Quan hệ của Đại Việt với Chân Lạp trước thế kỉ XX

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH ------------------------- LÊ THỊ MỸ TRINH QUAN HỆ CỦA ĐẠI VIỆT VỚI CHÂN LẠP TRƯỚC THẾ KỈ XX LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ Thành phố Hồ Chí Minh - 2009 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH ------------------------- LÊ THỊ MỸ TRINH QUAN HỆ CỦA ĐẠI VIỆT VỚI CHÂN LẠP TRƯỚC THẾ KỈ XX Chuyên ngành: LỊCH SỬ VIỆT NAM Mã số: 60 22 54 LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:

pdf216 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 2981 | Lượt tải: 1download
Tóm tắt tài liệu Quan hệ của Đại Việt với Chân Lạp trước thế kỉ XX, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TS. TRẦN THỊ THANH THANH Thành phố Hồ Chí Minh - 2009 MỞ ĐẦU 1. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI Hoạt động ngoại giao có vai trò và vị trí rất quan trọng đối với mỗi quốc gia. Các quốc gia trên thế giới không thể tồn tại và phát triển cô lập. Trong xu thế toàn cầu hóa hiện nay, việc mở rộng quan hệ đối ngoại, thiết lập mối quan hệ đa phương đang trở thành một trong những điều kiện phát triển của các quốc gia. Trong lịch sử, Việt Nam đã thiết lập quan hệ với nhiều quốc gia trong khu vực và thế giới trên nhiều lĩnh vực. Các mối quan hệ này đều có vai trò nhất định trong công cuộc xây dựng, bảo vệ và phát triển đất nước, tùy vào mối quan hệ với từng quốc gia, trong những thời kì lịch sử cụ thể. Vào thời kì phong kiến, trong điều kiện cách trở về địa lý, thông tin liên lạc cũng như giao thông chưa phát triển, quan hệ với các nước láng giềng rất được coi trọng. Mối quan hệ với Chân Lạp đến trước thế kỉ XX, nhất là giai đoạn thế kỉ XVII - XIX được các chúa Nguyễn và vua Nguyễn lưu tâm. Chân Lạp xưa - Campuchia nay - và Đại Việt xưa - Việt Nam nay là hai quốc gia láng giềng, có chung đường biên giới và cùng nằm trên bán đảo Đông Dương. Ngay từ rất sớm, Đại Việt và Chân Lạp đã có quan hệ với nhau trên nhiều lĩnh vực. Thời điểm bang giao chính thức giữa hoàng gia Chân Lạp và Đại Việt là vào đầu thế kỉ XVII dưới triều vua Chey Chettha II (1618 - 1628), chấm dứt vào năm 1897 khi người Pháp chính thức đặt nền bảo hộ và bắt đầu khai thác thuộc địa tại đây [50, tr.315]. Đề tài Quan hệ của Đại Việt với Chân Lạp trước thế kỉ XX được nghiên cứu nhằm mục đích góp phần hệ thống hóa một cách đầy đủ các sự kiện lịch sử để dựng nên bức tranh sinh động, trung thực về quan hệ của Đại Việt với Chân Lạp đến trước thế kỉ XX, cung cấp một cách nhìn toàn diện về quan hệ của hai nước; dựng lại rõ quá trình mở cõi về phía Nam của người Việt nói chung và chính quyền phong kiến nói riêng; nhìn nhận lại mối quan hệ Đại Việt - Chân Lạp - Xiêm; đồng thời qua đó thấy được vai trò và vị trí của Đại Việt trong giai đoạn này trên chính trường khu vực. Việc nghiên cứu còn góp phần bổ sung nguồn tài liệu cho việc nhận thức về lịch sử Việt Nam thời Trung đại. Sang thế kỉ XXI, tình hình thế giới và khu vực có nhiều biến động. Xu hướng ngoại giao đa phương trở nên năng động và tích cực. Việt Nam đang bước vào thời kì tăng cường hội nhập quốc tế, thực hiện đường lối ngoại giao đa phương, đa dạng; chú trọng tăng cường mối quan hệ với các nước láng giềng. Vì vậy, việc nghiên cứu lịch sử ngoại giao nói chung và lịch sử quan hệ Đại Việt - Chân Lạp nói riêng có ý nghĩa khoa học, thực tiễn và thời sự sâu sắc. Nghiên cứu sự kiện lịch sử để hiểu đúng bản chất là rất cần thiết và nhất là những sự kiện quá khứ có liên quan đến quan hệ hiện tại. Những bài học của mối quan hệ ngoại giao trong lịch sử có thể góp phần nhận thức và giải quyết mối quan hệ hiện tại về mặt chủ quyền lãnh thổ, về đường biên giới giữa Việt Nam - Campuchia và việc hoạch định đường lối ngoại giao cho ngày nay. Việc nghiên cứu đề tài này cũng góp phần giúp người viết thu thập tư liệu, phục vụ việc giảng dạy ở trường Trung học phổ thông và mở rộng phạm vi nghiên cứu về sau. 2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU Mục đích của việc nghiên cứu là tìm hiểu quan hệ của Đại Việt với Chân Lạp trong lịch sử trên tất cả các lĩnh vực: chính trị, kinh tế, văn hóa; làm rõ bối cảnh, diễn tiến, tình hình và đặc điểm, những bài học lịch sử của mối quan hệ đó. 3. LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU VẤN ĐỀ Quan hệ của Đại Việt với Chân Lạp là một trong những mối quan hệ được chính quyền phong kiến Đại Việt xem trọng, đặc biệt trong giai đoạn từ thế kỉ XVII đến thế kỉ XIX. Nhìn chung, đó là mối quan hệ bang giao hòa hiếu, thân thiện, diễn ra trên nhiều lĩnh vực và có tính liên tục. Mối quan hệ giữa hai nước đã được ghi lại trong nhiều bộ sử, qua các thời kì khác nhau. Đó là những tư liệu cổ, có thể cung cấp cho chúng ta những sự kiện chủ yếu trong quan hệ giữa hai nước. Đầu tiên là bộ Đại Việt sử lược, một công trình khuyết danh được hoàn thành vào những năm 1377 - 1388. Bộ sách được ghi chép dưới dạng biên niên, gồm ba quyển: quyển một ghi chép lịch sử từ thời thượng cổ đến hết Tiền Lê (1009), quyển hai ghi chép từ thời Lý Thái Tổ (1010) đến Lý Nhân Tông (1127), quyển ba ghi chép từ thời Lý Thần Tông (1128) đến Lý Huệ Tông (1124). Dù chỉ là một bộ sách nhỏ, song có nhiều chi tiết giúp ích cho việc nghiên cứu lịch sử nước nhà, nhất là về buổi đầu thời kì tự chủ. Bên cạnh việc ghi chép lại các sự kiện một cách vắn tắt, tác phẩm còn có những phần đối chiếu với các tài liệu thư tịch cổ khác, làm tăng tính chính xác của sử liệu. Nội dung ghi chép rất đa dạng, bao gồm: những việc làm của vua; việc kiến trúc thành quách, điện các, chùa tháp; việc bang giao với phong kiến Trung Hoa; việc bang giao với Champa, Chân Lạp… Nghiên cứu tác phẩm, người đọc có thể hiểu diện mạo kinh tế - xã hội cũng như thế thứ các đời vua, quan hệ bang giao của nước ta với các quốc gia trong khu vực giai đoạn trước triều Trần. Cũng ghi chép các sự kiện của lịch sử Việt Nam theo dạng biên niên, bộ Đại Việt sử kí toàn thư do Ngô Sĩ Liên biên soạn dựa trên tác phẩm Đại Việt sử kí của Lê Văn Hưu và tác phẩm Sử kí tục biên của Phan Phu Tiên. Năm 1665, Phạm công Trứ chỉnh lý trước tác của Ngô Sĩ Liên và viết thêm phần Bản kỷ tục biên. Năm 1697, các quan Lê Hy, Nguyễn Quý Đức viết thêm và hiệu đính phần Bản kỷ tục biên, tập hợp toàn bộ các trước tác nói trên gọi là Đại Việt sử kí toàn thư. Tác phẩm ghi chép các sự kiện lịch sử của dân tộc từ thời Hồng Bàng cho đến hết đời Lê Thái Tổ. Trong tác phẩm, có một số ghi chép về mối bang giao của Đại Việt với các quốc gia trong khu vực, trong đó có mối quan hệ với Chân Lạp trên nhiều lĩnh vực. Bộ Phủ biên tạp lục của Lê Quý Đôn gồm 6 quyển, được viết vào năm 1776, lúc ông đang giữ chức Tham tán quân cơ ở Thuận Quảng. Bộ sách ghi chép về hai đạo Thuận Hóa và Quảng Nam trên nhiều mặt từ cảnh quan môi trường, địa lý hành chính, sản vật, phong tục đến lệ thuế má, nhân vật… Bộ sách ngoài phần điểm lại quá trình dựng nghiệp của Nguyễn Hoàng ở Thuận Hóa và đối đầu với họ Trịnh ở Đàng Ngoài, có phần ghi chép về công cuộc mở đất về phía Nam của triều đình phong kiến Đàng Trong. Tác phẩm được xem là một bộ địa lý - lịch sử phong phú về hai xứ Thuận - Quảng thế kỉ XVI - XVIII. Bộ Đại Nam thực lục của Quốc sử quán triều Nguyễn được vua Minh Mạng cho tiến hành biên soạn vào năm 1821, gồm hai phần: Đại Nam thực lục tiền biên ghi chép giai đoạn lịch sử từ khi Nguyễn Hoàng vào Nam (1558) đến đời chúa Nguyễn Phúc Thuần (1777); Đại Nam thực lục chính biên ghi chép giai đoạn từ khi Nguyễn Ánh bôn ba tìm cách khôi phục quyền lực dòng họ (1777) đến khi vua Đồng Khánh mất (1889). Bộ sách là một tập hợp các ghi chép dưới dạng biên niên về những sự việc cụ thể, những lời nói, việc làm của vua, lời tâu trình của quần thần, việc nội trị, ngoại giao; trong đó có quan hệ bang giao của Việt Nam với Chân Lạp. Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ là tác phẩm do Nội các triều Nguyễn biên soạn. Đây là loại sách điển lệ, được biên soạn từ năm 1843 dưới thời vua Thiệu Trị và hoàn thành vào năm 1851 dưới thời vua Tự Đức. Nội dung ghi chép tương đối đầy đủ các chiếu chỉ, phiến dụ của triều Nguyễn và các việc đã đem ra thi hành, các tấu sớ ở các bộ, các nha từ năm Gia Long thứ nhất (1802) đến năm Tự Đức thứ tư (1852). Bộ sách gồm 262 quyển, chia thành 6 phần tương ứng với 6 ngành của công việc quốc gia, do 6 bộ phụ trách. Phần bộ Lễ ghi chép về việc bang giao gồm các mục: triều cận, quán xá, tuất điển, cứu vớt, cấm ước, phiên dịch, ban cho các nước lệ thuộc và ban cho thuộc Man, có nhiều tư liệu liên quan đến chính sách của triều Nguyễn đối với Chân Lạp. Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ là một kho tư liệu về các chủ trương nội trị, chính sách ngoại giao của triều Nguyễn đối với các nước, trong đó có Chân Lạp. Đại Nam liệt truyện do Quốc sử quán biên soạn năm 1841, hoàn thành vào năm 1895 và được khắc in vào 1909. Nội dung chủ yếu là ghi chép về hàng trăm nhân vật lịch sử được chia thành các mục: Hậu phi, hoàng tử, công chúa, chư thần… Bên cạnh việc ghi chép về các nhân vật lịch sử, tập 2 của Đại Nam liệt truyện còn ghi chép về quan hệ của triều Nguyễn với các nước, trong đó có Chân Lạp. Tập hợp các nguồn tư liệu cổ khác nhau về mối quan hệ giữa Đại Việt với các nước trong khu vực, công trình Thư tịch cổ Việt Nam về Đông Nam Á do tác giả Nguyễn Lệ Thi biên soạn là một nguồn tư liệu phong phú. Đây là công trình tập hợp các sự kiện chính trong quan hệ giữa Việt Nam và các nước Đông Nam Á được ghi chép trong các thư tịch cổ như Phủ biên tạp lục, Đại Nam thực lục, Đại Nam liệt truyện, Đại Việt sử kí toàn thư, Việt sử thông giám cương mục… Nội dung tư liệu bao quát trên tất cả các mặt trong quan hệ giữa Việt Nam với các nước Đông Nam Á về kinh tế, chính trị, ngoại giao, văn hóa… Quan hệ của Đại Việt với Chân Lạp đã được nhiều tác giả quan tâm nghiên cứu, được trình bày chủ yếu trong tiến trình của lịch sử Việt Nam hoặc lịch sử các nước Đông Nam Á. Cho đến nay, một công trình nghiên cứu mang tính chất chuyên sâu và có hệ thống về nhiều lĩnh vực trong mối quan hệ đó vẫn là rất cần thiết. Trước hết, nghiên cứu về bang giao của Đại Việt qua các thời kì có bộ Bang giao Đại Việt của tác giả Nguyễn Thế Long. Bộ sách gồm 5 tập, tương ứng với các thời kì lịch sử như Ngô - Đinh - Tiền Lê - Lý, Trần - Hồ, Lê - Mạc - Lê Trung Hưng, Tây Sơn, Nguyễn. Quan hệ bang giao giữa Đại Việt với các nước trong khu vực đã được trình bày chi tiết trong tác phẩm. Trong tập 4 của bộ sách, tác giả trình bày về bang giao giữa Đại Việt với các nước Tây, Nam và Hải đảo, trong đó có phần Chân Lạp. Trong mối quan hệ bang giao giữa Đại Việt với Chân Lạp, tác giả viết về lịch sử vương quốc Chân Lạp, những mẩu chuyện bang giao giữa hai nước, các thủ tục trong bang giao như lệ triều cống, đón tiếp các sứ bộ… Tác giả chia quá trình bang giao giữa hai nước làm ba giai đoạn là Lý - Trần - Lê (thế kỉ XI - XVI), chúa Nguyễn - Tây Sơn, triều Nguyễn. Đây là tác phẩm chứa nhiều sự kiện tiêu biểu trong quan hệ của Đại Việt với các nước. Tuy nhiên, tư liệu về quan hệ giữa Đại Việt với Chân Lạp còn rất ít. Tác giả Đinh Thị Dung nghiên cứu về quan hệ ngoại giao dưới triều Nguyễn trong Luận án Tiến sĩ Quan hệ ngoại giao của triều Nguyễn nửa đầu thế kỉ XIX. Tác giả đã đề