Mục lục
Lời nói đầu
Nền văn minh nhân loại suy cho cùng là do sự phát triển đúng hướng của lực lượng sản xuất quyết định. Do đó việc nghiên cứu quy luật vận động và những hình thức phát triển cảu lực lượng sản xuất là một vấn đề hết sức quan trọng.
Thời kỳ quá độ nên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là thời kỳ cải biến cách mạng sâu sắc toàn diện và triệt để về mọi mặt, từ xã hội cũ sang xã hội mới xã hội XHCN. Thời kỳ đó bắt đầu từ khi giai cấp vô sản lên nắm chính quyền cách mạng vô sản thành c
12 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1412 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Quan hệ biện chứng giữa sự phát triển của lực lượng sản xuất và đa dạng hoá các hình thức sở hữu của Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ông vang dội và kết thúc khi đã xây dựng song cơ sở kinh tế chính trị tư tưởng của xã hội mới. Đó là thời kỳ xã hội từ lực lượng sản xuất mới dẫn đến quan hệ sản xuất mới, quan hệ sản xuất mới hình thành lên các quan hệ sở hữu mới. Từ cơ sở hạ tầng mới hình thành lên kiến trúc thượng tầng mới. Song trong một thời gian dài chúng ta đã không nhận thức đúng đắn về chủ nghĩa xã hội về quy luật quan hệ sản xuất phải phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Sự phát triển của lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất tạo lên tính đa dạng hoá các loại hình sở hữu ở Việt Nam từ đó tạo lên tính đa dạng của nền kinh tế nhiều thành pần. Thực tế cho thấy một nền kinh tế nhiều thành phần phải bao gồm nhiều hình thức sở hữu trong giai đoạn xưa kia. Vì vậy nghiên cứu quan hệ biện chứng giữa sự phát triển của lực lượng sản xuất và sự đa dạng hoá các loại hình sơ hữu ở Việt Nam có vai trò quan trọng mang tính cấp thiết cao vì thời đại ngày nay chính là sự phát triển của nền kinh tế thị trường hàng hoá nhiều thành phần. Nghiên cứu vấn đề này chúng ta còn thấy được ý nghĩa lý luận cũng như thực tiễn của nó hết sức sâu sắc.
Nội dung
I. Lý luận chung.
1. Thế nào là lực lượng sản xuất?
Lực lượng sản xuất là mối quan hệ của con người với tự nhiên hình thành trong quá trình sản xuất. Trình độ của lực lượng sản xuất thể hiện ở trình độ khống chế tự nhiên của con người. Đó là kết quả năng lực thực tiễn của con người tác động của tự nhiên tạo ra của cải vật chất đảm bảo sự tồn tại và phát triển của loài người.
Trong cấu thành của lực lượng sản xuất hai thành phần chủ yếu là tư liệu sản xuất và con người lực lượng. Trong đó tư liệu sản xuất đóng vai trò là khách thể, coi con người lao động chính chủ thể.
Tư liệu sản xuất được cấu thành từ hai bộ phận đó là đối tượng lao động và tư liệu lao động. Tư liệu lao động là một hay nhiều vật mà lao động của con người thông qua nó tác động vào đối tượng lao động, nó dẫn truyền tích của sự tác động của con người vào đối tượng lao động. Tư liệu lao động bao gồm công cụ sản xuất và cơ sở vật chất kỹ thuật liên quan đến sản xuất gọi là phương tiện lao động.
Đối tượng lao động gồm có ba loại, một loại có sẵn trong tự nhiên, thứ hai là loại sản phẩm đã qua chế biến cuối cùng là những vùng tự nhiên không thuộc về giới hạn của lao động trực tiếp.
Toàn bộ những vùng của bản thân giới tự nhiên được con người trực tiếp sử dụng đưa vào sản xuất đó là toàn bộ những thứ của tự nhiên, có sẵn trong tự nhiên và là sản phẩm mà tự nhiên dâng hiến cho con người. Tuy nhiên để không lãng phí tài nguyên con người cần phải biết tìm kiếm khai thác và sử dụng hợp lý.
