Quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất với quan hệ sản xuất - Vận dụng vào sự nghiệp xây dựng CNXH ở nước ta hiện nay

lời mở đầu Từ khi con người biết lao động thì phương thức sản xuất cũng ra đời, ứng với mỗi giai đoạn phát triển của xã hội là một phương thức sản xuất khác nhau. Loài người đã trải qua năm phương thức sản xuất theo trật tự từ thấp lên cao: cộng sản nguyên thuỷ, chiếm hữu nô lệ, phong kiến, tư bản chủ nghĩa, xã hội chủ nghĩa. Đó là quá tự nhiên của sự phát triển lịch sử, thể hiện tính liên tục lịch sử. Thế kỉ 19, Mác và ănghen đã đưa ra quy luật về sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất với lực lượn

doc27 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1380 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất với quan hệ sản xuất - Vận dụng vào sự nghiệp xây dựng CNXH ở nước ta hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
g sản xuất. Quy luật của hai ông không những cung cấp một cơ sở lý luận vững chắc cho toàn thể nhân dân tiến bộ thế giới mà còn gạt bỏ tất cả các luận điểm xuyên tạc của các thế lực đi ngược lại lợi ích của nhân loại. Lần đâu tiên trong lịch sử nhân loại, phương thức sản xuất tiếp theo được dự báo nhờ quy luật phù hợp. Chính vì vậy quy luật phù hợp giữa quan hệ sản xuất với lực lượng sản xuất của hai ông đã gây được tiếng vang lớn cho ngày nay và nó sẽ còn luôn tồn tại bởi sự đúng đắn của nó trong mọi giai đoạn phát triển của lịch sử. Đối với nước ta việc áp dụng sáng tạo quy luật phù hợp này trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội là rất cần thiết. Nước ta xuất phát điểm lên chủ nghĩa xã hội thấp hơn rất nhiều các nước xã hội chủ nghĩa trước đây. Thế nhưng tại sao các nước xã hội cũ như Liên Xô, Đông Âu lại sụp đổ và buộc phải quay trở lại chế độ tư bản chủ nghĩa? Nước ta muốn tránh không đi vào vết xe đổ đó phải làm gì? Sau đây là vài ý kiến của tôi về quy luật phù hợp giữa quan hệ sản xuất với lực lượng sản xuất và việc vận dụng quy luật này vào nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Do tầm hiểu biết và trình độ nhận thức còn hạn chế về mọi mặt nên không tránh khỏi những sai sót mong thầy cô giáo góp ý để bài viết được hoàn thiện hơn. I. Lý luận 1. Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là gì ? Lực lượng sản xuất biểu hiện mối quan hệ giữa con người với tự nhiên. Trình độ lực lượng sản xuất thể hiện trình độ chinh phục tự nhiên của con người trong từng giai đoạn lịch sử nhất định. Đó là thước đo năng lực thực tiễn của con người trong quá trình cải tạo tự nhiên nhằm bảo đảm sự sinh tồn và phát triển của loài người. Lực lượng sản xuất là sự kết hợp giữa người lao động với tư liệu sản xuất, trước hết là công cụ lao động. Với tính cách là chủ thể trong sản xuất, con người với sức lao động, kinh nghiếm, thói quen, tri thức khoa học-kĩ thuật của mình, sử dụng tư liệu lao động, trước hết là công cụ tác động vào đối tượng lao động để tạo ra của cải vật chất. Quá trình đó cũng là quá trình cải tiến công cụ, bổ sung và hoàn thiện tư liệu lao động nhằm đạt năng suất lao động xã hội cao. Với ý nghĩa đó, người lao động là nhân tố chủ yếu, hàng đầu của lực lượng sản xuất. Lê-nin viết:"Lực lượng sản xuất hàng đầu của toàn thể nhân loại là công nhân, là người lao động." Công cụ lao động là khí quan vật chất "nhân" sức mạnh con người trong quá trình biến đổi tự nhiên. Công cụ là yếu tố động nhất trong lực lượng sản xuất, nó có vị trí quyết định trong tư liệu sản xuất. Cùng với những sáng chế, phát minh khoa học trong mỗi thời đại, công cụ không ngừng được cải tiến, tư liệu sản xuất mở rộng, đối tượng lao động đa dạng hoá, ngành nghề mới xuất hiện