Quan hệ giữa cái chung và cái riêng trong việc xây dựng nền kinh tế thị trường ở Việt Nam

LỜI MỞ ĐẦU Bước lên từ nền kinh tế phong kiến lạc hậu, trì trệ, lại phải trải qua 2 cuộc chiến tranh giữ nước khốc liệt, nền kinh tế nước ta vốn đã lạc hậu lại càng thêm kiệt quệ bởi chiến tranh. Vào thời bình, bắt đầu từ cơ sở kinh tế lạc hậu, trì trệ đó, nước ta xây dựng nền kinh tế kế hoạch hoá tập chung quan liêu bao cấp, khiến cho đất nước lâm vào tình trạng khủng hoảng kinh tế nghiêm trọng. Trong khi đó, nhờ sử dụng triệt để kinh tế thị trường mà CNTB đã đạt được những thành tựu về kinh t

doc20 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1442 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Quan hệ giữa cái chung và cái riêng trong việc xây dựng nền kinh tế thị trường ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ế - xã hội, phát triển lực lượng sản xuất, nâng cao năng suất lao động. Cũng nhờ kinh tế thị trường, quản lý xã hội đạt được những thành quả về văn minh hành chính, văn minh công cộng, con người nhạy cảm, tinh tế, với khả năng sáng tạo, sự thách thức đua tranh phát triển. Trước tình hình đó, trong Đại hội Đảng VI, Đảng ta kịp thời nhận ra sai lầm và tiến hành sửa đổi, chuyển sang xây dựng kinh tế thị trường theo định hướng XHCN, kích thích sản xuất, phát triển kinh tế nhằm mục tiêu dân giàu nước mạnh xã hội công bằng văn minh. Mới chập chững bước vào nền kinh tế thị trường đầy gian khó, phức tạp, nền kinh tế Việt Nam đòi hỏi sự học tập, tiếp thu kinh nghiệm của nhân loại trên cơ sở cân nhắc, chọn lựa cho phù hợp với hoàn cảnh và điều kiện của Việt Nam. Trong quá trình học hỏi đó, triết học Mác – LêNin, đặc biệt là phạm trù triết học cái chung và cái riêng có vai trò là kim chỉ nam cho mọi hoạt động nhận thức về kinh tế thị trường. Để góp thêm một tiếng nói ủng hộ đường lối phát triển kinh tế mà Đảng và Nhà nước ta xây dựng, tôi chọn đề tài: “Quan hệ giữa cái chung và cái riêng trong việc xây dựng nền kinh tế thị trường ở Việt Nam” làm đề tài nghiên cứu của mình. Hoàn thiện tiểu luận này, tôi hy vọng có thể góp một phần nhỏ của mình trong việc làm rõ, củng cố lòng tin của mọi người vào cuộc đổi mới của nhà nước ta, và giúp mọi người quen thuộc hơn với một nền kinh tế mới được áp dụng ở Việt Nam nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. CHƯƠNG I: CÁI RIÊNG VÀ CÁI CHUNG DƯỚI CÁI NHÌN CỦA TRIẾT HỌC MACXIT 1.1.Các khái niệm Cái riêng: là phạm trù triết học dùng để chỉ một sự vật, một hiện tượng, một quá trình riêng lẻ nhất định trong thế giới khách quan. Ví dụ như một hành tinh nào đấy hay một thực vật, động vật nào đấy là cái đơn nhất trong giới tự nhiên. Cái riêng trong lịch sử triết học là một sự kiện riêng hạn. Một con người nào đó như Huệ, Hoàng… cũng là cái riêng. Cái riêng còn có thể hiểu là một nhóm sự vật gia nhập vào một nhóm các sự vật rộng hơn, phổ biến hơn. Sự tồn tại cá biệt đó của cái riêng cho thấy nó chưa đựng trong bản thân những thuộc tính không lặp lại ở những cấu trúc sự vật khác. Tính chất này được diễn đạt bằng khái niệm cái đơn nhất. Cái đơn nhất là một phạm trù triết học dùng để chỉ những thuộc tính, những mặt chỉ có ở một sự vật nhất định mà không lặp lại ở những sự vật khác. Ví dụ chiều cao, cân nặng, vóc dáng… của một người là cái đơn nhất. Nó cho biết những đặc điểm của chỉ riêng người đó, không lặp lại ở một người nào khác. Mặt khác, giữa những cái riêng có thể chuyển hoá qua lại với nhau, chứng tỏ giữa chúng có một số đặc điểm chung nào đó. Những đặc điểm chung đó được triết học khái quát thành khái niệm cái chung: là một phụ trù triết học dùng để chỉ những thuộc tính, những mặt, những mối liên hệ giống nhau, hay lặp lại ở nhiều cái riêng cái chung thường chứa đựng ở trong nó tính qui luật sự lặp lại. Ví dụ như quy luật cung - cầu, quy luật giá trị thặng dư là những đặc điểm chung mà mọi nền kinh tế thị trường bắt buộc phải tuân