Những sản phẩm không có sẵn trong tự nhiên nhà máy và do con người sáng tạo ra bằng chính sức lao động của mình. Những sản phẩm này rất đa dạng và phong phú ngày càng hoàn thiện gắn liền với sự phát triển của nền sản xuất và thành tựu mới của khoa học kỹ thuật.
Tư liệu lao động dù có tinh xảo và hiện đại đến đâu chăng nữa nhưng nếu tách khỏi người lao động thì cũng không phát huy được tác dụng của nó. Chính vì vậy mà Lênin đã viết: “Lực lượng sản xuất hàng đầu của toàn thể nhân loại là công nhân, là người lao động”. Người lao động với những kinh nghiệm, thói quen lao động biết sử dụng tư liệu sản xuất để tạo ra của cải vật chất: Tư liệu sản xuất với tư cách là khách thể của lực lượng sản xuất, và nó chỉ phát sinh tác dụng khi nó được kết hợp với lao động sống của con người. Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII đã khảng định: “Sự nghiệp phát triển kinh tế đặt con người lên vị trí hàng đầu, vị trí trung tâm thống nhất, tăng trưởng kinh tế với cong bằng khoa học và tiến bộ xã hội”.
Người lao động với tư cách là một bộ phận của lực lượng sản xuất xã hội phải là người có thế lực, có tri thức văn hoá có trình độ chuyên môn nghiệp vụ cao có kinh nghiệm và thói quen tốt, phẩm chất tư cách lành mạnh, lương tâm nghề nghiệp và trách nhiệm cao với công việc, xưa và nay, do chưa chú trọng đúng mức đến vị trí của người lao động, chúng ta không biết khai thác và phát huy hết mọi sức mạnh của nhân tố con người đành rằng năng lực và kinh nghiệm sản xuất mà con người phụ thuộc vào những tư liệu sản xuất hiện có mà họ đang sử dụng. Nhưng họ tích cực sáng tạo, chủ động củ họ bao giờ cũng là động lực trực tiếp thúc đẩy tốc độ quy mô, hiệu quả và chất lượng của nền sản xuất. Thiếu nó sản xuất sẽ mất đi sinh khí.
Vậy phải thấy được con người là sản phẩm phát triển của công cụ sản xuất thích ứng, phải gắn với trình độ văn hoá khoa học, kỹ thuật, thể chất năng lực và trí tuệ.
Ngày nay khoa học công nghệ ngày càng phát triển cùng với các cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật đã tạo ra bước nhảy vọt lớn trong lực lượng sản xuất khoa học đã trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp, công cụ thành tựu khoa học ngày càng được ứng dụng rộng rãi vào trong sản xuất. Do đó cơ cấu lao động sẽ thay đổi theo xu hướng có quy luật là tỷ trọng của lao động trí tuệ - lao động phức tạp ngày càng tăng, càng chiếm ưu thế. Các yếu tố của lực lượng sản xuất có quan hệ biện chứng với nhau phản ánh tính chất và trình độ khống chế tự nhiên của con người. Trình độ khống chế tự nhiên càng cao, phản ánh sự phát triển của lực lượng sản xuất ngày càng phát triển, lao động trí óc thay thế dần lao động chân tay.
2. Phạm trù sở hữu và cơ cấu sở hữu trong giai đoạn trước đây (trước 1986)
a) Sở hữu là gì? quá trình phát triển của nó?
Theo quan niệm của Mác: “Sở hữu được biểu hiện trong những hình thái hiện thực của quan hệ sản xuất ”. Sở hữu là nội dung bên trong của chính thể mang tính thống nhất. Tính hiện thực của sở hữu chỉ được nhận thức một cách gián tiếp thông qua các quan hệ giữa các thành tố của quan hệ sản xuất chứ không thể nhận thức một cách trực tiếp vì sở hữu là tổng hoà các quan hệ sản xuất. Sở hữu đồng thời là sự chiếm hữu. Chiếm hữu bộc lộ qua hình thái giao tiếp vật chất tương ứng của một trình độpt của sản xuất mà cụ thể là sự phân công lao động mang tính chất xã hội.