dẫn đến phân công lao động xã hội ngày càng cao. Trình độ phát triển của công cụ vừa là thước đo trình độ chinh phục tự nhiên của con người, vừa là tiêu chuẩn phân biệt sự khác nhau giữa các thời đại kinh tế, kỹ thuật trong lịch sử. C.Mác viết: "Những thời đại kinh tế khác nhau không phải ở chỗ chúng sản xuất ra cái gì, mà là ở chỗ chúng sản xuất bằng cách nào, với những tư liệu lao động nào." Ngày nay, khoa học đã phát triển đến mức nó trở thành nguyên nhân trực tiếp của mọi biến đổi to lớn trong sản xuất, quản lý, điều khiển các quá trình công nghệ, tạo ra những ngành sản xuất mới, hiện đại, những lĩnh vực kỹ thuật mũi nhọn, những phương pháp sản xuất mới, những nguồn năng lượng mới với hàng loạt vật liệu nhân tạo có tác dụng to lớn, nhiều mặt mà các cuộc cách mạng khoa học, kỹ thuật ở những thế kỷ trước không thể có được. Với ý nghĩa to lớn đó, khoa học đang trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp của quá trình sản xuất xã hội. Chưa bao giờ trí thức khoa học được vật chất hoá, kết tinh, thâm nhập vào các yếu tố của lực lượng sản xuất và cả quan hệ sản xuất nhanh và có hiệu quả như ngày nay. Khoa học không còn là lý thuyết đứng ngoài quá trình sản xuất vật chất mà chuyển thành mắt khâu bên trong của hệ thống sản xuất cả trong lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất. ý nghĩa trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp của khoa học không chỉ riêng khoa học tự nhiên mà cả khoa học xã hội ở mức độ nhất định. Cùng với sự phát triển của lực lượng sản xuất, công cụ lao động được cải tiến, con người không ngừng nâng cao năng suất lao động. Năng suất lao động được coi là tiêu chuẩn cơ bản để đánh giá trình độ lực lượng sản xuất của một xã hội nhất định. Lực lượng sản xuất do con người tạo ra, song nó vẫn là yếu tố khách quan, là nền tảng vật chất của toàn bộ lịch sử nhân loại. Lực lượng sản xuất được kế thừa và phát triển liên tục từ thế hệ này sang thế hệ khác. Mỗi thế hệ sinh ra đều phải thích ứng với một trình độ lực lượng sản xuất của thế hệ trước để lại, vì "lực lượng sản xuất là kết quả của năng lực thực tiễn của con người, nhưng bản thân năng lực thực tiễn này bị quyết định bởi những điều kiện trong đó người ta sống, bởi những lực lượng sản xuất đã đạt được, bởi hình thái xã hội đã có trước họ, không phải do họ tạo ra mà do thế hệ trước tạo ra." b) Quan hệ sản xuất Quan hệ sản xuất là quan hệ giữa người với người trong quan hệ sản xuất vật chất, thể hiện ở quan hệ sở hữu đối với tư liệu sản xuất, quan hệ trong tổ chức quản lý và trao đổi hoạt động với nhau và quan hệ về phân phối sản phẩm. Quan hệ sản xuất do con người tạo ra, song nó được hình thành một cách khách quan không phụ thuộc vào ý muốn chủ quan, tuỳ tiện của một lực lượng sản xuất ở một giai đoạn lịch sử nhất định. Để tiến hành sản xuất, con người chẳng những phải quan hệ với tự nhiên mà còn phải quan hệ với nhau để trao đổi hoạt động và kết quả lao động, do đó sản xuất bao giờ cũng mang bản chất xã hội. C.Mác viết: "Người ta chỉ sản xuất được bằng cách hợp tác với nhau một cách nào đó và trao đổi hoạt động với nhau. Muốn sản xuất được người ta phải đẻ lại mối liên hệ và quan hệ chặt chẽ với nhau, và chỉ có trong phạm vi những mối liên hệ và quan hệ đó thì mới có sự tác động của họ vào giới tự nhiên, tức là sản xuất. Trong quan hệ sản xuất, quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất giữ vai trò quyết định các quan hệ khác. Địa vị kinh tế của các tập đoàn người trong sản xuất và trong phân phối sản phẩm đều do chế độ sở hữu và các hình thức chiếm hữu đối với tư liệu sản xuất quy định. Do chế độ sở hữu trong xã hội có giai cấp là khác nhau vì