theo. 1.2. Mối quan hệ biện chứng giữa cái chung và cái riêng Trong lịch sử triết học mối liên hệ giữa cái chung và cái riêng được quan niệm khác nhau. Phái duy thực đồng nhất thượng đế với cái chung và cho rằng chỉ có cái chung mới tồn tại độc lập khách quan và là nguồn sản sinh ra cái riêng. Đối lặp lại chủ nghĩa duy thực, các nhà triết học duy danh như P.Abơla (1079 – 1142) Đumxcot (1265 – 1308) cho rằng chỉ có sự vật, hiện tượng tồn tại riêng biệt với những chất lượng riêng của chúng mới là có thực, còn khái niệm cái chung chỉ là sản phẩm của tư duy của con người. Thấy được và khắc phục hạn chế của hai quan niệm trên, triết học duy vật biện chứng cho rằng cái chung chỉ là sản phẩm ucả tư duy của con người. Thấy được và khắc phục hạn chế của hai quan niệm trên. Triết học duy vật biện chứng cho rằng cái chung và cái riêng có mối liên hệ biện chứng mật thiết với nhau, và cả hai đều tồn tại một cách khách quan. Cái chung chỉ tồn tại trong cái riêng, thông qua cái riêng để biểu thị sự tồ tại của mình, nên chỉ có thể tìm cái chung trong cái riêng, xuất phát từ cái riêng từ những sự vật, hiện tượng riêng lẻ, không được xuất phát từ ý muốn chủ quan của con người bên ngoài cái riêng. Thí dụ, muốn nhận thức được quy luật phát triển của nền sản xuất của một nước nào đó, phải nghiên cứu, phân tích so sánh quá trình sản xuất thực tế ở những thời điểm khác nhau và ở những khu vực khác nhau, mới tìm ra được những mối liên hệ chung tất nhiên, ổn định của nền sản xuất đó. Cái chung là bộ phận, còn cái riêng là toàn bộ có thể khái quát một công thức như sau: Cái riêng = cái chung + cái đơn nhất Công thức trên có thể là không hoàn toàn đúng một cáhc tuyệt đối, nhưng trong một chừng mực nào đó thì nó có thể nói được một cách chính xác quan hệ bao trùm giữa cái chung và cái riêng. Cái chung chỉ giữ phần bản chất, hình thành nên chiều sâu của sự vật, còn cái riêng là cái toàn bộ vì nó là một thực thể sống động. Trong mỗi cái riêng luôn tồn tại đồng thời cả cái chung và cái đơn nhất. Nhờ thế, giữa những cái riêng vừa có sự tách biệt, vừa có thể tác động qua lại với nhau, chuyển hoá lẫn nhau. Sự “va chạm” giữa những cái riêng vừa làm cho sự vật tách xa nhau bởi cái đơn nhất. Cũng nhờ sự tương tác này giữa những cái riêng mà cái chung có thể được phát hiện. Về đặc điểm này, LêNin nói: “….cái riêng chỉ có thể tồn tại trong mối liên hệ dẫn tới cái chung” Ví dụ nguyên tử của mọi nguyên tố đều khác nhau, đều là cái “riêng” chung có trọng lượng nguyên tử của mình, có hoá trị của mình, có điện tích hạt nhân của mình, có cấu tạo vỏ nguyên tử của mình… Nhưng tất cả những nguyên tử đều có cái chung: trong mọi nguyên tử đều có những hạt nguyên tố, hật nhân của mọi nguyên tử đều có thể bị phá vỡ. Chính nhờ có những đặc tính chung cho mọi nguyên tử mà khoa học mới có khả năng biến nguyên tử của một nguyên tố này thành nguyên tử của một nguyên tố khác. Nguyên tử, cũng như bất cứ hiện tượng nào khác trong thế giới khách quan, là sự thống nhất của cái khác nhau và cái giống nhau, cái đơn nhất và cái phổ biến. Trong những hoàn cảnh khác nhau, cái chung có thể chuyển hoá thành cái đơn nhất và ngược lại. Ví dụ: Trước đại hội Đảng VI thì kinh tế thị trường chỉ là cái đơn nhất, còn cái chung là cơ chế bao cấp, nhưng từ sau Đại hội Đảng Vi thì kinh tế thị trường lại dần trở thành cái chung, còn kinh tế tập chung bao cấp thành cái đơn nhất, chỉ còn tồn tại trong một số ngành như an ninh quốc phòng… Sự phân biệt giữa cái chung và cái đơn giản nhất nhiều khi chỉ mang tính tương đối. Có những đặc điểm xét ở trong nhóm sự vật khác lại là cái chung. Thí dụ như cây cối là một đặc điểm chung khi xét tập hợp các cây như sấu, bàng, phượng vĩ… Nhưng nếu xét trong phạm vi thực vật thì cây cối chỉ là một đặc điểm đơn nhất chỉ các loại cây, mà ngoài ra thực vật còn có cỏ, bụi rậm, nấm… xét một ví dụ khác như quy luật cung - cầu là cái chung