hoạt động trên cơ sở chiếm hữu tư nhân TBCN về tư liệu sản xuất và bóc lột lao động làm thuê. Bên cạnh các doanh nghiệp liên doanh giữa tư bản trong nước và tư bản ngoài nước.
iv. một số vấn đề cần giải quyết
1. Giải quyết vấn đề sở hữu để tạo động lực phát triển kinh tế trong sự nghiệp đổi mới:
Trong mô hình xây dựng chủ nghĩa xã hội trước đây, vì nhiều lsy do khách quan và chủ quan khác nhau đã dẫn tới việc xoá bỏ nhanh chóng các loại hình tư hữu, xác lập công hữu một cách hình thức, áp đặt. Hình như quốc doanh hoá, tập thể hoá càng nhanh thi càng chóng có CNXH. Tuy nhiên cũng cần thấy rõ trong hoàn cảnh đặc biệt của chiến tranh, những điểm "bất hợp lý" đó đã bị che mờ đi. Sự điều hành tập trung cao độ theo lối hành chính – quân sự lại có hiệu quả nhất định v.v...
Sau ngày thống nhất đất nước (30-4-1975), vào thời trước đổi mới, sai lầm chính là ở chỗ điều kiện trong và ngoài nước đã có những thay đổi nhất định thế mà vẫn qúa "say sưa" với kinh nghiệm cũ, đem áp dụng một cách máy móc những tiến trình cải biến quan hệ sở hữu đã làm. ở đây lại một lần nữa phủ định tính khách quan và vai trò kinh tế của các loại hình sở hữu phi công hữu còn rất phát triển, làm thiệt hại đến lợi ích kinh tế của người lao động, kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất.
ý tưởng xây dựng chế độ công hữu để thay thế dần tư hữu ở những hâu cần thiết theo tinh thần của Tuyên ngôn cộng sản là đúng, song bằng cách nào? bước đi ra sao thì phải xuất phát từ nhu cầu thực tiễn có tính khả thi.
Nền kinh tế nước ta chuyển sang cơ chế thị trường, tồn tại nhiều thành phần kinh tế, nhiều hình thức sở hữu. Các chủ thể inh doanh bao gồm cả doanh nghiệp nhà nước, tập thể, tư nhân xuất hiện và cạnh tranh trên thị trường. Trong điều kiện đó, mọi doanh nghiệp cần phải thay đổi phương thức hoạt động chuyển thành những chủ thể kinh tế hàng hoá độc lập tương đối. Đặc biệt, nhờ sự tách biệt quyền sở hữu và quyền quản lý kinh doanh mà có cơ sở để cải cách đưa một bộ phận lớn doanh nghiệp nhà nuớc vào vận động theo cơ chế thị trường. Nhờ đó, quan hệ sở hữu tiếp tục vận động, biến đổi mà vẫn hoàn toàn có thể theo định hướng XHCN được.
Nhận thức sở hữu trong kho tàng kinh điển của chủ nghĩa Mác – Lênin, trong thực tiễn xây dựng CNXH của nhiều nước, đã và đang ngày càng được làm giàu phong phú hơn trong đường lối, chủ trương, chính sách kinh tế – xã hội của Đảng và Nhà nước ta.
2. Nắm vững định hướng xã hội chủ nghĩa trong việc xây dựng nền kinh tế nhiều thành phần.
Nắm vững định hướng xã hội chủ nghĩa là một tất yếu khách quan khi xây dựng và phát triển nền kinh tế nhiều thành phần.
Sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa ở nước ta trong thời kỳ quá độ là sự nghiệp của tất cả các thành phần kinh tế, nhưng do bản chất của các thành phần kinh tế khác nhau, nên sự hoạt động giữa ccác thành phàn kinh tế không chỉ có mặt thống nhất, mà còn có mặt mâu thuẫn với nhau. Sự phát triển của mâu thuẫn về lợi ích giữa các thành phần, nhất là thành phần kinh tế tư nhân, cá thể, dẫn đến sự bất lợi đối với việc thực hiện mục tiêu độc lập, dân chủ giàu mạnh, xã hội công bằng văn minh theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Nhà nước cần có chính sách kết hợp hài hoà lợi ích kinh tế, để hướng sự hoạt động của các thành phần kinh tế ngoài kinh tế nhà nước đi theo định hướng xã hội chủ nghiã đã chọn.
Mặc dù nền kinh tế nhiều thành phần là cơ sở kinh tế của sự tồn tại và phát triển kinh tế thị trường, nhưng kinh tế thị trường với tư cách là cái chung, tự nó không thể đi theo định hướng xã hội chủ nghĩa, nếu trong quá trình xây dựng và phát triển các thành phần kinh tế không nắm vững định hướng xã hội chủ nghĩa. Cần lưu ý rằng, kinh tế thị trường có xu hướng tự phát tư bản chủ nghĩa – con đường quen thuộc và đã có tiền tệ trong lịch sử hình thành và phát triển kinh tế thị trường trên thế giới. Hơn nữa, kinh tế thị trường mà nước ta cần xây dựng không phải là kinh tế thị trường bất kỳ, mà là kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
3. Một số vấn đề tiếp tục phát triển :
Theo tôi, sở hữu nhà nước là một trong ba loại hình sở hữu cơ bản của nền kinh tế nước ta: sở hữu nhà nước, sở hữu tư nhân và sở hữu hỗnhợp. Cải cách chế độ sở hữu nhà nước là một vấn đề nan giải nhưng không thể né tránh. Nó cần được xem như một khâu trung tâm và điểm xuất phát quan trọng để giải quyết yêu cầu bức xúc của nền kinh tế hàng hoá đặt ra là xác định rõ quyền sở hữu tài sản, tiền vốn của các doanh nghiệp nhà nước hiện nay.
Thay đổi hình thức sở hữu của những doanh nghiệp nhà nước không có vai trò then chốt, quyết định đến sự phát triển của nền kinh tế, thông qua việc bán toàn bộ hay phần lớn tài sản cho tập thể hoặc tư nhân để chuyển thành công ty tư nhân hoặc công ty hợp doanh.
Đối với những doanh nghiệp không thể xử lý theo các giải pháp trên, thì cho pháp phá sản, tiến hành thanh lý toàn bộ hay từng phần tài sản, giải quyết chính sách, chế độ với những người lao động tạm thời thất nghiệp ở những xí nghiệp này, giúp họ tìm kiếm chỗ làm việc mới h._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 35092.doc