Quan hệ biện chứng giữa sự phát triển Lực lượng sản xuất với đa dạng hoá các hình thức sở hữu ở Việt Nam

a - Đặt vấn đề Từ khi con người được sinh ra trên trái đất đã phải trải qua năm phương thức sản xuất đó là: nguyên thuỷ, chiếm hữu nô lệ, xã hội phong kiến, xã hội chủ nghĩa và tư bản chủ nghĩa. Tư duy nhận thức của con người không dừng lại ở một chỗ mà theo thời gian tư duy của con người càng phát triển, càng hoàn thiện hơn. Từ đó kéo theo sự thay đổi phát triển lực lượng sản xuất cũng như cơ sở sản xuất. Từ khi sản xuất chủ yếu bằng săn bắn, hái lượm, trình độ khoa học lạc hậu thì ngày nay tr

doc18 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1575 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Quan hệ biện chứng giữa sự phát triển Lực lượng sản xuất với đa dạng hoá các hình thức sở hữu ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ình độ khoa học đã phát triển rất mạnh. Không ít các nhà khoa học, các nhà nghiên cứu đã đổ sức bỏ công cho các vấn đề này cụ thể là nhận thức con người, trong đó có trường phái triết học. Với ba trường phái trong lịch sử phát triển của mình là chủ nghĩa duy vật, chủ nghĩa duy tâm và trường phái phi nguyên luận nhưng họ đều thống nhất rằng thực chất của triết học đó là sự thống nhất biện chứng giữa lực lượng sản xuất với đa dạng hoá các hình thức sở hữu như thống nhất giữa 2 mặt đối lập tạo nên chỉnh thể của nền sản xuất xã hội. Điều này được Mác và Ănghen khái quát thành quy luật về sự phù hợp của 2 mặt đó. Từ những lý luận trên đưa Mác và Ănghen vươn lên đỉnh cao trí tuệ của nhân loại không chỉ trên phương diện triết học mà còn trên những phương diện khác. Dưới hình thức và mức độ khác nhau, dù con người có ý thức được hay không thì nhận thức của 2 ý về quy luật này vẫn xuyên suốt lịch sử phát triển. Biện chứng lực lượng sản xuất với đa dạng hoá các hình thức sở hữu tạo điều kiện cho ta có được một nhận thức về sản xuất và phát triển của xã hội. Đồng thời mở mang được sự hiểu biết về nhiều lĩnh vực về kinh tế và thấy rõ hơn mục đích của việc nghiên cứu về lực lượng sản xuất và đa dạng hoá các hình thức sở hữu. Thấy được vị trí, ý nghĩa của nó. Em mạnh dạn đưa ra nhận định của mình về đề tài: “Quan hệ biện chứng giữa sự phát triển lực lượng sản xuất với đa dạng hoá các hình thức sở hữu ở Việt Nam”. Nhưng vì kiến thức và trình độ hiểu biết về mọi mặt còn hạn chế nên trong quá trình làm bài còn nhiều thiếu sót. b - nội dung I. Sự nhận thức về lực lượng sản xuất và qui luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. 1. Đôi nét về lực lượng sản xuất. Lực lượng sản xuất là toàn bộ những tư liệu sản xuất do xã hội tạo ra, trước hết là công cụ lao động và những người lao động với kinh ngiệm và thói quen lao động nhất định đã sử dụng những tư liệu sản xuất đó để tạo ra của cải vật chất cho xã hội. Từ thực trạng đó lý luận về lực lượng sản xuất của xã hội được C.Mác nêu lên và phát triển một cách sâu sắc trong các tác phẩm chuẩn bị cho bộ "Tư bản" và chính trong bộ "Tư bản" Mác đã trình bày hết sức rõ ràng quan điểm của mình về các yếu tố cấu thành lực lượng sản xuất của xã hội trong đó bao gồm sức lao động và tư liệu sản xuất. Đối với Mác cùng với tư liệu lao động đối với lao động cũng thuộc về tư liệu sản xuất, còn trong tư liệu lao động tức là tất cả những yếu tố vật chất mà con người sử dụng để tác động và đối tượng lao động như công cụ lao động, nhà xưởng, phương tiện lao động, cơ sở vật chất kho tàng... thì vai trò quan trọng hơn cả thuộc về công cụ lao động. Công cụ lao động là yếu tố quan trọng nhất linh hoạt nhất của tư liệu sản xuất. Mọi thời đại muốn đánh giá trình độ sản xuất thì phải dựa vào tư liệu lao động. Tuy nhiên yếu tố quan trọng nhất trong lực lượng sản xuất chính là con người cho dù những tư liệu lao động được tạo ra từ trước có sức mạnh đến điều và đối tượng lao động có phong phú như thế nào thì con người vẫn là bậc nhất. Lịch