Bộ giáo dục và đào tạo Trung tâm khoa học xã hội
và nhân văn quốc gia
Viện xã hội học
Trần Thị Kim
Quan hệ giữa học vấn và địa vị phụ nữ
nông thôn hiện nay
(Nghiên cứu trường hợp tỉnh Quảng Ngãi)
Luận án tiến sĩ xã hội học
Hà Nội - 2003
bộ giáo dục và đào tạo
Trung tâm khoa học xã hội và nhân văn quốc gia
Viện xã hội học
trần thị kim
quan hệ giữa học vấn và địa vị phụ nữ
nông thôn hiện nay
(Nghiên cứu trường hợp tỉnh Quảng Ngãi)
Chuyên ngành: Xã hội học
Mã số: 5 . 01 . 09
Lu
163 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 2127 | Lượt tải: 1
Tóm tắt tài liệu Quan hệ giữa học vấn và địa vị phụ nữ nông thôn hiện nay (nghiên cứu trường hợp tỉnh Quảng Ngãi), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ận án tiến sĩ xã hội học
Người hướng dẫn khoa học
1. Giáo sư Tiến sĩ: Tô Duy Hợp.
2. Tiến sĩ: Nguyễn Xuân Mai.
Hà Nội - 2003
Lời cam đoan
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng Tôi. Các số liệu, kết quả nêu trong luận án là trung thực và chưa từng được ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác.
Các trích dẫn đều được chỉ rõ từng tài liệu và tác giả.
Tác giả luận án
Trần Thị Kim
Mục lục
Mở đầu 1
Chương 1: Cơ sở lý luận và phương pháp luận
nghiên cứu quan hệ giữa học vấn và địa vị
phụ nữ nông thôn hiện nay
1.1. Các khái niệm
1.1.1. Học vấn
1.1.2. Địa vị
1.1.3. Giới
1.2. Một số lý thuyết, quan điểm vận dụng vào nghiên cứu
1.2.1. Lý thuyết cấu trúc chức năng
1.2.2. Lý thuyết phát triển nông thôn
1.2.3. Lý thuyết giới
1.2.4. Quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lê Nin, tư tưởng
Hồ Chí Minh
1.3. Tổng quan nghiên cứu đề tài
1.3.1. Học vấn phụ nữ nông thôn
1.3.2. Địa vị phụ nữ nông thôn
1.3.3. Tương quan giữa học vấn và địa vị phụ nữ nông thôn
1.4. Phương pháp nghiên cứu
Phần II: nội dung
Chương 2: Thực trạng quan hệ giữa học vấn và địa vị
phụ nữ nông thôn ở quảng ngãi
2.1. Vài nét về địa bàn nghiên cứu
2.1.1. Những thông tin cơ bản về vị trí, diện tích,
điều kiện tự nhiên và tiềm năng
2.1.2. Dân số, kinh tế
2.1.3. Giáo dục và đào tạo, văn hoá - xã hội
2.1.4. Đặc điểm học vấn
2.1.5. Đặc điểm địa vị
2.1.6. Tình hình kinh tế, văn hoá, xã hội của ba xã khảo sát
2.2. Thực trạng mối quan hệ giữa học vấn và địa vị phụ nữ nông thôn
2.2.1. Học vấn và địa vị phụ nữ trong gia đình
2.2.2. Học vấn và địa vị phụ nữ trong làng xã
2.2.3. Mối quan hệ giữa học vấn và địa vị
Chương 3: Những nhân tố tác động đến mối quan hệ giữa học vấn
và địa vị phụ nữ nông thôn.
giải pháp
3.1. Những nhân tố tác động
3.1.1. Chủ trương chính sách của Đảng, nhà nước và địa phương
3.1.2. Gia đình và các tổ chức xã hội
3.1.3. Các chuẩn mực xã hội tại địa phương
3.1.4. Tác động của tuổi
3.1.5. Tác động của nghề nghiêp.
3.1.6. Tác động của số con
3.1.7. Tác động của mức sống
3.1.8. Tác động của học vấn người chồng
3.1.9. Tác động của truyền thông đại chúng
3.2. Giải pháp nâng cao học vấn và địa vị phụ nữ nông thôn
3.2.1. Chiến lược chung
3.2.2. Chiến lược bình đẳng giới
Kết luận và khuyến nghị
1. Kết luận
2. Khuyến nghị
Tài liệu tham khảo
phụ lục
Phần I: Mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Từ lâu giá trị học vấn được nhân dân ta rất coi trọng. Tuy nhiên, quyền được học tập vẫn được giành chủ yếu cho nam giới. Trong số 1000 sinh viên Đại học trong toàn quốc vào năm 1945 chỉ có vài người là phụ nữ. Năm 1946, lần đầu tiên tiếp cận bình đẳng với học tập và đào tạo giữa phụ nữ và nam giới được công bố và khẳng định trong Hiến pháp của Nhà Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà.
Đặc biệt trong công cuộc đổi mới hiện nay, nắm bắt được xu thế của thời đại và để tránh được nguy cơ tụt hậu, Đảng ta đã khẳng định: Khoa học và công nghệ, giáo dục và đào tạo phải được xem là quốc sách hàng đầu.
Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ IX (2001) khẳng định khoa học công nghệ, giáo dục đào tạo là một trong ba đột phá của chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm (2001 - 2010).
Hơn một thập kỷ vừa qua, công cuộc đổi mới và chuyển đổi kinh tế ở nông thôn Việt Nam đã tạo ra mức tăng trưởng đáng kể ở khu vực sản xuất nông nghiệp. Trong sự đổi thay nhanh chóng đó, phụ nữ nông thôn đã đóng góp một phần to lớn, bởi vì họ là lực lượng quan trọng trong hoạt động sản xuất và đời sống ở nông thôn hiện nay.
Tuy nhiên cho đến nay, trình độ học vấn của phụ nữ nông thôn đang còn thấp hơn so với nam giới. Đó là một thiệt thòi to lớn đối với phụ nữ, là một lực cản đối với sự cải thiện và nâng cao địa vị phụ nữ, đặc biệt là phụ nữ nông thôn.
Nhiều nghiên cứu ở Việt Nam cũng như trên thế giới đều đi tới nhận xét rằng những phụ nữ có học vấn cao có xu hướng kết hôn muộn, đẻ thưa, và có tỷ lệ sử dụng các biện pháp kế hoạch hoá gia đình cao. Kết quả điều tra mức sống dân cư tại Việt Nam năm 1998 cho thấy xu hướng học vấn của người mẹ càng cao thì số con càng ít. Con của các bà mẹ có học vấn cao hơn, có nhiều cơ hội đến trường hơn. Trong đó có những nghiên cứu về tương quan giữa trình độ học vấn và tình trạng nghèo khổ. Kết quả nghiên cứu cho thấy: trình độ học vấn thấp là một trong những nguyên nhân làm trầm trọng thêm tình trạng nghèo nàn, lạc hậu và làm ảnh hưởng đến sự thay đổi địa vị trong gia đình, ngoài xã hội của phụ nữ.
Những nghiên cứu cũng đã chỉ ra rằng học vấn càng cao càng có ý nghĩa đối với cơ hội thăng tiến xã hội của con người, phụ nữ nông thôn không nằm ngoài tính quy luật này. Có một số đề tài tập trung vào nghiên cứu một số nội dung: dân số - việc làm, thu nhập - chi tiêu, xoá đói giảm nghèo; Gia đình, dòng họ, cộng đồng; Y tế và chăm sóc sức khoẻ, đặc biệt là sức khoẻ sinh sản; Kết cấu hạ tầng nông thôn. Riêng các nghiên cứu chuyên biệt về giáo dục, đào tạo cho phụ nữ nông thôn vẫn còn ít. Nếu có cũng thường chỉ là kết hợp trong những chủ đề nghiên cứu khác, chưa có những nghiên cứu độc lập, chuyên sâu về tương quan giữa học vấn và địa vị của họ.
Thực tiễn cho thấy, cùng điều kiện kinh tế - xã hội ở nông thôn, nhưng học vấn của phụ nữ luôn thấp hơn so với nam giới. So sánh với học vấn của phụ nữ đô thị thì độ chênh lệch này càng lớn hơn nhiều. Liệu nâng cao học vấn cho phụ nữ nông thôn thì địa vị của họ có được tự động cải thiện hay không? Mối tương quan giữa học vấn và địa vị mật thiết tới đâu?
Để đóng góp giải đáp những vấn đề trên, chúng tôi chọn đề tài "Quan hệ giữa học vấn và địa vị phụ nữ nông thôn hiện nay (nghiên cứu trường hợp tỉnh Quảng Ngãi)" để khảo cứu. Sở dĩ có sự lựa chọn này là vì:
Sau thời gian cùng toàn quốc tiến hành công cuộc đổi mới, bộ mặt kinh tế - xã hội Quảng Ngãi có nhiều biến chuyển tích cực, đời sống vật chất và tinh thần được nâng cao đáng kể. Tuy nhiên, nhìn từ góc độ giới, địa vị người phụ nữ trong gia đình nói riêng và trong xã hội nói chung vẫn còn nhiều điều cần đưọc xem xét kỹ lưỡng hơn trên quan điểm phát triển, kể cả những mặt đã đạt được và những điểm còn tồn tại.
Đã có một số công trình nghiên cứu theo hướng đề cập tới vấn đề nâng cao dân trí cho phụ nữ Quảng Ngãi trong bối cảnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, trong phạm vi đề tài này chúng tôi muốn đi sâu nghiên cứu độc lập và có hệ thống dưới góc độ xã hội học về tương quan giữa học vấn và địa vị phụ nữ nông thôn Quảng Ngãi.
2. Mục đích, nhiệm vụ
2.1. Mục đích
- Mục đích của đề tài nghiên cứu là nhằm làm rõ mức độ tương tác giữa học vấn và địa vị phụ nữ nông thôn hiện nay (trường hợp tỉnh Quảng Ngãi).
- Đưa ra khuyến nghị giải pháp nhằm tăng cường ảnh hưởng tích cực của việc nâng cao trình độ học vấn tới việc nâng cao địa vị phụ nữ nông thôn và ngược lại.
2.2. Nhiệm vụ
- Làm sáng tỏ mối quan hệ giữa học vấn và địa vị phụ nữ nông thôn trên cấp độ lý thuyết xã hội học.
- Đo lường trình độ học vấn tác động vào địa vị phụ nữ nông thôn và ngược lại ở một số chiều cạnh cơ bản:
+ Học vấn tác động đến địa vị phụ nữ trong gia đình: Học vấn tương quan đến quyền ra quyết định và sự tham gia trong sản xuất; học vấn tương quan với quyền ra quyết định và sự tham gia các công việc khác; học vấn và chi tiêu trong gia đình; học vấn và đóng góp thu nhập trong gia đình.
+ Học vấn tác động đến địa vị phụ nữ trong làng - xã, được thể hiện cụ thể ở các mối tương quan giữa học vấn với sự tham gia vào các tổ chức chính quyền, học vấn và sự tham gia vào các tổ chức đoàn thể, học vấn và uy tín trong cộng đồng làng - xã.
+ Học vấn và địa vị phụ nữ nông thôn trong phát triển, thể hiện rõ qua việc đưa vấn đề giới vào chiến lược phát triển nông thôn, vấn đề dân chủ trực tiếp và dân chủ thông qua đại diện trong việc tăng quyền cho phụ nữ.
- Làm rõ các nhân tố tác động và hiệu quả kinh tế xã hội của quan hệ học vấn - địa vị phụ nữ nông thôn.
- Phân tích các giải pháp chính sách và đi đến khuyến nghị điều chỉnh chính sách giáo dục, đào tạo và thay đổi địa vị phụ nữ nông thôn trong bối cảnh phát triển kinh tế - xã hội hiện nay.
4. Đối tượng, khách thể và phạm vi nghiên cứu.
4.1. Đối tượng
Tương quan giữa học vấn và địa vị phụ nữ nông thôn.
4.2. Khách thể
Phụ nữ nông thôn ở Quảng Ngãi trong độ tuổi lao động, từ 16 đến 55, có đối chứng với các nhóm phụ nữ khác và nhóm nam giới.
4.3. Phạm vi
Để phù hợp với điều kiện hạn chế về thời gian, kinh phí (kinh phí cá nhân) nên phạm vi khảo sát được giới hạn ở ba xã đại diện của Quảng Ngãi (chọn trên cả ba vùng sinh thái: đồng bằng, ven biển, miền núi). Đề tài chỉ tập trung vào một số vấn đề mà chúng tôi cho là chủ yếu khi xem xét mối tương quan giữa học vấn và địa vị phụ nữ nông thôn (cụ thể là tác động qua lại giữa học vấn và địa vị của phụ nữ nông thôn trong gia đình, trong làng - xã). Song chiều tác động từ học vấn tới địa vị sẽ được chú ý nhiều hơn so với chiều ngược lại từ địa vị tới học vấn. Khoảng thời gian được nghiên cứu quan tâm là từ khi bắt đầu quá trình đổi mới (1996) tới nay.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận.
Dựa vào cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về bình đẳng nam nữ, giáo dục, đào tạo. Vận dụng một số lý thuyết xã hội học như: Lý thuyết về cơ cấu chức năng, biến đổi xã hội, xã hội học giáo dục, lý thuyết giới để giải thích thực trạng cũng như các biến đổi trong quá trình tương tác giữa học vấn và địa vị phụ nữ nông thôn ở giai đoạn hiện nay.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
- Phân tích tài liệu có sẵn liên quan đến đề tài.
- Phỏng vấn sâu và thảo luận nhóm tập trung với phụ nữ và cán bộ lãnh đạo ở địa phương (dự kiến 30 cuộc phỏng vấn sâu và 9 thảo luận nhóm tập trung).
- Phương pháp điều tra chọn mẫu: Bằng bảng hỏi, dự kiến 300 phiếu tại ba xã đại diện.
+ Chọn mẫu theo phân cụm phân tầng.
+ Chọn ngẫu nhiên các hộ gia đình.
6. Giả thuyết nghiên cứu, lược đồ lôgic.
6.1. Giả thuyết nghiên cứu.
6.1.1. Học vấn ảnh hưởng rất mạnh đến sự thay đổi địa vị phụ nữ nông thôn. Phụ nữ có học vấn cao có nhiều cơ hội nghề nghiệp tốt hơn, có địa vị trong gia đình và ngoài xã hội cao hơn phụ nữ có học vấn thấp. Ngược lại, địa vị phụ nữ thay đổi tiến bộ sẽ ảnh hưởng đến việc nâng cao học vấn cho phụ nữ nông thôn.
6.1.2. Trong bối cảnh phát triển kinh tế - xã hội ở nông thôn Quảng Ngãi hiện nay thì học vấn của phụ nữ nông thôn có xu hướng tăng lên, nhờ đó địa vị phụ nữ nông thôn cũng có xu hướng tăng lên; song không đều và tính ổn định còn là vấn đề thách thức lớn.