cập đến quan hệ của triều Nguyễn với nhiều quốc gia như Trung Quốc, Chân Lạp, Xiêm La, Vạn Tượng. Tác giả đã đưa ra những nhận định riêng và khái quát về những cố gắng các vua triều Nguyễn trong quan hệ ngoại giao với các nước, trong đó có Chân Lạp. Tuy nhiên, phần nghiên cứu về ngoại giao giữa triều Nguyễn với Chân Lạp còn sơ lược, chưa đi sâu vào từng lĩnh vực trong mối quan hệ đó. Cuốn Lịch sử Đông Nam Á của D.G.E. Hall là tác phẩm nghiên cứu nhiều vấn đề về lịch sử các nước Đông Nam Á, dựng nên bức tranh sinh động về lịch sử hình thành, phát triển, suy vong của các quốc gia trong khu vực; đồng thời làm rõ mối quan hệ giao lưu kinh tế, văn hóa giữa các nước. Cuốn sách chia thành 4 phần theo tiến trình lịch sử, trong đó có một số nội dung liên quan đến vấn đề nghiên cứu của luận văn này như: – Chương thứ 5 của phần I nghiên cứu về người Khơme và thời kì Angkor đến năm 1594, chương thứ 9 nghiên cứu về Việt Nam. – Chương thứ 24 và 25 của phần II nghiên cứu về Việt Nam và Campuchia, cụ thể: + Chương 24 nghiên cứu về Việt Nam - Đàng Trong và Đàng Ngoài, (1620 - 1820), gồm các vấn đề như Trịnh - Nguyễn phân tranh (1620 - 1777), sự thiết lập đế chế nhà Nguyễn (1777 - 1820). + Chương 25 nghiên cứu về Chân Lạp với các vấn đề nội trị và ngoại giao như tình hình Chân Lạp từ thế kỉ XVII đến thế kỉ XIX, cuộc xâm lược của Xiêm, chính sách đối ngoại của Chân Lạp, tình hình nội chiến tranh giành quyền lực ở Chân Lạp… Cũng nghiên cứu về lịch sử các nước Đông Nam Á, tác phẩm Lược sử Đông Nam Á do Phan Ngọc Liên chủ biên cung cấp những tư liệu mang tính khái quát về lịch sử các nước trong đó có Đại Việt và Chân Lạp từ lúc mới thành lập đến thời hiện đại. Trong cuốn Việt Nam sử lược, tác giả Trần Trọng Kim nghiên cứu về lịch sử Việt Nam từ thời thượng cổ đến khi Pháp xâm lược và cai trị nước ta; trong đó có nghiên cứu sơ lược về quan hệ Việt Nam - Cao Miên. Tác phẩm này được viết theo lối biên niên, ghi nhận lại các sự kiện lịch sử. Nghiên cứu về quá trình mở rộng lãnh thổ về phía Nam, tác giả Phan Khoang có cuốn Việt sử xứ Đàng Trong. Tác phẩm là một bản “lược đồ” vẽ lại đường đi của tiền nhân ta khoảng 400 năm trước trong công cuộc khẩn hoang lập ấp ở miền đất mới. Quá trình xác lập chủ quyền ở vùng đất Nam Bộ, trong đó có vấn đề bang giao với Chân Lạp được trình bày khá chi tiết trong công trình này. Cùng nội dung nghiên cứu với cuốn Việt sử xứ Đàng Trong là công trình Góp phần tìm hiểu vùng đất Nam Bộ trong các thế kỉ XVII, XVIII, XIX của tác giả Huỳnh Lứa. Tác phẩm cung cấp cho người nghiên cứu nhiều tư liệu về công cuộc chuyển cư, quá trình khai phá của di dân người Việt tại vùng đất Nam Bộ, cơ cấu sở hữu ruộng đất, tình hình sản xuất nông nghiệp, các ngành nghề thủ công, sự hình thành làng xã và vai trò của thôn ấp trong công cuộc khai hoang… Công trình nghiên cứu đã góp phần dựng lại bức tranh Nam Bộ trong các thế kỉ từ XVII đến XIX trên tất cả các mặt của đời sống. Nam Bộ đất và người gồm 6 tập của Hội khoa học Lịch sử Thành phố Hồ Chí Minh tập hợp nhiều bài viết của nhiều nhà nghiên cứu nổi tiếng. Công trình chủ yếu nghiên cứu về công cuộc khẩn hoang vùng đất Nam Bộ, nghiên cứu về các phong tục tập quán, đời sống vật chất và tinh thần của các cộng đồng cư dân sống tại đây. Tác phẩm phác họa một cách toàn diện về vùng đất và con người Nam Bộ. Quyển Người Việt gốc Miên của Lê Hương được viết năm 1969 có nội dung đề cập đến nhiều vấn đề của người Miên đang sống ở Nam Bộ: nguồn gốc, dân số, sinh hoạt, phong tục tập quán, tôn giáo, văn hóa - xã hội, kinh tế. Tác phẩm miêu tả khá sinh động về sinh hoạt kinh tế - văn hóa - xã hội của cộng đồng người Khơme; qua đó, chúng ta có thể thấy quá trình dung hợp, tiếp biến văn hóa của hai cộng đồng cư dân Việt - Miên trên vùng đất Nam Bộ. Kỷ yếu hội thảo Nam Bộ và Nam Trung Bộ - Những vấn đề lịch sử thế kỉ XVII - XIX của trường Đại học sư phạm TP. Hồ Chí Minh tập trung nhiều bài nghiên cứu của các tác giả về vùng đất Nam Bộ và Nam Trung Bộ từ thế kỉ XVII - XIX. Nhiều bài nghiên cứu liên quan đến đề tài như Quan hệ Việt Nam - Chân Lạp thế kỉ XVII - XIX, Vấn đề mở rộng lãnh thổ về phía Nam của người Việt, Mối quan hệ tay ba giữa Việt Nam - Chân Lạp - Xiêm… Qua toàn bộ kỉ yếu, người đọc có thể khái quát được nhiều vấn đề liên quan đến mối quan hệ của Đại Việt với Chân Lạp trước thế kỉ XX. Ngoài ra, các bài viết trong các kỷ yếu hội thảo khoa học như: Hội thảo Nam Bộ và Nam Trung Bộ những vấn đề lịch sử thế kỉ XVII - XIX, nghiên cứu khoa học Lịch sử hình thành và phát triển vùng đất Nam Bộ, Hội thảo chúa Nguyễn và vương triều Nguyễn trong lịch sử Việt Nam từ thế kỉ XVI đến thế kỉ XIX, Hội thảo Vùng đất Nam Bộ thời kì cận đại… các tạp chí chuyên ngành như Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử, Tạp chí Nghiên cứu Kinh tế, Tạp chí Nghiên cứu Đông Nam Á, Văn hóa Tập san… cũng là nguồn tư liệu đã đề cập trong nhiều mức độ về vấn đề mà luận văn nghiên cứu. 4. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU Đề tài không đi sâu nghiên cứu về lịch sử của hai quốc gia Đại Việt và Chân Lạp mà chỉ tập trung tìm hiểu quá trình phát sinh, phát triển và kết thúc mối quan hệ của Đại Việt với Chân Lạp trước thế kỉ XX. Nguyên nhân, điều kiện lịch sử, tính chất của quá trình quan hệ này chịu sự chi phối, tác động của nhiều yếu tố: bối cảnh lịch sử khu vực, quá trình lập quốc và phát triển của mỗi nước; đặc biệt là Đại Việt. Tiến trình mối quan hệ của Đại Việt với Chân Lạp được nghiên cứu chủ yếu trên các lĩnh vực chính trị, quân sự, ngoại giao cũng như hệ quả tác động của nó đến các lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội. Sau khi thoát khỏi ách đô hộ của phong kiến phương Bắc, mở ra kỉ nguyên độc lập dân tộc, với lòng yêu nước nồng nàn và ý thức dân tộc mạnh mẽ, các vị vua các vương triều Đại Việt đã đặt quốc hiệu mới. Đinh Bộ Lĩnh là vị vua đầu tiên đặt quốc hiệu mới cho nước nhà với tên Đại Cồ Việt. Tháng 10 năm 1054, Lý Thánh Tông lên ngôi, đổi quốc hiệu Đại Cồ Việt thành Đại Việt, với ý nghĩa là đứng ngang hàng với nhà Tống ở phương Bắc. Tháng 2 năm 1400, sau khi cướp ngôi nhà Trần, Hồ Quý Ly lập ra nhà Hồ và đặt quốc hiệu mới là Đại Ngu. Từ năm 1407 đến năm 1427, nước ta nằm dưới ách đô hộ của giặc Minh nên không có quốc hiệu. Tháng 2 năm 1428, sau khi quét sạch bóng quân thù, giải phóng dân tộc, Lê Lợi lên ngôi hoàng đế và khôi phục quốc hiệu Đại Việt. Trên danh nghĩa chính thống, quốc hiệu này được dùng đến đầu thế kỉ XIX, cụ thể là năm 1804 mới được thay bằng quốc hiệu Việt Nam. Như vậy, Đại Việt là quốc hiệu của quốc gia. Đó là kết quả quá trình lập quốc, phát triển đất nước ngày càng vững mạnh của quốc gia Đại Việt sau khi thoát khỏi giai đoạn ngàn năm Bắc thuộc. Tên gọi Chân Lạp (Chenla) xuất hiện lần đầu trong các thư tịch cổ Trung Hoa vào khoảng cuối thế kỉ V đầu thế kỉ VI. Đây là khoảng thời gian Chân Lạp lập quốc và từng bước thoát khỏi sự lệ thuộc của Phù Nam. Tên gọi này được dùng cho đến năm 1807. Năm 1807, dưới triều vua Gia Long ở Đại Việt, vua Chân Lạp là Nặc Chăn đã xin đổi quốc hiệu từ “Chân Lạp” thành “Cao Miên”. Tên gọi này được sử dụng đến thời Pháp thuộc. Tên gọi Campuchia bắt đầu sử dụng từ thời Pháp, được đặt theo tên của nhân vật trong truyền thuyết “Kambu - Mera”1 của người Chân Lạp. Như vậy, theo lịch sử, tên gọi Chân Lạp được sử dụng lâu nhất trong suốt quá trình hình thành và phát triển của Chân Lạp. Như vậy, đề tài nghiên cứu quan hệ Đại Việt với Chân Lạp trước thế kỉ XX được xét trong xuyên suốt quá trình lịch sử lâu dài. Đây là khoảng thời gian quốc 1 Đây là truyền thuyết Khơme được ghi lại trên một văn khắc vào thế kỉ X, mô tả nguồn gốc hoàng gia. Đó là cuộc hôn nhân giữa tu sĩ tên Kambu Svayambhuva và nữ thần tên Mera, do thần Siva ban cho ông. hiệu hai nước có sự thay đổi. Trong đó, Đại Việt là nước cũ của Việt Nam ngày nay. Chân Lạp là nước cũ của Campuchia ngày nay. Cả hai quốc hiệu Đại Việt và Chân Lạp đều là những quốc hiệu được dùng dài nhất và phổ biến nhất trong thư tịch của cả hai quốc gia. Đề tài sử dụng hai thuật ngữ Đại Việt và Chân Lạp không đơn thuần chỉ mang tính chất quốc hiệu mà nó còn chỉ bộ máy nhà nước, tinh thần truyền thống văn hóa của hai cộng đồng dân tộc. Bên cạnh đó, luận văn cũng đề cập đến hai cộng đồng Việt và Khơme. Hai khái niệm này không đơn thuần được dùng để chỉ hai tộc người mà mang ý nghĩa bao quát hơn. Đó là cộng đồng dân cư sinh sống trên một lãnh thổ nhất định, có cùng vận mệnh lịch sử trong quá trình dựng nước và giữ nước. Cộng đồng cư dân này được xem là một thực thể xã hội mà tên Đại Việt hay Chân Lạp được chọn làm đại diện để chỉ thực thể đó. Đó chính là hai quốc tộc Việt và Khơme trong thời kì phong kiến. Cộng đồng cư dân Việt bao gồm các tộc người khác nhau, cùng sinh sống trên lãnh thổ Đại Việt; trong đó, tộc người Việt là chủ thể. Cộng đồng cư dân Khơme bao gồm các tộc người sinh sống trên lãnh thổ Chân Lạp; trong đó, tộc người Khơme là chủ thể. Luận văn cố gắng trình bày mối quan hệ của Đại Việt với Chân Lạp trên các lĩnh vực: chính trị, quân sự, ngoại giao. Phần kinh tế, văn hóa, xã hội do hạn chế về nguồn tư liệu nên việc trình bày sẽ nhẹ hơn. Phần này được xem là hệ quả tác động có được từ các mối quan hệ về chính trị, quân sự, ngoại giao. Trước thế kỉ X, Đại Việt được gọi là quận Giao Chỉ, phụ thuộc vào phong kiến Trung Hoa nên chưa thiết lập quan hệ với Chân Lạp. Ở giai đoạn này chỉ có một sự kiện quan hệ được ghi nhận, đó là quan hệ hỗ trợ của quân dân Chân Lạp trong cuộc kháng chiến chống nhà Đường của nhân dân Đại Việt dưới sự lãnh đạo của Mai Thúc Loan. Từ thế kỉ X đến khoảng thế kỉ XIV, quan hệ của Đại Việt với Chân Lạp chủ yếu diễn ra trên lĩnh vực quân sự. Chân Lạp trong giai đoạn hưng thịnh của đế chế Ăng-co, nhiều lần mang quân xâm phạm vùng biên giới của Đại Việt. Thế kỉ XV - XVI, quan hệ giữa hai nước có sự gián đoạn vì bối cảnh lịch sử của cả hai quốc gia đều có sự xáo trộn; chủ yếu là do Chân Lạp bắt đầu suy yếu dần và phải tập trung đối phó với nguy cơ xâm lược từ các vương quốc của người Thái. Đối lập với Chân Lạp, Đại Việt ngày càng phát triển vững mạnh. Cương vực ngày càng mở rộng. Xu hướng cát cứ trở thành một quy luật chung. Quan hệ Đại Việt với Chân Lạp từ thế kỉ XVII diễn ra trong bối cảnh Chân Lạp ngày càng khủng hoảng và suy vong. Các vương triều phong kiến thường xuyên diễn ra cảnh tranh quyền, thoán vị phải tìm chỗ dựa ở các vương triều Đại Việt (chủ yếu là ở Đàng Trong). Đây cũng là giai đoạn, vùng đất Thủy Chân Lạp từng bước bị thay đổi chủ quyền và sáp nhập vào lãnh thổ Đại Việt. Phạm vi thời gian nghiên cứu: Quan hệ Đại Việt với Chân Lạp trước thế kỉ XX được nghiên cứu mở đầu từ những mối quan hệ đầu tiên của hai nước trong quá trình phối hợp chống ách đô hộ của phong kiến nhà Đường ở Trung Hoa. Với xuất phát điểm như thế, luận văn sẽ làm rõ được quá trình phát sinh của mối quan hệ, những điều kiện lịch sử chi phối đến mối quan hệ; đồng thời có thể so sánh được tính chất mối quan hệ trong các giai đoạn lịch sử khác nhau. Mốc kết thúc của mối quan hệ này là thời điểm năm 1897 khi thực dân Pháp căn bản hoàn thành công cuộc xâm chiếm và bắt đầu chương trình khai thác thuộc địa lần thứ nhất ở Đông Dương. Đây là lúc tính chất quan hệ của Đại Việt với Chân Lạp đã có sự thay đổi và chuyển sang một thời kì mới. 5. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Để thực hiện đề tài này, người viết sử dụng các phương pháp sau: – Phương pháp lịch sử: Đây là phương pháp được sử dụng chủ yếu trong luận văn, nhất là phần nghiên cứu diễn tiến mối quan hệ của Đại Việt với Chân Lạp. Theo chiều dài thời gian, mối quan hệ này được tái hiện từ quá trình đoàn kết của hai nước Đại Việt - Chân Lạp trong cuộc chiến chống ách đô hộ của nhà Đường năm 722, cho đến khi hai nước đặt quan hệ chính thức vào năm 1620 và kết thúc vào năm 1897 khi thực dân Pháp bắt đầu khai thác thuộc địa ở Đông Dương lần thứ nhất. – Phương pháp logic: Đặt mối quan hệ của Đại Việt với Chân Lạp trong bối cảnh của hai nước theo từng giai đoạn lịch sử, cũng như bối cảnh khu vực Đông Nam Á; đặc biệt nhấn mạnh vị trí, vai trò của Xiêm La trong mối quan hệ này. Quan hệ chính trị - quân sự - ngoại giao đã tác động đến quan hệ kinh tế - văn hóa - xã hội của Đại Việt với Chân Lạp. – Phương pháp liên ngành: khai thác nguồn tư liệu, kế thừa kết quả nghiên cứu thuộc các ngành khoa học khác nhau: sử học, dân tộc học, văn hóa… 6. BỐ CỤC LUẬN VĂN Luận văn ngoài phần Mở đầu và Kết luận, có 3 chương: Chương 1. ĐIỀU KIỆN LỊCH SỬ CỦA MỐI QUAN HỆ ĐẠI VIỆT VỚI CHÂN LẠP 1.1. Khái quát sự hình thành các quốc gia Đông Nam Á 1.2. Quá trình hình thành, bảo vệ và phát triển của quốc gia Đại Việt 1.3. Quá trình hình thành, phát triển của quốc gia Chân Lạp Chương 2. QUÁ TRÌNH QUAN HỆ CỦA ĐẠI VIỆT VỚI CHÂN LẠP ĐẾN THẾ KỈ XVI 2.1. Đặc điểm chính sách đối ngoại của các vương triều Đại Việt 2.2. Đặc điểm chính sách đối ngoại của Chân Lạp 2.3. Chính sách và hoạt động đối ngoại với Chân Lạp của các triều đại Đại Việt Chương 3. QUAN HỆ CỦA ĐẠI VIỆT VỚI CHÂN LẠP THẾ KỈ XVII - XIX 3.1. Tình hình Đại Việt và Chân Lạp thế kỉ XVII - XIX 3.2. Chính sách và hoạt động đối ngoại với Chân Lạp của các triều đại Đại Việt từ thế kỉ XVII - XIX 3.3. Hệ quả quan hệ của Đại Việt với Chân Lạp thế kỉ XVII - XIX Chương 1. ĐIỀU KIỆN LỊCH SỬ CỦA MỐI QUAN HỆ ĐẠI VIỆT VỚI CHÂN LẠP 1.1. Khái quát sự hình thành các quốc gia Đông Nam Á Đông Nam Á là khu vực có diện tích khá rộng, khoảng trên bốn triệu km2, trải dài trên một phần trái đất. Đây là khu vực có ý nghĩa quan trọng trong những bước đi đầu tiên của loài người và trong từng chặng đường lịch sử thế giới. Nơi đây từ rất sớm đã chứa đựng những điều kiện thuận lợi cho việc tập trung dân cư và hình thành các nhà nước. Về vị trí địa lý, Đông Nam Á được xem là “ngã tư đường” nối Trung Quốc, Nhật Bản, khu vực Tây Á và Địa Trung Hải lại với nhau. Về mặt khí hậu, Đông Nam Á chịu ảnh hưởng chủ yếu của gió mùa, tạo nên hai mùa tương đối rõ rệt: mùa khô (lạnh, mát) và mùa mưa (tương đối nóng và ẩm). Chính gió mùa và khí hậu biển làm cho khí hậu vùng biến đổi, không khô cằn như một số khu vực lục địa khác có cùng vĩ độ. Gió mùa kèm theo những cơn mưa nhiệt đới đã cung cấp đủ lượng nước cho con người trong đời sống và sản xuất; đồng thời tạo nên môi trường cảnh quan đa dạng, phong phú. Mưa nhiệt đới trên địa bàn tự nhiên của khu vực tạo thành những vùng nhỏ, xen kẽ giữa rừng nhiệt đới, đồi núi, bờ biển và đồng bằng. Tuy không có những đồng bằng rộng lớn như các vùng châu thổ sông Ấn, sông Hằng… cũng không có những đồng cỏ mênh mông như vùng thảo nguyên; không gian sinh tồn ở đây nhỏ, hẹp nhưng lại rất phong phú, đa dạng. Con người có thể khai thác từ thiên nhiên đủ các loại thức ăn để sinh tồn trong buổi ban đầu. Nhìn chung, những điều kiện tự nhiên của Đông Nam Á tỏ ra thuận lợi cho những bước đi đầu tiên của con người. Những mùa mưa mang tính ổn định, khí hậu khô mát, địa bàn sinh tụ đa dạng… tạo nên không gian lí tưởng cho cuộc sống con người. Đây chính là nguyên nhân khiến từ rất sớm, khu vực này có cư dân cổ tập trung sinh sống. Nhiều dấu vết của quá trình chuyển biến từ vượn thành người đã được tìm thấy ở Đông Nam Á. Những di cốt hóa thạch của người tối cổ, người tinh khôn; những công cụ đồ đá… được tìm thấy khắp nơi như: Việt Nam, Mianma, Thái Lan, Indônêxia, Philippin… Cũng giống các khu vục khác trên thế giới, quá trình phát triển của Đông Nam Á diễn ra liên tục từ giai đoạn đá cũ, đồ đá giữa, đá mới và giai đoạn kim khí. Vào khoảng đầu thiên niên kỉ II TCN, cư dân Đông Nam Á, mà trước tiên là cư dân ở vùng đồng bằng sông Hồng và ở Thái Lan đã biết đến công cụ bằng đồng thau. Tiếp đó, vào khoảng những thế kỉ tiếp giáp công nguyên, trên cơ sở phát triển của đồ đồng, đồ sắt bắt đầu được sử dụng phổ biến ở Đông Nam Á. Sự ra đời, phát triển của đồ sắt làm tăng năng suất lao động, khối lượng sản phẩm dư thừa của xã hội ngày càng nhiều, tạo điều kiện thuận lợi cho các dân tộc ở Đông Nam Á đứng trước ngưỡng cửa của xã hội có giai cấp và nhà nước. Một nhân tố quan trọng khác thúc đẩy nhanh quá trình hình thành các quốc gia Đông Nam Á đó là ảnh hưởng của văn hóa Ấn Độ và Trung Hoa. Thông qua con đường giao lưu buôn bán là chủ yếu, hai luồng văn hóa này đã thâm nhập, ảnh hưởng toàn diện và sâu sắc trên nhiều lĩnh vực như chữ viết, văn chương, tôn giáo, nghệ thuật, kiến trúc, điêu khắc… đối với cư dân Đông Nam Á. Bên cạnh đó, giữa các tiểu quốc trong khu vực vẫn thường có những mối quan hệ trao đổi sản phẩm và văn hóa. Chính những yếu tố này đã tạo tiền đề cho sự phát triển của xã hội ở khu vực Đông Nam Á. Những mầm mống đầu tiên của sự xuất hiện nhà nước ra đời. Từ khoảng đầu công nguyên đến thế kỉ thứ VII, hàng loạt các quốc gia sơ kì được hình thành và phát triển ở khu vực phía Nam của Đông Nam Á lục địa. Các vương quốc đầu tiên đơn thuần là những địa điểm quần cư hoặc cũng có thể là những nhà nước thực sự. Theo thống kê, có khoảng 30 tiểu quốc mang tính chất như thế được hình thành rải rác khắp khu vực Đông Nam Á; tiêu biểu là vương quốc Champa (Nam Trung Bộ Việt Nam ngày nay), Bơhavapura (Nam Khorat), Naravara (Óc Eo An Giang), Phù Nam (Nam Bộ Việt Nam ngày nay). Cũng vào thời điểm này, nhiều quốc gia của người Môn được thành lập. Trên lưu vực sông Mê Nam và Iraoadi, người Môn thành lập cho mình nhiều vương quốc nhỏ. Những vương quốc này bị lệ thuộc vào Phù Nam. Thế kỉ VII - VIII, tại khu vực hạ lưu sông Mê Nam, các quốc gia khác của người Môn là Dvaravati và Haripunjaya được thành lập. Khu vực sông Iraoadi vào thế kỉ IX cũng chứng kiến sự ra đời của hai vương quốc người Môn khác là Thaton (Sudhanmanvati) và Pêgu (Hamsavati). Trong khi đó, trên bán đảo Mã Lai, các vương quốc cổ như Kêda, Tambralinga, Tumasic cũng đã lần lượt xuất hiện từ khoảng thế kỉ II - III. Trên đảo Giava, vương quốc Taruma ra đời vào thế kỉ IV và thiết lập quan hệ buôn bán với nhiều nước, trong đó chủ yếu là Ấn Độ và Trung Quốc. Ngoài ra, còn nhiều vương quốc khác cũng lần lượt xuất hiện ở đảo Xumatơra và hạ lưu sông Hari ngày nay. Trong số nhiều tiểu vương quốc xuất hiện trong khoảng bảy thế kỉ đầu công nguyên, Phù Nam là vương quốc nổi bật. Nó đóng vai trò quan trọng trong việc tiếp thu, truyền bá văn hóa Ấn Độ vào các quốc gia trong khu vực. Thời kì cực thịnh, Phù Nam đã bành trướng sức mạnh của mình, xâm chiếm, bắt các vương quốc, tiểu vương quốc khác lệ thuộc vào mình và đã có lúc chinh phục được hầu hết các tiểu quốc ở phía Nam bán đảo Trung Ấn. Tuy vậy, vì nhiều lí do khác nhau, Phù Nam nhanh chóng suy tàn vào thế kỉ VII. Trong khi đó, nhờ điều kiện sinh sống thuận lợi và tiếp xúc với văn hóa Ấn Độ qua vai trò xúc tác của Phù Nam, các tiểu quốc lệ thuộc Phù Nam bắt đầu mạnh lên.Trên lãnh thổ rộng lớn của Phù Nam bắt đầu xuất hiện hàng loạt vương quốc độc lập. Quá trình này diễn ra trong khoảng thế kỉ VII - X. Đây cũng là giai đoạn ra đời của các quốc gia dân tộc - các quốc gia được hình thành trên cơ sở hợp nhất của các nước nhỏ theo địa vực tự nhiên, lấy một tộc đa số và phát triển nhất làm nòng cốt. Chân Lạp là một quốc gia được hình thành như vậy. Vốn là thuộc quốc của Phù Nam, lợi dụng Phù Nam suy yếu, Chân Lạp đã đem quân đánh bại Phù Nam, phá bỏ sự lệ thuộc. Trên bán đảo Xumatơra, vương._. quốc Xri Vijaya ra đời vào thế kỉ VII đã nhanh chóng thực hiện việc bành trướng thế lực của mình ra toàn vùng phía Đông, phía Tây đảo Xumatơra, Bangka, sang cả Mã Lai; đánh chiếm vương quốc Taruma ở Tây Giava. Ở những khu vực khác, một số quốc gia được hình thành từ trước như Đại Việt, Champa... tiếp tục phát triển ngày càng mạnh. Đây được xem là thời kì tích lũy của các quốc gia dân tộc. Sau một thời gian chuyển tiếp từ thế kỉ VII đến thế kỉ X, các quốc gia dân tộc trong khu vực Đông Nam Á bước vào giai đoạn phát triển thịnh đạt từ khoảng thế kỉ X - XV. Sự phát triển thịnh đạt đó biểu hiện trước hết ở sự phát triển của nền kinh tế khu vực, sự ổn định tương đối về chính trị và sự hình thành một nền văn hóa dân tộc gắn liền với quá trình xác lập quốc gia. Thế kỉ IX - X được xem là mốc đánh dấu bước nhảy vọt mới và mở đầu một kỉ nguyên mới ở khu vực Đông Nam Á: kỉ nguyên độc lập dân tộc, mở đầu cho một thời đại phục hưng trên toàn Đông Nam Á với đặc điểm nổi bật là trở lại chính mình, là sự khẳng định ý thức dân tộc, một nền văn hóa dân tộc đã định hình. Ở Đại Việt, đó là sự kết thúc của thời kì Bắc thuộc và đồng thời là sự mở đầu của một thời đại mới: thời đại độc lập dân tộc, phục hưng dân tộc, phục hưng văn hóa Việt. “Nó mở đầu cho một thời đại của các triều Lý, Trần, Lê… oanh liệt một thời, không chỉ sánh ngang hàng với Tống, Nguyên, Minh ở Trung Quốc mà với cả những quốc gia hùng mạnh nhất trên thế giới lúc bấy giờ”. [37, tr.31]. Đây cũng là giai đoạn phát triển thịnh đạt của vương quốc Champa, dưới vương triều Indrapura. Sự phát triển thịnh đạt biểu hiện trước hết ở sự giàu có về kinh tế và sự tăng cường quyền lực của vương quyền, được dựa trên một lực lượng quân sự khá hùng mạnh. Champa đã ba lần tấn công phủ đô hộ An Nam vào các năm 861, 862, 865; tấn công vào lãnh thổ Chân Lạp và Đại Việt. Trong khi đó, từ thế kỉ IX, Chân Lạp cũng bước vào giai đoạn thịnh đạt và phát triển huy hoàng, trở thành một trong những vương quốc mạnh và ham chiến trận nhất khu vực. Quá trình xâm chiếm đất đai, tăng cường quyền lực được các vương triều Chân Lạp nối tiếp nhau thực hiện. Chân Lạp tấn công Champa, Đại Việt; thu phục vùng trung và hạ lưu sông Mê Nam, tiến tới phía bắc cao nguyên Khorat, đến tận Sayphong; thu phục địa bàn các vương quốc người Môn… Trên khu vực sông Iraoadi cũng diễn ra quá trình tranh chấp, xung đột của các tiểu quốc người Miến. Năm 1053, vương quốc Pagan (tiền thân của Miến Điện hay Mianma sau này) đã chinh phục vương quốc Pêgu và Thatơn, làm chủ hoàn toàn miền Nam. Tiếp đó, vua Anoratha lại tiến lên phía Bắc, chinh phục các tiểu quốc khác của người Miến và người Shan. Vương quốc Pagan không ngừng mở rộng và phát triển cường thịnh cho đến năm 1283 thì bị quân Nguyên tàn phá. Khu vực Đông Nam Á hải đảo cũng chứng kiến sự phát triển cực thịnh của quốc gia Mataram (tiền thân của quốc gia Inđônêxia). Quốc gia Mataram đã thống nhất cả hai đảo Xumatơra và Giava. Sau khi đánh thắng quân Nguyên, kinh đô được chuyển về Môgiôpahit, lập nên vương triều Môgiôpahit ở Inđônêxia với lãnh thổ rộng lớn bao gồm đảo Giava, Xumatơra, phần lớn Kalimanta, đảo Xulavêdi, bán đảo Mã Lai và quần đảo Môlucu. Đây là kết quả của hàng loạt các