vậy quan hệ phân phối lơị ích cũng có sự khác nhau. Hiện nay có thể phân biệt rõ ràng rằng trong nền kinh tế lực lượng sản xuất do cơ sở vật chất kĩ thuật của nền sản xuất quyết định, còn quan hệ sản xuất lại do chế độ sở hữu về tư liệu sản xuất trực tiếp quyết định. Lịch sử xã hội đã trải qua hai kiểu sở hữu về tư liệu sản xuất: sở hữu tư nhân và sở hữu công cộng. Nếu tư liệu sản xuất nằm trong tay một số ít người, còn những người khác không có được hoặc có rất ít tư liệu sản xuất thì quan hệ giữa người với người trong sản xuất vật chất và trong đời sống xã hội nói chung là quan hệ thống trị, là quan hệ bóc lột và bị bóc lột. Đây là nguồn gốc sinh ra đối kháng giai cấp và đấu tranh giai cấp. Trong sự tác động lẫn nhau của các quan hệ cấu thành quan hệ sản xuất, quan hệ về tổ chức và quan hệ phân phối có vai trò rất quan trọng. Quan hệ tổ chức, quan hệ quản lý và quan hệ phân phối có thể góp phần củng cố phát triển quan hệ sản xuất, cũng có thể làm xói mòn, biến dạng quan hệ sở hữu, làm cho quan hệ sở hữu từ chỗ chỉ mang tính hình thức về mặt pháp ly đi tới chỗ được thực hiện về mặt kinh tế. Quan hệ sản xuất mang tính ổn định tương đối trong bản chất xã hội và tính phong phú, đa dạng trong hình thức biểu hiện. 2. Quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất. Quy luật quan hệ phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất là quy luật phổ biến tác động trong toàn bộ lịch sử nhân loại. Sự thay thế, phát triển đi lên của lịch sử xã hội loài người từ chế độ công xã nguyên thuỷ đến chế độ chiếm hữu nô lệ, chế độ phong kiến, chế độ tư bản chủ nghĩa và xã hội cộng sản tương lai là do tác động của hệ thống các quy luật xã hội, trong đó quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất là quy luật cơ bản nhất. a) Lực lượng sản xuất quyết định sự hình thành, phát triển và biến đổi của quan hệ sản xuất. Lực lượng sản xuất là yếu tố động nhất, không ngừng phát triển của sinh hoạt vật chất của xã hội. Điều đó do chính bản chất của quá trình sản xuất vật chất quyết định, trong khi đó sản xuất diễn ra không ngừng vì con người không thể tồn tại nếu không có của cải vật chất. Sự phát triển của lực lượng sản xuất được đánh dấu bằng trình độ của lực lượng sản xuất. Trình độ lực lượng sản xuất chỉ năng lực chinh phục tự nhiên của con người, được quy về trước hết là công cụ lao động, trình độ tổ chức và phân công lao động xã hội, trình độ ứng dụng khoa học vào sản xuất, trình độ kinh nghiệm và kỹ năng lao động của con người. Trình độ phân công lao động biểu hiện trình độ của lực lượng sản xuất ở một giai đoạn nhất định của lịch sử sản xuất vật chất. Khi còn sản xuất với những công cụ thủ công, lực lượng sản xuất mang tính cá nhân. Nó thể hiện tính chất của tư liệu sản xuất là sử dụng công cụ thủ công và tính chất của lao động là riêng lẻ, tách rời nhau. Khi sản xuất bằng máy ra đời, lực lượng sản xuất mang tính chất xã hội hoá. Nó thể hiện tính chất của tư liệu sản xuất là sử dụng máy móc và tính chất của lao động là do nhiều người sử dụng tư liệu sản xuất ấy theo kiểu phân công mỗi người một bộ phận; sản phẩm làm ra là kết quả hiệp tác của nhiều người. Chỉ đến nền sản xuất tư bản chủ nghĩa, lực lượng sản xuất mới đạt tới tính chất xã hội hoá. Tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất không tách rời. Một tình trạng nhất định của lực lượng sản xuất nói lên cả tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất. Sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất là sự kết hợp đúng đắn giữa các yếu tố cấu thành quan hệ sản xuất; giữa các yếu tố cấu thành lực lượng sản xuất; của quan hệ sản xuất với lực lượng sản xuất đem lại những phương