6.2. Lược đồ lôgic
6.2.1 Khung lôgic
Biến can thiệp I
- Bối cảnh đổi mới kinh tế-xã hội cả nước và của Quảng Ngãi.
- Những giá trị chuẩn mực và tập tục truyền thống về giới ở địa phương. Đặc điểm lịch sử, KTXH tỉnh Quảng Ngãi.
Biến phụ thuộc
Tương quan giữa học vấn và địa vị phụ nữ nông thôn.
Học vấn phụ nữ nông thôn
- Số năm đi học.
- Bằng cấp.
- Loại hình:
+ Học trong trường.
+ Học ngoài trường
Địa vị phụ nữ nông thôn
- Quyền ra quyết định:
+ Trong gia đình.
+ Trong làng - xã.
- Tham gia trong gia đình, trong làng - xã
Biến can thiệp II
Môi trường tự nhiên của vùng duyên hải miền trung và của Quảng Ngãi.
Biến độc lập
1. Tuổi.
2. Nghề nghiệp.
3. Số con.
4. Mức sống.
5. Địa bàn cư trú.
6. Kiểu gia đình:
+ Mở rộng/hạt nhân
+ Nghề nghiệp.
7. Học vấn của chồng so với vợ.
Hệ quả
- Góp phần bình đẳng nam nữ tại địa phương.
- Góp phần xoá đói giảm nghèo tại địa phương.
- Góp phần đẩy mạnh CNH, HĐH tại địa phương, nhằm phát triển bền vững.
Sự tác động, sự ảnh hưởng, tạo ra hệ quả.
Mối quan hệ qua lại giữa hai biến
6.2.2. Giải thích lược đồ lôgic.
- Biến độc lập: Những nhân tố tác động đến quan hệ học vấn - địa vị gồm: Tuổi, nghề nghiệp, số con, địa bàn cư trú, mức sống.
- Biến phụ thuộc: Quan hệ giữa học vấn - địa vị phụ nữ nông thôn. Địa vị của phụ nữ nông thôn - quyền ra quyết định, sự tham gia trong gia đình, trong làng xã, trong xã hội nói chung. Học vấn phụ nữ nông thôn.
- Hệ quả của biến phụ thuộc là: Góp phần xoá đói giảm nghèo, phát triển bền vững.
- Biến can thiệp loại 1: Bối cảnh đổi mới kinh tế - xã hội của cả nước, Quảng Ngãi nói riêng.
- Biến can thiệp loại 2: Môi trường tự nhiên vùng duyên hải miền trung, quảng Ngãi nói riêng.
7. Đóng góp mới của luận án.
- Đây là một trong những công trình nghiên cứu xã hội học đầu tiên đi sâu nghiên cứu về vấn đề quan hệ giữa học vấn và địa vị phụ nữ nông thôn.
- Nhận dạng cơ hội thăng tiến của PNNT liên quan đến học vấn và cơ hội nâng cao học vấn nhờ thay đổi tiến bộ địa vị cho phụ nữ, để cung cấp luận cứ khoa học cho các nhà lãnh đạo, quản lý, các nhà nghiên cứu và nhân dân tham khảo.
8. Kết cấu của luận án:
Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận án có ba chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận và phương pháp luận nghiên cứu quan hệ giữa học vấn và địa vị phụ nữ nông thôn hiện nay
Chương 2: Thực trạng quan hệ giữa học vấn và địa vị phụ nữ nông thôn ở Quảng Ngãi
Chương 3: Những nhân tố tác động đến mối quan hệ giữa học vấn và địa vị phụ nữ nông thôn. Giải pháp
Chương 1
Một số vấn đề lý luận và phương pháp luận nghiên cứu
1.1. Các khái niệm
1.1.1 Học vấn
Học vấn là những hiểu biết nhờ học tập mà có [ từ điển TV, tr. 454]. Khi đề cập đến trình độ học vấn của cá nhân người ta muốn nói đến mức độ hiểu biết, nội dung và tính chất của các tri thức, kỹ năng, kỹ xảo mà một cá nhân tiếp thu được trong quá trình tham gia vào các hoạt động, quá trình xã hội. Do vậy có thể dựa vào cách tổ chức của xã hội đối với quá trình học tập của cá nhân để phân biệt học vấn. Một số loại học vấn quan trọng cần tính đến là: học vấn do tự học, học vấn do được giáo dục-đào tạo một cách chính quy, chính thức. Trong nghiên cứu này khái niệm học vấn chủ yếu được dùng với nghĩa là kết quả của quá trình học tập tại trường, lớp nhất định.
Vai trò của học vấn đối với con người: (1) học vấn là cơ sở và điều kiện của năng lực hoạt động của cá nhân. Nhờ có học vấn mà cá nhân có khả năng gia nhập, chiếm giữ các vị trí xã hội và thực hiện được các vai trò, chức năng xã hội. (2) Học vấn là một yếu tố hình thành trong quá trình xã hội hoá và là một bộ phận của nhân cách con người. Nhờ có quá trình xã hội hoá mà cá nhân có học vấn, và nhân cách được hình thành, phát triển. Học tập là một bộ phận cấu thành của quá trình xã hội hóa cá nhân với cơ chế chung là tiếp nhận, lĩnh hội các kinh nghiệm đã được phát hiện, tích luỹ và truyền lại tức là sự “kế thừa văn hóa”. Thông thường khi nói tới giáo dục, người ta hiểu đó là hoạt động nhằm tác động một cách có hệ thống hướng tới sự phát triển của cá nhân, nhằm làm cho cá nhân có được những năng lực, phẩm chất cần thiết (XHH,1997). Giáo dục có một vai trò đặc biệt trong quá trình xã hội hóa cá nhân. Khác với các dạng xã hội hóa khác, giáo dục “bao hàm sự chỉ dẫn tỉ mỉ, được thực hiện trong các tổ chức chính thức dành cho mục đích đó và tương đối được tiêu chuẩn hóa, những gì mà trẻ em học được từ nhà trường phổ thông, dù qua chương trình học công khai hay ẩn giấu đều có thể kém đa dạng hơn cái mà chúng học được là kết quả của sự tác động tương hỗ không chính thức với gia đình, các bạn bè và các bạn cùng làm việc.” [ Bilton, tr. 276]
Như vậy, giáo dục được hiểu như một lĩnh vực hoạt động đặc biệt của xã hội, như một thể chế chuẩn mực của mỗi xã hội. Giáo dục cũng có thể được xem xét như tiêu chuẩn để đánh giá mức độ nhận được sự giáo dục thông qua hệ thống giáo dục chính thống được chuẩn hóa theo quy định của từng xã hội.
Có thể khái quát hơn, giáo dục là vấn đề trung tâm để mỗi người có khả năng phản ứng lại trước những cơ hội mà sự phát triển mang lại. Đặc biệt khi loài người chuyển sang thời đại thông tin, các sản phẩm có hàm lượng chất xám cao đang thay thế cho các cách thức sản xuất truyền thống, giáo dục cơ sở là nền tảng để phát triển các kỹ năng linh hoạt vốn rất cần thiết để tham gia vào các hoạt động kinh tế có hàm lượng chất xám cao. Rõ ràng những ai không có điều kiện tiếp cận đến giáo dục cơ sở có nguy cơ bị loại bỏ những cơ hội mới, và ở những nơi mà khoảng cách giới dai dẳng trong giáo dục vẫn còn tồn tại thì phụ nữ sẽ có nguy cơ ngày càng cao là bị tụt hậu đằng sau nam giới, trong khả năng tham gia vào quá trình phát triển.
Giáo dục phổ thông là một trong những môi trường chủ yếu của quá trình xã hội hóa cá nhân. Xã hội hóa là quá trình tương tác giữa cá nhân và xã hội, trong đó cá nhân được học hỏi và thực hành những tri thức, những kỹ năng và những phương thức cần thiết để hội nhập với xã hội. Nhưng xã hội hóa không phải là một quá chỉ mang tính thụ động (cá nhân chịu sự tác động của xã hội), mà đó là quá trình hoạt động tích cực của cá nhân (2). Ngoài ra, cá nhân có được "sự hiểu biết" thông qua nhiều con đường khác nhau: học trong gia đình, học qua kinh nghiệm thực tế (kết quả đạt được thể hiện ở năng lực hoạt động thực tiễn, trình độ chuyên môn tay nghề). Sự lĩnh hội của cá nhân sẽ được vật hóa vào sản phẩm vật chất và tinh thần, ở số lượng và chất lượng sản phẩm làm ra, ở năng suất và hiệu quả lao động. Có thể coi học vấn và nghề nghiệp là hai loại "vốn" có thể giúp cho người lao động tự kiếm sống trong suốt cuộc đời của họ. Trong đề tài này chúng tôi sử dụng khái niệm học vấn để chỉ trình độ kiến thức, kỹ năng kỹ xảo mà cá nhân tiếp thu được không chỉ từ quá trình học tập trong nhà trường. Nhưng chủ yếu học vấn được đo bằng chỉ báo lớp học mà cá nhân đã vượt qua, hoặc cấp học cao nhất. Học vấn của phụ nữ được xác định trong đề tài này chủ yếu là những lớp học cao nhất mà phụ nữ đã trải qua.
1.1.2. Địa vị xã hội (Status)
Địa vị xã hội là một khái niệm cơ bản của xã hội học. Khái niệm địa vị xã hội được dùng để chỉ vị trí nhất định trong cấu trúc xã hội. Điều đó có nghĩa là gắn với mỗi địa vị xã hội, con người dù là nam hay nữ sẽ có những vai trò tương ứng. Có thể nêu ra một số quan niệm về địa vị của các nhà nghiên cứu: “Chúng ta gọi vị trí xã hội của một cá nhân là địa vị và hành vi mà chúng ta mong đợi người có địa vị đó gọi là vai trò của anh ta.” [ Bilton, tr. 32]. Địa vị dùng để chỉ thứ bậc của một cá nhân được xác định bởi sự giàu có, sự ảnh hưởng và uy tín. Các nhà xã hội học sử dụng thuật ngữ địa vị với một sự khác biệt với nghĩa một vị trí trong nhóm hoặc một xã hội, "Bất cứ những vị trí nào được xác định hoặc được chấp nhận trong một nhóm hay xã hội" gọi là địa vị.
Theo Fichter, mỗi một con người xã hội đều có địa vị của mình trong những nhóm và trong xã hội mà cá nhân đó là một thành viên. Xã hội không phải là sự kết hợp ngẫu nhiên những con người mà là sự xếp đặt có trật tự và cơ cấu tổ chức xã hội có thể so sánh. Tuy cá nhân và địa vị luôn luôn đi với nhau nhưng có thể xét riêng lẻ một cách trừu tượng hóa như những khái niệm riêng biệt.
Nói đến địa vị là nói đến vị thế của một cá nhân, một giai cấp, một tầng lớp trong cơ cấu xã hội (địa vị là một trong các yếu tố chủ yếu của cơ cấu xã hội). Địa vị xã hội (vị thế "chính là bất kỳ vị trí ổn định nào trong một hệ thống xã hội với những kỳ vọng quyền hạn và nhiệm vụ đặc thù" [The Haper Colins, tr. 494]. Địa vị là một sự cấu tạo, một sự lượng giá, là kết quả của sự phối hợp và áp dụng những tiêu chuẩn về giá trị xã hội đang thịnh hành trong xã hội. Nó chỉ cho chúng ta thấy chỗ đứng của một cá nhân trong không gian xã hội so với những cá nhân khác.
Theo Bruce J. Cohen và Teri L. Orbuch:
Địa vị xã hội là sự phản ánh những quyền lực và quyền lợi của một cá nhân - nói cách khác là sự phản ánh vị thế của một cá nhân do cá nhân đạt được ở trong một nhóm hoặc là một thứ bậc xã hội trong nhóm này khi so sánh với các thành viên khác của nhóm khác.
Nói đến địa vị là nói đến vị thế của một cá nhân, một giai cấp, một tầng lớp trong cơ cấu xã hội (địa vị là một trong các yếu tố chủ yếu của cơ cấu xã hội). Địa vị xã hội (vị thế "chính là bất kỳ vị trí ổn định nào trong một hệ thống xã hội với những kỳ vọng quyền hạn và nhiệm vụ đặc thù". Địa vị là một sự cấu tạo, một sự lượng giá, là kết quả của sự phối hợp và áp dụng những tiêu chuẩn về giá trị xã hội đang thịnh hành trong xã hội. Nó chỉ cho chúng ta thấy chỗ đứng của một cá nhân trong không gian xã hội so với những cá nhân khác.
Nói một cách khác, chúng ta có thể hiểu địa vị xã hội của một người nào đó chính là vị thế hay thứ bậc mà những người sống cùng thời dành cho trong bối cảnh mà con người đó sinh sống, lao động và phát triển. Chính vì thế mà các nhà xã hội học xem địa vị (vị thế) là thái độ và mức độ tôn trọng hay khinh rẻ của xã hội bày tỏ biểu lộ ra đối với cá nhân. Rõ ràng, những yếu tố tạo nên địa vị (vị thế) tồn tại khách quan ngoài cá nhân. Thể hiện ra ở các tiêu chuẩn có tính phổ biến trong một xã hội về sự tán thành (khẳng định) hay chê bai (phủ định) của xã hội. Đó cũng chính là các chuẩn mực, các giá trị xã hội, nghĩa là những điều người ta cho là quan trọng nhất, đáng tôn trọng nhất.
Khái niệm vai trò xã hội và địa vị xã hội là một trong những khái niệm then chốt của xã hội học nói chung và xã hội học về giới nói riêng.
Vai trò xã hội là mô hình hành vi được xác lập một cách khách quan căn cứ vào đòi hỏi của xã hội đối với từng vị thế nhất định để thực hiện những quyền và nghĩa vụ tương ứng với các vị thế [XHH Đại cương, tr. 270].
Vai trò xã hội cho ta biết con người phải làm gì, vai trò xã hội là một trong số nhiều tiêu chuẩn dùng để cho vị thế xã hội của con người.
Vai trò là kết quả của sự học hỏi và tập đóng vai của các cá nhân khi họ muốn gia nhập vào xã hội, hay nói cách khác vai trò là kết quả của quá trình xã hội hóa cá nhân. Vai trò được thể hiện trong sự phù hợp với các chuẩn mực xã hội nói chung, với sự mong đợi của những người xung quanh. Một cá nhân trong quá trình tham gia hoạt động của mình có thể đóng nhiều vai khác nhau. Từ cách hiểu như trên, một người phụ nữ có thể vừa là người vợ, vừa là người mẹ, cũng có thể là một nhà kinh doanh, nhà quản lý.