Như vậy sở hữu là mối quan hệ con người - con người trong việc chiếm hữu tư liệu sản xuất cùng với các điều kiện sản xuất do đó sở hữu là một mặt của quan hệ sản xuất. Sự hình thành và phát triển của sở hữu là một quá trình lịch sử tự nhiên tuân theo quy luật sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất. Cùng với sự phát triển của nền sản xuất xã hội thì nội dung và phạm vi của sở hữu ngày càng được mở rộng.
b. Cơ cấu sở hữu trong giai đoạn trước đây (trước 19/86).
Lịch sử loài người đã từng trải quan hai loại hình sở hữu cơ bản đối với tư liệu sản xuất đó là sở hữu tư nhân và sở hữu xã hội.
Sở hữu xã hội là loại hình sở hữu mà trong đó những tư liệu sản xuất chủ yếu thuộc về mọi thành viên trong xã hội trên cơ sở đó họ có vị trí bình đẳng trong tổ chức lao động xã hội và phân phối sản xuất. Mục đích sản xuất dưới chế độ công hữu là để đảm bảo đời sống và vật chất con người lao động được nâng cao.
Trước đây nước ta với nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung quan liêu, bao cấp. Nền kinh tế tư sản, tư liệu tự cung tự cấp do đó nó chỉ tồn tại 2 hình thức sởhữu chính tương ứng với thành phần kinh tế quốc doanh và tập thể trong nền kinh tế này con người không được tự do buôn bán, trao đổi hàng hoá do đó chưa xuất hiện sở hữu tư nhân chỉ tồn tại hai hình thức sở hữu quốc doanh và tập thể dưới sự điều tiết giá cả cuả nhà nước.
II. Quan hệ biện chứng giữa sự phát triển của lực lượng sản xuất và đa dạng hoá các hình thức sở hữu của Việt Nam.
1. Mội số vấn đề về phát triển lực lượng sản xuất ở nước ta hiện nay.
Nền văn minh nhân loại suy cho cùng là do sự phát triển của lực lượng sản xuất một cách đúng hướng quyết định. xác định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội không quagiai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa, trong đó có vấn đề phát triển lực lượng sản xuất như thế nào là nhiệm vụ quan trọng mang tính cấp bách ở nước ta. Nó không những ảnh hưởng đối với việc định hướng sự phát triển của lực lượng sản xuất mà còn tác động trực tiếp đến tốc độ tăng trưởng và hiệu quả kinh tế - xã hội nước nhà.
Con người có thể tác động đến quá trình phát triển của lực lượng sản xuất. Sự tác động này thể hiện ở chỗ con người có thể đẩy nhanh hay kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất thông qua nhưng hoạt động phù hợp hay không phù hợp với những quy luật vận động của nội tại lực lượng sản xuất với quy luật sự phù hợp của quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất. Mặc dù tư liệu sản xuất, tiền vốn khoa học và kỹ thuật đều là những yếu tố cần thiết để thực hiện sản xuất sang tất cả phải thông qua hoạt động của con người mới đem lại những hiệu quả kinh tế, những giá trị mới. Những yếu tố cần thiết để thực hiện sản xuất sang tất cả phải thông qua hoạt động của con người mới đem lại những hiệu quả kinh tế, những giá trị mới. Những yếu tố trên sẽ tồn tại dưới dạng tiềm năng và nó sẽ trở thành vô hiệu hoá khi nó không được đặt trong mối quan hệ giữa tư liệu lao động và người lao động, đối tượng lao động.