thức liên kết có hiệu quả cao giữa người lao động với tư liệu sản xuất. Trong quá trình phát triển của sản xuất xã hội, ban đầu lực lượng sản xuất, trước hết là công cụ sản xuất thay đổi, sau đó là quan hệ sản xuất giữa người với người mới thay đổi. Mác đã vạch ra: Công cụ lao động không những là thước đo sự phát triển của sức lao động loài người mà còn là dấu hiệu vạch rõ những quan hệ xã hội trong đó lao động được tiến hành. Sự thay đổi công cụ sản xuất không những ảnh hưởng đến quan hệ sản xuất mà còn có thể thay quan hệ sản xuất mới bằng quan hệ sản xuất mới tiến bộ hơn. Trong xã hội nguyên thuỷ, chỉ với công cụ sản xuất bằng đá, lực lượng sản xuất chưa phát triển nên tất cả những cái làm ra đều tiêu dùng hết không còn dư thừa nên không thể có ai chiếm đoạt làm của riêng. Với sự ra đời của công cụ lao động bằng kim loại, nhất là bằng sắt, đã làm cho năng suất lao động tăng lên rất nhiều, thúc đẩy sản xuất thủ công và công việc kiến trúc phát triển. Sự phát triển của lực lượng sản xuất đã làm xuất hiện một số sản phẩm thừa, đây là lý do dẫn đến chế độ tư hữu và sự bất bình đẳng về tài sản ra đời. Cùng lúc đó phân công lao động xã hội ngày càng sâu sắc đã làm tan rã nền sản xuất công xã và chế độ chiếm hữu sản phẩm của công xã bị phá vỡ. Những xã viên của công xã bị phá sản bắt đầu rơi vào tình cảnh nô lệ và nợ nần nặng nề, chế độ người bóc lột người xuất hiện, kết cấu của xã hội thay đổi. Đó là những hậu quả của sự thay đổi công cụ sản xuất và nâng cao năng suất lao động. Việc chuyển từ thủ công nghiệp và lao động bằng tay sang sản xuất bằng máy móc đã làm cho chế độ kinh tế tư bản chủ nghĩa chiến thắng được chế độ phong kiến. Trong lòng chế độ phong kiến, do không cạnh tranh được với những xưởng tương đối lớn, có trang bị máy móc, những người thợ thủ công đã bị phá sản và trở thành công nhân làm thuê. Máy móc không những xâm nhập vào nền công nghiệp mà còn xâm nhập vào nền nông nghiệp phân hoá giai cấp nông dân thành giai cấp tư sản nông thôn và giai cấp vô sản nông thôn. Chính phần giai cấp vô sản nông thôn này đã ra thành thị kiếm sống và trở thành giai cấp công nhân. Việc phát minh ra máy dệt, máy kéo sợi, động cơ hơi nước, và đồng thời là sự xuất hiện của người công nhân kiểu mới đã gây nên một cuộc cách mạng trong công nghiệp. Dựa vào lực lượng sản xuất mới, giai cấp tư sản đã chấm dứt được cách tổ chức kinh tế theo lối phong kiến. Khuynh hướng của sản xuất vật chất là không ngừng biến đổi, phát triển. Sự biến đổi đó bao giờ cũng bắt đầu bằng sự biến đổi và phát triển của lực lượng sản xuất. Lực lượng sản xuất biến đổi dẫn đến mâu thuẫn gay gắt với quan hệ sản xuất hiện có và xuất hiện một đòi hỏi khách quan là xoá bỏ quan hệ sản xuất cũ, thay bằng kiểu quan hệ sản xuất mới phù hợp với lực lượng sản xuất. Như vậy, quan hệ sản xuất là hình thức phát triển của lực lượng sản xuất (phù hợp). Nhưng do tính năng động của lực lượng sản xuất mâu thuẫn với tính ổn định tương đối của quan hệ sản xuất nên quan hệ sản xuất từ chỗ phù hợp với lực lượng sản xuất lại trở nên không phù hợp và trở thành xiềng xích kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất (không phù hợp). "Phù hợp" và "không phù hợp" là biểu hiện của mâu thuẫn biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, tức là phù hợp trong mâu thuẫn và bao hàm mâu thuẫn. Mâu thuẫn biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất luôn được tái tạo trong sự lặp lại có tính quy luật của quá trình sản xuất vật chất. Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất là quy luật xã hội. Nó được thông qua hoạt động của con người có ý thức. Vì vậy, việc phát hiện và giải quyết mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất phụ thuộc vào nhân tố chủ quan của con người. Con người phát hiện ra những yếu tố không phù hợp, giải quyết mâu thuẫn đem lại sự phù hợp với trình độ phát triển mới của lực lượng sản xuất. Nhưng rồi quan hệ sản xuất này cũng sẽ trở thành không phù hợp với lực lượng sản xuất này cũng sẽ trở thành không phù hợp với lực lượng sản xuất và được phát triển ở trình độ mới; cứ như thế, sự phù hợp biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất được biểu hiện ra là: phù hợp - không phù hợp - phù hợp - ... Ngày nay nền sản xuất lớn tư bản chủ nghĩa đã tạo ra một lực lượng sản xuất đồ sộ; tính chất xã hội hoá của lực lượng sản xuất ngày càng cao mâu thuẫn với quan hệ sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất. Sự không phù hợp của quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa với lực lượng sản xuất đã xã hội hoá cao đưa đến xung đột xã hội gay gắt. Trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội viết: "Trước mắt, chủ nghĩa tư bản còn có tiềm năng phát triển kinh tế, nhờ ứng dụng những thành tựu mới của khoa học và công nghệ, cải tiến phương pháp quản lý, thay đổi cơ cấu sản xuất, điều chỉnh các hình thức sở hữu và chính sách xã hội. Tuy vậy, chủ nghĩa tư bản vẫn là một chế độ áp bức, bóc lột và bất công. Mâu thuẫn cơ bản vốn có của chủ nghĩa tư bản giữa tính chất xã hội hoá ngày càng cao của lực lượng sản xuất với chế độ chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa ngày càng sâu sắc." Trong tất cả các hình thái xã hội trước chủ nghĩa xã hội, lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất dần trở nên mâu thuẫn không điều hoà mâu thuẫn đó cuối cùng sẽ được giải quyết bằng cách mạng xã hội, bằng cách tiêu diệt quan hệ sản xuất lỗi thời, kìm hãm sự phát triển của xã hội. Thủ tiêu được xung đột giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất thì sẽ tạo nên những khả năng mới để phát triển sản xuất. b) Sự tác động trở lại của quan hệ sản xuất đối với lực lượng sản xuất. Khi phù hợp cũng như lúc không phù hợp với lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất bao giờ cũng thể hiện tính độc lập tương đối với lực lượng sản xuất. Quan hệ sản xuất tác động trở lại lực lượng sản xuất, quy định mục đích xã hội của lực lượng sản xuất, khuynh hướng phát triển của quan hệ lợi ích; từ đó hình thành một hệ thống yếu tố hoặc thúc đẩy hoặc kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất. Tác dụng thúc đẩy hay kìm hãm của quan hệ sản xuất với lực lượng sản xuất là tương đối. Trong các hình thái kinh tế xã hội khác nhau, trong các giai đoạn khác nhau của quá trình lịch sử, lực lượng sản xuất phát triển với tốc độ rất khác nhau. Quan hệ sản xuất có ảnh hưởng quyết định đối với tốc độ và tính chất phát triển của lực lượng sản xuất. Tính chất của quan hệ sản xuất quyết định những quy luật kinh tế đặc thù của sự phát triển của lực lượng sản xuất của mỗi hình thái kinh tế xã hội, quyết định những động lực thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển. Nó tạo ra địa bàn tương đối lớn để cho sản xuất phát triển. Với sự phát triển tất yếu khách quan của lực lượng sản xuất thì quan hệ sản xuất lỗi thời cuối cùng sẽ bị thay thế bởi một kiểu quan hệ sản xuất mới phù hợp với trình độ phát triển mới của lực lượng sản xuất. Tuy vậy, khi mâu thuẫn khách quan giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất bộc lộ gay gắt và đòi hỏi phải giải quyết nhưng con người không phát hiện được, hoặc phát hiện mà không giải quyết được mâu thuẫn, hoặc do những sai lầm chủ quan trong quá trình giải quyết mâu thuẫn,... thì tác dụng kìm hãm của quan hệ sản xuất sẽ trở thành nhân tố phá hoại đối với lực lượng sản xuất. Nhưng cuối cùng quy luật vẫn tự vạch đường cho nó đi. c) Sự phát triển của mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuât và quan hệ sản xuất trong chế độ tư bản chủ nghĩa. Chế độ tư hữu tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất dùng để bóc lột công nhân làm thuê là cơ sở của quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa. Khác với các nền kinh tế trước, chủ nghĩa tư bản là nền sản xuất hàng hoá, hơn nứa là nền sản xuất hàng hoá ở giai đoạn phát triển cao khi mà cả sức lao động cũng trở thành hàng hoá. Chủ nghĩa tư bản sử dụng lao động làm thuê tự do thay người nông nô đã tạo nên một cuộc cách mạng trong kỹ thuật sản xuất và đã nâng cao năng suất lao động dựa vào máy móc. Trong thời kì đầu, chủ nghĩa tư bản đã tạo nên những kích thích to lớn không sao lường được để phát triển lực lượng sản xuất hơn hẳn tất cả các hình thái xã hội trước đó. Sự phát triển của sản xuất hàng hoá đã phá vỡ tính chất biệt lập và cô lập tự tại của các bộ và các vùng kinh tế mà nền kinh tế tự nhiên vốn có, đã thống nhất các thị trường địa phương thành thị trường dân tộc thống nhất và sau đó là thị trường thế giới. Trong chế độ tư bản chủ nghĩa, sản xuất ngày càng có tính chất xã hội, nhưng tư liệu sản xuất vẫn là tài sản tư hữu. Vì vậy nảy ra mâu thuẫn giữa tính chất xã hội của sản xuất và hình thức chiếm hữu tư nhân. Mâu thuẫn đó phát triển thành sự xung đột giữa lực lượng sản xuất và toàn bộ các quan hệ tư bản chủ nghĩa về sản xuất, trao đổi và phân phối. Phần lớn thu nhập quốc dân lại tập trung trong tay một số ít người là những nhà tư bản kếch xù do đó đã dẫn đến tình trạng khủng hoảng sản xuất "thừa". Khủng hoảng ở chỗ hàng hoá sản xuất ra không tiêu thụ được, sản xuất bị thu hẹp, thợ thuyền bị thất nghiệp, xí nghiệp bị đóng cửa. Tình trạng "thừa" hàng hoá không có nghĩa là so với sức mua eo hẹp của quần chúng. Trong lúc khủng hoảng "thừa" thì lại có hàng triệu quần chúng lao động bị đói rét. Mâu thuẫn cơ bản của chủ nghĩa tư bản chính là nguyên nhân sâu xa của khủng hoảng kinh tế. Do sự phát triển của mâu thuẫn cơ bản của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa buộc chủ nghĩa tư bản phải có sự điều chỉnh về quan hệ sản xuất nên nó phát triển lên một giai đoạn mới. Do sự phát triển của các phong trào cách mạng sau chiến tranh thế giới lần II như phong trào xã hội chủ nghĩa, phong trào đấu tranh giải phong dân tộc, phong trào công nhân ở các nước tư bản, phong trào đấu tranh đòi hoà bình, chống chiến tranh tạo ra sự không ổn định trong tình hình kinh tế chính trị của chủ nghĩa tư bản. Nó đe doạ lợi nhuận độc quyền cao và nó đặt chủ nghĩa tư bản trước nguy cơ sụp đổ. Trước tình hình đó, giai cấp tư sản đã có những điều chỉnh thích hợp về cả lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất Về lực lượng sản xuất, có sự vận động của cả ba yếu tố: tư liệu sản xuất, đối tượng lao động và con người. Do sự tác động của cuộc cách mạng khoa học công nghiệp hiện đại làm cho nền sản xuất tư bản chủ nghĩa đang từ giai đoạn cơ khí sang tự động hoá thể hiện ở chỗ những người máy công nghiệp được ứng dụng ngày càng rộng rãi trong sản xuất kinh doanh và dịch vụ để đạt được năng suất lao động cao. Các dạng năng lượng, nguyên liệu mới như năng lượng nguyên tử, năng lượng mặt trời, nguyên liệu chất dẻo, nguyên liệu tổng hợp đang dần thay thế cho những dạng năng lượng và những nguyên liệu được khai thác từ thiên nhiên. Công nhân làm thuê là lao động trí óc là chủ yếu, lao động chân tay chiếm tỉ lệ ít và ngày càng giảm dần. Điểm cơ bản đánh dấu sự thay đổi về quan hệ sản xuất là người công nhân có