trong nền kinh tế thị trường, nhưng trong toàn bộ các hình thức kinh tế trong lịch sử thì nó chỉ là cái đơn nhất, đặc trưng cho kinh tế thị trường mà không thể là, đặc điểm chung cho mọi hình thức khách như kinh tế tự cung tự cấp chẳng hạn. Trong một số trường hợp ta đồng nhất cái riêng với cái chung, khẳng định cái riêng là cái chung. Ví dụ như những câu sau: “Hoa phong lan là hoa”; “cây phượng là cây”; “kinh tế thị trường theo định hướng XHCN là kinh tế thị trường”. Những trường hợp đó thể hiện mâu thuẫn giữa cái riêng và cái chung. Quan hệ bao trùm cả cái riêng đối với cái chung đã trở thành quan hệ ngang bằng. Tuy nhiên những định nghĩa như trên chỉ nhằm mục đích tách sự vật ra khỏi những phạm vi không thuộc sự vật ấy, chứ không dùng để chỉ toàn bộ những đặc tính của sự vật. Trên cơ sở nguyên lý về mối liên hệ giữa cái riêng và cái chung ta đã đưa ra một số giải pháp nhằm phát triển nền kinh tế thị trường của Việt Nam một cách thích hợp, cố gắng theo kịp tốc độ tăng trưởng của các nước phát triển trên thế giới, tăng cường cơ sở vật chất cho công cuộc xây dựng CNXH. CHƯƠNG II: NHỮNG GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG Ở VIỆT NAM TRÊN CƠ SỞ NGUYÊN LÝ VỀ CÁI CHUNG VÀ CÁI RIÊNG 2.1. Chuyển sang kinh tế thị trường là một tất yếu khách quan 2.1.1. Khái niệm kinh tế thị trường Trên góc độ vĩ mô, thị trường là một phạm trù kinh tế tồn tại một cách khách quan cùng với sự tồn tại và phát triển của sản xuất hàng hoá, lưu thông hàng hóa. Ở đâu và khi nào có sản xuất hàng hoá thì ở đó và khi ấy có thị trường: “Thị trường nghĩa là lĩnh vực trao đổi mở rộng ra thì quy mô sản xuất cũng tăng lên, sự phân công sản xuất cũng trở nên sâu sắc hơn” Theo David Begg, thị trường “là sự biểu hiện thu gọn của quá trình mà thông qua đó các quyết định của các gia đình về tiêu dùng các mặt hàng nào, các quyết định của các công ty về sản xuất cái gì, sản xuất như thế nào và cái quyết định của người công nhận về việc làm bao lâu, cho ai đều được dung hoà bằng sự điều chỉnh giá cả” Ta cũng có thể định nghĩa thị trường là nơi diễn ra hoạt động mua bán hàng hoá, nơi cung gặp cầu. Kinh tế thị trường là một hệ thống một hệ thốg tự điều chỉnh nền kinh tế, bảo đảm có năng suất, chất lượng và hiệu quả cao, dư thừa và phong phú hàng hoá.; dịch vụ được mở rộng và coi như hàng hoá thị trường, năng động luôn luôn đổi mới mặt hàng, công nghệ và thị trường, tự do kinh doanh, tự do thương mại, tự định giá cả, đa dạng hoá sở hữu, phân phối do quan hệ cung cầu… 2.1.2. Chuyển sang kinh tế thị trường là một tất yếu khách quan Xét về hoàn cảnh lịch sử, xuất phát điểm của nền kinh tế nước ta là kinh tế phong kiến. Ngoài ra nước ta vừa mới trải qua hai cuộc chiến tranh giữa nước khốc liệt, mà ở đó, cơ sở vật chất vốn đã ít ỏi còn bị tàn phá nặng nề. Sau chiến tranh, ta tiếp tục xây dựng nền kinh tế bao cấp, kế hoạch hoá tập trung dựa trên hình thức sở hữu công cộng về tư liệu sản xuất. Trong thời gian đầu sau chiến tranh, với sự nỗ lực của nhân dân ta, cùng sự giúp đỡ của các nước trong hệ thống XHCN mà mô hình kế hoạch hoá đã phát huy được tính ưu việt của nó. Từ một nền kinh tế lạc hậu và phân tán, bằng công cụ kế hoạch hoá nhà nước đã tập chung vào tay mình một lượng vật chất quan trọng về đất đai, tài sản và tiền bạc để ổn định một phát triển kinh tế. Nền kinh tế kế hoạch hoá trong thời kỳ này tỏ ra phù hợp, đã huy động ở mức cao nhất sức người sức của cho tiền tuyến. Sau ngày giải phóng miền nam, trên bức tranh về nền kinh tế nước ta tồn tại một lúc cả 3 gam màu: kinh tế tự cấp tự túc, kinh tế kế hoạch hoá tập trung và kinh tế hàng hoá. Do sự không hài hoà giữa các nền kinh tế và sự chủ quan cứng nhắc không cân nhắc tới sự phù hợp của cơ chế quản lý mà chúng ta đã không tạo ra được động lực thúc đẩy nền kinh tế phát triển mà còn gây lãng phí tài nguyên, ô nhiễm môi trường. Lúc này, nước ta đồng thời cũng bị cắt giảm