sử loài người được đánh dấu bởi các mốc quan trọng trong sự phát triển của lực lượng sản xuất trước hết là công cụ lao động. Sau bước ngoặt sinh học, sự xuất hiện công cụ lao động đánh dấu một bước ngoặt khác trong sự chuyển từ vượn thành người. Từ kiếm sống bằng săn bắt hái lượm sang hoạt động lao động thích nghi với tự nhiên và dần dần cải tạo tự nhiên. Từ sản xuất nông nghiệp công nghệ lạc hậu chuyển lên cơ khí hoá sản xuất. Sự phát triển lực lượng sản xuất trong giai đoạn này không chỉ giới hạn ở việc tăng một cách đáng kể số lượng thuần tuý với các công cụ đã có mà chủ yếu là ở việc tạo ra những công cụ hoàn toàn mới sử dụng cơ bắp con người. Do đó con người đã chuyển một phần công việc năng nhọc cho máy móc có điều kiện để phát huy các năng lực khác của mình. ở nước ta từ trước tới nay nền kinh tế lấy nông nghiệp làm chủ yếu, nên trình độ khoa học kỹ thuật kém phát triển. Hiện thời chúng ta đang ở trong tình trạng kế thừa những lực lượng sản xuất vừa nhỏ nhoi, vừa lạc hậu so với trình độ chung của thế giới, hơn nữa trong một thời gian khá dài, những lực lượng ấy bị kìm hãm, phát huy tác dụng kém. Bởi vậy Đại hội lần thứ VI của Đảng đặt ra nhiệm vụ là phải "Giải phóng mọi năng lực sản xuất hiện có. Khai thác mọi khả năng tiềm tàng của đất nước, sử dụng có hiệu quả sự giúp đỡ quốc tế để phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất. Mặt khác chúng ta đang ở trong giai đoạn mới trong sự phát triển của cách mạng khoa học kỹ thuật đang chứng kiến những biến đổi cách mạng trong công nghệ. Chính điều này đòi hỏi chúng ta lựa chọn một mặt tận dụng cái hiện có mặt khác nhanh chóng tiếp thu cái mới do thời đại tạo ra nhằm dùng chúng để nhân nhanh các nguồn lực từ bên trong. Nếu phân tích một cách khách quan thì rõ ràng lực lượng sản xuất của ta đang ứng với cả ba giai đoạn phát triển của lực lượng sản xuất trong nền văn minh loài người. Thực tế hiện nay trong nhiều ngành sản xuất công cụ thủ công vẫn đang là chủ yếu, lao động nặng đang chiếm tỉ lệ cao, đến nay vẫn chưa hoàn thành cơ khí hoá và thực tế chưa biết khi nào mới xong. Cần khẳng định một vấn đề có tính quy luật là trong lịch sử bao giờ cũng có sự đan xen của trình độ phát triển khác nhau trong từng yếu tố cấu thành lực lượng sản xuất. Tuy nhiên trên thực tế song song với tình trạng lạc hậu trong phạm vi hẹp nhất định, chúng ta đang dần dần đi lên với tự động hoá, sử dụng thành thạo máy móc vi tính... Đối tượng lao động thấp kém đang được bổ sung. Chính vì lẽ đó mà sẽ không có câu trả lời đơn thuần về việc chỉ nên phát triển loại tư liệu sản xuất nào, công cụ gì và đối tượng lao động nào là chính. 2. Qui luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. 2.1. Quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất mâu thuẫn hay phù hợp. Trong tác phẩm góp phần phê phán khoa kinh tế - chính trị năm 1859 C.Mác viết "Trong sự sản xuất xã hội ra đời sống của mình, con người ta có những quan hệ nhất định, tất yếu không phụ thuộc ý muốn của họ, tức những quan hệ sản xuất. Những qui luật này phù hợp với một trình độ phát triển nhất định của lực lượng sản xuất. Những quan hệ này phù hợp với một trình độ phát triển nhất định của lực lượng sản xuất vật chất của họ..." Người ta thường coi tư tưởng này của Mác là tư tưởng về "Qui luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất". Cho đến nay hầu như qui luật này đã được khẳng định cũng như các nhà nghiên cứu triết học Mác xít. Khái niệm "phù hựop" được hiểu với nghĩa chỉ phù hợp mới tốt, mới hợp qui luật, không phù hợp là không tốt, là trái qui luật. Có nhiều vấn đề mà nhiều lĩnh vực đặt ra với từ "phù hợp" này. Các mối quan hệ trong sản xuất bao gồm nhiều dạng thức khác nhau mà nhìn một cách tổng quát thì đó là những dạng quan hệ sản xuất và dạng những lực lượng sản xuất từ đó hình thành những mối lien hệ chủ yếu cơ bản là mối liên hệ giữa quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất. Nhưng