thể tham gia vào chính công ty họ thông qua chế độ cổ phần hoá các doanh nghiệp. Điều này làm xuất hiện chế độ đồng sở hữu. Người làm công bây giờ cũng sở hữu một phần vốn, một phần tài sản của doanh nghiệp hoặc công ty, bên cạnh các chủ thể sở hữu là Nhà nước hoặc các chủ tư bản lớn, nhỏ. Người làm công cũng được thu hút vào quản lí, hình thành nên chế độ công quản hay tự quản thay thế cho chế độ hành chính khắt khe trước đây. Chính họ cũng được tham gia vào việc chia lợi nhuận của công ty, vì vậy thu nhập của họ bây giờ bao gồm hai bộ phận: Tiền lương được trả căn cứ vào sức lao động và tiền lương phân chia từ lợi nhuận công ty; lượng này nhiều hay ít phụ thuộc giá trị cổ phần của người làm công, hiệu quả làm ăn của công ty, hiệp ước trên cơ sở thoả thuận giứa chủ tịch công ty với người làm công thông qua đại hội cổ đông. Nhưng thực chất quan hệ bóc lột của giai cấp tư sản với giai cấp công nhân không hề thay đổi mà nó chỉ được khoác trên mình sự che phủ hơi khác so với trước kia. Việc người công nhân cũng làm "ông chủ" trong chính các công ty, tập đoàn họ làm việc, không những không ảnh hưởng đến việc thu lợi nhuận của các nhà tư bản, mà ngược lại, đây lại chính là yếu tố kích thích bản thân những người công nhân này làm việc chăm chỉ hơn, tích cực hơn. Hơn nữa, các nhà tư bản cũng rất khôn khoan họ chỉ dành ra khoảng 5% cổ phần bán cho công nhân còn lại phần lớn vẫn trong sự quản lý của chính họ; bên cạnh đó cũng tồn tại một số tổ chức mang tên Công đoàn vàng thì cổ phần dành cho công nhân có thể lên tới 50% nhưng số này rất ít và mang tính mua chuộc mà thôi. Ngày nay với sự phát triển như vũ bão của khoa học công nghệ, máy móc đã được áp dụng ở tất cả các ngành công nghiệp cũng như nông nghiệp. Máy móc với tác dụng ban đầu là nâng cao năng suất lao động, làm giảm bớt lao động cho công nhân, nhưng với lòng tham lợi nhuận vô đáy của các chủ tư bản, họ đã biến máy móc trở thành phương tiện để bóc lột công nhân nhiều hơn nữa. Công nhân đòi hỏi phải làm việc với cường độ cao cùng với sự hiện đại của máy móc nên trong thời gian ngắn, họ có thể bòn rút hết sức lực và trí lực của người công nhân. Việc dần thay thế kỹ thuật tự động hoá sản xuất và năng lượng nguyên tử cho kỹ thuật cơ khí thông thường và nguồn năng lượng truyền thống (than đá, dầu mỏ,...) sẽ làm cho các mâu thuẫn của xã hội tư bản trở nên sâu sắc và đặt ra cho xã hội tư bản những vấn đề khó giải quyết. Sự tự động hoá từ sản xuất đến quản lý đã làm cho một lượng lớn công nhân cũng như trí thức sẽ bị thất nghiệp, và đây là sức ép lên nền kinh tế cũng như các vấn đề xã hội. Sự cạnh tranh không cân sức giữa các tập đoàn lớn với các doanh nghiệp vừa và nhỏ đã làm cho số lượng doanh nghiệp vừa và nhỏ giảm xuống, các tập đoàn lớn với số lượng ít ỏi nhưng nắm phần lớn của cải xã hội. Trong điều kiện của chủ nghĩa tư bản lũng đoạn, sự tiến bộ của kỹ thuật có tính chất cực kỳ mâu thuẫn. Giá cả độc quyền được định ra trong một khuôn khổ nhất định và cạnh tranh thì bị hạn chế nên không còn có những động cơ thúc đẩy kỹ thuật tiến bộ, xuất hiện khuynh hướng đình đốn và thối nát. Nhưng các tổ chức lũng đoạn tư bản chủ nghĩa không thể xoá bỏ hoàn toàn cạnh tranh trên thị trường một quốc gia cũng như trên thị trường thế giới. Muốn vậy, các tổ chức này vẫn phải liên tục đổi mới công nghệ để giảm bớt chi phí hàng hoá và nâng cao lợi nhuận. Sự tiến bộ của kỹ thuật làm cho mâu thuẫn giữa tính chất xã hội của sản xuất và hình thức chiếm hữư tư nhân trở nên sâu sắc, ví dụ như muốn phát triển công nghiệp năng lượng nguyên tử cần lượng vốn và đầu tư rất lớn, tức là yêu cầu sự xã hội hoá cao của sản xuất nhưng sự chiếm hữu tư nhân