nguồn viện trợ từ các nước XHCN. Tất cả những nguyên nhân đó đã khiến cho nền kinh tế nước ta trong những năm cuối thập kỷ 80 lâm vào khủng hoảng trầm trọng, đời sống nhân dân bị giảm sút thậm chí ở một số nơi còn bị nạn đói đe doạ. Nguyên nhân của sự suy thoái này là từ những sai lầm cơ bản như: + Ta đã thực hiện chế độ sở hữu toàn dân về tư liệu sản xuất trên một quy mô lớn trong điều kiện chưa cho phép, khiến cho một bộ phận tài sản vô chủ và không sử dụng có hiệu quả nguồn lực vốn đang rất khan hiếm của đất nước trong khi dân số ngày một gia tăng với tỉ lệ khá cao 2,2%. + Thực hiện việc phân phối theo lao động cũng trong điều kiện chưa cho phép khi tổng sản phẩm quốc dân thấy đã dùng hình thức vừa phân phối bình quân vừa phân phối lại một cách gián tiếp đã làm mất động lực của sự phát triển. + Việc quản lý kinh tế của nhà nước lại sử dụng các công cụ hành chính, mệnh lệnh theo kiểu thời chiến không thích hợp với yêu cầu tự do lựa chọn của người sản xuất và người tiêu dùng đã không kích thích sự sáng tạo của hàng tiện người lao động. Trong khi đó, nhờ sử dụng triệt để kinh tế thị trường, CNTB đã được những thành tựu về KT – XH phát triển lực lượng sản xuất, nâng cao năng suất lao động cũng nhờ kinh tế thị trường, quản lý xã hội đạt được những thành quả về văn minh hành chính, văn minh công cộng, con người nhạy cảm, tinh tế, với khả năng sáng tạo, sự thách thức đua tranh phát triển. Do mắc phải những sai lầm như trên mà để phát triển kinh tế XHCN ở nước ta không thể chấp nhận việc tiếp tục kế hoạch hoá tập trung như trước. Với tinh thần tích cực sửa đổi, sau khi đã nhận ra những sai lầm, tại đại hội VI của Đảng đã chủ trương phát triển kinh tế nhiều thành phần và thực hiện chuyển đổi cơ chế quản lý kinh tế từ cơ chế kế hoạch hoá sang cơ chế hạch toán kinh doanh XHCN. Đến đại hội VII Đảng ta xác định việc đổi mới cơ chế kinh tế ở nước ta là một tất yếu khách quan và trên thực tế đang diễn ra việc đó tức là chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng XHCN. Đây là một sự thay đổi về nhận thức có ý nghĩa rất quan trọng trong lý luận cũng như trong thực tế. Ta đã chính thức chấp nhận kinh tế thị trường một cách cơ bản, cùng những ưu điểm của nó một cách tổng thể, lâu dài mà không còn đơn thuần phủ nhận như trước nữa (rằng kinh tế thị trường chỉ là đặc trưng riêng của CNTB) nước ta không đi theo CNTB thì cũng không thể áp dụng kinh tế thị trường trong phát triển kinh tế. Đảng ta còn chỉ rõ rằng nền kinh tế thị trường có sự phù hợp với thực tế nước ta, phù hợp với các quy luật kinh tế và với xã hội thế của thời đại. + Nếu không thay đổi cơ chế kinh tế, vẫn giữ cơ chế kinh tế cũ thì không thể nào đủ sản phẩm để tiêu dùng chứ chưa muốn nói đến tích luỹ vốn để mở rộng sản xuất. Thực tế những năm cuối của thập kỷ tám mươi đã chỉ rõ thực hiện cơ chế kinh tế cũ cho dù chúng ta đã liên tục đổi mới hoàn thiện cơ chế quản lý kinh tế, nhưng hiệu quả của nền sản xuất xã hội đạt mức rất thấp. Sản xuất không đáp ứng nổi nhu cầu tiêu dùng của xã hội, tích luỹ hầu như không có, đôi khi còn ăn lạm cả vào vốn vay của nước ngoài. + Do đặc trưng của nền kinh tế tập trung là rất cứng nhắc nên nó chỉ có tác dụng phát triển kinh tế theo chiều rộng. Nền kinh tế chỉ huy ở nước ta tồn tại quá dài nên nó không những không còn tác dụng đáng kể trong việc thúc đẩy sản xuất phát triển mà nó còn sinh ra nhiều hiện tượng tiêu cực làm giảm năng suất, chất lượng và hiệu quả sản xuất. + Xét về sự tồn tại thực tế ở nước ta những nhân tố của kinh tế thị trường. Về vấn đề này có nhiều ý kiến đánh giá khác nhau. Nhiều ý kiến cho rằng thị trường ở nước ta là thị trường sơ khai. Nhưng thực tế kinh tế thị trường đã hình thành và phát triển đạt được những mức phát triển khác nhau ở hầu hết các đô thị và các vùng đồng bằng ven biển. Thị trường trong nước đã được thông suốt và vươn tới cả những vùng hẻo lánh và đang được mở