mối liên hệ giữa hai yêu tố cơ bản này là gì? Phù hợp hay không phù hợp. Thống nhất hay mâu thuẫn? Trước hết cần xác định khái niệm phù hợp với các ý nghĩa sau. - Phù hợp là sự cân bằng, sự thống nhất giữa các mặt đối lập hay "sự yên tính" giữa các mặt. - Phù hợp là một xu hướng mà những dao động không cân bằng sẽ đạt tới. Trong phép biện chứng sự cân bằng chỉ là tạm thời và sự không cân bằng là tuyệt đối. Chính đâylà nguồn gốc tạo nên sự vận động và phát triển . Ta biết rằng trong phép biện chứng cái tương đối không tách khỏi cái tuyệt đối nghĩa là giữa chúng không có mặt giới hạn xác định. Nếu chúng ta nhìn nhận một cách khác có thể hiểu sự cân bằng như một sự đứng im, còn sự không cân bằng có thể hiểu như sự vận động. Tức sự cân bằng trong sản xuất chỉ là tạm thời còn không cân bằng không phù hợp giữa chúng là tuyệt đối. Chỉ có thể quan niệm được sự phát triển chừng nào người ta thừa nhận tính chân lý vĩnh hằng của sự vận động. Cũng vì vậy chỉ có thể quan niệm được sự phát triển chừng nào người ta thừa nhận, nhận thức được sự phát triển trong mâu thuẫn của lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất chừng nào ta thừa nhận tính vĩnh viễn không phù hợp giữa chúng. Từ những lý luận đó đi đến thực tại nước ta cũng vậy với quá trình phát triển lịch sử lâu dài của mình từ thời đồ đá đến nay thời văn minh hiện đại. Nước ta đi từ sự không phù hợp hay sự lạc hậu từ trước lên đến nay nền văn minh đất nước. Tuy nhiên quá trình vận động và phát triển của sản xuất là quá trình đi từ sự không phù hợp đến sự phù hợp, nhưng trạng thái phù hợp chỉ là sự tạm thời, ngắn ngủi, ý muốn tạo nên sự phù hợp vĩnh hằng giữa lực lượng sản xuất với quan hệ sản xuất là trái tự nhiên, là thủ tiêu cái không thủ tiêu được, tức là sự vận động. Tóm lại, có thể nói thực chất của qui luật về mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là qui luật mâu thuẫn. Sự phù hợp giữa chúng chỉ là một cái trục, chỉ là trạng thái yên tĩnh tạm thời, còn sự vận động, dao động sự mâu thuẫn là vĩnh viễn chỉ có khái niệm mâu thuẫn mới đủ khả năng vạch ra động lực của sự phát triển mới có thể cho ta hiểu được sự vận động của qui luật kinh tế. 2.2. Qui luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Tất cả chúng ta đều biết, quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất là hai mặt hợp thành của phương thức sản xuất có tác động qua lại biện chứng với nhau. Việc đẩy quan hệ sản xuất lên quá xa so với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất là một hiện tượng tương đối phổ biến ở nhiều nước xây dựng xã hội chủ nghĩa. Nguồn gốc của tư tưởng sai lầm này là bệnh chủ quan, duy ý chí, muốn có nhanh chủ nghĩa xã hội thuần nhất bất chấp qui luật khách quan. Về mặt phương pháp luận, đó là chủ nghĩa duy vật siêu hình, quá lạm dụng mối quan hệ tác động ngược lại của quan hệ sản xuất đối với sự phát triển của lực lượng sản xuất. Sự lạm dụng này biểu hiện ở "Nhà nước chuyên chính vô sản có khả năng chủ động tạo ra quan hệ sản xuất mới để mở đường cho sự phát triển của lực lượng sản xuất". Nhưng khi thực hiện người ta đã quên rằng sự "chủ động" không đồng nghĩa với sự chủ quan tuỳ tiệ, con người không thể tự do tạo ra bất cứ hình thức nào của quan hệ sản xuất mà mình muốn có. Ngược lại quan hệ sản xuất luôn luôn bị qui định một cách nghiêm ngặt bởi trạng thái của lực lượng sản xuất, bởi quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Quan hệ sản xuất chỉ có thể mở đường cho lực lượng sản xuất phát triển khi mà nó được hoàn thiện tất cả về nội dung của nó, nhằm giải quyết kịp thời những mâu thuẫn giữa quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất. + Lực lượng sản xuất quyết định sự hình thành biến đổi của quan hệ sản xuất: lực lượng sản xuất là cái biến đổi đầu tiên và luôn biến đổi trong sản xuất con người muốn giảm nhẹ lao động nặng nhọc tạo ra năng suất cao phải luôn tìm cách