Vai trò xã hội có liên quan chặt chẽ với vị thế hay địa vị xã hội cua cá nhân, có thể hiểu vị thế là chỗ đứng của vai trò. Vị thế là cơ sở xác định vai trò, việc thực hiện tốt hay xấu vai trò của cá nhân đều ảnh hưởng đến vị thế xã hội. nói một cách khác, giữa vị thế và vai trò có mối quan hệ biện chứng với nhau. Chẳng hạn một người phụ nữ làm tốt vai trò của mình theo sự mong đợi của xã hội và gia đình, có thể tăng cường vị thế hoặc ngược lại, vị thế sẽ giảm đi khi người phụ nữ không làm tốt vai trò của mình theo sự mong đợi của gia đình và xã hội.
Trong xã hội phong kiến hay trong xã hội có đẳng cấp, về mặt lý thuyết người ta cho rằng: địa vị không thể bị thay đổi "Con vua..." bởi sự cố gắng duy trì địa vị của những người giữ tầng lớp đó. Với sự xác định những địa vị xã hội một cách vững chắc cho đó là những địa vị được gắn cho (địa vị được thừa hưởng từ thế hệ trước truyền lại). Trong xã hội công nghiệp, địa vị xã hội thường được mô tả rất khác nhau. Nhiều nhà xã hội học cho rằng địa vị xã hội do cá nhân dành được bằng những thành tựu công nghiệp luôn là sự thừa kế theo dòng dõi (gọi là địa vị đạt được). Xã hội luôn biến chuyển và phát triển, do đó địa vị xã hội cũng luôn luôn di chuyển, bởi vì con người và địa vị xã hội của họ luôn luôn có mối tương quan mật thiết với nhau. Chính sự mô tả con người xã hội đã giúp ta hiểu rõ bản chất vốn có của người đó. Còn khi mô tả địa vị xã hội của họ, chúng ta đã nêu bật giá trị xã hội dưới sự đánh giá của dư luận xã hội đương thời.
Trong đời sống xã hội, địa vị xã hội thường tương quan với quyền lực. Nếu ta hiểu rằng quyền lực xã hội có nghĩa là ảnh hưởng của một người (có thể có) đối với các người khác trong xã hội (đó cũng là biểu hiện địa vị của người ấy). Xét về mặt tâm lý xã hội, người ta thường tin tưởng, tín nhiệm hướng vào những người có địa vị xã hội cao hơn vì họ có ảnh hưởng lớn, rộng rãi đối với toàn xã hội (có nghĩa là họ hơn hẳn những người bình thường).
Vì lẽ đó mà xu thế chung ai cũng muốn vươn lên, tiến bộ, nghĩa là tìm cơ hội để cải thiện địa vị xã hội của mình. Địa vị là một khái niệm cơ bản trong khái niệm cơ cấu xã hội. Điều đó có nghĩa là gắn với mỗi địa vị xã hội, con người dù là nam hay nữ sẽ có những vai trò tương ứng. Địa vị có thể là được thừa hưởng (ascribed status) mà người ta khó hoặc không thể lựa chọn, hoặc đạt được (achieved status) mà người ta có thể lựa chọn như hôn nhân, học vấn, nghề nghiệp, v.v. Ví dụ, trong xã hội ảnh hưởng của tư tưởng phụ quyền, người phụ nữ chỉ đạt được địa vị trong gia đình khi họ sinh được con trai, còn ngày nay có nhiều lựa chọn để nâng cao địa vị phụ nữ như nâng cao học vấn, tạo việc làm tăng thu nhập, tham gia lực lượng lao động xã hội và quyền quyết định trong gia đình.
Địa vị thường được xác định bởi vai trò (vai trò và địa vị là hai khái niệm không tách rời nhau khi xem xét và so sánh các nhóm xã hội khác) và các hoạt động gắn liền với địa vị. Theo lôgic địa vị và vai trò phải nằm trong mối quan hệ thuận. Nếu cá nhân, nhóm có vai trò quan trọng trong hoạt động của cộng đồng làng xã (của xã hội), trong vận hành các chức năng của gia đình thì cá nhân, nhóm cũng sẽ có địa vị quan trọng trong gia đình, trong cộng đồng (trong xã hội). Phụ nữ Việt Nam, phụ nữ nông thôn, phụ nữ vùng duyên hải miền Trung từ nhiều năm nay đã có vai trò không nhỏ trong việc sản xuất kinh tế và đóng vai trò chủ chốt trong việc tái sản xuất sức lao động. Họ đã góp phần (không kém nam giới) trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, tô đẹp cho non sông đất nước Việt Nam. Song trên thực tế, vẫn còn có khoảng cách lớn giữa sự đóng góp của phụ nữ và địa vị của họ. Để có thể hiểu một cách thấu đáo và lý giải sự bất bình đẳng như đã nêu cần phải dựa trên cơ sở khoa học, giới, lý thuyết về giới.
Địa vị phụ nữ là khái niệm chỉ vị thế của phụ nữ trong gia đình và ngoài xã hội. Địa vị phụ nữ cũng khác trong những hoàn cảnh gia đình khác, giai cấp xã hội khác và khung cảnh khác của sự biến đổi xã hội.
Đề tài này xác định địa vị của phụ nữ trong gia đình và trong cộng đồng làng xã, chỉ báo của địa vị phụ nữ sẽ là: sự tham gia của phụ nữ vào các hoạt động trong gia đình, trong cộng đồng làng xã và quyền ra quyết định của họ trong gia đình và cộng đồng.
Trong đề tài này, chúng tôi xem xét khái niệm địa vị phụ nữ như là sự hoạt động của cá nhân ở các lĩnh vực khác nhau trong quá trình tham gia vào sản xuất, vào việc ra quyết định trong gia đình, cộng đồng làng xã. Chỉ báo của địa vị phụ nữ nông thôn sẽ là người mẹ, người vợ, người con, người lao động, người nội trợ, thành viên của cộng đồng... Hay nói khái quát hơn, khi nói đến địa vị của phụ nữ chính là đề cập đến sự tham gia của phụ nữ vào các hoạt động trong gia đình, trong cộng đồng làng xã, và quyền ra quyết định của họ trong gia đình, trong cộng đồng.
1.1.3. Giới
Giới chỉ mối quan hệ, mối tương quan giữa địa vị xã hội của giới nữ và nam giới trong bối cảnh xã hội cụ thể [Trần thị Vân Anh, tr. 21]. Nói cách khác, giới là sự tập hợp các hành vi học được từ xã hội và những kỳ vọng về các đặc điểm và năng lực được cân nhắc nhằm xác định thế nào là một người nam giới hay một người phụ nữ (hoặc một cậu bé hay một cô bé) trong một xã hội hay một nền văn hóa nhất định. Giới cũng phản ánh mối quan hệ giữa nam và nữ, ai cần làm gì và ai là người kiểm soát việc ra quyết định, tiếp cận các nguồn lực và hưởng lợi [Báo cáo tóm tắt tình hình giới, tr. 6] Báo cáo tóm tắt tình hình giới (2002) Liên Hợp quốc tại Việt Nam
.
Bản sắc giới và quan hệ giới là những khía cạnh then chốt của nền văn hóa vì chúng định hình cho lối sống hàng ngày trong gia đình, trong cộng đồng và ở nơi làm việc.
Bản sắc giới mang tính năng động, bản sắc ấy là khác nhau trong các cộng đồng và trên khắp thế giới, giới thay đổi theo thời gian và có liên quan tới sự thay đổi các điều kiện và các yếu tố khác (như các yếu tố xã hội, kinh tế, luật pháp, chính sách, xã hội dân sự).
Khi nói đến giới là nói đến các điều kiện và yếu tố xã hội quy định vị trí và hành vi xã hội của mỗi giới trong một hoàn cảnh cụ thể.Chính do được quy định bởi các yếu tố xã hội cho nên vị trí vai trò và hành vi của giới không phải là bất biến mà thay đổi khi các điều kiện quy định chúng biến đổi.
Song ngược lại với giới tính, giới luôn biến đổi. Vì sao như vậy? Giới là một phạm trù văn hóa xã hội. Vị trí xã hội của nữ giới so với nam giới phụ thuộc vào hoàn cảnh kinh tế, chính trị, xã hội, phong tục, tập quán, tôn giáo v.v... ở từng giai đoạn cụ thể. Nói một cách khác, giới là một phạm trù văn hóa xã hội mà trong một chừng mực nhất định, sẽ quyết định cơ hội cuộc sống của con người, xác định vai trò của họ trong xã hội và trong nền kinh tế. Có thể có một vài xã hội không có sự chia rẽ về màu da hay chủng tộc nhưng tất cả các xã hội đều tồn tại sự không tương xứng về giới - khác biệt và thiên lệch - ở mức độ khác nhau. Chính vì vậy, vai trò và mối quan hệ về giới có thể biến đổi rất lớn trong các xã hội khác nhau. Nhưng giữa chúng cũng lại có nhiều điểm tương đồng. Thí dụ, hầu như tất cả các xã hội đều coi phụ nữ và các bé gái có vai trò chính yếu trong việc chăm sóc trẻ em và con cái, trong việc bếp núc chợ búa, còn nghĩa vụ quân sự hay tham gia quốc phòng, những công việc nặng nhọc là việc của đàn ông. Các nhà khoa học xã hội cho rằng, giới là một phạm trù được thiết lập qua các đặc trưng văn hóa nhằm xác định các hành vi xã hội của nữ giới và nam giới, mối liên hệ giữa hai giới đó. Do vậy giới không chỉ đề cập một cách đơn giản đến phụ nữ hay nam giới mà còn phản ánh mối quan hệ giữa hai nhóm đối tượng này. Có thể nói một cách cụ thể hơn, qua lăng kính giới: các quan niệm, hành vi, chuẩn mực xã hội là hoàn toàn có thể thay đổi được. Quan niệm các công việc "bếp núc" là "thiên chức" của phụ nữ đang được xem xét lại, tùy thuộc vào điều kiện hoàn cảnh cụ thể của mỗi gia đình. Có thể coi giới là một công cụ phân tích để hiểu rõ hơn tiến trình phát triển của xã hội và văn hóa, văn minh.
Đề tài này vận dụng quan niệm giới, khái niệm giới vào xem xét học vấn và địa vị của từng phụ nữ trong mối tương quan với nam giới. Không những thế, đề tài thấy cần phải so sánh trình độ học vấn, vị trí và vai trò của phụ nữ với nam giới trong những tình huống, lĩnh vực nhất định... Có thể nói cụ thể hơn: đề tài muốn xem xét địa vị xã hội của phụ nữ Việt Nam đã được cải thiện đến mức độ nào, nó tương ._.quan với học vấn ra sao? Tương quan về địa vị của nam và nữ đến mức độ nào (nhất là trong giáo dục, trong sự phân công lao động trong gia đình, giữa vợ và chồng).
1.2. Một số lý thuyết, quan điểm vận dụng vào nghiên cứu.
Để giải quyết những vấn đề đặt ra trong đề tài này, chúng tôi dựa vào một số lý thuyết chủ yếu: lý thuyết chức năng, lý thuyết phát triển nông thôn, đặc biệt lý thuyết giới. Vì vậy lý thuyết về Giới đóng vai trò nền tảng lý luận của nghiên cứu này. Ngoài ra một số lý thuyết khác có liên quan đến học vấn và địa vị phụ nữ cũng sẽ được đề cập đến với mức độ nhất định.
1.2.1. Lý thuyết cấu trúc chức năng
Lý thuyết cấu trúc chức năng nhấn mạnh đến những đóng góp (chức năng của một bộ phận trong một cấu trúc xã hội nhất định). Một trong những người đi đầu quan trọng là Spencer, tác giả của Thuyết chức năng, người đã so sánh những tổ chức cơ thể sống với xã hội. Durkeim, người cùng thời với Spencer, cũng đóng góp phần phát triển quan điểm lý thuyết này.Trong những năm gần đây, những người ủng hộ mạnh mẽ nhất quan điểm này là Talcott pazsor và Robert Merton nó tập trung vào sự hội nhập xã hội, sự ổn định, trật tự và hợp tác. Các bộ phận của xã hội, bao gồm: gia đình, kinh tế, tôn giáo. Gia đình, đóng góp câu hỏi mang tính xã hội trong việc tái sinh sản và chăm sóc những thành viên mới. Nền kinh tế đóng góp bằng việc sản xuất, phân phối, tiêu thụ hàng hóa và dịch vụ.
Các tác giả theo thuyết chức năng đã giả định: Các bộ phận của xã hội được tổ chức thành một đoàn thể thống nhất. Kết quả là sự thay đổi trong một bộ phận của xã hội sẽ dẫn đến sự biến đổi trong những bộ phận khác. Ví dụ: Sự biến đổi quan trọng trong nền kinh tế, có thể dẫn đến những biến đổi gia đình. Điều xảy ra đúng như vậy, khi cách mạng công nghệ diễn ra. Nghiên cứu lực lượng lao động cho một trang trại lớn (thực hiện bằng việc có nhiều con), nó biến mất khi cách mạng công nghệ diễn ra và quy mô gia đình giảm xuống.
Giả định thứ hai của giả thuyết chức năng, là xã hội có khuynh hướng quay trở lại tình trạng ổn định và cân bằng khi sự thay đổi nào đó xảy ra. Một xã hội có thể trải qua sự thay đổi nào đó qua thời gian, nhưng các nhà chức năng tin rằng, nó sẽ trở lại tình trạng ổn định bằng việc phối hợp những thay đổi này. Như vậy xã hội sẽ trở lại như cũ trước bất kỳ sự biến đổi nào xảy ra.
Theo các nhà chức năng, hầu hết mọi phương diện của xã hội tiến hóa, là để thúc đẩy sự tồn tại và phát triển của chính nó. Chính vì nguyên nhân này, tất cả các xã hội phức tạp đều có các thiết chế kinh tế, gia đình, chính phủ, tôn giáo. Nếu những yếu tố này không góp phần tạo ra sự thịnh vượng và sống còn của xã hội, chúng ta không tồn tại.