rộng với thị trường quốc tế. Nhưng thị trường ở nước ta phát triển chưa đồng bộ, còn thiếu hẳn thị trường đất đai và về cơ bản vẫn là thị trường tự do, mức can thiệp của nhà nước còn rất thấp. + Xét về mối quan hệ kinh tế đối ngoại ta thấy nền kinh tế nước ta đang hoà nhập với nền kinh tế thị trường thế giới, sự giao lưu về hàng hoá, dịch vụ và đầu tư trực tiếp của nước ngoài làm cho sự vận động của nền kinht ế nước ta gần gũi hơn với nền kinh tế thị trường thế giới. Tương quan giá cả của các loại hàng hoá trong nước gần gũi hơn với tương quan giá cả hàng hoá quốc tế. + Xu hướng chung phát triển kinh tế của thế giới là sự phát triển kinh tế của mỗi nước không thể tách rời sự phát triển và hoà nhập quốc tế, sự cạnh tranh giữa các quốc gia đã thay đổi hẳn về chất không còn là dân số đông, vũ khí nhiều, quân đội mạnh mà là tiềm lực kinh tế. Mục đích của các chính sách, của các quốc gia đã thay đổi hẳn về chất trong trong quốc gia của mình, là tốc độ phát triển kinh tế cao, đời sống nhân dân được cải thiện, thất nghiệp thấp. Tiềm lực kinh tế đã trở thành thước đo chủ yếu, vai trò và sức mạnh của mỗi dân tộc, là công cụ chủ yếu để bảo vệ uy tín và duy trì sức mạnh của các đảng cầm quyền. Như vậy, việc chuyển sang kinh tế thị trường là điều kiện không thể thiếu để phát triển kinh tế. Tuy nhiên, ta không được phép chỉ tiếp thu hình thức kinh tế thị trường từ chế độ TBCN (vốn được đẩy lên giai đoạn phát triển rất cao so với những thời kỳ trước) mà từ đó còn phải xây dựng một nền kinh tế thị trường mới về chất, thể hiện sự phát triển, phủ định biện chứng đối với nền kinh tế thị trường TBCN. 2.2. Kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta. 2.2.1. Nền kinh tế nước ta mang bản chất của nền kinh tế thị trường thế giới Trước hết nền kinh tế nước ta là nền kinh tế thị trường nên nó tuân theo mọi quy luật của kinh tế thị trường. Quy luật cung - cầu, quy luật giá trị thặng dự, quy luật lưu thông tiền tệ… Các loại thị trường, các mối quan hệ thị trường được phát triển phong phú, đa dạng thể hiện trình đồ cao trong việc phân công lao động thành nhiều ngành nghề. Sự khác biệt về sở hữu tài sản đã được chấp nhận (không còn chỉ chấp nhận hình thức sở hữu nhà nước, tập thể như trước) và lợi nhuận trở thành động lực phát triển. Theo đó, đã hình thành một lớp mới năng động hơn và “biết làm kinh tế hơn”. Ở nước ta hiện nay cũng hình thành và tồn tại cả những khuyết tật của kinh tế thị trường. Tâm lý quá coi trọng đồng tiền chạy theo lợi nhuận, sự phân công giàu nghèo quá mức, kinh tế phát triển mất cân đối… Kinh tế thị trường nước ta cũng có sự quản lý của nhà nước để khống chế, giảm bớt những khuyết tật đó cùng những tác hại của nó nhưng tuy nhiên, những khuyết tật đó vẫn còn tồn tại âm ỉ trong xã hội ở trong suy nghĩ của một số người. Nền kinh tế thị trường nước ta hiện nay cũng tuân theo xu hướng chung phát triển kinh tế thị trường thế giới là sự phát triển kinh tế của mỗi nước không thể tách rời sự phát triển và hoà nhập quốc tế, tiến tới hoà nhập thành một thị trường chung trên toàn thế giới. Tương quan giá cả của các loại hàng hoá trong các nước cũng ngày càng gần gũi hơn với tương quan giá cả hàng hoá quốc tế. 2.2.2. Những nết đặc thù của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam Nếu trong CNTB hiện đại, kinh tế thị trường đặt dưới sự quản lý của nhà nước tư sản độc quyền vì lợi ích của giai cấp tư sản, thì trong nền kinh tế thị trường nằm dưới sự quản lý của nhà nước XHCN nhằm phục vụ lợi ích của nhân dân, góp phần thực hiện mục tiêu giải phóng con người, và vì con người. Đề thực hiện mục tiêu đó, phải tìm kiếm nhiều giải pháp, không giản đơn chỉ xem xét quan hệ sở hữu mà là giải quyết đồng bộ từ vấn đề sở hữu, quản lý, phân phối, tìm động lực cho sự phát triển trên cơ sở xây dựng vật chất, kỹ thuật cho xã hội mới, là quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá, biến nước