cuộc chinh phạt các tiểu quốc khác trong khu vực. Vương quốc Thái ra đời muộn hơn các quốc gia khác trong khu vực. Vó ngựa xâm lược của quân Mông Cổ xuống Đông Nam Á tạo nên những biến động lớn. Một bộ phận người Thái từ thượng nguồn sông Mê Kông di chuyển dần xuống phía Nam và lập lên các vương quốc Thái như: Lanna (kinh đô ở Chiềng Mai), La Hộc1, Sukhothay. Năm 1349, Ayuthaya đem quân xâm lược và bắt Sukhothay thần phục. 1 Đến năm 1347, kinh đô chuyển xuống Ayuthaya nên được đổi tên thành vương quốc Ayuthaya. Vương quốc Thái thống nhất ra đời và phát triển thịnh đạt cho đến năm 1767 thì đổi tên thành vương quốc Xiêm. Trong khi đó, một bộ phận khác của người Thái ở vùng Trung lưu sông Mê Kông nhanh chóng hòa nhập với cư dân bản địa và lập nên vương quốc Lanxang vào năm 1353. Như vậy, trên bước đường xác lập vương quốc dân tộc, mỗi tộc người đều cố gắng khẳng định chỗ đứng của mình nên những cuộc xung đột, va chạm đôi khi rất quyết liệt là không thể tránh khỏi. Nói cách khác, xu hướng tranh chấp là xu hướng có tính quy luật của các quốc gia Đông Nam Á trong giai đoạn phát triển. Đây là hiện tượng mà một số nhà sử học trước đây cho kết luận rằng đã có những nước đế quốc hình thành ở khu vực Đông Nam Á vào thời kì Trung đại. Bên cạnh đó, để phát triển đất nước, các quốc gia Đông Nam Á không ngừng gia tăng nội lực và thiết lập quan hệ với các nước láng giềng. Đây chính là những điều kiện quan trọng cho sự tồn tại và phát triển của mỗi quốc gia. Bên cạnh sự giàu có của nền kinh tế, sự gia tăng quyền lực của vương quyền phong kiến, các quốc gia Đông Nam Á giai đoạn này luôn có nhu cầu thiết lập quan hệ trên nhiều mặt với các nước lân cận, thể hiện xu hướng hòa hiếu, thân thiện cùng nhau phát triển. Như vậy, xu hướng hòa hiếu và tranh chấp xung đột giữa các quốc gia là đặc điểm có tính quy luật của thời kì này. Hầu hết các quốc gia đều có nhu cầu, tham vọng mở rộng lãnh thổ, tăng cường sức mạnh, ảnh hưởng của mình đối với các quốc gia khác. Đi vào lịch sử cụ thể của từng quốc gia, chúng ta thấy rằng, các quốc gia Đông Nam Á một mặt thi hành chính sách ngoại giao rộng mở, thiết lập mối quan hệ hữu hảo với nhiều nước; mặt khác lại theo đuổi chính sách mở rộng lãnh thổ, tăng cường quyền lực đối với các quốc gia láng giềng. Đây là điểm giống nhau của hầu hết các quốc gia như: Đại Việt, Chân Lạp, Champa, Xiêm La… * * * Bối cảnh khu vực là nhân tố tác động lớn, đóng vai trò chi phối đến mối quan hệ của một quốc gia này đối với một quốc gia khác trong khu vực đó. Cả Đại Việt và Chân Lạp đều là những quốc gia nằm trên bán đảo Đông Dương trong khu vực Đông Nam Á, đều được hình thành tương đối sớm, trên những điều kiện tự nhiên thuận lợi và ảnh hưởng của văn hóa Ấn Độ, Trung Hoa. Trong quá trình tồn tại và phát triển, các quốc gia đều tiến hành thiết lập quan hệ với các nước khác. Đồng thời, trên bước đường xác lập, xây dựng, phát triển mỗi quốc gia đều có nhu cầu khẳng định mình, mở rộng lãnh thổ và phạm vi ảnh hưởng nên không thể tránh khỏi những cuộc xung đột, va chạm. Tình trạng hòa bình và chiến tranh thường diễn ra tại quốc gia dân tộc trong khu vực Đông Nam Á thời phong kiến. Từ thế kỉ XVII, vương quốc Xiêm hình thành, dẫn đến sự thay đổi lớn trong khu vực. Chính sách đối ngoại đầy tham vọng của các vương triều Xiêm đe dọa nghiêm trọng độc lập, chủ quyền của các nước láng giềng lân cận, trong đó có Đại Việt. Điều này chi phối đến việc thay đổi chính sách đối ngoại của Đại Việt với Chân Lạp, Ai Lao và Xiêm La. Có nhiều tộc người, tiểu vương quốc, dân tộc… vì nhỏ yếu hơn đã bị đồng hóa, hòa nhập vào các tộc người, các quốc gia khác. Có nhiều quốc gia lãnh thổ, phạm vi ảnh hưởng ngày càng mở rộng; nhưng ngược lại cũng có nhiều tiểu quốc, quốc gia lãnh thổ bị thu hẹp, thậm chí biến mất, trở thành một bộ phận của các quốc gia khác. Đây là đặc điểm có tính quy luật “mạnh được yếu thua” của khu vực Đông Nam Á thời kì phong kiến. Trong bối cảnh của cả khu vực như vậy, Đại Việt và Chân Lạp đều tìm cách khẳng định chỗ đứng trong khu vực và tuân theo những quy luật khắc nghiệt đó để tồn tại và phát triển. Trong bối cảnh sự hình thành các quốc gia Đông Nam Á với quan hệ của các quốc gia trong khu vực từ thế kỉ X đến thế kỉ XVI, nhân tố quan hệ Champa - Chân Lạp có vai trò, tác động đến mối quan hệ của Đại Việt với Chân Lạp. Chân Lạp và Champa là hai quốc gia láng giềng cùng biên giới, sớm xây dựng nhà nước và đều thi hành chính sách đối ngoại hiếu chiến, xâm lược. Từ thế kỉ X đến thế kỉ XIII, Chân Lạp và Champa đều tiến hành nhiều cuộc chiến tranh xâm chiếm và thôn tính lẫn nhau. Cả hai quốc gia đều có mưu đồ xâm chiếm Đại Việt. Chính bối cảnh đó đã khiến các triều vua Đại Việt phải linh hoạt, khéo léo trong việc hoạch định chính sách đối ngoại với hai nước này. Chính sách đối ngoại của Đại Việt với Chân Lạp chịu sự tác động bởi chính sách đối ngoại của Đại Việt với Champa và chính sách đối ngoại của Champa - Chân Lạp. 1.2. Quá trình hình thành, bảo vệ và phát triển quốc gia Đại Việt Điều kiện lịch sử của mỗi quốc gia có vai trò to lớn trong việc hoạch định chiến lược ngoại giao với các nước khác. Quốc gia Đại Việt hình thành từ thiên niên kỉ thứ nhất TCN và phát triển liên tục trong quá trình lịch sử. Đây là một nhân tố tác động đến quan hệ Đại Việt với Chân Lạp. Lịch sử của mỗi quốc gia khởi điểm từ sự hình thành nhà nước đầu tiên. Nhà nước đầu tiên của Đại Việt là nhà nước Văn Lang dưới thời vua Hùng và nhà nước Âu Lạc dưới thời An Dương Vương tồn tại trong khoảng 4 - 5 thế kỉ, bắt đầu từ thế kỉ VII - VIII TCN và kết thúc vào năm 179 TCN. Qua bao thăng trầm lịch sử, cư dân Việt cổ đã xây dựng cho mình một nhà nước với nhiều thành tựu kinh tế, văn hóa; tạo nên một nền văn minh sông Hồng rực rỡ. Từ năm 179 TCN đến năm 938 sau Công nguyên, cư dân Đại Việt trải qua giai đoạn ngàn năm Bắc thuộc. Nhiều cuộc khởi nghĩa đã nổ ra chống chính quyền phong kiến đô hộ Trung Hoa; kết quả một số cuộc khởi nghĩa đã đem lại nền độc lập tự chủ cho dân tộc trong một thời gian ngắn như: khởi nghĩa Hai Bà Trưng (40 - 43), khởi nghĩa Bà Triệu (248), khởi nghĩa Lí Bí và việc lập nhà nước Vạn Xuân (542 - 602), khởi nghĩa Mai Thúc Loan (722)… Năm 905, với sự thắng lợi từ cuộc khởi nghĩa của Khúc Thừa Dụ, một chính quyền tự chủ của dân tộc đã được ra đời, đặt cơ sở cho nền độc lập lâu dài về sau. Năm 938, bằng cuộc đại thắng trên sông Bạch Đằng, Ngô Quyền đánh tan quân Nam Hán và hoàn thành triệt để sự nghiệp giải phóng dân tộc thoát ách thống trị của phong kiến phương Bắc. Năm 905 và năm 938 trở thành hai mốc son chói lọi trong trang sử vàng vẻ vang của phong trào vũ trang chống phong kiến Trung Hoa liên tục trong hơn ngàn năm Bắc thuộc. Nhà nước phong kiến độc lập ra đời phù hợp với xu hướng tất yếu của lịch sử và hợp với nguyện vọng của quần chúng nhân dân. Trong một nghìn năm bị đô hộ, nhân dân Đại Việt đã đấu tranh chống lại âm mưu đồng hóa của kẻ thù, bảo vệ bản sắc dân tộc và bắt tay xây dựng nền móng vững chắc cho một quốc gia dân tộc độc lập, thống nhất, phát triển và vững mạnh. Như vậy, thế kỉ thứ X được xem là thế kỉ bản lề, nối liền hai thời kì của lịch sử dân tộc: thời kì đêm trường nô lệ và thời kì độc lập tự chủ. Quá trình thiết lập và củng cố quốc gia quân chủ Đại Việt trải qua các chính quyền họ Khúc (905 - 930), họ Dương (931 - 937), vương triều Ngô (939 - 965), vương triều Đinh (968 - 980), triều Tiền Lê (980 - 1009) đã đạt được nhiều thành tựu, nhưng thiết chế nhà nước và bộ máy chính quyền còn khá đơn giản, có xu hướng mô phỏng thiết chế nhà nước phong kiến Trung Hoa đương thời. Thời Lý (1010 - 1225) - Trần (1226 - 1400) tiếp tục sự nghiệp đã được định hướng từ các triều đại trước. Một quốc gia độc lập, tự chủ với chế độ quân chủ trung ương tập quyền mạnh đang dần chuyển hóa sang tính chất phong kiến quý tộc được bảo vệ, củng cố và phát triển. Nền văn minh Đại Việt mang đậm đà bản sắc dân tộc hình thành. Năm 1010, Lý Công Uẩn dời đô từ Hoa Lư ra Thăng Long, góp phần thúc đẩy quá trình mở mang đất nước đi dần vào phía Nam, xuống các vùng đất bằng phẳng; chuyển từ miền núi xuống vùng đồng bằng trù phú. Bộ máy chính quyền có nhiều thay đổi theo hướng chặt chẽ. Quân đội được tổ chức và trang bị tốt. Hệ thống pháp luật ngày càng tăng cường và hoàn thiện. Cuối thế kỉ XIV, Đại Việt cuối thời nhà Trần bước vào con đường suy vong. Bên trong, khởi nghĩa nông dân nổi dậy khắp nơi. Bên ngoài, Chiêm Thành nhiều lần đem quân tấn công đến tận kinh đô Thăng Long. Lợi dụng cơ hội đó, Hồ Quý Ly đã bức vua Trần nhường ngôi. Năm 1400, nhà Hồ thành lập. Những cố gắng trong công cuộc cải cách đất nước của nhà Hồ chưa đạt kết quả thì nạn ngoại xâm lại xảy ra. Quân Minh ồ ạt xâm lược nước ta. Năm 1407, cuộc kháng chiến chống Minh của nhà Hồ thất bại. Đất nước rơi vào ách đô hộ của nhà Minh. Khởi nghĩa nổ ra khắp nơi nhưng đều bị đàn áp. Năm 1418, tại Lam Sơn, cuộc khởi nghĩa chống xâm lược Minh do Lê Lợi lãnh đạo được đông đảo quần chúng nhân dân ủng hộ. Nghĩa quân mở rộng vùng hoạt động, làm chủ đất Thanh Hóa vào phía Nam; sau đó tấn công ra Bắc, chiến đấu quyết liệt với quân giặc. Năm 1427, bằng chiến thắng Chi Lăng - Xương Giang, quân Minh đầu hàng rút quân về nước. Đất nước trở lại thanh bình. Vương triều Lê sơ được thành lập. Các vị vua đầu triều Lê sơ: Lê Thái Tổ, Thái Tông, Thánh Tông… tiến hành khôi phục đất nước. Dưới thời vua Lê Thánh Tông, Đại Việt đã phát triển lên tầm cao mới và đạt được nhiều thành tựu trên tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, giáo dục… Bộ máy nhà nước tổ chức ngày càng chặt chẽ, hoàn thiện theo hướng trung ương tập quyền, thể hiện sức mạnh chi phối của chính quyền trung ương xuống các địa phương trong cả nước và quyền hành chuyên chế tuyệt đối của nhà vua. Nhà Lê sơ cũng rất chú trọng đến việc tổ chức quân đội và củng cố quốc phòng. Hệ thống quân đội cải tổ thành hai lực lượng là cấm binh và ngoại binh. Cũng như các triều đại trước, chính sách “ngụ binh ư nông” được sử dụng nhằm mục đích vừa đảm bảo an ninh quốc phòng vừa đảm bảo sự phát triển nền kinh tế nông nghiệp. Ngoài ra, quân đội còn được chia thành các binh chủng: bộ binh, thủy binh, tượng binh, kỵ binh. Từ cuối thế kỉ XV - đầu thế kỉ XVI, Đại Việt rơi vào khủng hoảng. Kinh tế sa sút, đời sống nhân dân cực khổ, cuôc tranh giành quyền bính của các thế lực phong kiến đã mở đầu một giai đoạn mới: giai đoạn phân tranh và chia cắt đất nước. Sau một thời gian hưng thịnh, bước sang thế kỉ XVI, nhà Lê bắt đầu suy yếu dần. Các vua Uy Mục (1505 - 1509), Tương Dực (1510 - 1516) ăn chơi xa xỉ, hoang dâm, độc ác… khiến trăm họ đói khổ, giặc giã nổi lên như ong. Trong triều, cuộc chiến tranh giành quyền lực không ngừng tiếp diễn. Lợi dụng tình hình rối ren đó, Mạc Đăng Dung đã bắt đầu gây dựng thế lực, diệt trừ các thế lực đối lập và phe cánh nổi loạn, tập trung quyền hành dần vào tay mình. Khi đã thâu tóm trọn quyền hành trong tay, Mạc Đăng Dung cho người bức vua Lê rồi tự xưng làm Hoàng Đế, lập ra nhà Mạc năm 1527. Vương triều Mạc lại thi hành nhiều chính sách phản động như: cắt đất thần phục nhà Minh, quan lại phong kiến nhũng nhiễu, hạch sách nhân dân… khiến nhân dân bất mãn. Thêm vào đó, hành động phản nghịch của Mạc Đăng Dung khiến một số cựu thần