cải tiến công cụ lao động. Chế tạo ra công cụ lao động mới. Lực lượng lao động qui định sự hình thành và biến đổi quan hệ sản xuất ki quan hệ sản xuất không thích ứng với trình độ, tính chất của lực lượng sản xuất thì nó kìm hãm thậm chí phá hoại lực lượng sản xuất thì nó kìm hãm thậm chí phá hoại lực lượng sản xuất và ngược lại. + Sự tác động trở lại của quan hệ sản xuất đối với lực lượng sản xuất. Quan hệ sản xuất khi đã được xác lập thì nó độc lập tương đối với lực lượng sản xuất và trở thành những cơ sở và những thể chế xã hội và nó không thể biến đổi đồng thời đối với lực lượng sản xuất. Thường lạc hậu so với lực lượng sản xuất và nếu quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ sản xuất, tính chất của lực lượng sản xuất thì nó thúc đẩy sự phát triển của lực lượng sản xuất. Nếu lạc hậu so với lực lượng sản xuất dù tạm thời thì nó kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất. Sở dĩ quan hệ sản xuất có thể tác động mạnh mẽ trở lại đối với lực lượng sản xuất vì nó qui định mục đích của sản xuất qui định hệ thống tổ chức quản lý sản xuất và quản lý xã hội, qui định phương thức phân phối và phần của cải ít hay nhiều mà người lao động được hưởng. Do đó nó ảnh hưởng tới thái độ tất cả quần chúng lao động. Nó tạo ra những điều kiện hoặc kích thích hoặc hạn chế sự phát triển công cụ sản xuất, áp dụng thành tựu khoa học kỹ thuật vào sản xuất hợp tác phân công lao động quốc tế. II. Bàn về sự đa dạng hoá các hình thức sở hữu ở Việt Nam và vai trò của nó đối với sự phát triển lực lượng sản xuất. 1. Đa dạng hoá các hình thức sở hữu tư liệu sản xuất nhằm phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần ở Việt Nam. Chúng ta biết, một trong những đặc trưng quan trọng của kinh tế thị trường là tính tự chủ của các chủ thể kinh tế rất cao. Các chủ thể kinh tế được tự do liên kết, liên doanh, tự do tổ chức quá trình sản xuất, tự do cạnh tranh trên thị trường. Đặc trưng này được hình thành trên cơ sở tính đa dạng quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất. Trong giai đoạn chuyển sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần ở nước ta, để khắc phục tình trạng độc tôn dẫn đến vô chủ, lãi giả lỗ thật của các doanh nghiệp Nhà nước, để tạo ra sự tự do kinh tế và hình thành nhiều nhà kinh doanh giỏi, thích ứng với cơ chế thị trường Đảng và Nhà nước ta đã chủ trương đa dạng hoá các hình thức sở hữu về tư liệu sản xuất. Sự tồn tại của chế độ sở hữu về tư liệu sản xuất với nhiều hình thức sở hữu khác nhau là một tất yếu khách quan, do trình độ phát triển của lực lượng sản xuất xã hội quyết định. Vì vậy giải quyết vấn đề sở hữu cần phải theo các quan điểm: a) Đặt toàn bộ sự thiết lập và biến đổi của các hình thức sở hữu như là quá trình phát triển lịch sử tự nhiên, không phụ thuộc vào ý chí chủ quan của con người; b) Xây dựng nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường đi đôi với tăng cường vai trò quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN; c) Coi sở hữu vừa là mục tiêu vừa là phương tiện. Hiện nay, lực lượng sản xuất xã hội của nước ta tuy có tiến bộ, song vẫn còn kém phát triển. Đó là một mặt, mặt khác, do ảnh hưởng của cuộc cách mạng khoa học công nghệ hiện đại và sự phát triển nền kinh tế thị trường đang quốc tế hoá cho nên ngay trong lực lượng sản xuất của nước ta đã có những yếu tố mới đưa tới sự tất yếu tồn tại lâu dài các hình thức sở hữu khác nhau. Có thể nêu những yếu tố đó là: Trước hết, các dạng của cải với tư cách là yếu tố của lực lượng sản xuất, không chỉ là những của cải vật chất như thường hiểu mà còn bao hàm những yếu tố ngày càng quan trọng là chất xám, thông tin, quan hệ kinh doanh,... Đây là dạng của cải gắn với cá nhân người lao động, do đó nó vừa mang tính chất sở hữu cá nhân, vừa mang tính chất xã hội rất cao trong lao động sản xuất kinh doanh. Thứ hai, trong quá trình xã hội hoá lực lượng sản xuất, cùng với xu hướng