Cũng theo các nhà chức năng luận, hầu hết những thành viên của xã hội nhất trí về những gì đáng có và đáng để vươn đến – nói cách khác, là có sự nhất trí về các giá trị và lợi ích [Trần Thị Kim Xuyến, tr. 111-112, 114]. Các tác giả của thuyết chức năng cho rằng, thay đổi bất kỳ một bộ phận nào, một yếu tố nào của cấu trúc xã hội cũng kéo theo sự thay đổi ở các bộ phận, yếu tố còn lại và của cả cấu trúc. Khi đề cập đến lý thuyết chức năng, không thể quên được tên tuổi của Auguste Com, H. Spencer, Emile Durkheim - Talcott Parsons, là một trong những đại diện tiêu biểu cho trường phái lý thuyết cấu trúc - chức năng trong xã hội học Mỹ. Các ông đã có công đóng góp cho thuyết chức năng hình thành và phát triển. Người ta cho rằng lý thuyết chức năng là một trong những lý thuyết định hướng cơ bản của xã hội học và người khởi thủy, góp phần phát triển quan điểm lý thuyết cấu trúc chức năng là Emile Durkheim. Ông đưa ra khái niệm đoàn kết xã hội (Social Solidarity) để chỉ các quan hệ giữa cá nhân và xã hội, giữa cá nhân với nhóm và giữa cá nhân với nhau. Khi nghiên cứu vai trò của phân công lao động, ông đã chứng minh rằng, di cư và tích tụ dân cư, đô thi hóa và công nghiệp hóa đã làm tăng mật độ tiếp xúc, quan hệ và tương tác giữa các cá nhân, nhóm và tổ chức trong xã hội. Không những thế, Emile Durkheim là người đầu tiên nêu lên tầm quan trọng của hướng tiếp cận xã hội học nghiên cứu giáo dục và chính ông đã đặt cơ sở cho hướng tiếp cận của thuyết chức năng trong xã hội học giáo dục. Ông nói về mục đích của hệ thống giáo dục là khơi dậy và phát triển ở trẻ em trạng thái thể chất, học vấn vấn đạo đức, những cái mà xã hội chính trị nói chung và cả môi trường cụ thể mà nó dự định sẽ bước vào đòi hỏi.
Dựa vào thuyết chức năng luận, ông đã dùng quan điểm chức năng để giải thích, dự báo về giáo dục. Ông và những người theo thuyết chức năng đều cho rằng xã hội do những người có công trạng thống trị, họ phải được đào tạo cao để hình thành các vai trò của mình, các vai trò cùng tồn tại được ... từ hoạt động giáo dục. Theo quan điểm chức năng, giáo dục có khả năng truyền lại những giá trị của nền văn hóa xã hội. Nhờ có giáo dục, con người đã lĩnh hội, tiếp thu những giá trị của nền văn hóa xã hội. Ngoài ra, cũng cần lưu ý hai nhà nghiên cứu David và Mooe, hai ông cho rằng, sự tồn tại của các vị trí xã hội là khách quan. Các vị trí xã hội có được mức độ uy tín hay tầm quan trọng khác nhau trong ý thức của các chủ thể xã hội hoặc những cá nhân. Hai tác giả này nhấn mạnh rằng những vị trí xã hội quan trọng có vai trò quyết định với những vị trí có vai trò ít quan trọng hơn. Những vị trí có vai trò càng quan trọng thì cá nhân trong xã hội càng có xu hướng chiếm lĩnh nó. Vì thế các vị trí xã hội được xếp hạng trật tự theo mức độ cao thấp khác tạo ra các tầng lớp xã hội. Do đó nó tồn tại khách quan ngoài nguyện vọng và ý thức của từng cá nhân cho nên nó sẽ có một động lực thúc đẩy hoạt động xã hội theo quy luật khách quan. Nói một cách khác, những vị trí xã hội phù hợp với những tầng lớp xã hội trong quá trình sắp xếp về mặt chức năng xã hội. Mỗi một xã hội đều có khả năng làm cho mỗi cá nhân ý thức về việc họ mong muốn đạt đến địa vị xác định nào đó và bằng cách nào. Hơn nữa mỗi con người ở vị trí của mình họ cần phải hiểu rằng xã hội mong đợi về việc hình thành những đòi hỏi, những trách nhiệm và họ có quyền gì từ địa vị xã hội ấy. Về mặt cấu trúc, các tác giả đã giải thích, việc xếp đặt chính xác về mặt vị trí xã hội trong một xã hội xác định phụ thuộc vào ba yếu tố cơ bản như sau: (1) Một số địa vị xã hội dành được dễ dành hơn những địa vị xã hội khác. (2) Vì sự tồn tại khách quan của xã hội cho nên tồn tại một số vị trí quan trọng hơn một số vị trí khác. (3) Những vị trí xã hội khác nhau, đòi hỏi những khả năng khác từ phía những cá nhân chiếm vị trí xã hội đó.
Talcott Parsons, là một trong những đại diện tiêu biểu cho trường phái lý thuyết cấu trúc - chức năng trong xã hội học Mỹ. Ông đã đưa ra những khái niệm quan trọng về xã hội hóa, sự tiếp thu từ ở bên ngoài vào, sự xác định vị trí và sự khác biệt hóa, và những khái niệm về nhân cách, những hệ thống xã hội và văn hóa... T. Parsons quan niệm nhà trường thường được coi như một hệ thống xã hội, là một hệ thống hành động và bao hàm một quá trình tương tác giữa những tác nhân, giữa thầy giáo và các học sinh và giữa học sinh với học sinh.
Parsons hiểu văn hóa như là một động lực chính để liên kết những yếu tố khác trong đời sống xã hội. Những yếu tố khác đó có một cấu trúc xác định gọi là xã hội. Trong khi văn hóa duy trì mối tương tác giữa các bộ phận và đảm bảo tính chỉnh thể của xã hội, thì nhờ có văn hóa các cá nhân liên kết với nhau tạo ra hệ thống xã hội. Văn hóa có khả năng đặc biệt đó là khả năng phản ánh đời sống tinh thần của một hệ thống xã hội và liên kết. Trong hệ thống văn hóa, văn hóa được biểu hiện trong chuẩn mực giá trị xã hội. Còn trong hệ thống cá nhân nó được chủ thể duy trì như là mô hình hành vi. Mô hình hành vi này sẽ quy định cách thức tương tác giữa cá nhân và nhóm xã hội. Văn hóa có thể được di chuyển từ hệ thống xã hội này đến hệ thống xã hội khác thông qua việc du nhập các giá trị xã hội. Văn hóa cũng có thể chuyển dịch từ hệ thống cá nhân này sang cá nhân khác thông qua học hỏi và xã hội hóa. Tuy nhiên tính chất biểu trưng của văn hóa tạo ra một đặc trưng khác như là một chức năng. Đó là khả năng kiểm soát các hệ thống hành động. Từ quan điểm này Parsons đã cho mình quyền của một người theo chủ nghĩa văn hóa. Học thuyết có tính hội nhập thực sự đối với việc giải thích đời sống văn hóa. Nó phải đảm bảo mức độ đo lường về tính hội nhập của các cấp độ phân tích. Quan điểm của ông về quyết định luận văn hóa dưới con mắt của các nhà phân tích còn có nhiều điều nghi ngờ. Đối với việc áp dụng giải thích một xã hội biến đổi mạnh mẽ trong thời đại công nghệ. Tuy nhiên các nhà phân tích cũng thừa nhận rằng quan điểm của Parsons về hệ thống văn hóa cũng như hệ thống cá nhân và hành vi đã góp phần giải thích sự ổn định hay tính chất tĩnh học của đời sống xã hội.
Merton, người học trò của Parsons tiếp tục phát triển lý thuyết cấu trúc chức năng. Theo Merton, văn hóa là một tổ hợp có tổ chức của hệ thống giá trị chuẩn mực nó điều chỉnh hành vi phổ biến của các thành viên trong xã hội. Cấu trúc xã hội là phức hợp có tính tổ chức của các mối quan hệ xã hội trong đó các thành viên của xã hội đó là chủ thể của những hành động xã hội và Anomi là hiện tượng vô khuẩn trong đời sống xã hội. Anomi xuất hiện khi không có sự liên kết giữa các chuẩn mực các chỉ tiêu văn hóa và khả năng tổ chức các thành viên trong xã hội tạo ra một sự liên kết phù hợp. Địa vị của các cá nhân với tư cách là chủ thể hành động trong một cơ cấu xã hội xác định có thể bị biến đổi do quá trình thực hiện các vai trò xã hội của họ. Một số cá nhân không thể tuân thủ những giá trị chuẩn mực xã hội vì những lý do của riêng mình. Mặt khác hệ thống văn hóa mới hoặc sự truyền bá lối sống mới với một kiểu hành vi ứng xử nào đó mà cấu trúc xã hội lại ngăn cản không cho nó thực hiện, ở nơi đó hiện tượng Anomi dễ xảy ra. Ví dụ trong chế độ phụ quyền, người chồng giữ vai trò chủ đạo trong gia đình. Khi lối sống mới xuất hiện, người vợ muốn thay đổi vị thế những thiết chế gia trưởng không cho phép. Hành vi của người vợ đối với thể chế gia trưởng được coi như là anomi. Hiện tượng anomi cũng như là một trong những nguyên nhân của tiến hóa chức năng. Tóm lại, giữa cấu trúc xã hội và văn hóa có một mối liên hệ chặt chẽ, mức độ phù hợp giữa đạo đức và giá trị chuẩn mực với cấu trúc chức năng xã hội, tạo ra sự ổn định bền vững. Trái lại, mức độ liên kết lỏng lẻo sẽ làm xuất hiện anomi và khả năng rối loạn khác.
Có thể nói, trụ cột của thuyết chức năng cấu trúc trong những năm 1950 - 1960 ở Mỹ là Talcott Parsons. Ông đặc biệt nhấn mạnh tới những mục đích cuối cùng của hành động "Một hành động được coi là hợp lý khi mục đích biện minh cho sự cố gắng". [Nguyễn Khắc Viện, tr. 402]
Nhìn chung, các nhà theo thuyết chức năng nhấn mạnh tính ổn định, thống nhất ý kiến và sự thống nhất của xã hội. Họ nhìn xã hội tương tự như cơ thể con người với nhiều bộ phận. Giống như các bộ phận của cơ thể, các thiết chế trong xã hội phải hành chức một cách chính xác để duy trì sự ổn định chung của toàn hệ thống xã hội. Riêng Parsons, ông đã tin tưởng rằng trật tự xã hội được xây dựng trên các giá trị mà các thành viên trong xã hội cùng chia sẻ. Ông phân loại xã hội như rơi vào một quang phổ (continuum) giữa địa vị gán cho và địa vị xã hội đạt được. Các xã hội mà ở đó các cá nhân được đánh giá dựa trên vị trí gia đình, giới tính, chủng tộc của họ hoặc dựa trên các đặc điểm sinh ra được nhìn như là theo truyền thống cuối cùng của phổ xã hội đế. Ông bình luận rằng những vị trí khó đạt được đòi hỏi những trách nhiệm đáng kể thì phải có hệ thống ban thưởng cho những cá nhân nắm vững chức vụ đó. Parsons cho rằng phân tầng xã hội là cần thiết để tạo ra những khuyến khích cho những người mà họ sẽ phải đảm trách những chức năng hay trọng trách khác của những vị trí xã hội khó khăn và theo quan điểm của ông, phân tầng xã hội là đáng mong ước vì nó cho phép hệ thống xã hội học cần được hành chức một cách trôi chảy.
Tiếp cận lý thuyết xã hội học theo thuyết chức năng, đề tài rất quan tâm đến nội dung quan điểm giải thích theo thuyết chức năng;
Việc mở rộng giáo dục trường học chính quy được xem là một điều kiện có trước cho việc phát triển kinh tế có hiệu quả và cho sự phát triển xã hội người tài năng... Hệ thống giáo dục đóng một vai trò chủ yếu trong việc đáp ứng ở mức tồi thiểu.
Hệ thống giáo dục là một phương tiện để phát triển nguồn nhân lực, trong một quốc gia công nghiệp. Giáo dục có một sự lựa chọn sống còn hay một chức năng định rõ vị trí. Giáo dục trường học được coi (theo quan điểm chức năng) là hậu quả “không thể tránh khỏi” của sự đòi hỏi về kỹ thuật của sản xuất công nghiệp, đòi hỏi về đào tạo kỹ thuật, và phân công đúng người đàn ông hay đàn bà cho một công việc. Những ý tưởng trên là cơ sở lý thuyết nền tảng của đề tài.
1.2.2. Lý thuyết phát triển nông thôn.
Theo nghĩa chung nhất, "phát triển là quá trình vận động từ thấp (đơn giản) đến cao (phức tạp), mà nét đặc trưng chủ yếu là cái cũ biến mất và cái mới ra đời" [Từ điển triết học, tr. 3]. Thực tế cho thấy, các lý thuyết về sự phát triển ngày càng có nội dung tiến gần tới những mục tiêu thiết thực mà xã hội đề ra, ngày càng đáp ứng cao hơn những yêu cầu những mong muốn của con người. Phát triển được xem như là một quá trình chuyển đổi xã hội, chuyển dịch từ tư duy và hình thức tổ chức xã hội, kinh tế cũ sang tư duy và hình thức tổ chức xã hội kinh tế mới [Tư duy mới về..., tr. 87]. Trong quá trình phát triển xã hội, giáo dục đóng vai trò quan trọng không chỉ vì nó làm tăng "vốn con người" mà vì giáo dục làm thay đổi khả năng chấp nhận các thay đổi.
Phát triển nông thôn là quá trình vận động nội tại của chính bản thân kinh tế - xã hội nông thôn gắn liền với những đặc điểm, điều kiện tự nhiên và trình độ phát triển kinh tế - xã hội của từng vùng cụ thể. Quá trình vận động này luôn gắn liền với sự phát triển kinh tế - xã hội của cả nước và sự đổi mới về thể chế chính sách của nhà nước, tạo môi trường thuận lợi và giữ vai trò "bà đỡ" để khuyến khích thúc đẩy sự vận động đi nhanh, đúng hướng và có hiệu quả, phát triển nông thôn một cách toàn diện, cần đảm bảo có sự tăng trưởng liên tục cả về mặt kinh tế và xã hội theo hướng: chuyển dịch kinh tế nông thôn hiện nay từng bước sang cơ cấu kinh tế nông - công nghiệp - dịch vụ theo hướng sản xuất hàng hóa đa dạng, có năng suất, chất lượng, hiệu quả cao trên cơ sở áp dụng các tiến bộ khoa học, công nghệ, nhất là công nghệ sinh học và trang bị các công cụ, thiết bị sản xuất tiên tiến.
Giáo dục tạo điều kiện cho các cá nhân làm quen với các phương pháp khoa học, với các hình thức tư duy mới khác biệt sâu sắc so với cách tư duy cũ.