nhà Lê, đứng đầu là Nguyễn Kim bất mãn. Sau một thời gian chuẩn bị lực lượng, con cháu nhà Lê dưới sự phò tá của hai họ Trịnh - Nguyễn bắt đầu nổi dậy chống chính quyền nhà Mạc. Kết quả, Đại Việt chia cắt làm hai, tạo thành thế Nam - Bắc triều. Lấy Thanh Hóa làm mốc, trở vào thuộc quyền cai quản của nhà Lê (triều Lê Trung Hưng), trở ra thuộc sự quản lí của nhà Mạc. Cuộc nội chiến Nam - Bắc triều diễn ra gần 50 năm từ năm 1539 đến năm 1592 với gần 40 trận đánh lớn nhỏ đã gây nên một cuộc tàn sát đẫm máu. Hàng ngàn người dân vô tội chết oan, kinh tế điêu tàn... Đến năm 1591, tướng Trịnh Tùng của Nam triều tổng tấn công vào Đông Kinh, bắt được vua Mạc Mậu Hợp, chiếm kinh thành. Nhà Mạc bị tiêu diệt. Năm 1593, Trịnh Tùng đón vua Lê Thế Tông về kinh đô Đông Đô. Công cuộc Lê Trung Hưng hoàn thành cũng là lúc mọi quyền lực chuyển giao vào tay họ Trịnh. Vua Lê trở thành bù nhìn, bắt đầu một thời kì mới - thời kì “vua Lê chúa Trịnh”. Tuy nhiên, đất nước vừa thống nhất không lâu thì nguy cơ chia cắt lại tiếp diễn. Cuộc chiến Trịnh - Nguyễn có mầm móng từ thời Nam - Bắc triều bùng nổ, chia Đại Việt thành hai miền: Đàng Trong - Đàng Ngoài. Đại Việt thế kỉ XVII - XVIII bị chia cắt bởi hai dòng họ Trịnh - Nguyễn. Năm 1545, Nguyễn Kim - tướng tài ba có công trong việc thành lập nhà Lê Trung Hưng bị hàng tướng họ Mạc là Dương Chấp Nhất đầu độc chết. Quyền hành rơi vào tay con rể là Trịnh Kiểm. Cũng từ đây, mâu thuẫn giữa hai dòng họ Trịnh - Nguyễn bắt đầu, mở màn cho công cuộc chia cắt đất nước thành hai đàng: Đàng Trong và Đàng Ngoài. Trịnh Kiểm vì muốn thâu tóm quyền hành, xây dựng quyền thế tập cho dòng họ Trịnh nên đã tìm cách sát hại các em vợ. Nguyễn Uông - con trưởng Nguyễn Kim bị hãm hại chết. Nguyễn Hoàng lo sợ cho số phận của mình. Được sự mách nước của trạng trình Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nguyễn Hoàng nhờ cậy chị gái Ngọc Bảo xin Trịnh Kiểm cho vào trấn thủ Thuận Hóa. Đây là nơi hoang vu, nhiều giặc giã. Trịnh Kiểm muốn nhân cơ hội đó mượn tay bọn giặc trừ khử em vợ nên đã đồng ý. Năm 1558, Nguyễn Hoàng được lệnh vào Nam. Cùng đi với ông có một lực lượng hùng hậu có đến nghìn người, là họ hàng ở huyện Tống Sơn, binh lính ở đất Thanh - Nghệ, những danh thần tài giỏi như Nguyễn Ư Dĩ, Tống Phước Trị, Mạc Cảnh Huống… Khi vào Nam, đoàn người đổ bộ lên cảng Cửa Việt, dựng dinh thự ở Ái Tử. Nguyễn Hoàng là người khôn ngoan, nhân hậu, lưu tâm đến dân tình, hết lòng thu dụng hào kiệt để mưu cầu nghiệp lớn. Ông được dân gian yêu mến gọi là chúa Tiên. Thời gian đầu, bề ngoài, Nguyễn Hoàng vẫn giữ và làm tròn bổn phận một phiên thần. Nhưng bên trong, một mặt dựa vào điều kiện tự nhiên thuận lợi, đất đai rộng rãi; mặt khác lợi dụng họ Trịnh đang tập trung chống lại họ Mạc, họ Nguyễn ra sức khai khẩn vùng Thuận Quảng, xây dựng tiềm lực, chuẩn bị cho cuộc cát cứ lâu dài. Để tránh sự nghi kỵ của chúa Trịnh, năm 1569, ông ra chầu vua Lê ở An Trường. Năm 1570, Nguyễn Hoàng được giao trấn thủ luôn đất Quảng Nam với ấn Tổng trấn. Năm 1593, ông đem quân ra Đông Đô giúp Trịnh Tùng đánh dẹp dư đảng họ Mạc. Vì lập được nhiều chiến công, ông được vua Lê tấn phong Trung quân đô đốc phủ tả đô đốc chưởng phủ sự thái úy Đoan quốc công. Năm 1600, lấy cớ đem quân đi dẹp loạn ở Nam Định, ông cùng các tướng tâm phúc giong thuyền thẳng vào Thuận Quảng. Có thể xem từ năm 1600, Nguyễn Hoàng bắt đầu xây dựng giang sơn riêng cho họ Nguyễn ở Đàng Trong. Từ đó, mâu thuẫn giữa hai tập đoàn phong kiến Trịnh - Nguyễn ngày càng gay gắt hơn. Năm 1613, trước khi qua đời, Nguyễn Hoàng đã không quên dặn con Nguyễn Phúc Nguyên tâm nguyện của đời mình và cũng mở màn cho công cuộc cát cứ “đất Thuận Quảng phía Bắc có Hoành Sơn và Linh Giang, phía Nam có núi Hải Vân và Thạch Bì, địa thế hiểm trở, thật là một nơi để cho người anh hùng dụng võ. Nếu biết dạy bảo dân, luyện tập binh sĩ kháng cự lại họ Trịnh thì gây dựng được cơ nghiệp muôn đời” [dẫn theo 29, tr.296]. Nguyễn Phúc Nguyên (1613 - 1635) theo di huấn của cha xúc tiến mạnh hơn công cuộc cát cứ. Ông tiến hành cải tổ chính quyền, dần thoát khỏi lệ thuộc đối với chúa Trịnh; tiếp đó, là ngừng việc nộp thuế hàng năm cho triều đình trung ương. Chúa Nguyễn Phúc Nguyên đã xây dựng một chính quyền phong kiến biệt lập của riêng họ Nguyễn, chống lại triều đình của vua Lê chúa Trịnh. Như vậy, lợi dụng cơ hội hai phe Trịnh - Mạc giao tranh quyết liệt ngoài Bắc, họ Nguyễn từng bước gây dựng thế lực trong Nam; đến lúc nhà Mạc bị tiêu diệt thì cũng là lúc họ Nguyễn đã đủ mạnh để đối đầu với họ Trịnh. Lúc này, đất nước rơi vào tình trạng phân liệt mới: Đàng Trong - Đàng Ngoài. Một cuộc nội chiến mới bắt đầu. Trong gần nửa thế kỉ từ năm 1627 đến năm 1672, quân đội hai bên đã bảy lần đem quân đánh nhau tại khu vực Hà Tĩnh - Quảng Bình. Sau bảy lần giao chiến, không bên nào đủ sức tiêu diệt đối phương. Cuộc chiến hao người tốn của cuối cùng kết thúc bằng cách chia đôi đất nước Đàng Ngoài - Đàng Trong bằng giới tuyến sông Gianh. Sau một thời gian phục hồi, nữa cuối thế kỉ XVIII, chế độ phong kiến họ Trịnh và họ Nguyễn lâm vào con đường khủng hoảng, suy vong. Quan lại ăn chơi sa đọa, nhũng nhiễu, bóc lột nhân dân. Nội bộ triều đình diễn ra cảnh tranh giành quyền lực rối ren. Làng xóm tiêu điều. Nhân dân phiêu tán. Tiếng oán than tận trời xanh. Phong trào khởi nghĩa của nông dân nổ ra khắp nơi. Đàng Trong sau một thời gian trị vì của các chúa: Nguyễn Phúc Nguyên (1613 - 1635), Nguyễn Phúc Lan (1635 - 1648), Nguyễn Phúc Tần (1648 - 1687), Nguyễn Phúc Trăn (1687 - 1691), Nguyễn Phúc Chu (1691 - 1725), Nguyễn Phúc Chú (1725 - 1738), Nguyễn Phúc Khoát (1738 - 1765) chính trị ổn định, kinh tế phát triển, cư dân an cư lạc nghiệp, cương vực không ngừng mở rộng về phía Nam cho đến tận Hà Tiên. Nhưng kể từ năm 1765, triều đình phong kiến Đàng Trong dưới sự trị vì của Chúa Nguyễn Phúc Thuần bắt đầu suy yếu, mục nát. Quyền hành rơi vào tay quyền thần Trương Phúc Loan “tham tàn, bạo ngược, bán quan tước, hình phạt nặng nề” [14, tr.67]. Quan lại, quý tộc đua nhau ăn chơi, hưởng lạc đến cực độ, đục khoét nhân dân. Muôn dân lầm than, đói khổ. Mâu thuẫn xã hội vô cùng gay gắt. Ở Đàng Ngoài, chế độ phong kiến cũng lâm vào con đường suy vong, khủng hoảng. Giai cấp thống trị lao sâu vào con đường ăn chơi sa đọa, ra sức bót lột nhân dân bằng các chính sách thuế khóa nặng nề. Năm 1767, Trịnh Doanh chết. Trịnh Sâm nối ngôi. Trịnh Đệ âm mưu giết anh cướp ngôi. Năm 1769, Trịnh Sâm giết Thái tử Lê Duy vĩ. Thêm vào đó, việc phế con trưởng lập con thứ làm thế tử khiến mâu thuẫn nội bộ triều đình ngày càng rối ren. Năm 1782, Trịnh Sâm chết. Đặng Thị Huệ và Hoàng Đình Bảo lập Trịnh Cán làm chúa. Con trưởng Trịnh Khải dựa vào quân Tam phủ giết Hoàng Đình Bảo, phế truất Trịnh Cán và tự lên ngôi chúa. Cũng từ đó, “nạn kiêu binh” của quân Tam Phủ khiến nhân dân Đàng Ngoài oán hận. Bọn quan lại, địa chủ cường hào địa phương tăng cường đục khoét nhân dân. Khắp nơi, đồng ruộng bỏ hoang, làng xóm tiêu điều, dân phiêu tán, đói khổ. Trước khi Tây Sơn kéo quân ra Bắc, khởi nghĩa nông dân Đàng Ngoài đã nổ ra khắp nơi vào các năm 1778, 1779, 1785… Năm 1771, ba anh em họ Nguyễn triệu tập nhân dân nổi dậy khởi nghĩa ở ấp Tây Sơn. Cuộc khởi nghĩa nông dân vĩ đại đã lần lượt tiêu diệt tập đoàn phong kiến chúa Nguyễn ở Đàng Trong (1777), lật đổ chính quyền phong kiến thối nát chúa Trịnh - vua Lê (1787); đồng thời đánh bại âm mưu can thiệp xâm lược của phong kiến Xiêm và Mãn Thanh, xóa bỏ sự chia cắt đất nước. Vương triều Tây Sơn thành lập. Quang Trung - Nguyễn Huệ có vai trò to lớn với những chủ trương cải cách xã hội tiến bộ; nhưng Quang Trung mất sớm (1792). Quang Toản nối ngôi cha khi còn ít tuổi. Nội bộ Tây Sơn vốn có nhiều bất hòa nay càng lục đục trầm trọng, không đủ sức chống cự trước lực lượng hùng hậu của Nguyễn Ánh - hậu duệ của các chúa Nguyễn đang ra sức khôi phục cơ đồ của tổ tiên. Sau khi đánh bại triều Tây Sơn, Nguyễn Ánh lên ngôi vua vào năm 1802, lấy niên hiệu là Gia Long, thiết lập vương triều Nguyễn. Đây cũng là triều đại cuối cùng trong lịch sử chế độ phong kiến của Việt Nam. Triều Nguyễn giành lại địa vị cai trị của mình trên một quốc gia thống nhất với lãnh thổ rộng lớn từ Bắc đến Nam, từ ải Nam Quan cho đến mũi Cà Mau. Dưới thời Gia Long, quốc hiệu nước ta thay đổi từ Việt Nam (1804) đến Đại Việt (1812), về sau Minh Mạng đổi tên thành Đại Nam (1838). Triều Nguyễn đóng đô ở Huế, đổi tên Thăng Long thành Hà Nội. Các vị vua triều Nguyễn đã thi hành nhiều biện pháp để khôi phục và phát triển đất nước trong một thời gian dài trước khi đối diện với thảm họa dân tộc mới - sự xâm lược và đô hộ của thực dân Pháp. Trải qua nhiều giai đoạn, tuy có lúc rơi vào khủng hoảng nhưng nhìn chung, quốc gia Đại Việt đã từng bước phát triển vững mạnh và đạt được nhiều thành tựu trên tất cả các lĩnh vực. Về chính trị: các vương triều Đại Việt đã thiết lập bộ máy nhà nước trung ương tập quyền cao độ. Hệ thống bộ máy nhà nước ngày càng hoàn chỉnh, thể hiện qua sự quản lí chặt chẽ từ trung ương đến địa phương. Quân đội được xây dựng chính quy, vững mạnh, đáp ứng được yêu cầu phòng thủ, bảo vệ đất nước. Hệ thống luật pháp Đại Việt ngày càng hoàn thiện. Thời Đinh - Tiền Lê chưa có luật thành văn. Nhà nước quản lí xã hội bằng hình pháp vô cùng khắc nghiệt. Nhà Lý là triều đại đầu tiên mở đầu cho thời kì pháp luật thành văn và đưa pháp luật vào từng khía cạnh của cuộc sống. Năm 1042, Lý Thái Tông cho ban hành Hình thư. Đến thời Trần, hệ thống luật pháp có bước phát triển mới. Pháp chế được tăng cường nhưng vẫn lồng vào đó tinh thần nhân ái. Năm 1230, vua Trần Thái Tôn cho soạn thảo bộ Quốc triều hình luật. Năm 1341, vua Trần Dụ Tông lại cho biên soạn Hình thư. Đến thời Lê sơ, luật pháp ngày càng hoàn chỉnh nhờ tăng cường những điều luật mới. Dựa trên cơ sở tham khảo hệ thống pháp luật thời Lý - Trần cùng những điều lệ đã ban hành trước đó, năm 1483, bộ Luật Hồng Đức ra đời. Đây được xem là bộ luật hoàn chỉnh nhất, tiến bộ nhất của phong kiến Đại Việt và cũng biểu hiện rõ nét nhất tính chất giai cấp và quyền lực của nhà nước đối với nhân dân. Đến thời Nguyễn, vua Gia Long cho biên soạn bộ luật của triều Nguyễn lấy tên là “Hoàng triều luật lệ” hay còn gọi là luật Gia Long. Việc ban hành bộ luật đã góp phần đáng kể vào việc ổn định xã hội, ứng phó với những chuyển biến kinh tế, xã hội và những rối loạn trong nước. Về kinh tế: Đại Việt đã xây dựng được một nền kinh tế tự chủ, không chỉ đáp ứng nhu cầu nội lực trong nước mà còn tiến hành thiết lập quan hệ với các nước. Kinh tế vững mạnh góp phần củng cố nền độc lập và thống nhất đất nước. Nông nghiệp vẫn giữ vai trò chủ đạo. Nhiều chính sách khai hoang tích cực được các triều Đại Việt nối tiếp nhau thực hiện. Bên cạnh đó, thủ công nghiệp ngày càng phát triển mạnh về quy mô, chất lượng… Nhiều ngành giữ vai trò quan trọng trong nền kinh tế (khai mỏ, chế tạo vũ khí…). Kinh tế hàng hóa, nội thương và ngoại thương phát đạt. Việc giao lưu, buôn bán với các nước trong và ngoài khu vực diễn ra tấp nập. Về văn hóa: quốc gia Đại Việt đã xây dựng được cho mình nền văn hóa đậm đà bản sắc dân tộc. Bên cạnh việc phát huy những nét văn hóa truyền thống, cư dân Đại Việt còn tiếp thu và biến đổi nhiều yếu tố văn hóa từ bên ngoài làm phong phú thêm nền văn hóa Việt. Tuy vậy, trong quá trình xây dựng, bảo vệ và phát triển đất nước, các triều Đại Việt đứng trước nhiều khó khăn và thách thức: đó là nạn nội phản và ngoại xâm luôn đe dọa đến an ninh, chủ quyền dân tộc. Đó là tình trạng cát cứ ở các vùng miền núi phía Bắc, ở các vùng dân tộc thiểu số; là tình trạng nội chiến, tranh giành quyền lực giữa các tập đoàn phong kiến; nhưng quan trọng hơn cả là nguy cơ bị ngoại xâm từ phong kiến phương Bắc và các quốc gia láng giềng luôn nuôi mộng mở rộng lãnh thổ như Champa, Chân Lạp… Việc đảm bảo an ninh quốc phòng, giữ gìn nền độc lập dân tộc, giữ vững chủ quyền quốc gia trở thành mục tiêu lớn nhất cho bất kì triều đại nào kế vị. Trong buổi đầu xây dựng nền độc lập, các triều đại Ngô - Đinh - Tiền Lê - Lý - Trần thường xuyên đối phó với những cuộc nổi dậy cát cứ của các tù trưởng vùng núi phía Bắc. Quốc gia Đại Việt thế kỉ X tuy bao gồm Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ nhưng thực chất, khu vực kiểm soát của chính quyền trung ương không bao quát hết như vậy vì các khu vực miền núi vẫn thuộc quyền kiểm soát của các tù trưởng ít người. Để tăng cường kiểm soát, chính quyền trung ương đã dùng biện pháp quân sự kết hợp với biện pháp chính trị. Kế sách của các triều đại là mua chuộc, lấy lòng các thủ lĩnh địa phương, nhất là các tù trưởng vùng cao. Một trong những biện pháp thường được sử dụng là dùng quan hệ hôn nhân. Các vua thường gả các công chúa cho các tù trưởng và cũng lập nhiều hoàng hậu. Bên cạnh đó, trong suốt tiến trình xây dựng và phát triển, Đại Việt luôn phải đối với những cuộc chiến tranh xâm lược của các triều đại phong kiến Trung Hoa và của các quốc gia láng giềng. Mặc dù Đại Việt đã giành lại độc lập, nhưng các triều đại phương Bắc không lúc nào từ bỏ ý đồ xâm chiếm Đại Việt nhằm mục đích làm bàn đạp tấn công toàn vùng Đông Nam Á. Chính quyền phong kiến Trung Hoa luôn tìm mọi cơ hội xua quân tấn công vào lãnh thổ Đại Việt. Biên giới phía Bắc luôn trở thành ghánh nặng và mối đe dọa thường trực mà các triều Đại Việt luôn phải phòng chống kĩ càng. Dưới thời Ngô - Đinh - Tiền Lê, chỉ trong hơn 70 năm, Đại Việt trải qua nhiều biến động lớn lao. Bên cạnh việc các hào trưởng địa phương nổi lên đánh chiếm nhiều nơi, phá hoại nền thống nhất đất nước, chống lại chính quyền trung ương, quân dân Đại Việt phải hai lần chống quân Tống vào năm 980 và năm 1075 - 1077. Tiếp đó, dưới thời Trần, Đại Việt phải ba lần huy động quân dân cả nước đứng lên chống quân xâm lược Mông Nguyên vào các năm 1258, 1285, 1287 - 1288. Dù bị thất bại thảm hại trong các lần xua quân xâm chiếm Đại Việt nhưng không vì thế mà Trung Hoa từ bỏ mưu đồ của mình. Mọi sơ hở, mọi sự suy yếu từ nội bộ chính quyền phong kiến Đại Việt luôn trở thành thời cơ thuận lợi để phong kiến phương Bắc đem quân vào lãnh thổ nước ta. Nhân dân Đại Việt phải tiếp tục chống quân Minh, quân Thanh ở thế kỉ XV và XVIII. Đồng thời, từ thế kỉ X trở đi, sự lớn mạnh và mưu đồ mở rộng lãnh thổ, xưng bá quyền của hai quốc gia láng giềng Champa và Chân Lạp cũng là nhân tố đe dọa nền độc lập chủ quyền của Đại Việt. Từ thế kỉ X, Champa và sau đó là Chân Lạp đã nhiều lần đem quân xâm chiếm Đại Việt, gây nhiều bất ổn ở vùng biên giới phía Nam. Đứng trước thách thức ngoại xâm từ hai phía Bắc và Nam, các vương triều Đại Việt đã chứng tỏ sự khôn khéo trong hoạt động quản lí đất nước của mình. Đại Việt ngày càng lớn mạnh. Lãnh thổ ngày càng mở rộng. Vị trí ngày càng được nâng cao trong khu vực. Để giữ vững an ninh quốc gia, bảo vệ chủ quyền dân tộc, bên cạnh việc ra sức xây dựng nội lực về mọi mặt, Đại Việt cần thiết lập mối quan hệ giao hảo tốt đẹp với Trung Hoa và các nước láng giềng trong khu vực Đông Nam Á trong đó có Chân Lạp. Đây là một nhân tố quan trọng giúp Đại Việt có thể tồn tại lâu dài. Mối quan hệ ấy được thiết lập trên nhiều mặt như: chính trị,._.X, tình hình quốc tế trong khu vực có nhiều biến động lớn. Xứ Đàng Trong bắt đầu có chung biên giới với Chân Lạp. Đây cũng là giai đoạn quan hệ của Đại Việt với Chân Lạp diễn ra thường xuyên hơn, có sự gắn bó chặt chẽ hơn. Diễn biến của mối quan hệ này liên quan mật thiết đến mối quan hệ tay ba Đại Việt - Xiêm La - Chân Lạp. Do chính sách thống trị, bành trướng của vương quốc Xiêm và yêu cầu của phái chống Xiêm trong hoàng tộc Chân Lạp, Đại Việt bắt đầu chú trọng nhiều hơn đến vấn đề Chân Lạp trong hoạt động đối ngoại của mình. Các triều đại Đại Việt nối tiếp nhau thi hành chính sách đối ngoại tích cực, thiết lập mối liên minh tốt đẹp với Chân Lạp chống lại chủ nghĩa “Đại Thái” của phong kiến Xiêm La. Bên cạnh đó, Đại Việt cũng không ngừng khẳng định vị trí, tầm ảnh hưởng của mình trên vùng đất Chân Lạp. Khi đánh giá về quan hệ ngoại giao của Đại Việt với Chân Lạp trong thế kỉ XIX, phần lớn giới nghiên cứu cho rằng: triều Nguyễn đã thi hành chính sách ngoại giao phản động, xâm lược đối với Chân Lạp. Theo Giáo sư Trần Văn Giàu: “đối với các nước láng giềng nhỏ thì triều đình Huế lại thực hiện một chính sách xâm lược” [19, tr.100] và “chính sách ngoại giao đó đã làm cho sự xích mích ngày càng sâu sắc giữa các nước láng giềng Việt - Miên - Xiêm” [19, tr.118]. Một nhận định khác thì cho rằng, “triều Nguyễn đối với các nước láng giềng khác như Xiêm, Lào, Miên thì tỏ thái độ đe dọa, khinh miệt hoặc tranh chấp” [58, tr.193]. Theo tôi, từ thế kỉ XVII đến thế kỉ XIX, trong quan hệ với Chân Lạp, các vương triều Đại Việt đã thực thi một đường lối đối ngoại khá hợp lí. Đại Việt gây ảnh hưởng và sử dụng phương pháp “bảo hộ” trên đất Chân Lạp suy cho cùng nhằm thực hiện chiến lược phòng thủ biên giới Tây Nam nói riêng và bảo vệ an ninh, chủ quyền lãnh thổ nói chung. Bởi nếu an ninh của Chân Lạp bất ổn thì chủ quyền Đại Việt cũng sẽ gặp nguy hiểm. Muốn giữ vững độc lập, chủ quyền và an ninh quốc gia, Đại Việt phải chọn phương pháp bảo hộ Chân Lạp. Các quốc gia hiện đại đều có quá trình lịch sử đầy biến động, có sự phân li, có sự hội tụ. Không ít tiểu quốc, vương quốc, tộc người đã hòa tan vào cộng đồng quốc gia này hoặc quốc gia khác. Lãnh thổ quốc gia cũng có sự mở rộng và thu hẹp theo thời gian. Mối quan hệ của Đại Việt với Chân Lạp đã tạo nên nhiều thay đổi về phạm vi lãnh thổ. Đại Việt mở rộng lãnh thổ đồng thời với việc thu hẹp Chân Lạp. Việc tự nguyện cắt đất dâng tặng để tìm chỗ dựa vững vàng là một trong những đối sách hàng đầu của chính quyền phong kiến Chân Lạp. Sự chuyển giao chủ quyền vùng đất Thủy Chân Lạp cho Đại Việt phần lớn diễn ra trong hòa bình, được sự chấp thuận của các vương triều Chân Lạp. Đó là kết quả của chính sách ngoại giao khôn khéo về phía Đại Việt, đồng thời là biểu hiện sự suy yếu, khủng hoảng của Chân Lạp. Các triều đại Đại Việt có đường lối đối ngoại hợp lí nhằm đảm bảo quan hệ hòa hiếu lâu dài với Xiêm - một quốc gia gần gũi với Đại Việt về nhiều mặt. Nhìn chung, Đại Việt đã áp dụng một cách khéo léo phương châm “không bỏ bạn tìm thù” trong vấn đề Chân Lạp. Trong quan hệ với Xiêm, Đại Việt thường đặt vấn đề ngoại giao lên hàng đầu. Có những tình huống buộc triều đình Đại Việt phải áp dụng biện pháp quân sự; nhưng về cơ bản, Đại Việt đã thực hiện quan hệ ngoại giao hòa hiếu với Xiêm. Tuy nhiên, có lúc Đại Việt không duy trì mối quan hệ hòa hiếu một cách trọn vẹn. Cuộc chiến giữa Đại Việt và Xiêm La dưới thời Nguyễn là một bằng chứng về sự xung đột giữa các quốc gia phong kiến thời kì này. Bên cạnh chính sách và hoạt động ngoại giao của chính quyền phong kiến, quan hệ của nhân dân Đại Việt và Chân Lạp là sự hòa hợp tự nguyện trên các lĩnh vực kinh tế - văn hóa - xã hội. Chiến tranh, sự bóc lột, vơ vét… của chính quyền phong kiến hai quốc gia đã vô hình chung đẩy hai cộng đồng cư dân Việt - Khơme cùng gặp nhau trên vùng đất mới là Nam Bộ ngày nay. Dù có sự khác biệt về dân tộc, ngôn ngữ, văn hóa và thời gian có mặt tại vùng đất này là khác nhau nhưng trong quá trình cộng cư, giữa họ không có sự xung đột, mà là quá trình gắn bó, chung sức khai phá, chung sống hòa bình, tiếp thu và tiếp biến những nét văn hóa tích cực của nhau để cùng xây dựng một cộng đồng vững mạnh. Quan hệ với Chân Lạp trong lịch sử đã để lại cho hôm nay nhiều bài học quý báu. Với lịch sử dựng nước hàng nghìn năm, Đại Việt là một nước phát triển trong quan hệ với những nước láng giềng tuy lớn nhỏ và mạnh yếu khác nhau nhưng đều có tham vọng về lãnh thổ. Phía bắc là đế chế Trung Hoa hùng mạnh và bành trướng. Phía Nam và Tây Nam là Champa, Chân Lạp tuy nhỏ hơn nhưng thường xuyên gây chiến tranh xâm lấn. Với bối cảnh địa lí - chính trị như thế, trong quan hệ đối ngoại, Đại Việt ưu tiên hàng đầu cho quan hệ với các nước láng giềng, các nước trong khu vực theo tinh thần “bán anh em xa, mua láng giềng gần”. Các sự kiện lịch sử đã cho thấy đường lối đối ngoại nhất quán của Đại Việt với Chân Lạp là giữ vững độc lập, chủ quyền, sống hòa mục, thân thiện, tránh xung đột. Đại Việt kiên trì ngoại giao hòa bình và kiên quyết phản đối ngoại giao phục vụ chiến tranh xâm lược, sẵn sàng giáng trả những đòn đích đáng đối với các đạo quân xâm lược của Chân Lạp. Đây là điểm khác biệt lớn giữa Đại Việt và Chân Lạp. Chính sách đối ngoại hòa bình của Đại Việt khác hẳn chính sách đối ngoại của các nước láng giềng thời bấy giờ. Các nước láng giềng dù lớn hay nhỏ đều có tham vọng bành trướng lãnh thổ, tranh giành ảnh hưởng. Chiến tranh giữa Đại Việt với Trung Hoa, Chân Lạp, Champa về phía Đại Việt đều là sự kháng cự tích cực mang tính chất tự vệ. Đại Việt đã khôn khéo trong quan hệ với Chân Lạp. Sự thắng thế của Đại Việt trước Chân Lạp - một quốc gia từng là nỗi “ám ảnh cho các nước khu vực Đông Nam Á giai đoạn thế kỉ X - XIV” - có nguyên nhân một phần do chính sách đối ngoại của Đại Việt là biết người - biết ta, nhu - cương đúng lúc, dùng “đoản binh” thắng “trường trận”. Trong khi đó, bi kịch của vương quốc Chân Lạp là đã dốc toàn bộ tài lực, nhân lực, vật lực của quốc gia vào chiến tranh xâm lược và các các công trình kiến trúc đồ sộ nhằm thể hiện tham vọng và sức mạnh, dẫn đến sự suy yếu từ thế kỉ XIV, một sự suy yếu không thể hồi phục được. Từ thế kỉ XV trở về sau, trong nội bộ hoàng tộc Chân Lạp liên tiếp xảy ra tình trạng xung đột, chia rẽ, tranh giành, đổ máu. Đại Việt và Xiêm La là hai quốc gia thường được các phe phái trong hoàng tộc Chân Lạp chọn làm chỗ dựa. Điều này đã làm cho vương quốc tự suy yếu. Đây cũng chính là nguyên nhân quan trọng dẫn đến việc phần đất Thủy Chân Lạp được sáp nhập vào Đại Việt, và trong nhiều thế kỉ, Chân Lạp trở thành vùng đất tranh chấp của hai thế lực Việt - Xiêm. Cùng với quá trình phát triển của quốc gia, các vương triều Đại Việt đã thực thi đường lối đối ngoại phù hợp với từng đối tượng trong từng hoàn cảnh lịch sử cụ thể. Với Trung Hoa lớn mạnh ở phía Bắc, Đại Việt thực hiện chính sách mềm dẻo, nhún nhường, có điều kiện và kiên quyết. Với Chân Lạp, Đại Việt thực thi chính sách ngoại giao linh hoạt, từng bước thay đổi sách lược theo điều kiện lịch sử, luôn kết hợp với xây dựng nội lực quốc gia. Đây là điểm khác biệt, là lí do chính khiến Đại Việt từ chỗ chỉ lo đối phó với các cuộc tấn công của Chân Lạp đi đến trở thành thế lực có vai trò to lớn trên lãnh thổ Chân Lạp. Đại Việt luôn quan tâm đến việc củng cố nền thống nhất