hình thành những doanh nghiệp qui mô lớn, còn có xu hướng hình thành những doanh nghiệp quy mô vừa và nhỏ nhưng trình độ sản xuất hiện đại. Những doanh nghiệp này chỉ cần tồn tại dưới hình thức sở hữu của tập thể hoặc sở hữu của cá thể, tiểu chủ. Thứ ba, trong điều kiện nền kinh tế thị trường, mọi dạng của cải, với tư cách là đối tượng sở hữu đều có giá trị và được tính bằng tiền, đều được xử lý theo quan điểm tài chính để trở thành vốn sản xuất vận động theo nguyên tắc bảo tồn và sinh lợi. Nói một cách khác, mọi của cải của người dân có thể chuyển thành tiền bạc, được xã hội sử dụng thành vốn để sinh lợi cho chủ sở hữu. Chính do những nhân tố trên mà trong quá trình phát triển lực lượng sản xuất ở nước ta, đã xuất hiện xu hướng hữu sản hoá đông đảo những người lao động, trong quan hệ đan kết với sở hữu Nhà nước và tập thể. Từ sự phân tích trên có thể nhận xét nền kinh tế được xã hội hoá khác với nền kinh tế được công cộng hoá về tư liệu sản xuất. Chính vì vậy có thể khẳng định chính sách phát triển nền kinh tế hàng hoá với nhiều hình thức sở hữu tạo thành nền kinh tế nhiều thành phần với các loại doanh nghiệp đa dạng là chiến lược phát triển kinh tế lâu dài. Nhờ vai trò chủ đạo của sở hữu Nhà nước và Nhà nước XHCN mà nền kinh tế này vận động theo định hướng XHCN. Trong điều kiện của nước ta hiện nay để phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần cần thiết phải điều chỉnh cơ cấu sở hữu theo hướng sau đây: - Phát huy mạnh mẽ hình thức kinh tế hộ nông dân, thợ thủ công phát triển trong sự gắn bó với các HTX kiểu mới bằng cách tạo và phát triển thị trường, trước hết là thị trường nông thôn rộng lớn. - Khuyến khích kinh tế tư bản tư nhân trong nước phát triển sản xuất kinh doanh theo đúng pháp luật của Nhà nước. Nhà nước tiến hành kiểm soát và giúp đỡ cho khu vực này phát triển lành mạnh đúng hướng. Đây là một trong những hướng quan trọng nhằm huy động vốn và sàng lọc năng lực kinh doanh trong cạnh tranh. - Hình thành và phát triển các công ty cổ phần. Đây là xu thế khách quan của nền kinh tế thị trường. Nó là kết quả của sự phát triển kinh tế tư nhân, cá thể, các hình thức liên doanh, liên kết. ở nước ta hình thức công ty cổ phần còn phát sinh từ quá trình cổ phần hoá các doanh nghiệp Nhà nước. - Xây dựng khu vực kinh tế Nhà nước với chức năng là bảo đảm sự ổn định và là cơ sở cho sự phát triển của các thành phần kinh tế. Khu vực kinh tế này cần tập trung những ngành, khâu then chốt, trọng yếu của nền kinh tế như năng lượng, dầu khí, hệ thống giao thông vận tải, y tế, thông tin, tài chính, tín dụng, quốc phòng, an ninh quốc gia, bảo vệ môi trường chống thiên tai,... Cơ cấu của khu vực kinh tế Nhà nước không phải cố định, luôn luôn phát triển để có trình độ công nghệ tiên tiến và trình độ quản lý tốt, giữ vai trò chủ đạo đối với sự phát triển kinh tế, chính trị, xã hội. - Trong quá trình thu hút vốn từ bên ngoài vào nền kinh tế nước ta, cũng hình thành những hình thức sở hữu khác nhau như sở hữu của các công ty tư bản, các nhà tư bản tư nhân và các tổ chức liên doanh giữa trong nước và ngoài nước, nhằm mở rộng các hình thức kinh tế tư bản Nhà nước. Như vậy, có thể hình dung yêu cầu của quá trình phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng XHCN ở nước ta đòi hỏi cần có nhiều hình thức sở hữu đa dạng khác nhau. Sự tồn tại đan xen của những hình thức sở hữu khác nhau sẽ hình thành nhiều hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh khác nhau. Nhưng do trình độ phát triển của lực lượng sản xuất xã hội còn thấp nên cần hết sức xem trọng phát triển các doanh nghiệp loại vừa và nhỏ cũng như những doanh nghiệp của cá nhân hay hộ gia đình trong sự gắn bó, giúp đỡ, hướng dẫn của kinh tế Nhà nước với tư cách là khu vực kinh tế giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần. 2. Về các hình thức sở hữu trong nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN ở nước ta