Một trong những mục tiêu quan trọng của phát triển nông thôn ngày nay là làm cho xã hội nông thôn tiến hóa từ sản xuất tự túc sang sản xuất cho thị trường. [Đào Thế Tuấn, tr. 21]
Muốn phát triển kinh tế xã hội nông thôn, rất cần có một sự hiểu biết sáng suốt và chính xác về đời sống kinh tế phức tạp nói chung. Người sản xuất cần phải có những hiểu biết về thị trường địa phương, trong nước, quốc tế. Chính vì thế mà người nông dân rất cần được sự giáo dục để có thể theo kịp sự biến đổi trong xu thế phát triển hiện nay. Không những thế, người nông dân cần có sự hiểu biết tối thiểu về pháp luật, cơ cấu tổ chức hành chính cũng như quyền lực của các cơ quan nhà nước. Hay nói một cách khác, người nông dân rất cần có kiến thức để tìm hiểu cương lĩnh và chính sách của nhà nước. Mặt khác, người nông dân rất cần có những hiểu biết để làm tròn nghĩa vụ của người công dân. Chỉ có giáo dục mới có thể giúp họ lĩnh hội được một hệ thống đa dạng của những mối quan hệ mang tính chất phức tạp trong xã hội hiện đại. Xã hội càng phát triển, con người càng có nhu cầu cần được trang bị trí thức để có thể hiểu được quyền và nghĩa vụ của mỗi công dân trong cuộc sống cộng đồng, sự bình đẳng của con người, sự tự do cá nhân, sự phát triển của nhân cách, những nguyên tắc đổi mới quyết định sự tiến bộ của hành vi cá nhân và toàn bộ xã hội.
Một trong những mục tiêu phát triển thiên niên kỷ hiện nay là “tăng cường bình đẳng giới và nâng cao vị thế, năng lực cho phụ nữ” [báo cáo tóm tắt tình hình giới, tr. 28]. ở Việt Nam, bên cạnh những mục tiêu phát triển khác, đặc biệt chú ý đến các mục tiêu về phổ cập giáo dục, bảo đảm bình đẳng giới và nâng cao vị thế, năng lực của phụ nữ.
Chính vì thế mà trình độ học vấn, trình độ văn hóa của người phụ nữ đóng một vai trò hết sức quan trọng trong quá trình phát triển nông thôn. Trong công cuộc đổi mới đất nước phụ nữ đã góp phần quan trọng, đặc biệt PNNT, họ chiếm tới 52% dân số ở nông thôn và 70% lực lượng lao động trực tiếp trong các lĩnh vực ở nông thôn hiện nay. Rõ ràng muốn phát triển nông thôn, rất cần chú ý đến lực lượng lao động này. Nhiều chị em, do nhu cầu bức bách của cuộc sống, lại được cơ chế mới tác động, họ trở nên năng động tháo vát mạnh bạo trong công việc làm ăn tạo thu nhập cho gia đình. Sẵn sàng chấp nhận rủi ro, một nắng hai sương trên đồng ruộng, di cư theo mùa vụ, học tập thêm các ngành nghề mới để cải thiện đời sống gia đình. Chính vì vậy, cùng với sự khởi sắc của đời sống xã hội nông thôn, vai trò vị thế của PNNT trong những năm gần đây đã có những biến đổi khá rõ. Không chỉ đóng vai trò là người tham gia vào lực lượng lao động của hộ gia đình mà quan trọng hơn, họ cùng chồng bàn bạc trao đổi và cùng ra quyết định về những công việc hệ trọng. Có thể nói, chủ trương phát triển nông thôn đã đặt vị thế người phụ nữ vào đúng những đòi hỏi mà xã hội và gia đình mong đợi, tạo một sự bình đẳng mà trước đây chưa được xác nhận một cách nghiêm túc.
Phát triển nông thôn, không đơn giản chỉ đem lại quyền lợi vật chất trước mắt cho người nông dân trong đó có PNNT mà cao hơn muốn tạo cho họ một tương lai phát triển lâu dài tốt đẹp, phát huy được tiềm năng cá nhân, nhân cách trí tuệ, thể lực con người. Mặt khác, không ngừng cải thiện sự hưởng thụ vật chất và nâng cao sự thỏa mãn những nhu cầu văn hóa, tinh thần.
Xuất phát từ những đặc điểm kinh tế - xã hội của đất nước, Đảng ta đã xác định rõ vai trò và vị trí cực kỳ quan trọng của sự nghiệp phát triển nông nghiệp và kinh tế nông thôn trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Phát triển nông thôn chính là nhằm xây dựng nông thôn văn minh hiện đại, phúc lợi dân cư không ngừng tăng lên, đảm bảo sự công bằng, dân chủ và trật tự an toàn xã hội nông thôn.
Đề tài này đã vận dụng những ý tưởng có sức mạnh tự thân trong định nghĩa "phát triển" khá mới mẻ, vì chỉ có giáo dục và đào tạo mới có thể giúp cho nguồn nhân lực của một đất nước có điều kiện tiến đến sự phát triển bền vững trong tương lai.
Vận dụng quan điểm phát triển nông thôn của Đảng và Nhà nước ta, đề tài muốn tìm hiểu sự tác động của một số chính sách đến sự tham gia và quyền ra quyết định của phụ nữ trong gia đình và cộng đồng trong vài năm trở lại đây. Tác động tích cực và tiêu cực của một số chính sách được thể hiện rõ ở những chiều cạnh nào.
1.2.3. Một số quan điểm Lý thuyết về giới trong nghiên cứu khoa học về phụ nữ.
Trong những thập kỷ vừa qua, cùng với sự đấu tranh cho quyền bình đẳng nam nữ, các lý thuyết về giới đã được hình thành, có bước phát triển qua thực tiễn của các lý thuyết về giới đã dần được hoàn thiện như một hệ thống lý thuyết độc lập. Tuy nhiên cho đến nay ở Việt Nam việc giới thiệu một cách đầy đủ và có hệ thống toàn bộ lý thuyết giới với tư cách là lý luận khoa học còn rất ít. Trong đề tài này, chúng tôi (do hạn chế của cá nhân) chỉ có thể đề cập đến một số vấn đề trong lý thuyết giới có liên quan đến nội dung nghiên cứu qua một số tác phẩm đã được xuất bản trong nước và nước ngoài mà bản thân có dịp tham khảo.
Các lý thuyết khoa học về giới đã được rút ra từ các phong trào phụ nữ sôi động của các nước phương Tây từ những năm 60 trở lại đây. Đó là các phong trào: "Phụ nữ trong phát triển" và sau đó là "Giới và sự phát triển".
Các lý thuyết thuyết nữ quyền:
Có nhiều quan điểm lý luận đã được hình thành để vận dụng vào nghiên cứu những vấn đề của phụ nữ và giới hiện nay. Lý thuyết về giới được hình thành dựa trên quan điểm một số lý thuyết nữ quyền xuất hiện ở các nước phương Tây thời gian qua. Trong đó phải kể tới: thuyết nữ quyền tự do, nữ quyền mác xít, nữ quyền xã hội chủ nghĩa, nữ quyền cấp tiên, Nữ quyền hiện sinh, nữ quyền phân tâm, nữ quyền hậu hiện đại. Trong số đó cần đặc biệt coi trọng quan điểm nữ quyền mác-xít, nữ quyền XHCN. Các học giả theo thuyết nữ quyền đã lên tiếng chống lại những quan điểm thiếu khách quan về giới. Khi đề cập đến vai trò của nam và nữ trong giai đoạn hiện nay. Những người theo quyết định luật sinh học cho rằng chọn học tự nhiên “đã cấy vào con người ýmuốn truyền cho đời sau các gien của mình và phần nhiều, có thể là hầu hết hành vi [ con người] được kích thích bởi xung lượng sinh học bên trong này (in nate impulse) để thấy được mã di truyền của mình tồn tại” (Xem Epstein 1988: 47) [Vũ Mạnh Lợi, tr. 13]. Họ lập luận rằng, những khác biệt giữa nam và nữ trong các vai trò xã hội, cấu trúc thứ bậc xã hội, trong các quan hệ quyền lực, phân công lao động v.v.. trong gia đình và giữa gia đình và xã hội rộng lớn hơn có thể quy về những khác biệt đã được chương trình hóa về mặt sinh học giữa hai giới tính như những khác biệt giữa nam và nữ về các chiến lược tái sinh sản, các hoóc môn, kích thước và hình dạng của não bộ, các nhịp sống theo thời gian trong này theo quan điểm này, sự thống trị của nam giới và tính thụ động của nữ giới, tính hơn hẳn về trí tuệ và khả năng nhận thức tốt hơn của nam giới, khả năng tình cảm đặc biệt của phụ nữ v.v là những sản phẩm tự nhiên của một, hoặc là sự kết hợp của một số yếu tố như các chiến lược tái sinh sản của nam và nữ,những đặc điểm, đặc thù về giới tính của các hoóc môn và mức của các hoóc môn này, kích thước và hình dạng của não bộ, phân hóa chức năng theo các bán cầu đại não, và các phẩm chất sinh học khác. Theo thuyết định luật sinh học, những hành vi như ngoại tình, sự hy sinh vì người khác, các dàn xếp trong gia đình,sự gia trưởng, sự không trung thuỷ của nam giới tất cả đều có nguồn gốc từ di sản sinh học của con người. David Barash 1979: 189, trích lại từ Epstein 1988: 56). [Vũ Mạnh Lợi, tr. 13]
Đối lập với quan điểm quyết định luật sinh học các nhà khoa học xã hội đã chỉ ra tầm quan trọng hàng đầu của văn hóa và sự học hỏi có tính xã hội. Theo quan điểm của các học giả theo thuyết nữ quyền, y học cho rằng gia đình không phải là một thể chế có tính tất yếu về sinh học. Trái lại, đó là một thể thế xã hội, một hệ tư tưởng, một hệ thống mang tính thiết chế của các quan hệ xã hội và các ý nghĩa văn hóa (Epstein 1988; Thorne 1982; Colliez và đồng nghiệp 1982) [Vũ Mạnh Lợi, tr. 14].
Những học giả nữ quyền xem sinh học chỉ như “một phạm vi của các năng lực, một lý thuyết về “tính tiềm năng sinh học” (Epstein 1988:6). Những khác biệt giữa nam và nữ thể hiện ở hành vi xã hội của họ, trí tuệ đạo đức, tình cảm không mấy là hậu quả của yếu tố sinh học mà chính là sản phẩm được tạo ra bởi văn hóa và các can thiệp từ vật hiện sinh học thô (Epstein 1988: Thorne 1982) Những người theo thuyết nữ quyền xem quyền lực của nam giới đối với phụ nữ như nguồn gốc của sự bất bình đẳng giới trong gia đình và ngoài xã hội [Vũ Mạnh Lợi, tr. 14].
Họ chủ trương đấu tranh đòi các quyền cho phụ nữ. Họ khẳng định nam nữ sinh ra đều có quyền bình đẳng về mọi mặt, vì thế mọi người đều có quyền tự nhiên như nhau. Họ đã nhấn mạnh học vấn chính là phương tiện để đạt đến sự bình đẳng nam nữ. Họ cho rằng, nam nữ cùng hợp tác tạo điều kiện cho cả hai giới để cùng được hưởng lợi như nhau, không nên phân biệt. Trong gia đình và ngoài xã hội, họ chỉ rõ vai trò cùng chia xẻ trách nhiệm của nam và nữ. Đối với các học giả nữ quyền, họ quan niệm rằng, con người tạo ra gia đình. Vì thế không có lý do gì mà không thể thay đổi nó.
Các lý thuyết về giới đã đề cập đến quan hệ xã hội của phụ nữ và nam giới trong mọi lĩnh vực đời sống xã hội. Mối quan hệ đó trước hết được biểu hiện ở vai trò trong những lĩnh vực khác mà phụ nữ và nam giới cùng tham gia. Vai trò giới đòi hỏi phụ nữ và nam giới đảm nhận những chức năng và nhiệm vụ nhất định trong đời sống gia đình và xã hội. Vai trò giới được xác định dựa trên sự phân công lao động theo giới mà sự phân công lao động đó luôn diễn ra trên ba loại công cuộc chủ yếu: sản xuất, tái sản xuất và công việc cộng đồng.
“Công việc sản xuất liên quan đến sự sản xuất hàng hóa và dịch vụ cho tiêu dùng và trao đổi (làm ruộng, đánh cá, làm thuê). Khi người ta hỏi họ đang làm gì, câu trả lời phần lớn có quan hệ tới công việc sản xuất đặc biệt là những công việc mà chúng được trả công hoặc tạo ra thu nhập. Cả phụ nữ và nam giới có thể cùng liên quan tới những hoạt động sản xuất, nhưng trong từng lĩnh vực, chức năng và trách nhiệm của họ sẽ khác tuỳ theo sự phân công lao động theo giới [Gender Readings..., tr. 26].
Dựa trên cơ sở lý thuyết nữ quyền khác, các nhà nghiên cứu phụ nữ ở các nước phát triển đã xây dựng nên hệ thống quan điểm lý luận, dưới góc độ khoa học, lý thuyết giới là sản phẩm cao nhất của phát triển đấu tranh của phụ nữ. Khoa học về giới là sự đóng góp có hiệu quả vào công cuộc xây dựng một xã hội văn minh, công bằng và bền vững. Cụ thể, lý thuyết giới muốn cung cấp một cách nhìn toàn diện trước một vấn đề phức tạp và nhạy cảm là mối quan hệ sinh học và xã hội giữa nam và nữ, không những thế khoa học về giới đã chỉ ra những bất cập, những quan niệm và những hành vi lệch lạc của xã hội về mối quan hệ này.
Phụ nữ trong phát triển, giới và phát triển; hai cách tiếp cận nghiên cứu địa vị của phụ nữ ở các nước đang phát triển.
Từ những thập niên 70 trở lại đây, quan điểm “phụ nữ trong phát triển” đã đạt được những thành công to lơn trong việc làm cho các chương trình phát triển, dự án quan tâm hơn đến các vấn đề phụ nữ. Trong quá trình phát triển quan điểm “phụ nữ trong phát triển” cũng bộc lộ những thiếu sót nhất định mà theo quan điểm của các nhà nghiên cứu nếu chỉ dừng lại ở các biện pháp thu hút phụ nữ vào quá trình phát triển mà không xem lại mục đích và nội dung của chính sự phát triển thì chưa hẳn thỏa đáng. Vì lý do đó, việc đánh giá, nhận định quá trình phát triển từ lợi ích của phụ nữ cần được đặt ra và việc đưa phụ nữ vào phát triển cần được tiến hành đồng thời với việc cải biến, hoàn thiện toàn bộ quá trình này từ khâu đặt mục đích đến thực hiện.
Một cách tiếp cận mối dã được sử dụng, chú ý đến các quan hệ giới, tức là mối tương quan giữa nam và nữ. Chứ không đặt phụ nữ tách biệt với nam giới để nghiên cứu. Khái niệm “giới và phát triển” đã ra đời thay thế cho “phụ nữ trong phát triển”.