Trên đây là một số suy nghĩ về vấn đề phát triển lực lượng sản xuất ở nước ta hiện nay. Quá trình phát triển của lực lượng sản xuất tuân theo những quy luật nội tại khách quan của nó. con người chỉ có thể tác động tự giác hoặc tự phát thúc đẩy kìm hãm sự phát triển của nó tuỳ theo mức độ đúng đắn của nhận thức và cơ sở khoa học của hành động tuyệt đối hoá các bước phát triển “tuần tự” coi sự phát triển của lực lượng sản xuất chỉ là sự thay đổi đơn giản về số lượng quy mô sẽ dần dần dẫn đến tình trạng trì trệ. Ngược lại tuyệt đối hoá “nhảy vọt” dẫn đến phạm vi tiến trình lịch sử tự nhiên. Chủ động kết hợp quá trình “tuần tự và nhảy vọt” để phát triển lực lượng sản xuất dựa trên các đặt điểm cụ thể của đất nước và thời đại là con đường vững chắc nhất, hiệu quả nhất và nhanh nhất.
2. Sự đa dạng hoá các hình thức sở hữu ở Việt Nam.
a.Tất yếu khách quan của sự đa dạng hoá các hình thức sở hữu ở nước ta trong giai đoạn hiện nay.
Các hình thức sở hữu quy định các thành phần kinh tế tương ứng.Thực tiễn đã cho thấy, một nền kinh tế nhiều thành phần dương nhiên phải bao gồm nhiều hình thức sở hữu chứ không chỉ đơn thuần là 2 hình thức sở hữu như trước đây.
Mác và lênin trong quá trình phân tích sự vận động của các nền kinh tế đã từng tồn tại trong lịch sử đã chỉ ra rằng rất hiếm khi nenè kinh tế chỉ tồn tịa một thành phần kinh tế duy nhất. Thời kỳ quá độ lên CNXH là thời kỳ đấu tranh giữa 2 thế lực cũ và mới, cái cũ đã bị tiêu diệt nhưng chưa bị tiêu diệt hẳn, còn cái mới đang nảy sinh nhưng còn rất non yếu. Do đó trong kinh tế bao gồm những mảnh những biện pháp của CNTB cũng như của trước XHTB còn rơi rớt lại và của cả CNXH. Những mảnh những bộ phận đó là các thành phần kinh tế cùng tồn tại bên cạnh nhau trong thời kỳ quá độ hay trong nền kinh tế thị trường
b, Các hình thức sở hữu trong nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN ở nước ta hiện nay.
Trong công cuộc xây dựng và phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay, vấn đề chế độ sở hữu và các hình thức sở hữu luôn thu hút sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu lý luận. Trong giai đoạn hiện nay nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng XHCN mà chúng ta đang xây dựng và phát triển bao gồm các hình thức sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể, sở hữu cá thể, sở hữu tư bản tư nhân và các hình thức sở hữu hỗn hợp. Trong các hình thức sở hữu này khái quát lại chỉ có 2 hình thức sở hữu cơ bản là công hữu và tư hữu còn các hình thức khác chỉ là hình thức trung gian, quá độ hoặc hỗn hợp. ở đây, mỗi hình thức sở hữu lại có nhiều phương thức thể hiện và trình độ thể hiện khác nhau. chúng được hình thành trên cơ sở có cùng bản chất kinh tế và tuỳ theo trình độ phát triển của lực lượng sản xuất và năng lực quản lý.
Trong nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần mỗi hình thức sở hữu nói trên có địa vị và vai trò riêng của chúng. Địa vị lịch sử của chúng phụ thuộc vào sự phát triển của lực lượng sản xuất tiến trình phát triển của nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Ngày nay dưới ánh sáng của thực tiễn và tư duy mới cho phép chúng ta đi đến kết luận. Trong CNXH cần phải tồn tại đa dạng hoá tất cả các loại hình sở hữu, bên cạnh những hình thức truyền thống có nhiều sở hữu khác nhau. việc xây dựng nền kiểm toán thị trường không thể tách rời việc đa dạng hoá các hình thức sở hữu về tư liệu sản xuất.
3. Sự phù hợp của quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất.
a. Tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất.
Tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất là tính chất của tư liệu lao động và người lao động. Khi công cụ sản xuất được sử dụng bởi từng cá nhân riêng biệt để sản xuất ra một sản phẩm cho xã hội không cần đến lao động củ nhiều người thì lực lượng sản xuất có tính cá thể. Công cụ sản xuất được nhiều người sử dụng để sản xuất ra các vật phẩm thì lực lượng sản xuất mang tính chất xã hội.