ta từ một nước nông nghiệp lạc hậu thành một nước có nền kinh tế phát triển. Xây dựng kinh tế thị trườg có sự quản lý của nhà nước theo định hướng XHCN, luôn giữ vững định hướng XHCN trong quá trình đổi mới, kết hợp với sự kiên định về mục tiêu, nguyên tắc và linh hoạt trong giải pháp. Chúng ta không coi kinh tế thị trường là mục tiêu mà chỉ là công cụ, giải pháp, phương tiện để phát triển lực lượng sản xuất, phát triển kinh tế, phục vụ lợi ích của đa số nhân dân lao động, nhằm mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng văn minh. Cùng với việc sử dụng động lực sản xuất phải đi đôi với xây dựng quan hệ sản xuất, đặc biệt là những yếu kém về quản lý và phân phối, xây dựng quan hệ với con người. Một xã hội giàu tình thương và lòng nhân ái, tăng trưởng kinh tế phải đi đôi với xoá đói giảm nghèo, làm cho thị trường mang tính nhân văn hơn. Dưới CNTB, kinh tế thị trường mang tính cạnh tranh theo kiểu cá lớn nuốt cá bé, bất bình đẳng, bất công, nhưng nền kinh tế thị trường xã hội, XHCN vẫn mang tính cạnh tranh dã man, tăng trưởng kinh tế đi đôi với công bằng xã hội, khuyến khích làm giàu gắn với xoá đói giảm nghèo và khắc phục sự phân cực giàu nghèo, gia tăng về mức sống nhưng vẫn giữ gìn được đạo đức, bản sắc văn hoá dân tộc. Trong quá trình phát triển, kinh tế nhà nước được chọn lọc, sắp xếp lại, khẳng định hợp lý phạm vi cần nắm giữ, nắm lấy những mạch máu chủ yếu làm đội quân chủ lực trong xây dựng và điều tiết kinh tế, làm nòng cốt hướng dẫn các thành phần kinh tế khác hoạt động đúng hướng. Quan hệ phân phối trong kinh tế thị trường TBCN là nhà tư bản nắm giữ phần lớn sản phẩm. Ta chủ trương phân phối theo lao động, theo vốn trên cơ sở khuyến khích mọi người tự do sản xuất kinh doanh công khai hợp pháp, đồng thời thực hiện chính sách công bằng xã hội. Từ chủ trương chống bóc lột, bất công, chăm lo sự nghiệp y tế, giáo dục, đấu tranh cho một nền đạo đức mới, một lối sống lành mạnh. Chỉ có kết hợp mục tiêu kinh tế với mục tiêu xã hội mới thể hiện được bản chất của chế độ mới. Tuy nhiên, để có động lực cho sự phát triển phải khuyến khích tích tụ, tích lũy, sáng kiến cá nhân, chấp nhận phân hóa do lao động sáng tạo (nhưng kiên quyết xóa bỏ phân hóa do bất công) Xuất phát điểm của nền kinh tế nước ta là một nền sản xuất nhỏ, lạc hậu, trong đó nông nghiệp chiếm vai trò chủ chốt (chiếm 75% dân số) nhưng lại tồn tại phương thức sản xuất với trình độ thấp "con trâu đi trước cái cày theo sau". Ngoài ra, nước ta mới chỉ bước vào xây dựng kinh tế thị trường trong vài năm gần đây nên chưa có nhiều kinh nghiệm quản lý, kết quả là hiện nay trình độ phát triển kinh tế nước ta còn thấp, mang tính tự túc là chủ yếu, cơ sở vật chất yếu kém, thu nhập thấp 400 USD/người, trình độ quản lý kinh tế còn non yếu, khả năng cạnh tranh kém. Do vậy màta cần có thời gian làm quen học hỏi kinh nghiệm của nước ngoài trong nhiều lĩnh vực, đặc biệt là quản lý và phát triển kinh tế. Không chỉ có xuất phát điểm thấp mà còn phải trải qua 2 cuộc chiến tranh khốc liệt, kéo dài. Do 2 cuộc chiến tranh đó mà cơ sở hạ tầng vốn đã thấp lại còn bị tàn phá nặng nề ta không không khả năng về vốn, kỹ thuật để có thể bước ngay vào xây dựng một nền kinh tế thị trường thực sự hiện đại, với các công nghệ có hàm lượng kỹ thuật cao như nhiều nước tư bản vốn đã có tới ba thế kỷ tích lũy. Thị trường nước ta vẫn còn nhỏ hẹp, sơ khai, còn những rối loại và nhiều yếu tố tự phát. Ngoài ra thị trường ở nước ta vẫn chưa đầy đủ, nhiều hình thức thị trường còn thiếu hoặc mới chỉ ở dạng mạch nha như thị trường tiền tệ, thị trường vốn, thị trường sức lao động…, nên chưa thể thực sự hòa nhập với thị trường thế giới. Nước ta có truyền thống văn hóa lâu đời, nhân dân ta vốn có sự khéo léo cao nên có thể phát triển nhiều thành phần kinh tế cần có độ tinh xảo, khéo léo cao như trạm khắc, dàn… đặc biệt là những thành phần kinh tế truyền thống, ở các làng nghề truyền thống như tranh Đông Hồ, sơn mài, khảm trai… Tuy nhiên, trong lịch sử nước ta có thể nói chỉ là lịch sử của những cuộc chiến tranh chống xâm lược mà không có trang nào về việc phát triển kinh tế, trong vốn từ truyền thống dường như rất xa lạ với thuật ngữ "làm kinh tế". Ngoài ra, ta mới đổi mới nền kinh tế nên vẫn còn những người thuộc "thế hệ cũ" thế hệ của cơ chế bao cấp. Họ "dị ứng" với kinh tế thị trường, coi kinh tế thị trường là một thứ gì đó rất xấu xa mà mình không thể chấp nhận, và làm theo được, và họ cũng không đủ năng động để thích ứng với tốc độ phát triển của kinh tế thị trường. Quan tâm đến các vấn đề chính sách xã hội, bù đắp những tổn thất cho những người, gia đình có công với cách mạng, thành lập những lòng tình thương giúp đỡ nhiều người không nơi nương tựa…, kiểm soát, giảm thiểu những mặt tiêu cực kinh tế thị trường gây ra, đó là những biện pháp giảm khuyếtd tật xã hội của kinh tế thị trường mà nhà nước ta đã thực hiện. Nhờ đó nhà nước không còn là "kẻ gác công trung thành cho sở hữu tư nhân" mà đã trở thành một lực lượng quan trọng trong việc điều tiết xã hội, khống chế khuyết tật xã hội. Trong quá trình phát triển kinh tế, hội nhập với kinh tế thị trường thế giới ta luôn chú ý đến việc đảm bảo độc lập, tự chủ về kinh tế, chính trị và đảm bảo độc lập, tự do cho dân tộc, giữ gìn bản sắc dân tộc. 2.2.3. Những thắng lợi bước đầu mà kinh tế thị trường mang lại. Xét về lĩnh vực con người, người Việt Nam hiện nay đã thể hiện sự năng động, tinh tế, nhạy cảm (đặc biệt là với thị trường) hơn hẳn so với những năm tám mươi. Xét về lĩnh vực kinh tế, nhờ chuyển sang xây dựng kinh tế thị trường theo một đường lối đúng đắn, phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh riêng (con người, tự nhiên, xã hội, điều kiện, lịch sử…) của Việt Nam mà nền kinh tế cũng như đời sống của người dân được cải thiện đáng kể: + So với năm 1993, tổng sản phẩm trong nước năm 1994 tăng 8,5% trong đó sản xuất công nghiệp tăng 13%, sản xuất nông nghiệp tăng 4%, kim ngạch xuất khẩu tăng 20,8%, lạm phát được kiềm chế. Bước đầu thu hút được vốn đầu tư nước ngoài, với số vốn đanưg ký 10 tỷ USD. Nền kinh tế đã bắt đầu có tích lũy nội bộ. Xuất khẩu và nhập khẩu đã lấy lại thế cân bằng, dần dần biết phát huy và tận dụng được lợi thế so sánh trong quan hệ kinh tế quốc tế. + Sản xuất nông nghiệp phát triển từ chỗ thiếu lương thực triền miên đến nay đã đứng thứ 2 trong số những nước xuất khẩu gạo lớn nhất thế giới. + Theo số liệu thu thập được, ước tính chỉ số GNP của Việt Nam đã tăng đáng kể sau vài năm đổi mới. 1976 1981 1983 1993 Thu nhập quốc dân (tỷ đô la) 4,97 5,14 5,78 12,46 Trên đầu người 101 94 101 175 Những ước tính GNPcủa Việt Nam trước và sau đổi mới. (NXB Thống kê 1983) Công tác xã hội cũng đang ngày càng được coi trọng. Ta đã và đang kiểm soát được phần nào những khuyết tật xã hội do kinh tế thị trường mang lại, bù đắp những mất mát cho các gia đình cách mạng, thực hiện một số phúc lợi xã hội, tiến hành xây dựng chế độ XHCN trên phương diện xã hội… 2.2.4. Một số giải pháp tiếp tục phát triển kinh tế thị trường Việt Nam những năm tới từ góc độ những đặc điểm riêng của Việt Nam. Nước ta đi lên từ một nền sản xuất nông nghiệp lạc hậu, cơ sở vật chất nghèo nàn. Mặt khác có thể nói lịch sử 4000 năm của nước ta là lịch sử của những cuộc chiến tranh giữ nước, chống giặc ngoại xâm mà không phải là lịch sử của những quá trình phát triển kinh tế. Cộng thêm vối cơ chế bao cấp nhà nước ta áp dụng sau chiến tranh đã khiến cho nền kinh tế nước ta vốn đã bị tàn phá nặng nền còn "chảy lười", ỷ lại vào nguồn tài trợ của nước ngoài. Tính chất bao cấp đã ăn sâu vào tận trong ý nghĩ của nhiều người xuất phát từ cơ sở vật chất lạc hậu cùng phương cách quản lý kém hiệu quả đó, nền kinh tế thị trường nước ta có trình độ phát triển thấp, cơ cấu quản lý còn non yếu. Kinh tế thị trường nước ta hiện nay