hiện nay. Trong công cuộc xây dựng và phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước, theo định hướng XHCN ở nước ta hiện nay, vấn đề chế độ sở hữu và các hình thức sở hữu luôn thu hút sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu lý luận. Song, đây lại là vấn đề hết sức phức tạp và cho đến nay vẫn còn có những ý kiến khác nhau. Trong bài viết này, chúng tôi không có tham vọng trình bày cặn kẽ vấn đề hết sức phức tạp đó, mà chỉ nêu lên một số ý kiến về các hình thức sở hữu trong nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN ở nước ta hiện nay. Hơn mười năm đổi mới đất nước theo định hướng XHCN ở nước ta đã chứng tỏ tính đúng đắn của đường lối đổi mới, của chính sách đa dạng hoá các hình thức sở hữu do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo toàn dân thực hiện. Thực tiễn đã cho thấy, một nền kinh tế nhiều thành phần, đương nhiên phải bao gồm nhiều hình thức sở hữu, chứ không thể chỉ có hai hình thức sở hữu - toàn dân và tập thể - như quan niệm trước đây. Trong giai đoạn hiện nay, nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng XHCN mà chúng ta đang xây dựng và phát triển bao gồm các hình thức sở hữu như: sở hữu toàn dân, sở hữu Nhà nước, sở hữu tập thể, sở hữu cá thể, sở hữu tư bản tư nhân và các hình thức sở hữu hỗn hợp. Trong các hình thức sở hữu này, khái quát lại, chỉ có hai hình thức sở hữu cơ bản là công hữu và tư hữu, còn các hình thức khác chỉ là những hình thức trung gian, quá độ hoặc hỗn hợp. ở đây, mỗi hình thức sở hữu lại có nhiều phương thức biểu hiện và trình độ thể hiện khác nhau. Chúng được hình thành trên cơ sở có cùng bản chất kinh tế và tuỳ theo trình độ phát triển của lực lượng sản xuất và năng lực quản lý. 2.1. Về sở hữu toàn dân: ở nước ta hiện nay, như Hiến pháp và Luật đất đai đã qui định rõ: “Đất đai thuộc sở hữu toàn dân”. Xét về mặt kinh tế, đất đai là phương tiện tồn tại cơ bản của cả một cộng đồng xã hội. Xét về mặt xã hội, đất đai là lãnh thổ, là nơi cư trú của cả một cộng đồng. Thế nhưng, khi xét trên cả hai phương diện, có thể nói rằng đất đai không thể là đối tượng sở hữu của riêng ai. Tuy nhiên, suy cho cùng, đất đai cũng là tư liệu sản xuất, hay nói chính xác hơn, nó là một bộ phận quan trọng của tư liệu sản xuất. Bởi thế, dù là đặc biệt thì trong nền kinh tế hàng hóa, nó vẫn phải vận động theo những qui luật của thị trường và chịu sự điều tiết của những qui luật đó. Việc đất đai thuộc sở hữu toàn dân mà Nhà nước là người đại diện sở hữu và quản lý không hề mâu thuẫn với việc trao quyền cho các hộ nông dân, kể cả quyền được chuyển nhượng, quyền sử dụng đất đai. Nếu biết giải quyết cụ thể các vấn đề sở hữu, biết tách quyền sở hữu với quyền sử dụng, chẳng hạn như ruộng đất vẫn thuộc sở hữu toàn dân, song người nông dân được quyền sử dụng ổn định, lâu dài, thì có thể đem lại một sức bật cho sự phát triển của lực lượng sản xuất và sự tăng trưởng kinh tế nói chung. Nền kinh tế có cơ cấu nhiều thành phần thì đương nhiên là nó bao gồm nhiều hình thức sở hữu, trong đó kinh tế quốc doanh giữ vị trí then chốt, liên kết và hỗ trợ các thành phần kinh tế khác phát triển theo hướng có lợi cho quốc kế dân sinh. Nhà nước quản lý kinh tế với tư cách là cơ quan quyền lực đại diện cho lợi ích của nhân dân và là người đại diện đối với tài sản thuộc sở hữu toàn dân. Văn kiện Đại hội VII của Đảng ta đã chỉ rõ: “Trên cơ sở chế độ sở hữu toàn dân về đất đai, ruộng đất được giao cho nông dân sử dụng lâu dài. Nhà nướ quy định bằng luật pháp các vấn đề thừa kế, chuyển quyền sử dụng ruộng đất...” Như vậy, hình thức sở hữu toàn dân ở nước ta hiện nay đã được xác định theo nội dung mới, có nhiều khả năng để thực sự trở thành nguồn lực phát triển kinh tế. 2.2. Về sở hữu Nhà nước: Trong thời kỳ bao cấp trước đây, không chỉ ở nước ta, mà còn ở một số nước khác trong hệ thống xã hội chủ nghĩa, thường đồng nhất sở hữu Nhà nước với sở hữu toàn dân. Do nhầm