Trình độ phát triển của lực lượng sản xuất càng cao thì chuyên môn hoá và phân công lao động xã hội càng sâu trình độ phân công lao động xã hội và chuyên môn hoá là hình thước đo trình độ sản xuất.
b. Lực lượng sản xuất quyết định sự hình thành và phát triển biến đổi của các hình thức sở hữu.
Để nâng cao hiệu quả trong quá trình sản xuất và gimở rộng bớt lao động nặng nhọc, con người không ngừng cải tiến hoàn thiện và chế tạo ra các công cụ sản xuất mới. Đồng thời sự tiến bộ của công cụ tri thức khoa học, trình độ chuyên môn kỹ thuật và mọi kỹ năng của người lao động ngày càng phát triển. Yếu tố năng động này của lực lượng sản xuất đòi hỏi quan hệ sản xuất phải thích ứng với nó. Lực lượng sản xuất quyết định sự hình thành phát triển và biến đổi của quan hệ sản xuất do đó nó quy định quá trình phát triển và biến đổi của quan hệ sở hữu.
Sự lớn mạnh của các lực lượng sản xuất đã dẫn đến mâu thuẫn gay gắt với chế độ sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa lực lượng sản xuất càng phát triển bao nhiêu thì các thành phần kinh tế càng trở nên đa dạng bấy nhiêu từ đó các hình thức sở hữu cũng trở nên đa dạng. Bởi vì tính đa dạng của các hình thức sở hữu chính là đặc trưng cơ bản của nền sản xuất hàng hoá. Mà các hình thức sở hữu được biểu hiện thông qua các quan hệ sản xuất. Từ đó lực lượng sản xuất lại thông qua quan hệ sản xuất mà tác động đến sự hình thành phát triển và biến đổi của quan hệ sở hữu nói chung, sự đa dạng hoá các hình thức sở hữu nói riêng .
c. Sự tác động trở lại của sự đa dạng hoá các hình thức sở hữu đối với lực lượng sản xuất.
Mặc dù sự đa dạng hoá các hình thức sở hữu bị chi phối bởi lực lượng sản xuất nhưng với tính cách là hình thức, sự đa dạng hoá các hình thức sở hữu nói riêng hay quan hệ sở hữu nói chung cũng có tác động trở lại đối với lực lượng sản xuất.
Việc sử dụng nhiều trình độ, nhiều hình thức kinh tế với nhiều cấp độ khác nhau nhằm khai thác triệt để mọi năng lực sản xuất cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá với mục tiêu xây dựng nước ta thành nước công nghiệp có cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại, cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.
Tóm lại quy luật về sự phù hợp cua quan hệ sản xuất noi chung, quan hệ sở hữu nói riêng với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất là quy luật chung của sự phát triển xã hội dưới tác động của quy luật này, xã hội là sự phát triển kế tiếp nhau từ thấp đến cao của phương thức sản xuất. Song không phải lúc loài người đã bỏ qua thực tiễn cho thấy rằng lực lượng sản xuất chỉ có thể phát triển một khi có quan hệ sản xuất mới phù hợp với nó. Quan hệ sản xuất lạc hậu hoặc tiên tiến một cách giả tạo sẽ kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất
4. Quan hệ biện chứng giữa sự phát triển của lực lượng sản xuất với đa dạng hoá các hình thức sở hữu.
Trước đây nói đến chủ nghĩa xã hội chúng ta thường nói đến chế độ công hữu về tư liệu sản xuất giữa 2 hình thức toàn dân và tập thể, hơn nữa còn cho rằng sở hữu tập thể chỉ là một bước quá độ đi đến XHCN chỉ còn lại một hình thức sở hữu duy nhất về tư liệu sản xuất là sở hữu toàn dân. Song thực tế lịch sử đã không thừa nhận điều đó.
ở nước ta từ đại hội lần thứ VI của Đảng đến nay đã hơn 10 năm thực hiện đường lối đổi mới chuyển từ mô hình kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng XHCN.