quốc gia, tăng cường quyền lực của chính quyền trung ương trên mọi miền đất nước, có những chính sách lôi kéo các tù trưởng ở vùng biên cương. Chính sách đối nội, đối ngoại hợp lí đó đã tăng cường sức mạnh của chính quyền và tiềm lực quốc phòng, củng cố khối đại đoàn kết toàn dân, góp phần chiến thắng kẻ thù, bảo vệ độc lập tổ quốc và mở rộng lãnh thổ quốc gia. Trong khi đó, các nhà lãnh đạo Chân Lạp nhìn chung không có đối sách hợp lí trong quan hệ với các quốc gia lân cận nói chung và Đại Việt nói riêng. Đây cũng là một nhân tố quyết định đến vận mệnh của Chân Lạp. Trong mười bốn thế kỉ đầu (X - XIV), giai đoạn thịnh trị, sung sức của Chân Lạp, các vua Chân Lạp đã tập trung dành quá nhiều nguồn lực của quốc gia cho chiến tranh và tôn giáo. Những cuộc chiến tranh liên miên và tàn khốc, những công trình xây dựng đền đài và chùa chiền vô cùng tốn kém đẩy đất nước và dân tộc Khơme nhanh chóng đi đến kiệt quệ và không còn sức đương đầu với kẻ thù xâm lược Xiêm. Tầng lớp quý tộc Chân Lạp nhiều lần liên tiếp, điên cuồng đẩy cả cộng đồng mình lao vào vòng xoáy của các cuộc chiến tranh khốc liệt với các nuớc, trong đó có Đại Việt. Những hành động này là quá sức, vượt qua khỏi tiềm lực quốc gia của Chân Lạp. Bên cạnh những cuộc chiến tranh chinh phạt hao người, tốn của, những cuộc tấn công xâm lược của ngoại bang, đặc biệt là người Chăm và người Thái đã gây nên những cuộc tàn phá ghê gớm đất nước chùa tháp này. Trong chiến tranh, quân đội đóng vai trò quyết định đến sự thành - bại. Đại Việt tuy không có đội quân thiện chiến, thường trực đông đảo như Chân Lạp. Nhưng khi cần, nhà nước Đại Việt vẫn có thể huy động sức mạnh của cả toàn dân. Có được điều này, bên cạnh áp dụng đúng đắn chính sách “ngụ binh ư nông” còn do Đại Việt đã biết phát huy được sức mạnh toàn dân trong công cuộc xây dựng, bảo vệ và phát triển đất nước. “Khoan thư sức dân” là thượng sách giữ nước của Đại Việt. Họ không vét cạn sức lực của dân để xây dựng những công trình vĩ đại, họ cũng không huy động toàn dân vào những cuộc chiến tranh liên miên để thỏa mãn bản chất “hiếu chiến” như các vị vua Chân Lạp. Đại Việt không có các vị vua ham mê chiến trận. Đại Việt và Chân Lạp là hai quốc gia có chung đường biên giới dài và đã thiết lập mối quan hệ bang giao từ rất sớm. Có thể nói, bài học lớn nhất và mãi còn nguyên giá trị ở bất kì thời đại nào trong quan hệ với Chân Lạp đó là phải tuyệt đối tránh xung đột, tránh chiến tranh, luôn chủ trương quan hệ hòa hiếu thân thiện, giúp đỡ nhau cùng phát triển. Suốt chiều dài lịch sử dựng nước và giữ nước, cả hai quốc gia đã tạo dựng được mối liên minh tốt đẹp, tạo mối đoàn kết gắn bó, chung vai sát cánh cùng chống phong kiến, thực dân cả về phía chính quyền và nhân dân. Hai nước đã là đồng minh trong cuộc chiến đấu chống ý đồ bành trướng xuống Đông Nam Á của các hoàng đế Trung Hoa, chống âm mưu bá quyền của phong kiến Xiêm La, chống chủ nghĩa thực dân Pháp, Mỹ, chống các thế lực thù địch chống phá cách mạng… Ngày nay, bên cạnh mối quan hệ láng giềng tốt đẹp, quan hệ hai nước thực chất vẫn còn ngầm chứa nhiều vướng mắc, căng thẳng về “vấn đề đường biên giới”. Giải quyết ổn thỏa “vướng mắc” trên mà không làm ảnh hưởng đến tình hữu nghị lâu đời giữa hai nước là một bài toán nan giải, là thách thức đối với các nhà lãnh đạo nước ta. Từ những thực tế lịch sử trong quan hệ hai nước, các nhà lãnh đạo đối ngoại của nước ta cần phải khéo léo, linh hoạt, thậm chí nhân nhượng, nhún nhường (trong phạm vi có thể) trong việc giải quyết xung đột. Chúng ta cần biết chấp nhận hi sinh “lợi ích nhỏ” để bảo vệ “lợi ích lớn” hơn. Cụ thể, trong việc hoạch định lại đường biên giới giữa hai nước, chúng ta nhân nhượng, chấp nhận một vài điểm mốc đường biên giới hai nước lùi sâu vào lãnh thổ của mình. Làm được điều này, một mặt chúng ta thể hiện rõ thiện chí hòa bình, thân thiện, muốn duy trì tình hòa hiếu, đoàn kết bền vững của hai nước; mặt khác, nó có thể tránh những xung đột không cần thiết làm ảnh hưởng đến chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của quốc gia. Trong thời gian qua, có nhiều thế lực phản động muốn “đòi” lại vùng đất Nam Bộ và xúi giục người Khơme li khai, thành lập nhà nước riêng. Đây là những đòi hỏi vô lí và đi ngược lại tình cảm, ý muốn của toàn bộ dân tộc Việt Nam nói chung và người Khơme nói riêng. Vì trên thực tế, tính pháp lí về chủ quyền của Đại Việt trên vùng đất Nam Bộ cũng được luật pháp quốc tế công nhận. Nhiều văn bản pháp lí được kí kết vào năm 1845, 1863, 1873, 1896, 1949… giữa các nước Việt Nam, Xiêm, Campuchia, Pháp đều mặc nhiên thừa nhận Nam Bộ là của Việt Nam. Như vậy, quá trình sáp nhập vùng Thủy Chân Lạp vào Đại Việt là một thực tế lịch sử. Không ai có thể quay ngược bánh xe lịch sử để thực hiện điều đó. Đối với vấn đề “người Khơme”, trải qua bốn thế kỉ, người Khơme thật sự đã trở thành một bộ phận không thể tách rời của cộng đồng dân tộc, của đất nước Việt Nam. Họ đã cùng chung lưng đấu cật với nhiều bộ phận cư dân khác khai phá vùng Nam Bộ, cùng chiến đấu chống nhiều kẻ thù xâm lược. Họ cùng hòa hơi thở, máu và nước mắt của mình trong sự nghiệp bảo vệ độc lập, chủ quyền của tổ quốc Đại Việt. Vì vậy, không ai có quyền tách họ khỏi cộng đồng dân tộc Việt. Đảng và nhà nước ta luôn chú trọng thực thi chính sách bình đẳng giữa các dân tộc, quan tâm cải thiện đời sống vật chất và tinh thần, có nhiều chính sách, giải pháp cụ thể để phát triển vùng dân tộc ở Nam Bộ. Ngày 18 tháng 4 năm 1991, ban Bí thư Trung ương Đảng đã ban hành chỉ thị số 68/CT-TW “Về công tác ở vùng đồng bào dân tộc Khơme” nhằm phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội và an ninh chính trị ở các tỉnh có đồng bào Khơme sinh sống. Chỉ thị là một trong số nhiều giải pháp của Đảng và nhà nước đã đáp ứng được nguyện vọng chính đáng, tạo nên những chuyển biến tích cực về mọi mặt đối với đồng bào dân tộc Khơme. Trong lịch sử, quan hệ của Đại Việt với Chân Lạp đã xảy ra nhiều thăng trầm. Những bài học trong lịch sử quan hệ của hai nước sẽ được giới cầm quyền hiện tại phát huy và rút kinh nghiệm để Đại Việt xưa - Việt Nam nay và Chân Lạp xưa - Campuchia ngày nay sẽ mãi là những nước láng giềng thân thiện, giúp đỡ nhau cùng tiến bộ và phát triển; vì một nền hòa bình và an ninh khu vực nói riêng và thế giới nói chung. Bảng tóm tắt 1. Bối cảnh lịch sử chính trị - xã hội của Đại Việt và Chân Lạp 2. Những ảnh hưởng trong quan hệ “nước lớn - nước nhỏ” với Trung Hoa, cách “hành xử khôn khéo, linh hoạt, hiệu quả” trong quan hệ với Champa 3. Mối quan hệ giữa Champa - Chân Lạp thế kỉ X – XV 4. Xu hướng mở rộng cương vực về phía Nam của các vương triều phong kiến Đại Việt 5. Cuộc di dân của người Việt trong và sau cuộc hôn nhân giữa vua Chey Chettha II và – Năm 722, quân dân Chân Lạp phối hợp với quân Mai Thúc Loan chống phong kiến nhà Đường. – Năm 1128 - 1150, Chân Lạp nhiều lần đem quân xâm lấn vùng biên giới Nghệ An của Đại Việt. – Năm 1620, chúa Nguyễn Phúc Nguyên gả công nương Ngọc Vạn cho vua Chân Lạp là Chey Chettha II. – Năm 1674, chúa Nguyễn đem quân giúp Nặc Ông Nộn đánh Nặc Ông Đài – Năm 1689, Nặc Thu dựa vào Xiêm chống lại Đại Việt  chúa Nguyễn Phúc Trăn đem quân đánh, bắt thần phục như cũ. – Năm 1705, chúa Nguyễn Phúc Chu giúp Nặc Yêm chống Nặc Thâm. – Năm 1731, chúa Nguyễn Phúc Chú đem quân sang Chân Lạp đánh loạn Sá Tốt, bảo vệ lưu dân người Việt. – Năm 1736, Nặc Tha xin chúa Nguyễn phong làm vua Chân Lạp – Năm 1753, chúa Nguyễn giúp người Côn Man chống lại sự đàn áp của phong kiến Chân Lạp. – Năm 1757, nội bộ Chân Lạp xảy ra xung đột quyền lực và có sự can thiệp của Xiêm. Chúa Nguyễn giúp đưa Nặc Tôn lên – Thi hành chính sách đối ngoại rộng mở, đa phương; chú trọng mối quan hệ với các nước láng giềng có chung biên giới. – Kiên trì đường lối ngoại giao hòa bình, thân thiện; tuyệt đối tránh xung đột, chiến tranh. – Sử dụng nhiều phương pháp đối ngoại khéo léo, linh hoạt, kết hợp “nhu - cương” phù hợp với từng đối tượng, hoàn cảnh lịch sử cụ thể. – Chú trọng xây dựng, phát triển nội lực đất công nương Ngọc Vạn 6. Bối cảnh khu vực Đông Nam Á từ thế kỉ XVII trở đi, đặc biệt là sự hình thành, phát triển và chính sách đối ngoại bành trướng của phong kiến Xiêm La ngôi và giúp nhiều tiền của để khôi phục đất nước. – Năm 1772, Chúa Nguyễn Phúc Thuần cử binh giúp Chân Lạp chống Xiêm  quân Đại Việt đóng ở Nam Vang. – Năm 1779, lập Nặc Ấn lên ngôi và lưu Hồ Văn Lân ở lại bảo hộ. – Năm 1807, Gia Long sắc phong và quy định lệ cống cho Chân Lạp. – Năm 1812, giúp Chân Lạp xây thành Nam Vang, Lô Yêm phòng thủ. – Năm 1833, loạn Lê Văn Khôi. Đại Việt phối hợp với Chân Lạp chống Xiêm. – Năm 1834 - 1847, nhà Nguyễn trực tiếp bảo hộ Chân Lạp. nước, đặc biệt là quân đội; tăng cường tiềm lực quốc phòng. – Có chính sách, biện pháp thu phục nhân tâm, đoàn kết, huy động sức dân chống ngoại xâm, bảo vệ độc lập dân tộc.  Đây là những yếu tố là cơ sở của quan hệ Đại Việt với Chân Lạp trước thế kỉ XX. Những yếu tố cơ sở này đã tác động, chi phối trực tiếp và gián tiếp mối quan hệ trên.  Đây là những sự kiện tiêu biểu nhất của mối quan hệ Đại Việt với Chân Lạp trước thế kỉ XX. Tính chất mối quan hệ này thay đổi theo từng giai đoạn nhưng nhìn chung là hòa hiếu, tốt đẹp, giúp đỡ lẫn nhau.  Đây là những bài học mang ý nghĩa thực tiễn sâu sắc được đúc kết từ lịch sử mối quan hệ của Đại Việt với Chân Lạp. TÀI LIỆU THAM KHẢO CHÍNH I. Sách 1. Đào Duy Anh (1994), Đất nước Việt Nam qua các đời, NXB Thuận Hóa, Huế. 2. Đào Duy Anh (2002), Lịch sử Việt Nam từ nguồn gốc đến thế kỉ XIX, NXB Văn hóa Thông tin, Hà Nội. 3. Nguyễn Thế Anh (1971), Kinh tế và xã hội Việt Nam dưới thời các vua triều Nguyễn, NXB Lửa Thiêng, Sài Gòn. 4. Đỗ Bang (1997), Kinh tế thương nghiệp Việt Nam dưới triều Nguyễn, NXB Thuận Hóa, Huế. 5. Nguyễn Công Bình, Lê Xuân Diệm, Mạc Đường (1990), Văn hóa và cư dân đồng bằng sông Cửu Long, NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội. 6. Trần Bá Chí (2003), Cuộc kháng chiến chống Tống, NXB Quân đội Nhân dân, Hà Nội. 7. Phan Huy Chú (1974), Lịch triều hiến chương loại chí, Bộ Văn hóa Giáo Dục và Thanh Niên xuất bản, Hà Nội. 8. Cristophoro Borri (1998), Xứ Đàng Trong năm 1621, NXB TP. Hồ Chí Minh, TP. Hồ Chí Minh. 9. Quỳnh Cư - Đỗ Đức Hùng (1995), Các triều đại Việt Nam, NXB Thanh Niên, TP. Hồ Chí Minh. 10. Đinh Thị Dung (2001), Quan hệ ngoại giao của Việt Nam nửa đầu thế kỉ XIX, Luận án Tiến sĩ Lịch sử, TP. Hồ Chí Minh. 11. Nguyễn Đình Đầu (1994), Nghiên cứu địa bạ triều Nguyễn - Gia Định, NXB TP. Hồ Chí Minh, TP. Hồ Chí Minh. 12. Nguyễn Đình Đầu (1994), Tổng kết địa bạ triều Nguyễn - Nam kỳ Lục tỉnh, NXB TP. Hồ Chí Minh, TP. Hồ Chí Minh. 13. Trần Bá Đệ (chủ biên) (2002), Một số chuyên đề lịch sử Việt Nam, NXB Đại học Quốc Gia TP. Hồ Chí Minh, TP. Hồ Chí Minh. 14. Lê Quý Đôn (1997), Phủ biên tạp lục, NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội. 15. Lê Quý Đôn (1962), Vân Đài Loại Ngữ, NXB Văn Hóa, Hà Nội. 16. Trịnh Hoài Đức (1998), Gia Định thành thông chí, (bản dịch của Đỗ Mộng Khương, Nguyễn Ngọc Tỉnh), NXB Giáo Dục, Hà Nội. 17. Trần Văn Giàu (chủ biên) (1987), Địa chí văn hóa thành phố Hồ Chí Minh, NXB TP. Hồ Chí Minh, TP. Hồ Chí Minh. 18. Trần Văn Giàu (2002), Địa chí văn hóa thành phố Hồ Chí Minh - tập 