lẫn như vậy mà có một thời gian khá dài, người ta thường bỏ quên hình thức sở hữu Nhà nước, chỉ quan tâm đặc biệt tới hình thức sở hũu toàn dân với chế độ c ông hữu tồn tại dưới hai hình thức sở hữu toàn dân được gắn kết với sự phát triển của khu vực kinh tế quốc doanh, vì vậy mà chúng ta đã ra sức quốc doanh hoá nền kinh tế với niềm tin cho rằng chỉ có như vậy mới có CNXH nhiều hơn. Thực ra, với quan niệm đó, sở hữu toàn dân đã trở thành thứ sở hữu không phải của một chủ sở hữu cụ thể nào cả. Trong một xã hội mà Nhà nước còn tồn tại, thì sở hữu toàn dân chưa có điều kiện vận động trên bề mặt của đời sống kinh tế nói chung. Hình thức sở hữu Nhà nước, xét về tổng thể, mới chỉ là kết cấu bên ngoài của sở hữu. Còn kết cấu bên trong của sở hữu Nhà nước ở nước ta, có lẽ chủ yếu thể hiện quyền sở hữu đó ở khu vực kinh tế quốc doanh, khu vực các doanh nghiệp Nhà nước. 2.3. Về sở hữu tập thể: ở nước ta trước đây, hình thức sở hữu tập thể chủ yếu tồn tại dưới hình thức hợp tác xã (gồm cả hợp tác xã nông nghiệp và tiểu thủ công nghiệp), với nội dung là cả giá trị lẫn giá trị sử dụng của đối tượng sở hữu đều là của chung, mà các xã viên là chủ sở hữu. Chính vì vậy mà với hình thức sở hữu này, quyền mua, bán hoặc chuyển nhượng tư liệu sản xuất, trong thực tế sản xuất và lưu thông ở nước ta đã diễn ra hết sức phức tạp. Quyền của các tập thể sản xuất thường rất hạn chế, song đôi khi lại có tình trạng lạm quyền. Sự không xác định, sự “nhập nhằng” với quyền sở hữu Nhà nước và với sở hữu tư nhân trá hình cũng là hiện tượng phổ biến. Để thoát ra khỏi tình trạng đó, trong bối cảnh của nền kinh tế thị trường hiện nay, theo chúng tôi, phải xác định rõ quyền mua bán và chuyển nhượng tư liệu sản xuất đối với các tập thể sản xuất, kinh doanh. Chỉ có như vậy thì sở hữu tập thể mới có thể trở thành một hình thức sở hữu có hiệu quả. Chúng ta đều biết, hợp tác xã không phải là hình thức riêng có, đặc trưng cho chủ nghĩa xã hội, nhưng nó là một hình thức sở hữu kinh tế tiến bộ trong thời kỳ quá độ đi lên CNXH. Vì vậy chúng ta cần phải duy trì và phát triển hơn nữa hình thức sở hữu này khi xây dựng CNXH, như V.I.Lênin đã khẳng định: “Chế độ của những xã viên hợp tác xã văn minh là chế độ xã hội chủ nghĩa”. Hợp tác xã là nhu cầu thiết thân của kinh tế hộ gia đình, của nền sản xuất hàng hoá. Khi lực lượng sản xuất trong nông nghiệp và công nghiệp nhỏ phát triển tới một trình độ nhất định, nó sẽ thúc đẩy quá trình hợp tác. Trong điều kiện của nền kinh tế hàng hoá, các nhu cầu kinh tế về vốn, cung ứng vật tư, tiêu thụ sản phẩm,... đòi hỏi các hộ sản xuất phải hợp tác với nhau mới có khả năng cạnh tranh và phát triển. Chính nhu cầu đó đã liên kết người lao động lại với nhau và làm nảy sinh quan hệ sở hữu tập thể. Thực tiễn cho thấy, ở nước ta hiện nay, đã có những hình thức hợp tác xã kiểu mới ra đời do nhu cầu tồn tại và phát triển trong cơ chế thị trường. “Hợp tác xã được tổ chức trên cơ sở đóng góp cổ phần và sự tham gia lao động trực tiếp của xã viên, phân phối theo kết quả lao động và theo cổ phần, mỗi xã viên có quyền như nhau đối với công việc chung”. Điều này cho thấy, kết cấu bên trong của sở hữu tập thể đã thay đổi phù hợp với thực tiễn ở nước ta hiện nay. 2.4. Về sở hữu cá thể. Đa dạng hoá các lực lượng sản xuất là một trong những cơ sở để đa dạng hoá các quan hệ sở hữu, bởi như chúng ta đã rõ, sở hữu biểu hiện quan hệ của con người không chỉ đối với tư liệu sản xuất nói riêng mà còn đối với toàn bộ lực lượng sản xuất nói chung. ở nước ta, hình thức sở hữu cá thể tồn tại chủ yếu dưới hình thức kinh tế cá thể, tiểu chủ. Trước đây, kinh tế cá thể, tiểu chủ ở nước ta chủ yếu có tính chất tự cấp, tự túc, lại bị trói buộc bởi cơ chế quản lý. Hiện nay, nó đang được khuyến khích phát triển và đang có xu hướng phát triển thuận lợi. Kinh tế cá thể, tiểu chủ có mối quan hệ chặt chẽ với kinh tế hợp tác xã, vì thế hình thức sở hữu cá thể