Thành tựu đạt được trong 10 năm qua đã khảng định tính đúng đắn của đường lối đó đến nay, không ai phủ nhận phải đa dạng hoá các hình thức sở hữu, phải sử dụng nền kiểm toán hàng hoá nhiều thành phần nhưng có nhiều quan điểm cho rằng chúng ta phải da dạng hoá các hình thức sở hữu phải sử dụng nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần do có lực lượng sản xuất của chúng ta còn thấp kém còn đan xen nhiều trình độ khác nhau.
Với quan điểm đó phải chăng đa dạng hoá các hình thức sở hữu chỉ là lực lượng sản xuất còn thấp kém, còn khi lực lượng sản xuất phát triển cao thì lại đi đến đơn nhất hoá. Rõ ràng xu hướng ngày càng đa dạng hoá các hình thức sở hữu về tư liệu sản xuất gắn liền với sự phát triển của lực lượng sản xuất của phân công lao động trong xã hội là một xu hướng tất yếu là một quá trình lịch sử - tự nhiên và là một quy luật phát triển của xã hội. Đó cũng chính là quá trình xã hội hoá sản xuất cả về lực lượng sản xuất lẫn quan hệ sản xuất. Đó cũng chính là một quá trình xã hội hoá về các mặt lực lượng x thành quá trình phân công lao động xã hội ngày càng sâu sắc trong mỗi nước cũng như trên lĩnh vực quốc tế và khu vực, còn xã hội hoá về quan hệ sản xuất (quan hệ sở hữu) chính là quá trình ngày càng đa dạng hoá các hình thức sở hữu làm cho sở hữu có nhiều cấp độ khác nhau, quan hệ với nhau, bổ xung cho nhau. Điều này khác với quan điểm trước đây đã đồng nhất xã hội hoá về sở hữu tư liệu sản xuất với công hữu hoá.
Kết luận
Gắn liền với quá trình hình thành phát triển của phân công lao động trong xã hội và đa dạng hoá các hình thức sở hữu là quá trình hình thành và phát triển của kinh tế hàng hoá kinh tế thị trường chính là sự phát triển của lực lượng sản xuất và phân công lao động xã hội và sự đa dạng hoá các hình thức sở hữu đã sinh ra kinh tế thị trường, đến lượt nó kinh tế thị trường lại là động lực mạnh mẽ thúc đẩy sự phát triển của lực lượng sản xuất hay nói cách khác chính sự đa dạng hoá các hình thức cũng là một động lực mạnh mẽ thúc đẩy quá trình phát triển của lực lượng sản xuất góp phần nâng cao năng suất lao động thúc đẩy sản xuất ngày càng phát triển mạnh mẽ.
Như vậy, nghiên cứu quan hệ biện chứng giữa sự phát triển của lực lượng sản xuất và đa dạng hoá các hình thức sở hữu ở Việt Nam là hết sức cần thiết và cấp bách trong giai đoạn hiện nay với một nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần. Vì qua nghiên cứu đề tài này chúng ta thấy được: trong nền kinh tế thị trường hiện nay sự phát triển của lực lượng sản xuất và đa dạng hoá có rất nhiều tác dụng mạnh mẽ, tích cực đến sự phát triển của nhà nước. Nó đã đưa đất nước thoát khỏi nghèo làn lạc hậu tiến lên CNXH nhất là sau 10 năm thực hiện công cuộc đổi mới.
Qua nghiên cứu đề tài này giúp em có thêm nhận thức, hiểu biết một cách toàn diện về các thành phần kinh tế xã hội. Vấn đề về sự phát triển của lực lượng sản xuất hiện nay của đất nước. Nó hết sức bổ ích cho việc nghiên cứu và học tập mọi sinh viên. Đồng thời nó còn giúp cho chúng ta nhận thức đúng đắn về nền kinh tế nhà nước để mai đây khi đã trở thành mộ cán bộ hoạt động trên lĩnh vực kinh tế chúng ta tránh được nhiều sai lầm trong công tác quản lý và điều hành quản lý nền kinh tế được tốt hơn.
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 28276.doc