Từ nghiên cứu thực tiễn các tác giả cho rằng “công việc sản xuất của phụ nữ thường ít được nhìn thấy và bị đánh giá thấp hơn đàn ông” [Gender Readings..., tr. 26]
ở lĩnh vực công việc tái sản xuất lý thuyết giới cho rằng, để sản xuất được duy trì và đảm bảo liên tục cần có sự tái tạo sức lao động thông qua hoạt động tái sản xuất: “Công việc tái sản xuất liên quan đến việc chăm sóc và duy trì hộ gia đình và các thành viên của nó. Công việc này bao gồm sự mang thai, sinh sản, chăm sóc con cái) chuẩn bị thức ăn, nước uống và thu gom chất đốt, đi chợ, trông nom nhà cửa và chăm sóc sức khoẻ cho gia đình”. Đây là công viẹc rất thiết yếu, song trên thực tế “Người ta ít coi chúng thực sự là công việc”. Trong những cộng đồng nghèo, công việc tái sản xuất thường do phụ nữ và trẻ em gái đảm nhận [Gender Readings..., tr. 26].
Loại công việc thứ ba, là công việc cộng đồng, “công việc này liên quan đến tổ chức tập thể của các sở, ngành hoặc liên kết xã hội như hội hè, ma chay các hoạt động cải thiện cộng đồng. Sự tham gia vào các nhóm và các tổ chức, các hoạt động chính trị địa phương v.v.. loại công việc này có thể cả phụ nữ và nam giới cùng tham gia, tuy nhiên “sự phân công lao động theo giới cũng thịnh hành ở đây” [ Gender..., tr. 26].
Trên cơ sở ba công việc nêu trên, phụ nữ và nam giới cùng tham gia vào ba vai trò, song mức độ có thể không giống nhau. Nhiều tác giả đã cho rằng: “Trong nhiều xã hội, phụ nữ đảm nhận phần lớn lĩnh vực tái sản xuất và làm việc quá nhiều trong công việc sản xuất” [Gender..., tr. 26].
Vì vậy đề tài này, khi tìm hiểu sự tham gia và quyền ra quyết định trong gia đình và cộng đồng, chúng tôi đã vận dụng để phân tích vai trò giới hiện đang tồn tại trong cộng đồng,mà sự phân công lao động theo giới trên ba loại công việc nói trên vừa là cơ sở, vừa là công cụ để thao tác. Sự phân công vai trò có thể xuất phát từ sự thuận lợi về mặt sinh học và sự phân công xã hội. Tuy nhiên, có nhiều quan điểm cho rằng sự phân công vai trò giới gắn liền với các giá trị, chuẩn mực xã hội, gắn liền với văn hóa nhiều hơn là thuận lợi về mặt sinh học, mặc dầu cả hai yếu tố đều có quan hệ chặt chẽ với nhau. Có thể tham khảo ý kiến của một số tác giả: “Sự phân công lao động giới đặc trưng cho mỗi nền văn hóa và từng thời điểm. Thậm chí nó có thể khác từ cộng đồng này đến cộng đồng khác. Không những thế, vai trò giới còn thể hiện sự “mềm dẻo và thích nghi với sự thay đổi của điều kiện gia đình” [Gender..., tr. 25].
Rõ ràng địa vị xã hội của nam giới và nữ giới chịu sự chi phối của điều kiện kinh tế - xã hội nơi họ sống và làm việc. Vì thế: “công bằng xã hội, bình đẳng nam nữ, hạt nhân của chính sách xã hội chỉ có thể thực hiện được bằng cách phát huy yếu tố con người, huy động được tài năng, trí tuệ và sức lực của mọi thành viên trong xã hội, phụ nữ cũng như nam giới để phát triển kinh tế Nếu không, cùng lắm cũng chỉ là chia đều sự nghèo nàn, công bằng trong lạc hậu, mà trong gia đình hiện nay điều đó thật khó chấp nhận [Báo cáo giới LHQ, tr. 32].
Để cho nam giới và nữ giới thực hiện được vai trò xã hội của mình,(ngoài việc chịu sự chi phối của điều kiện kinh tế - xã hội nơi họ sinh sống) họ rất cần phải sử dụng những nguồn lực trong gia đình và cộng đồng, đồng thời họ có sự thụ hưởng từ lợi ích cho bản thân và cộng đồng tạo ra. Các nhà lý thuyết giới đã chỉ ra nguồn lực mà nam nữ có thể sử dụng: “bao gồm nguồn tài nguyên phục vụ cho sản xuất hoặc kinh tế nguồn lực chính trị và yếu tố thời gian [Gender..., tr. 27]. Còn lợi ích “là sự chia sẻ của phụ nữ và nam giới về những nhu cầu cơ bản như thức ăn, quần áo thu nhập, sở hữu tài sản, giáo dục và đào tạo, quyền lực ._. chiến lược kinh tế gia đình.
Hiện nay cách mạng công nghệ đã và đang làm cho nhiều ngành nghề mới xuất hiện, nhiều nghề cũ mất đi, kiến thức và kỹ năng nghề nghiệp bị hao mòn nhanh chóng. Như vậy, công nghệ càng phát triển trong sản xuất thì nhu cầu đào tạo nguồn nhân lực có chất lượng cao, biết nhiều nghề, dễ thích nghi với thực tế, năng động và sáng tạo trở nên cần thiết.
3.2. Giải pháp nâng cao học vấn và địa vị phụ nữ nông thôn
3.2.1. Chiến lược về giáo dục đào tạo
Từ đầu thời kỳ đổi mới, Đảng và nhà nước ta đã kịp thời thay đổi tư duy và cách làm giáo dục. Chúng ta đã chuyển đổi hệ thống giáo dục quốc dân từ mục tiêu phục vụ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng XHCN. Điều đó đã được thể hiện qua các chủ trương cụ thể như: Cấu trúc lại hệ thống giáo dục quốc dân; sắp xếp lại mạng lưới các cơ sở giáo dục đào tao; đa dạng hoá các loại hình giáo dục- đào tao; xã hội hoá giáo dục; dân chủ hoá giáo dục; thực hiện chính sách mở cửa trong giáo dục-đào tạo; gắn đào tạo với nghiên cứu, thực nghiệm khoa học và lao động sản xuất. Trong tình hình thế giới có nhiều chuyển biến nhanh , giáo dục phải giúp công dân có trình độ hiểu biết căn bản để sáng tạo và sử dụng khi cần thiết. Giáo dục cho họ lịch sử, văn hoá, phong tục tập quán các nước, trao đổi học sinh giữa các nước. Chính vì vậy chương trình giáo duc phải chú ý phát triển, năng lực, cá tính, sở thích quan tâm của học sinh vào đời sống xã hội. Xã hội hoá giáo dục, đang là nhu cầu bức bách hiện nay. Cần nhìn nhận “cạnh tranh giáo dục dưới góc độ của xã hội học”.
“Cạnh tranh giáo dục”, nhờ nó mà kích thích được động cơ học tập khơi gợi và phát huy tiềm năng tránh lười biếng, thôi thúc vươn tới đỉnh cao của học vấn, phá bỏ sự bất bình đẳng trong học tập, tạo sự thuận lợi cho sự công bằng hoá sự sàng lọc của xã hội. Không những thế, “cạnh tranh giáo dục” là sự cọ sát, khích lệ người học đạt thành tích học tập, đồng thời thúc đẩy xã hội phát triển.
Mặt khác, “cạnh tranh giáo dục” có mặt trái của nó, tăng áp lực quá tải cho người học, dẫn đến tình trạng căng thẳng, lo lắng, hạn chế học tập. Thậm chí nếu không cẩn thận, “cạnh tranh giáo dục” sẽ gây ra sự rối loạn tâm trí cho người học. Trong cạnh tranh, dễ dẫn đến ảnh hưởng tới đạo đức của người học.
Từ những nội dung cơ bản nêu trên chúng tôi thấy cơ sở cho việc nâng cao học vấn và địa vị PNNT, kinh tế - xã hội nông thôn phải được phát triển tổng hợp (toàn diện). Trước mắt xoá đói giảm nghèo, từng bước nâng cao dân trí cho nông dân qua những kênh tuyên truyền giáo dục. Giáo dục cho họ thấy được giáo dục là cứu cánh để giảm đói nghèo. Đối với miền núi, cần nổ lực hơn nữa trong việc thiết kế các chương trình song ngữ không nên chỉ chú ý việc dạy các dân tộc thiểu số biết chữ quốc ngữ mà cần có quan điểm đa dạng hơn khi xem xét vấn đề làm thế nào để đạt được kết quả nâng cao học vấn cho đồng bào các dân tộc ít người.
Đưa ra tiêu chuẩn hoá các mục tiêu cấp quốc gia để có sự tập trung kinh phí cho hợp lý. Có sự giám sát cụ thể để đánh giá chất lượng tối thiểu, tính thực tế của việc phổ cập. Trên cơ sở đó mới có thể đưa ra các loại hình giáo dục thường xuyên, tạo cơ hội cho người dân (trong đó có PNNT) có thể sử dụng kỷ năng của mình một cách hiệu quả.
Đào tạo ngắn hạn được xem như đóng vai trò quan trọng để giúp đỡ những người nghèo thoát ra khỏi cảnh nghèo và phát triển các kỹ năng ngành nghề phi nông nghiệp. Hay nói một cách khác, với điều kiện phù hợp với các nhu cầu lao động, các trung tâm đào tạo nghề có thể là một biện pháp quan trọng giúp người nghèo học được những kỹ năng họ cần để tham gia vào thị trường lao động. Đặc biệt quan tâm đến việc nâng cao học vấn cho PNNT, vùng sâu vùng xa. Có những chính sách cụ thể, trợ giúp, tạo điều kiện cho các đối tượng phụ nữ nghèo có cơ hội được học hành theo nhiều kênh khác nhau. Ưu tiên cho nữ giới được tham gia các lớp tập huấn, khuyến nông, các lớp hướng dẫn tiếp cận thị trường... Nên hướng vào nội dung trang bị kiến thức cụ thể cập nhật với các lĩnh vực sản xuất , chăn nuôi, kinh doanh phù hợp với nhu cầu phát triển của từng địa phương.
Việc phổ biến tuyên truyền giáo dục trên các phương tiện truyền thông đại chúng là rất cần thiết, phù hợp với điều kiện hoàn cảnh của chị em phụ nữ.
3.2.2. Chiến lược bình đẳng giới
Bình đẳng giới đang là mục tiêu phát triển của các quốc gia, đặc biệt các nước đang phát triển hiện nay. Trong thời gian qua, Đảng và Nhà nước ta đã đặt con người là trung tâm của sự phát triển, thúc đẩy các tiềm năng phát triển và hạnh phúc của con người. Điều này đã được phản ánh rõ trong những thành công của công cuộc đổi mới và trong chiến lược 10 năm phát triển kinh tế - xã hội (2000-2010) đã được thông qua tại Đại hội Đảng lần thứ IX của Ban chấp hành TW Đảng cộng sản Việt Nam tháng 4-2001. Chiến lược kinh tế - xã hội 10 năm (2001 - 2010) thúc đẩy quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa theo định hướng XHCN, đặt nền tảng cho Việt Nam về cơ bản trở thành một nước công nghiệp vào năm 2020. Có thể nói một cách khác, nội dung cốt lõi của chiến lược phát triển kinh tế trong những năm tới, là sự cấp thiết kiến tạo một quá trình phát triển vì dân và do dân thực hiện. Trên cơ sở đó, đảm bảo chất lượng sống ngày càng gia tăng tối thiểu tạm đủ và những cơ hội bình đẳng cho tất cả mọi người.
Rõ ràng cách tiếp cận này coi con người là trung tâm của quá trình phát triển, coi sự phát triển như là một quá trình mở rộng khả năng và sự lựa chọn của mọi người nhằm nâng cao chất lượng sống toàn diện của họ. Chủ trương của Đảng và Nhà nước ta đã thể hiện rất rõ, không phân biệt sắc tộc, giai cấp, tôn giáo, giới tính và quốc tịch, các nhóm xã hội này đều được tiếp cận như nhau tới các cơ hội. Cách tiếp cận này thể hiện rất rõ quan điểm của Đảng và Nhà nước ta, cần chú trọng tất cả các nhóm, tạo cho họ tham gia một cách công bằng và bình đẳng vào quá trình phát triển, nếu thiếu sự tham gia công bằng của các nhóm sẽ hạn chế quá trình phát triển của đất nước.
Ngay từ khi mới ra đời Đảng cộng sản Việt Nam, và Nhà nước xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã đưa vấn đề giới vào Hiến pháp của nước ta và trong nhiều chính sách khác của Nhà nước. Chính vì thế mà nước ta đã thực hiện tốt nhiều chỉ báo về bình đẳng giới. Thí dụ, chỉ báo về sức khoẻ trẻ em không cho thấy sự phân biệt giữa các trẻ sơ sinh gái và trai, tỉ lệ giáo dục tiểu học gần như đồng đều giữa các bé trai và bé gái đối với nhóm dân tộc đa số là người Kinh. Tuy nhiên, trong quá trình chuyển đổi kinh tế cũng đã bộc lộ những mặt tiêu cực tác động đến nam giới và nữ giới theo các cách khác nhau, đặc biệt tác động tiêu cực nhất đối với các nhóm dân tộc thiểu số.
Mặc dù chỉ số phát triển giới ở nước ta hiện nay xếp ở vị trí tương đối cao hơn so với chỉ số phát triển con người và GDP, song sự khác biệt giới vẫn còn phổ biến ở nhiều lĩnh vực. Thí dụ, phụ nữ còn kém hơn nam giới nhiều ở bậc học vấn cao, nhất là ở nông thôn miền núi. Trong thị trường lao động, những khuôn mẫu truyền thống còn chiếm ưu thế, tạo ra sự phân công lao động theo giới và do đó kéo theo sự phân biệt nam nữ khá đậm nét.
Vấn đề đặt ra, giải pháp nào cho việc nâng cao bình đẳng giới trong quá trình chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường, nhiều biến động, dễ gây tổn thương cho các nhóm yếu thế như PNNT, nhất là ở vùng sâu vùng xa?
Từ nhiều cuộc nghiên cứu của các tác giả trong và ngoài nước, có thể thấy bình đẳng giới có nghĩa là sự bình đẳng về pháp luật, về cơ hội (trong đó việc tiếp cận đến nguồn vốn con người) và bình đẳng về tiếng nói. Trong khuôn khổ nội dung luận án, chúng tôi đi sâu tìm hiểu những giải pháp nâng cao bình đẳng giới trong lĩnh vực giáo dục, tìm kiếm những giải pháp nâng cao học vấn cho phụ nữ nông thôn. Người phụ nữ có học vấn cao, không chỉ có lợi cho bản thân họ về nhận thức và cơ hội thăng tiến trong xã hội mà nam giới (cụ thể người chồng) cũng thụ hưởng những kết quả mà người phụ nữ đem lại.