1, NXB Tp. Hồ Chí Minh, TP. Hồ Chí Minh. 19. Trần Văn Giàu (1958), Sự khủng hoảng của chế độ phong kiến nhà Nguyễn trước 1958, NXB Văn hóa cục xuất bản bộ Văn hóa, Huế. 20. D. G. E. Hall (1997), Lịch sử Đông Nam Á, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội. 21. Hoàng Xuân Hãn (1995), Lý thường Kiệt, NXB Văn học, Hà Nội. 22. Nguyễn Văn Hầu (1999), Thoại Ngọc Hầu và những cuộc khai phá miền Hậu Giang, NXB Trẻ, TP. Hồ Chí Minh. 23. Nguyễn Hữu Hiếu (2002), Chúa Nguyễn và các giai thoại mở đất phương Nam, NXB Trẻ, TP. Hồ Chí Minh. 24. Hội sử học Hà Nội (2005), Bối cảnh định đô Thăng Long và sự nghiệp của Lê Hoàn, NXB Hà Nội. 25. Hội Khoa học Lịch Sử Việt Nam (2009), Một số vấn đề lịch sử vùng đất Nam Bộ đến cuối thế kỉ XIX, NXB Thế giới, Hà Nội. 26. Hội Khoa học Lịch Sử Việt Nam (2009), Một số vấn đề lịch sử vùng đất Nam Bộ thời kì cận đại, NXB Thế giới, Hà Nội. 27. Lê Hương (1970), Sử Cao Miên, NXB Khai Trí, Sài Gòn. 28. Lê Hương (1979), Người Việt gốc Miên, NXB Khai Trí, Sài Gòn. 29. Phan Khoang (1966), Việt sử sứ Đàng Trong 1557 - 1777 - Cuộc Nam tiến của dân tộc Việt Nam, NXB Sài Gòn, Sài Gòn. 30. Phan Khoang (2001), Việt sử Xứ Đàng Trong, NXB Văn học, Hà Nội. 31. Khuyết danh (1993), Đại Việt sử lược, Nguyễn Gia Tường dịch, NXB TP. Hồ Chí Minh, TP. Hồ Chí Minh. 32. Trần Trọng Kim (2002), Việt Nam sử lược, NXB Văn hóa thông tin, Hà Nội. 33. Tôn Nữ Thương Lãng (1974), Khâm Định Việt Sử thông giám cuơng mục, Bộ văn hóa Giáo dục và Thanh niên - Viện Khảo cổ, Sài Gòn. 34. Nguyễn Thiệu Lâu (1958), Quốc sử tạp lục, NXB Sài Gòn. 35. Ngô Sĩ Liên (1972), Đại Việt sử kí toàn thư (toàn tập), NXB KHXH, Hà Nội. 36. Hà Bích Liên (2000), Quan hệ giữa vương quốc cổ Champa với các nước trong khu vực (Luận án Tiến sĩ), Trường ĐHSP TP.HCM. 37. Phan Ngọc Liên (chủ biên) (1997), Lược sử Đông Nam Á, NXB Giáo dục, Hà Nội. 38. Phan Ngọc Liên (chủ biên) (1998), Lược sử Đông Nam Á, NXB Giáo dục, Hà Nội. 39. Litana (1999), Xứ Đàng Trong - Lịch sử kinh tế xã hội Việt Nam thế kỉ XVII và XVIII, NXB Trẻ, TP. Hồ Chí Minh. 40. Nguyễn Thế Long (2005), Bang giao Đại Việt - tập 1, NXB Văn hóa thông tin, Hà Nội. 41. Nguyễn Thế Long (2005), Bang giao Đại Việt - tập 4, NXB Văn hóa thông tin, Hà Nội. 42. Lưu Văn Lợi (2000), Ngoại giao Đại Việt, NXB Công an nhân dân, Hà Nội. 43. Huỳnh Lứa (1987), Lịch sử khai phá vùng đất Nam Bộ, NXB TP. Hồ Chí Minh, TP. Hồ Chí Minh. 44. Huỳnh Lứa (2000), Góp phần tìm hiểu vùng đất Nam Bộ các thế kỉ XVII, XVIII, XIX, NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội. 45. Trường Lưu (1993), Văn hóa người Khơme ở đồng bằng sông Cửu Long, NXB Văn hóa dân tộc, Hà Nội. 46. Trần Thị Mai (1997), Lịch sử bang giao Việt Nam - Đông Nam Á, Đại học Mở - Bán công TP. Hồ Chí Minh. 47. Sơn Nam (1994), Lịch sử khẩn hoang miền Nam, NXB Văn Nghệ, TP. Hồ Chí Minh. 48. Đào Thị Nhan (2005), Vùng đất Bến Tre trong các thế kỷ XVII - XIX (luận văn Thạc sĩ Lịch sử), TP. Hồ Chí Minh. 49. Nhiều tác giả (1983), Tìm hiểu lịch sử văn hóa Campuchia (tập 1, 3), NXB Khoa học xã hội, Hà Nội. 50. Nhiều tác giả (Kỷ yếu hội thảo) (2002), Nam Bộ và Nam Trung Bộ những vấn đề lịch sử thế kỉ XVII - XIX, Trường ĐHSP TP. Hồ Chí Minh. 51. Đỗ Văn Ninh (chủ biên) (2001), Lịch sử Việt Nam từ khởi thủy đến thế kỉ X, Viện sử học, NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội. 52. Lương Ninh - Hà Bích Liên (1994), Lịch sử các nước Đông Nam Á, NXB Giáo dục, Hà Nội. 53. Lương Ninh (2005), Vương quốc Phù Nam, NXB Văn hóa Thông tin, Hà Nội. 54. Lương Ninh (2004), Vương quốc Phù Nam Lịch sử và Văn hóa, NXB Văn hóa Thông tin, Hà Nội. 55. Lương Ninh (2004), Lịch sử Vương quốc Champa, NXB Đại học quốc gia, Hà Nội. 56. Lương Ninh (cb) (2005), Lịch sử Việt Nam giản yếu, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội. 57. Châu Đạt Quan (1973), Chân Lạp phong thổ kí, Lê Hương dịch, NXB Kỉ Nguyên mới, Sài Gòn. 58. Nguyễn Phan Quang (1971), lịch sử Việt Nam (1427 - 1858), NXB Giáo Dục, Hà Nội. 59. Quốc sử quán triều Nguyễn (2004), Đại Nam thực lục, tập 1, NXB Giáo Dục, Hà Nội. 60. Quốc sử quán triều Nguyễn (2004), Đại Nam thực lục, tập 2, NXB Giáo Dục, Hà Nội. 61. Quốc sử quán triều Nguyễn (2004), Đại Nam thực lục, tập 3, NXB Giáo Dục, Hà Nội. 62. Quốc sử quán triều Nguyễn (2004), Đại Nam thực lục, tập 4, NXB Giáo Dục, Hà Nội. 63. Quốc sử quán triều Nguyễn (2004), Đại Nam thực lục, tập 5, NXB Giáo Dục, Hà Nội. 64. Quốc sử quán triều Nguyễn (2004), Đại Nam thực lục, tập 6, NXB Giáo Dục, Hà Nội. 65. Quốc sử quán triều Nguyễn (1994), Minh Mệnh chính yếu, NXB Thuận Hóa, Huế. 66. Quốc sử quán triều Nguyễn (2003), Đại Nam liệt truyện, NXB Thuận Hóa, Huế. 67. Quốc sử quán triều Nguyễn (1974), Đại Nam nhất thống chí, NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội. 68. Quốc sử quán triều Nguyễn (1974), Việt sử thông giám cương mục, NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội. 69. Quốc sử quán triều Nguyễn (1971), Quốc triều chánh biên toát yếu, Nhóm nghiên cứu Sử Địa xuất bản, Sài Gòn. 70. Trương Hữu Quýnh (chủ biên) (2000), Đại cương lịch sử Việt Nam (toàn tập), NXB Giáo Dục, Hà Nội. 71. Trịnh Chi Tấn (1999), Sài Gòn từ khi thành lập đến giữa thế kỷ XIX, NXB TP. Hồ Chí Minh, TP. Hồ Chí Minh. 72. Nguyễn Lệ Thi (1977), Thư tịch cổ Việt Nam viết về Đông Nam Á, Ban Đông Nam Á, Hà Nội. 73. Nguyễn Duy Thiệu (1997), Các dân tộc ở Đông Nam Á, NXB Văn hóa Dân tộc, Hà Nội. 74. Đặng Thu (chủ biên) (1994), Di dân của người Việt từ thế kỉ X đến thế kỉ XIX, Trung tâm nghiên cứu dân số và phát triển, Hà Nội. 75. Nguyễn Ngọc Thủy (2004), Vùng đất An Giang thời kỳ 1757 - 1786 (Luận văn Thạc sĩ Lịch sử), TP. HCM. 76. Huỳnh Văn Tòng (1987), Lịch sử các quốc gia Đông Nam Á - Tập 1 (thời kì Cận đại), Đại học Sư Phạm TP. Hồ Chí Minh xuất bản, TP. Hồ Chí Minh. 77. Phạm Việt Trung, Nguyễn Xuân Kì, Đỗ Văn Nhung (1984), Lịch sử Campuchia, NXB Đại học và Trung học chuyên nghiệp, Hà Nội. 78. Phan Lạc Tuyên, Lịch sử bang giao Việt Nam và Đông Nam Á: Trước Công nguyên đến thế kỉ XIX, Viện đào tạo mở rộng, TP. Hồ Chí Minh. 79. Ủy ban Khoa học Xã hội Nhân văn Viện Khoa học Xã hội TP. Hồ Chí Minh (1980), Việt Nam - Campuchia trong lịch sử, Ban Đông Nam Á xuất bản, TP. Hồ Chí Minh. 80. Viện văn hóa (1998), Tìm hiểu vốn văn hóa dân tộc Khơme Nam Bộ, NXB Tổng hợp Hậu Giang. 81. Viện sử học (1994), Di dân người Việt từ thế kỉ X đến giữa thế kỉ XIX, Hà Nội. 82. Viện sử học (2005), Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ (tập 4), NXB Thuận Hóa. 83. Viện sử học (1980), Tìm hiểu xã hội Việt Nam thời Lý - Trần, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội. 84. Viện nghiên cứu Hán Nôm (1997), Đại Việt sử kí tiền biên, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội. 85. Thành Thế Vỹ (1961), Ngoại thương Việt Nam hồi thế kỷ XVII, XVIII và đầu XIX, NXB Sử học, Hà Nội. II. Tạp chí 1. Đỗ Bang, “Phát triển kinh tế và quốc phòng của các chúa Nguyễn thế kỉ XVII - XVIII ở Sài Gòn - Gia Định”, Nghiên cứu kinh tế, số 248 năm 1999. 2. Nguyễn Thị Phương Chi, Nguyễn Tiến Dũng, “Về các mối giao thương của quốc gia Đại Việt thời Lý Trần (thế kỉ XI - XIV)”, Nghiên cứu lịch sử, số 7 năm 2007. 3. Dương Văn Huy, “Chính sách hướng biển của chính quyền Đàng Trong thế kỉ XVI – XVIII”, Nghiên cứu Đông Nam Á, số 8 năm 2007. 4. Lê Hương, “Việc bang giao giữa Cao Miên và Việt Nam từ ngày tiên khởi đến ngày Pháp đô hộ”, Văn hóa tập san, số 2- 3, 1969. 5. Keith.W.Taylor, “Nguyễn Hoàng và bước khởi đầu cuộc Nam Tiến”, Xưa và Nay, số 104, tháng 11 năm 2001. 6. Nguyễn Văn Kim, “Nam Bộ Việt Nam - môi trường kinh tế biển và mối quan hệ với các quốc gia khu vực thế kỉ XVII - XVIII”, Nghiên cứu lịch sử, số 1 năm 2006. 7. Nguyễn Văn Kim, “Xứ Đàng Trong trong mối quan hệ và tương tác quyền lực khu vực”, Nghiên cứu lịch sử, số 6 năm 2006. 8. Hà Bích Liên, Tập hợp bài giảng về các quốc gia cổ Đông Nam Á (bản thảo), ĐHSP TP.HCM. 9. Đặng Thu, “Di dân của người Việt từ thế kỉ X đến thế kỉ XIX”, Nghiên cứu lịch sử, Hà Nội, 1994. MỞ ĐẦU 1. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI ..................................................................................1 2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU .........................................................................2 3. LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU VẤN ĐỀ ..............................................................2 4. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU ..............................................8 5. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ..............................................................11 6. BỐ CỤC LUẬN VĂN ................................................................................13 Chương 1. ĐIỀU KIỆN LỊCH SỬ CỦA MỐI QUAN HỆ ĐẠI VIỆT VỚI CHÂN LẠP 1.1. Khái quát sự hình thành các quốc gia Đông Nam Á ...............................14 1.2. Quá trình hình thành, bảo vệ và phát triển quốc gia Đại Việt .................21 1.3. Quá trình hình thành, phát triển của quốc gia Chân Lạp .........................37 Chương 2. QUÁ TRÌNH QUAN HỆ CỦA ĐẠI VIỆT VỚI CHÂN LẠP ĐẾN THẾ KỈ XVI 2.1. Đặc điểm chính sách đối ngoại của Đại Việt ...........................................68 2.2. Đặc điểm chính sách đối ngoại của Chân Lạp .........................................86 2.3. Chính sách và hoạt động đối ngoại với Chân Lạp của các triều vua Đại Việt .................................................................................................................101 2.3.1. Ngoại giao ..................................................................................103 2.3.2. Quân sự........................................................................................106 Chương 3. QUAN HỆ CỦA ĐẠI VIỆT VỚI CHÂN LẠP THẾ KỈ XVII – XIX 3.1. Tình hình Đại Việt và Chân Lạp thế kỉ XVII – XIX .............................118 3.1.1. Tình hình Đại Việt ......................................................................118 3.1.2. Tình hình Chân Lạp ...................................................................118 3.2. Chính sách và hoạt động đối ngoại của các triều Đại Việt với Chân Lạp từ thế kỉ XVII – XIX.......................................................................................121 3.2.1. Quan hệ của Đại Việt với Chân Lạp và quá trình mở rộng cương vực trên vùng đất Thủy Chân Lạp .....................................................122 3.2.2. Công cuộc bảo hộ của Đại Việt đối với Chân Lạp ....................142 3.2.3. Sắc phong, triều cống trong quan hệ của Đại Việt với Chân Lạp ................................................................................................................160 3.3. Hệ quả mối quan hệ Đại Việt với Chân Lạp thế kỉ XVII - XIX ...........172 3.3.1.Về kinh tế .....................................................................................172 3.3.2. Về văn hóa - xã hội .....................................................................181 KẾT LUẬN..................................................................................197 TÀI LIỆU THAM KHẢO CHÍNH ...........................................................206 ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfLA7641.pdf