cũng liên quan mật thiết với hình thức sở hữu tập thể. Kinh tế cá thể, tiểu chủ bao gồm những đơn vị kinh tế và những hoạt động kinh doanh dựa vào nguồn vốn và sức lao động của mỗi cá nhân, nhóm nhỏ là chủ yếu đang chiếm một vị trí quan trọng trong nhiều ngành nghề ở nông thôn cũng như ở thành thị. Nó có điều kiện phát huy nhanh và có hiệu quả tiềm năng về vốn, sức lao động, tay nghề của từng nhóm và từng người dân. Tại Đại hội toàn quốc lần thứ VIII, Đảng ta đã chỉ rõ: “Kinh tế cá thể, tiểu chủ có vị trí quan trọng, lâu dài. Giúp đỡ kinh tế cá thể, tiểu chủ giải quyết các khó khăn về vốn, về khoa học và công nghệ, về thị trường tiêu thụ sản phẩm. Hướng dẫn kinh tế cá thể, tiểu chủ, vì lợi ích thiết thân và nhu cầu phát triển của sản xuất, từng bước đi vào làm ăn hợp tác một cách tự nguyện hoặc làm vệ tinh cho các doanh nghiệp Nhà nước hay hợp tác xã”. Chúng ta đều biết, kinh tế cá thể, tiểu chủ, về thực chất, là thành phần kinh tế sản xuất hàng hoá nhỏ. Đây là thành phần kinh tế dựa trên chế độ tư hữu nhỏ về tư liệu sản xuất và lao động của bản thân và cho đến nay nó vẫn được coi là sở hữu cá nhân. Thứ sở hữu cá nhân đó không phải là một chế độ sở hữu độc lập. Bởi thế, nó không thể tạo ra quan hệ sản xuất, hoặc đại diện cho một quan hệ sản xuất mà chỉ là kết quả tất yếu của quan hệ sản xuất đang tồn tại và phản ánh bản chất của quan hệ sản xuất đó. Thành phần kinh tế này cũng luôn chịu sự tác động của những quy luật kinh doanh và luôn bị phân tán, vì thế cần phải có các biện pháp kinh tế để tác động, hướng dẫn và cải biến nó theo định hướng XHCN. 2.5. Về sở hữu tư bản tư nhân: ở nước ta hiện nay, kinh tế tư bản tư nhân đang hình thành và được phép phát triển. Đây là thành phần kinh tế dựa trên chế độ sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất. Trong điều kiện của nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, sở hữu tư bản tư nhân, bao gồm cả doanh nghiệp của các nhà tư sản và các đơn vị kinh tế mà phần lớn vốn do một hoặc một số tư nhân góp lại, thuê lao động sản xuất kinh doanh dưới hình thức xí nghiệp tư doanh hoặc công ty cổ phần tư nhân. Nó cũng bao gồm cả hình thức kinh tế tư bản tư nhân nước ngoài đầu tư 100% vốn, hoặc nắm giữ tỷ lệ vốn khống chế. Trong thời kỳ quá độ, phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa không còn nguyên vẹn nữa. Bởi thế, kinh tế tư bản tư nhân ở nước ta chỉ hoạt động với tư cách là một thành phần kinh tế trong nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, được “bảo hộ quyền sở hữu và lợi ích hợp pháp”. 2.6. Về sở hữu hồn hợp: Sở hữu hỗn hợp là hình thức sở hữu có sự tham gia của nhiều loại chủ thể khác nhau về tính chất. Có thể nói đây là một loại hình kinh tế trung gian, có tính chất đan xen giữa thành phần kinh tế tư bản chủ nghĩa và thành phần kinh tế XHCN. Trong điều kiện nền kinh tế thế giới hiện đang có nhiều biến đổi, nhìn chung các nước trên thế giới, trong đó có nước ta, thường có ba loại chủ thể kết hợp với nhau để tạo ra các hình thức sở hữu hỗn hợp khác nhau. Đó là sự kết hợp, liên kết giữa các chủ thể: Nhà nước, tập thể và tư nhân để tạo nên các dạng sở hữu sinh động như: Nhà nước và nhân dân; Nhà nước và tập thể; Nhà nước, tập t hể và tư nhân; tập thể và tư nhân,... Thực chất đây cũng là các xí nghiệp (hoặc công ty) cổ phần, chỉ có sự khác biệt là ở chỗ các chủ thể không đồng nhất về tính chất. Đó là các hình thức tổ chức kinh tế không thuộc hẳn vào một thành phần kinh tế nào - hình thức kinh tế hỗn hợp nhiều loại sở hữu dưới dạng công ty, xí nghiệp cổ phần hùn vốn liên doanh hai bên và nhiều bên ở trong nước với nước ngoài. Trong công cuộc xây dựng và phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, chúng ta còn phải sử dụng chủ nghĩa tư bản Nhà nước, hay hình thức kinh tế tư bản Nhà nước làm phương tiện và cứu cánh để._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docT0200.doc
Tài liệu liên quan