Trong gia đình, người chồng rất cần sự chia xẻ của người vợ trên mọi lĩnh vực; không chỉ về mặt làm kinh tế tạo thu nhập của gia đình, mà việc tạo một không khí đầm ấm hạnh phúc, lan tỏa thương yêu mới là cái đích mà các gia đình hiện đại cần vươn đến. Người phụ nữ hiểu biết còn có khả năng giúp đỡ chồng thành công trong lĩnh vực nghề nghiệp, thăng tiến xã hội, chia xẻ niềm vui nổi buồn trong các cung bậc của đời sống gia đình mà không tổ ấm nào tránh khỏi. Không những thế họ còn biết chăm sóc chồng, và các thành viên trong gia đình lúc ốm đau trái nắng trở trời. Tâm lý chung của phụ nữ Việt Nam, họ mong muốn có hiểu biết, được sự đánh giá đúng đắn và tạo cơ hội từ của gia đình và xã hội, họ có điều kiện phát huy hết khả năng vốn có làm lợi cho gia đình và xã hội. Đặc biệt, khi người mẹ có trình độ học vấn cao, sẽ là tấm gương gần gũi nhất cho các con trong gia đình phấn đấu. Không chỉ là người thừa hưởng những kết quả của sự nhận thức hiểu biết của người mẹ mà quan trọng hơn, con cái phấn đấu vươn lên bằng con đường học vấn. Vì chỉ có trình độ học vấn cao mới giúp cho cá nhân tìm được việc tốt, tức là những công việc thú vị, có thu nhập cao, đặc biệt khi nền sản xuất phát triển theo hướng CNH, HĐH .Có thể nói muốn có một xã hội an toàn, cần quan tâm đến giáo dục, vì những người có giáo dục tốt (đặc biệt phụ nữ) ít mắc phải các hành vi phạm tội.
Từ những vấn đề cơ bản nêu trên, chúng tôi xin nêu ra một số giải pháp sau đây:
1. Xóa bỏ bất bình đẳng giới là trách nhiệm của toàn xã hội, của các cấp các ngành, chứ không chỉ là công việc của hội phụ nữ hay của bộ máy vì sự tiến bộ phụ nữ. Nói cách khác, bình đẳng giới có thực hiện được hay không rất cần sự quan tâm ủng hộ một cách tích cực của các nhà hoạch định chính sách. Các chính sách kinh tế xã hội đều cần lồng ghép quan điểm giới,. Điều này lý giải vì sao: Việc nâng cao nhận thức cho các cấp lãnh đạo từ trung ương đến địa phương về kiến thức giới phải là giải pháp hàng đầu. Từ đó mới có cơ sở cho việc lồng ghép giới vào các chương trình nghị sự quốc gia, như “dân số kế hoạch hóa gia đình’ hoặc cụ thể hóa chỉ tiêu phụ nữ tham gia vào các tổ chức Đảng, chính quyền, đoàn thể (ở địa phương).
2. Cần có sự phối hợp đồng bộ giữa các ban ngành với các tổ chức đoàn thể ở nông thôn, khi mở các lớp học nâng cao trình độ nhận thức, năng lực cho phụ nữ. Cụ thể, khi mở các lớp tập huấn khuyến nông, khuyến lâm, IPM Cần đưa ra chỉ tiêu cụ thể, có nữ tham gia. Nếu không đạt chỉ tiêu, cần xem xét nguyên nhân và tìm ra biện pháp khắc phục. Có như vậy mới thu hút được chị em nữ nông thôn tham gia vào các lớp tập huấn kiến thức về nhiều nội dung ở địa phương.
Mặt khác, thông qua các tổ chức đoàn thể, lồng ghép vào các buổi hội họp tại địa phương, tạo ra một dư luận xã hội, xóa bỏ sự phân biệt đối xử nam nữ, lên án thói gia trưởng, bảo thủ, miệt thị chê bai, định kiến đối với phụ nữ, nhất là đối với những chị em năng nổ tích cực hoạt động.
3. Tăng cường mở rộng các chương trình các dự án nâng cao năng lực cho phụ nữ, như dự án XDGN, DSKHHGĐ, xây dựng cơ sở hạ tầng nông thôn Song cần chú ý một số điểm;
Thứ nhất, phụ nữ tham gia vào các dự án như là một điều kiện bắt buộc, có như vậy mới tính đến hiệu quả của dự án.
Thứ hai, các dự án triển khai cần được lưu ý đến vùng, miền, tránh tình trạng chỉ tập trung ở vùng này mà xao nhãng ở vùng kia. Nhiều khi các dự án nghiên cứu chỉ mang tính trường hợp mà không mang tính đại diện cho cả nước. Nhất là đối với vùng sâu, vùng xa vùng đặc biệt khó khăn cần có sự hỗ trợ kịp thời mang tính ưu tiên.
Thứ ba, các dự án rất cần sự thu hút nam giới, nhất là dự án DSKHHGĐ. Nam giới không cộng tác, chia xẻ với nữ giới trong việc phòng tránh thai, sinh con,nuôi con, giáo dục con thì thành công của sự án chỉ dừng ở mức ý tưởng.
Quan tâm đến học vấn phụ nữ nông thôn, đến việc đi học, bỏ học của trẻ em gái ở nông thôn hiện nay là việc làm cấp bách, tiếp tục khẳng định rằng phụ nữ cũng cần được học hành như nam giới. Có học vấn cao, phụ nữ và trẻ em gái trong tương lai có thể đem lại lợi ích cho những người trong gia đình và ngoài xã hội thông qua sự tác động đối với sự phát triển của cả cộng đồng.
“Vì lợi ích mười năm phải trồng cây, vì lợi ích trăm năm phải trồng người”.
Kết luận
Phụ nữ Việt Nam chiếm 50,8% dân số và 50,6% lực lượng lao động xã hội, trong đó phụ nữ nông thôn chiếm tới 70% dân số ở nông thôn và 60% lực ? lượng lao động ở nông thôn. Phụ nữ đóng vai trò quan trọng trong sự nghiệp dựng nước và giữ nước, trước đây và ngày nay trong sự nghiệp đổi mới đang sát cánh cùng với nam giới phấn đấu vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ văn minh”.
Với trách nhiệm là người vợ, người mẹ, phụ nữ đã có những cống hiến xuất sắc trong việc nuôi dưỡng các thế hệ công dân của nước ta và chăm lo cho các gia đình Việt Nam theo chuẩn mực “no ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc”. Phụ nữ còn là nhân tố quan trọng trong sự nghiệp giữ gìn nền văn hóa mang bản sắc dân tộc Việt Nam và mang lại nhiều vinh quang cho đất nước trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị, xã hội, văn hoá.
Đảng và nhà nước ta luôn có nhận thức đúng đắn và đánh giá cao vai trò của phụ nữ, đồng thời chủ trương giải phóng phụ nữ, thực hiện bình đẳng nam nữ gắn liền với công cuộc xây dựng và phát triển đất nước.
Chính phủ đã thể chế hóa các chủ trương trên bằng hệ thống chế độ, chính sách bảo đảm quyền lợi cho phụ nữ trong mọi lĩnh vực. Mới đây nhất, ngày 21/1/2002, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành quyết định số 19/2002/QĐ- TTg về việc phê chuẩn chiến lược quốc gia vì sự tiến bộ phụ nữ Việt Nam đến năm 2010. Mục tiêu tổng quát nêu rõ: “Nâng cao chất lượng đời sống vật chất và tinh thần của phụ nữ. Tạo mọi điều kiện để thực hiện có hiệu quả các quyền cơ bản và phát huy vai trò của phụ nữ trong mọi lĩnh vực của đời sống chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội.”
Những nỗ lực trên đây đã đem lại những kết quả đáng khích lệ. Vị thế của phụ nữ Việt Nam đang dần được nâng lên cả trong gia đình và ngoài xã hội.
Tuy nhiên trên thực tế, bình đẳng nam nữ nhìn chung vẫn chưa được thiết lập một cách vững chắc. Phụ nữ vẫn phải chịu nhiều thiệt thòi trên một số lĩnh vực so với nam giới, đặc biệt trong gia đình. Học vấn và địa vị của phụ nữ nông thôn vẫn chưa được tương xứng với vai trò mà phụ nữ đã đảm nhận.
Những hạn chế nêu trên là do có nhiều nguyên nhân, khách quan, chủ quan... Điều này lý giải vì sao cần phải tìm đâu là nguyên nhân cơ bản chi phối mạnh đến mối quan hệ này là việc làm rất cần thiết. Trong phần giải pháp, tác giả luận án đã đề cập đến những chiến lược khả thi, nhằm giúp quá trình nâng cao học vấn, địa vị phụ nữ nông thôn trong những thập kỷ tới.
Qua khảo sát, phân tích những số liệu trong địa bàn nghiên cứu ở ba xã của tỉnh Quảng Ngãi thuộc vùng Duyên hải miền Trung, luận án rút ra một số nội dung cơ bản sau:
1. Học vấn và địa vị phụ nữ nông thôn Quảng Ngãi có những biến đổi nhất định. Đây là kết quả của công cuộc dựng nước và giữ nước vĩ đại của dân tộc ta trong nhiều năm chống lại phong kiến, các thế lực đế quốc và chống đói nghèo lạc hậu. Đặc biệt trong công cuộc đổi mới do Đảng ta đề xướng, vị thế phụ nữ đã được khẳng định không chỉ trong chống giặc ngoại xâm.
Nếu như trước năm 1975, tỷ lệ phụ nữ Quảng Ngãi mù chữ khá cao tới hơn 50%, số còn lại đa phần học tiểu học, và THCS, tỷ lệ học vấn THPT rất hiếm, thì hiện nay tỷ lệ này đã được thay đổi nhiều. (Cụ thể ?)…..
Nhiều chị em đã tham gia tích cực và có những đóng góp nhất định vào các lĩnh vực sản xuất, thu nhập trong gia đình, cũng như các hoạt động ở cộng đồng làng xã. Khi được đặt vào những vị thế quan trọng trong cộng đồng, nhiều chị em đã tích cực tham gia vào quá trình học tập nâng cao kiến thức hiểu biết, năng lực cho cá nhân.
Vai trò kinh tế hộ ở nông thôn hiện nay, không thể bỏ qua sự đóng góp rất thầm lặng của nữ giới.
Tuy nhiên, vẫn còn có sự chênh lệch về học vấn giữa nam và nữ ở các cấp học. Đặc biệt ở cấp THPT trở lên.
So với nam giới, bất bình đẳng giới trong giáo dục đây là vấn đề khiến chúng ta phải quan tâm để tìm cách khắc phục. Đặc biệt ở vùng sâu vùng xa của tỉnh Quảng Ngãi, tỷ lệ mù chữ còn khá cao. Cụ thể ?..
Những cải thiện về vị trí, vai trò của phụ nữ nông thôn vẫn còn dừng ở mức khiêm tốn. Họ vẫn phải gánh trên hai vai “vai trò kép”, sự chia sẻ của nam giới đối với công việc sinh hoạt trong gia đình chưa được là bao. Cộng đồng xã hội còn duy trì nếp nghĩ “công việc nấu nướng, chợ búa, cơm nước, dọn dẹp nhà cửa, chăm sóc con, gánh vác mọi công việc trong gia đình là của phụ nữ”. Quan niệm cho rằng những công việc này là tầm thường, vặt vãnh và không đáng được tính đến tồn tại không chỉ ở nam giới mà ở cả phụ nữ. Quan niệm này, không dễ khắc phục một sớm một chiều.
2. Học vấn đã có ảnh hưởng nhất định đến vai trò, vị thế của người phụ nữ nông thôn. Yếu tố này ảnh hưởng không rõ nét đối với một số công việc cụ thể, như sản xuất nông nghiệp, chăn nuôi, đặc biệt công việc nội trợ.
Tác động của yếu tố học vấn phụ nữ chỉ được nhận rõ, ở lĩnh vực ra quyết định ở một số công việc trong gia đình: chi tiêu tài sản đắt tiền, hướng dẫn con học. Sự chia xẻ của người chồng tăng lên đối với những phụ nữ có học vấn cao. Đặc biệt học vẫn có tác động mạnh đến nhận thức giới. Học vấn có tác động đến hoạt động ở cộng đồng của chị em phụ nữ, tham gia đi họp phụ huynh, đi thăm hỏi họ hàng bạn bè.
3. Học vấn địa vị phụ nữ nông thôn chịu sự tác động của một số yếu tố, đặc biệt chịu sự tác động mạnh của một loạt chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước trong thơì kỳ đổi mới.
Cũng nhờ có chính sách cụ thể trong những năm qua mà học vấn và địa vị của phụ nữ nông thôn đã có những đổi thay nhất định, theo đúng tiến trình phát triển đi lên của lịch sử. Hình dáng “Người phụ nữ là cái bóng của chồng” đang dần lùi vào dĩ vãng, hình ảnh người phụ nữ khoẻ mạnh, tự tin bởi có kiến thức, có khát khao làm giàu cho bản thân, cho gia đình đang dần tự khẳng định.
Bên cạnh đó, sự hoạt động tích cực của các đoàn thể trong đó phải đánh giá cao vai trò của Hội Phụ nữ Việt Nam, từ trung ương đến tỉnh, huyện, xã đã làm đổi thay quan niệm lỗi thời về vai trò, vị thế của phụ nữ ngày nay.
Mặt khác, ảnh hưởng của chuẩn mực văn hóa xã hội, tuổi , số con, kinh tế gia đình, học vấn người chồng, phương tiện truyền thông đã lý giải phần nào, nâng cao học vấn địa vị phụ nữ nông thôn trong gia đình hiện nay là vấn đề không hề đơn giản. Rất cần có quan điểm giải pháp ở tầm vĩ mô.
4. Khi xem xét giải quyết mối quan hệ giữa học vấn và địa vị phụ nữ nông thôn hiện nay, cần phải đặt mối quan hệ này trong bối cảnh phát triển nông thôn bền vững trên nguyên tắc bình đẳng giới để giải quyết những vấn đề cơ bản xã hội.
Nhận thức về vấn đề bình đẳng giới của phụ nữ nhìn chung vẫn còn hạn chế, chưa sâu sắc. Tuy nhiên, những chị em có học vấn cao hơn, nhận thức về giới có khởi sắc hơn. Chính vì thế mà trong gia đình việc san xẻ trách nhiệm nên được quan tâm thích đáng. Không chỉ đối với phụ nữ mà cần chú ý đặc biệt đối với nam giới. Cần được nhận thức một cách đầy đủ hơn vấn đề giới ngay trong gia đình. Nam giới nên chia sẻ công việc với nữ giới, kể cả công việc tưởng như nhỏ nhất. Có như vậy phụ nữ mới có điều kiện nâng cao năng lực cá nhân, điều kiện học hỏi nâng cao kiến thức, nghỉ ngơi du lịch, xem báo chí, các phương tiện truyền thông đại chúng. Đưa vấn đề giới vào trong nhà trường, lồng ghép vào giảng dạy ở một số bộ môn phù hợp. Làm tốt điều này sẽ khiến kiến thức giới, của học sinh nam và học sinh nữ nói riêng, của phụ nữ và nam giới nói chung, phát huy được tác dụng trong việc nâng cao nhận thức về bình đẳng giới và xoá bỏ các quan niệm, hành vi có tính phân biệt giới.
Nâng cao học vấn, địa vị cho phụ nữ nông thôn sẽ đem lại cho phụ nữ nhiều cơ hội phát triển, đồng thời góp phần nâng cao đời sống gia đình của họ và xã hội nói chung cũng như địa vị họ trong gia đình.
Học vấn là yếu tố nền tảng để khắc phục tình trạng bất bình đẳng giới. Một trong những nhân tố quyết định cho những nội dung trên, là thay đổi dần dần cơ sở hạ tầng, sẽ làm cho những tư tưởng lạc hậu lỗi thời mất đi.
Từ một số kết luận có tính gợi mở rút ra qua cuộc nghiên cứu tại địa bàn khảo sát chúng tôi đưa ra một số kiến nghị :
Khuyến nghị
Thứ nhất, cần có chính sách đào đạo, đào tạo lại, dạy nghề, đẩy mạnh hoạt động khuyến nông, khuyến ngư cho phù hợp với sự chuyển đổi cơ cấu kinh tế hiện nay. Đặc biệt đào tạo nghể trong thời gian ngắn hạn cho phụ nữ nông thôn nói riêng và lực lượng lao động nói chung. Phương châm đào tạo là cần gì học nấy, có thể đào tạo miễn phí cho những người nghèo.
Đối với thanh niên nông thôn, chưa tốt nghiệp PTTH cần đưa họ tham gia vào học các chương trình bổ túc văn hóa. Kết hợp với quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông thôn, xúc tiến nhanh việc mở mang ngành nghề để đưa họ đi đào tạo. Nên chăng, cần thành lập các trung tâm đào tạo bồi dưỡng tại cấp huyện, cấp xã để động viên mọi người cùng đi học, thực hiện chế độ học tập suốt đời. Phối hợp với các thành phố khu công nghiệp, tiến hành đào tạo lao động kỹ thuật đáp ứng nhu cầu về lao động của các doanh nghiệp, đặc biết các ngành sản xuất thu hút nhiều lao động nữ như: dệt may, da giầy…
Thứ hai, cần có chính sách biện pháp cụ thể đối với việc bỏ học của học sinh, đặc biệt những những học sinh tại các vùng nghèo khó (số liệu cho thấy. Tìm ra những nguyên nhân cơ bản của việc bỏ học để có biện pháp kịp thời đưa các em đến lớp đúng độ tuổi, đặc biệt đối với trẻ em gái.
Thứ ba, cần có chủ trương biện pháp tích cực đổi mới nội dung và phương pháp giảng dạy cho phù hợp với công cuộc đổi mới hiện nay. Giáo dục đang bộc lộ những khiếm khuyết như: phương pháp giảng dạy lạc hậu. Những vấn đề thuộc về nội dung giảng dạy trong nhà trường chưa thiết thực đáp ứng với thực tiễn sống động khi loài người đã bước vào thế kỷ 21.
Thứ tư, luận án mới dừng ở mức nghiên cứu trường hợp tại tỉnh Quảng Ngãi thuộc vùng Duyên hải miền Trung, còn hạn chế về dung lượng mẫu nhỏ. Chính vì vậy, những nhận xét bước đầu rút ra chưa đủ sức khái quát. Nếu có điều kiện, chúng tôi mong muốn được nghiên cứu sâu, rộng hơn để kiểm chứng nội dung đã nêu và phát hiện thêm những điều mới mẻ liên quan đến mối tương quan học vấn và địa vị của PNNT, cả ở phương diện lý thuyết lẫn thực tiễn.
tài liệu tham khảo
Từ điển Tiếng Việt (1992), Nxb Khoa học Xã hội- Viện Ngôn ngữ học, Hà Nội.
Tony Bilton (Chủ biên) (1993), Nhập môn Xã hội học, Nxb Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.
The Harper Colins (1991), Dictionary of Sociology.
Phạm Tất Dong, Lê Ngọc Hùng (1997), Xã hội học đại cương, Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội
Trần Thị Vân Anh, Lê Ngọc Hùng (2000), Phụ nữ, giới và phát triển, Nxb Phụ nữ, Hà Nội.
Liên Hợp quốc tại Việt Nam (2002), Tài liệu tóm tắt tình hình giới.
Trần Thị Kim Xuyến (Chủ biên) (2002), Nhập môn xã hội học, Nxb Đại học quốc gia, Hà Nội.
Nguyễn Khắc Viện (1994), Từ điển Xã hội học, Nxb Thế giới, Hà Nội.
Từ điển Triết học (1986), Nxb Sự thật, Hà Nội.
Trung tâm khoa học xã hội và nhân văn quốc gia (2000), Tư duy mới về phát triển cho thế kỷ XXI, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
Đào Thế Tuấn (1999), “Xã hội nông thôn và các vấn đề của nông nghiệp trong thời kỳ hiện nay”, Tạp chí Xã hội học, Số 2.
Vũ Mạnh Lợi (2000), “Một số quan điểm lý thuyết về giới trong nghiên cứu gia đình”, Tạp chí Xã hội học, Số 4
Gender Readings and Resources for Community- Based natural resources Managerment Reseaschers (1998), Volume 1. Compiled by Sam London, IDRC.
Trần Thị Vân Anh (1999), "Mấy vấn đề về đào tạo giới”. Tạp chí Khoa học về phụ nữ, số 1.
C.Mác và Ph.Ăngghen (1981), Nguồn gốc của gia đình, của chế độ tư hữu và của Nhà nước, Nxb Sự thật.
V.I.Lênin (1977), Toàn tập, tập 39, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva.
Hồ Chí Minh (1969), Toàn tập, tập 2, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Hồ Chủ tịch với vấn đề giải phóng phụ nữ (1970), Nxb Phụ nữ Hà nội
Hồ Chí Minh (1969), Toàn tập, tập 6, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Hồ Chí Minh (1969), Toàn tập, tập 9, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Hồ Chí Minh (1969), Toàn tập, tập 1, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Đặng Thi Bích Huệ (1990), “Bác Hồ với giáo dục gia đình”, Tạp chí Nghiên cứu giáo dục, số 4.
Phạm Minh Hạc (1998), “Giáo dục Việt Nam trước ngưỡng cửa thế kỷ XXI”, Báo cáo tại Hội nghị quốc tế Việt Nam học, ngày 15-17 tháng 7 năm 1998, Hà Nội, Việt Nam.
Bộ trưởng Cung ứng và Dịch vụ Canada (1989), Phụ nữ trong sự phát triển.- Cơ quan phát triển quốc tế Canada (CIDA).
Lê Thị Vinh Thi (1993), Kinh tế hộ gia đình và vấn đề giáo dục phụ nữ nông thôn, Nxb Khoa học xã hội, Hà nội
Tương Lai (chủ biên) (1995), Khảo sát phân tầng xã hội, Nxb Khoa học xã hội, Hà nội
Nguyễn Đình Tấn, Lê Ngọc Hùng (1999), Vai trò nam chủ hộ ngư dân ven biển miền Trung bước chuyển đổi của nền kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay, Nxb Chính trị Quốc gia Hà Nội.
Dominique Haughton, Jonathan Haughton Saran Bales, Trương Thị Kim Quyên, Nguyễn Nguyệt Nga, Hoàng Văn Kình (1999), Hộ gia đình Việt Nam nhìn qua phân tích định lượng, Nxb Chính trị Quốc gia.
Báo cáo phát triển của Việt Nam năm 2000-Tấn công nghèo đói, báo cáo chung của nhóm công tác các chuyên gia chính phủ – Nhà tài trợ – Tổ chức phi chính phủ. Hội nghị nhóm tư vấn các nhà tài trợ cho Việt Nam, 14-14/12/99.
Hà Thị Phương Tiến (2002), “Việc làm của nữ thanh niên trong sự nghịêp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”, Tạp chí Khoa học về phụ nữ, Số 2.
Trần Thị Vân Anh, Lê Ngọc Hùng (2000), Phụ nữ, giới và phát triển, Nxb Phụ nữ, Hà Nội.
Nguyễn Thị ánh Tuyết, Chủ nhiệm đề tài (1999), Phụ nữ Quảng Ngãi với nhu cầu nâng cao dân trí trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn Quảng Ngãi.
Nguyễn Bình Yên (2000), , tr, 124.
Vũ Tuấn Anh chủ biên (1995), Kinh tế Việt Nam đổi mới và phát triển, Nxb Khoa học xã hội, Hà nội
Phạm Tố Chân (1985), “Nghiên cứu về con người ở đồng bằng sông Hồng”, Tạp chí Xã hội học, (số 3).
Nguyễn Quang Vinh (1995), "Phụ nữ và những thay đổi định chế trong phát triển nông thôn", trong sách Địa vị người phụ nữ trong xã hội.
Lê Thi (1991), Việc làm đời sống phụ nữ trong chuyển đổi kinh tế ở Việt nam, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
Vương Thị Hanh (Cùng nhóm nghiên cứu) (2000) “Báo cáo phân tích tình hình phụ nữ trong lĩnh vực lãnh đạo, tham gia chính trị và ra quyết định”, Trung tâm hỗ trợ giáo dục và nâng cao năng lực cho phụ nữ (CEPEW)
Đặng Cảnh Khanh chủ biên (1999), Chuyển đổi cơ cấu ngành nghề và đào tạo nhân lực cho phát triển khu công nghiệp Dung Quất tới năm 2010, Dự án điều tra cơ bản, Bộ Kế hoạch Công nghệ và môi trường, Hà nội
Tương Lai chủ biên (1991), Những nghiên cứu xã hội học về gia đình Việt nam, tập 1, Nxb Khoa học xã hội, Hà nội
Nguyễn Quang Vinh (1995), Gia đình và địa vị người phụ nữ trong xã hội, Nxb Khoa học xã hội, Hà nội
Tương Lai chủ biên (1995), Khảo sát phân tầng xã hội, Nxb Khoa học xã hội, Hà nội
Nguyễn Linh Khiếu (1997), Trình độ văn hóa và ảnh hưởng của nó đến đời sống của người phụ nữ nghèo nông thôn, Tạp chí Khoa học về phụ nữ, Số 1
Báo cáo tóm tắt tình hình giới (2002), Liên Hợp quốc tại Việt Nam
Trương Thị Xuân Hồng (2002), Khai thác vốn, nâng cao kiến thức và năng lực của phụ nữ, thông tin phụ nữ 20/
Số liệu do Sở giáo dục và đào tạo cung cấp năm 2001
Số liệu do Sở giáo dục và đào tạo cung cấp năm 2001
Nguyễn Vũ (2000), Thông tin chuyên đề Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn, Số 5
Tạp chí Thống kê
Dominique Haughton (Nhóm biên tập) (2001), Mức sống trong thời kỳ kinh tế bùng nổ- Việt Nam, Nxb Thống kê, Hà nội
Điều tra thực trạng lao động- việc làm năm 1997-1998 của Bộ LĐTB-XH
Vương Thị Hanh
Phạm Tất Dong, Lê Ngọc Hùng (1997), Xã hội học đại cương, Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội
Phạm Tất Dong, Lê Ngọc Hùng (1997), Xã hội học đại cương, Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội
Sách đã dẫn (61)
Nguyễn Đình Tấn - Lê Trên La (chủ biên) (1999) Vai trò nam chủ hộ ngư dân ven biển trng bước chuyển đổi của nền kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia Hà Nội.
Điều tra về đời sống và vai trò phụ nữ, trường hợp tỉnh Nam Định
Lươmg Hồng Quang (2002), Mô hình văn hóa của nhóm nghèo, Xã hội học, Số2
Điều tra về đời sống và vai trò phụ nữ, trường hợp tỉnh Nam Định
Nguyễn Thị Song An (2001) Báo cáo nghiên cứu về phát triển xã hội và giới tính, chương trình phát triển nông thôn Quảng Ngãi (QNRDP) - giai đoạn 1.
Báo cáo Đại hội Đảng bộ tỉnh Quảng Ngãi
Trần Hàn Giang (2001), Tác động của chinh sách mới đối với phụ nữ trên các lĩnh vực giáo dục, y tế và phúc lợi xã hội, Khoa học về phụ nữ, Số 4
Đặng Cảnh Khanh (1999), Chuyển đổi cơ cấu ngành nghề và đào tạo nhân lực cho phát triển khu công nghiệp Dung Quất tới năm 2010, Dự án điều tra cơ bản, giai đoạn I, Hà Nội
Nguyễn Thị ánh Tuyết (1999) Phụ nữ Quảng Ngãi với nhu cầu nâng cao dân trí trong quá trình CNH, HĐH nông nghiệp nông thôn, Quảng Ngãi
Nguyễn Linh Khiếu (2000), Phụ nữ và nam giới tiếp cận và kiểm soát các nguồn lực phát triển ở nông thôn, Khoa học về phụ nữ, Số 5
Đặng Cảnh Khanh (1999), Chuyển đổi cơ cấu ngành nghề và đào tạo nhân lực cho phát triển khu công nghiệp Dung Quất tới năm 2010, Dự án điều tra cơ bản, giai đoạn I, Hà Nội
Bùi Quang Dũng (1999), Báo cáo phân tích kết quả điều tra thực trạng và các giải pháp xóa đói giảm nghèo tại ba xã vùng cao tỉnh Quảng Ngãi, Hà Nội
Điều tra nhân khẩu học giữa kỳ 1944 (1996), Giáo dục tại Việt Nam xu hướng phát triển và những sự khác biệt, Nxb Thống kê, Hà Nội
Điều tra nhân khẩu học giữa kỳ 1944 (1996), Giáo dục tại Việt Nam xu hướng phát triển và những sự khác biệt, Nxb Thống kê, Hà Nội
Đặng Cảnh Khanh (1999), Chuyển đổi cơ cấu ngành nghề và đào tạo nhân lực cho phát triển khu công nghiệp Dung Quất tới năm 2010, Dự án điều tra cơ bản, giai đoạn I, Hà Nội
Đặng Cảnh Khanh (1999), Chuyển đổi cơ cấu ngành nghề và đào tạo nhân lực cho phát triển khu công nghiệp Dung Quất tới năm 2010, Dự án điều tra cơ bản, giai đoạn I, Hà Nội
Đặng Cảnh Khanh (1999), Chuyển đổi cơ cấu ngành nghề và đào tạo nhân lực cho phát triển khu công nghiệp Dung Quất tới năm 2010, Dự án điều tra cơ bản, giai đoạn I, Hà Nội.
Trương Xuân Trường (2001), Hiện trạng và vai trò tác động của truyền thông dân số đối với người nông dân (Khảo sát ở đồng bằng sông Hồng) (Luận án Tiến sĩ), Hà Nội
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LA2606.DOC