được đánh giá là chậm so với thế giới hàng thế kỷ. Muốn đuổi kịp tốc độ phát triển, cơ sở vật chất của các nước phát triển trên thế giới ta không thể đi tuần tự từ kinh tế thị trường tự do sang kinh tế thị trường hiện đại như là hướng phát triển kinh tế thị trường chung của toàn thế giới mà phải chọn cách "đi tắt" sang kinh tế thị trường hiện đại. Nhưng muốn "đi tắt" được như vậy đòi hỏi ta phải chấp nhận những thách thức rất gay gắt, và sự nỗ lực ghê gớm. Ta "đón đầu", áp dụng những tiến bộ mới của khoa học kỹ thuật nhân loại vào sản xuất, đẩy mạnh năng suất lao động cả về số lượng và chất lượng. Điều này đòi hỏi ta phải đào tạo được "lớp người mới" quen thuộc với khoa học kỹ thuật, không cảm thấy lạ lẫm với những máy móc hiện đại, đòi hỏi người lao động phải có trình độ cao. Để đáp ứng yêu cầu đó, ta phải đẩy mạnh phát triển khoa học, giáo dục đào tạo. Cũng như có những chính sách phát hiện, nuôi dưỡng và giữ gìn nhân tài, tránh hiện tượng chảy máu chất xám. Nước ta có vị trí vô cùng thuận lợi, đồng thời lại có nhiều danh lam thắng cảnh đẹp được thế giới công nhận. Do đó, điều kiện để phát triển giao thông vận tải và du lịch là rất lớn. Nhiều nước nói rằng họ "thèm" được có điều kiện như Việt Nam về vị trí, địa lý, và nếu có được thì họ sẽ thu về một doanh thu khổng lồ từ ngành du lịch. Nhưng hiện nay việc phát triển du lịch ở nước ta còn rất hạn chế, chưa tương xứng với tiềm năng. Điều đó đặt ra một yêu cầu nữa cho công cuộc phát triển kinh tế ở nước ta: phải đẩy mạnh phát triển du lịch sao cho tương xứng với tiemè năng của mình, tích cực thu ngoại tệ từ ngành du lịch để phát triển chính bản thân ngành cùng nhiều ngành nghề khác trong nền kinh tế. Người Việt Nam được đánh giá là khéo léo. Ta có nhiều làng nghề thủ công mỹ nghệ nổi tiếng như làng tranh Đông Hồ chẳng hạn. Nhiều nước tỏ ra ưa chuộng hàng thủ công của ta, muốn đặt hàng cùng ta nhưng do hàng rào thuế quan, phong cảnh quản lý gây khó khăn, cùng với việc "ngại" áp dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất truyền thống, khiến cho lượng hàng sản xuất ra ít, không đủ trang trải cho những lệ phí phải chịu do thuế quan nên ta đã mất nhiều hợp đồng. Để đẩy mạnh sự phát triển của các làng nghề thủ công như Đảng ta đã dự kiến đòi hỏi một sự đổi mới toàn diện trong cách làm việc của những thợ giỏi, tăng hàm lượng khoa học kỹ thuật trong sản xuất, không chỉ đơn thuần làm bằng tay như trước; đồng thời phải làm giảm sự rối rắm trong hàng rào thuế quan, gây cản trở cho sự đầu tư của nước ngoài vào Việt Nam. Nền kinh tế có sự đa dạng về hình thức sở hữu về thành phần kinh tế, về hình thức phân phối nhưng trong đó kinh tế quốc doanh vẫn phải giữ vai trò chủ đạo và là nhân tố đảm bảo cho sự định hướng XHCN nền kinh tế thị trường. Do đó muốn phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN thực sự thì phải nâng cao hiệu quả sản xuất của các doanh nghiệp nhà nước. Ta vẫn còn chịu ảnh hưởng của cơ chế bao cấp ở tính chất thiếu năng động, ỷ lại vào nhà nước, không quan tâm nhiều đến hiệu quả kinh doanh của đơn vị. Điều này đang dần dần tới việc các doanh nghiệp Nhà nước trở thành gánh nặng cho nền kinh tế, không thể giữ vai trò chủ đạo như trước. Theo thống kê, hàng năm tuy 75% số vốn đầu tư cho phát triển kinh tế nhà nước, và chỉ có 25% dành cho các doanh nghiệp tư nhân nhưng hiệu quả kinh tế mang lại của hai thành phần kinh tế này chỉ chênh lệch rất nhỏ so với tỷ lệ vốn đầu tư. Trong những điều kiện mới, ta phải đặt ra vấn đề nâng cao năng suất làm việc của doanh nghiệp nhà nước, khiến cho các cơ quan nhà nước phải trở nên năng động hơn, bám sát với những biến động của thị trường hơn và quan tâm đến hiệu quả sản xuất hơn thì mới có thể tiếp tục giữ vai trò chủ đạo định hướng như trước. Hiện nay, sự quản lý bằng pháp luật của ta vẫn còn nhiều._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc36127.doc
Tài liệu liên quan