ngăn cản điều đó. Mâu thuẫn này phát triển ngày càng gay gắt, biện pháp hình thức sở hữu tư bản tập thể của thời kì độc quyền tư bản tư nhân cũng không thể giải quyết được mâu thuẫn này thì xuất hiện một biện pháp hoàn toàn mới là sở hữu nhà nước, là cơ sở phát triển của chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước. Đây được coi là nội dung của sự điều chỉnh tư bản chủ nghĩa trong giai đoạn hiện nay. Sự xã hội hoá cao độ của lực lượng sản xuất vượt khỏi khuôn khổ của quan hệ độc quyền tư nhân tất yếu dẫn đến sự chuyển biến về kinh tế. Sự tập trung hoá và quốc tế hoá tư bản ngày càng có quy mô lớn dưới tác động của cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật làm cho cơ cấu kinh tế thay đổi, nhu cầu tư bản tăng lên. Sự tích tụ và tập trung tư bản trong các tổ chức độc quyền tư nhân có han nên phải dựa vào vốn của Nhà nước tư sản. Mặt khác, tính chất xã hội hoá cao của sản xuất đòi hỏi một tổ chức nhân danh "xã hội" đứng ra điều khiển nền sản xuất xã hội. Tổ chức đó không thể là tổ chức độc quyền tư nhân, mà phải là Nhà nước tư bản. Thêm nữa là mâu thuẫn gay gắt giữa tư bản và lao động, giữa các cường quốc tư bản với nhau, giữa chủ nghĩa tư bản với các nước dân tộc chủ nghĩa và cuộc đấu tranh của nhân dân thế giới vì độc lập dân tộc, tiến bộ xã hội và chủ nghĩa xã hội, buộc các tổ chức độc quyền phải nắm lấy bộ máy Nhà nước. Nhà nước nắm trong tay các công cụ pháp luật, các công cụ kinh tế vĩ mô: tài chính, tín dụng, lưu thông tiền tệ và cả khu vực kinh tế Nhà nước đã duy trì môi trường hoạt động thuận lợi cho chủ nghĩa tư bản, làm giảm biên độ dao động của chủ nghĩa tư bản, tức là làm ổn định hơn và giảm thiệt hại cho nền kinh tế tới mức thấp nhất. Mọi phương thức sản xuất đều có quá trình ra đời, phát triển và tiêu vong. Chủ nghĩa tư bản ra đời là một thành tựu của loài người nhưng nó cũng phải tuân theo quy luật trên nên sự suy vong của nó là tất yếu và sẽ có một phương thức sản xuất mới thay thế cho phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa là một tất yếu khách quan. Mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa: quan hệ sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất kìm hãm sự phát triển của nền sản xuất được xã hội hoá sẽ làm cho quan hệ sở hữu tư nhân bị thủ tiêu và một quan hệ sản xuất mới dựa trên sở hữu xã hội sẽ ra đời để thay thế. Như vậy, sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất dựa trên sở hữu xã hội với nền sản xuất và lực lượng sản xuất đạt tới trình độ xã hội hoá cao sẽ hình thành một phương thức sản xuất cộng sản chủ nghĩa. d) Sự liên hệ lẫn nhau giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất trong chế độ xã hội chủ nghĩa. Cơ sở của quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa là chế độ sỏ hữu công cộng xã hội chủ nghĩa về tư liệu sản xuất. Trong chế độ xã hội chủ nghĩa, sức lao động không còn là hàng hoá nữa, không có chế độ bóc lột người, quan hệ thống trị và bị trị. Khi đó, quan hệ lẫn nhau giữa người và người trong quá trình sản xuất biểu hiện ở sự hợp tác theo tình đồng chí và sự giúp đỡ lẫn nhau của những người đã thoát ra khỏi bóc lột. Mác giải thích rằng muốn cho xã hội tiến bộ, bao giờ cũng cần có lao động tạo ra một số sản phẩm nhiều hơn nhu cầu của bản thân những người sản xuất. Nhưng trong chế độ tư sản, các nhà tư bản đã chiếm mất giá trị thặng dư là một bộ phận của giá trị mới dôi ra ngoài giá trị sức lao động do công nhân làm thuê sáng tạo ra, người lao động chỉ được hưởng lượng tiền công ít ỏi không tương xứng với sức lao động họ bỏ ra. Họ đáp ứng không đủ hoặc vừa đủ nhu cầu bản thân. Trong chế độ xã hội chủ nghĩa thì việc đó không còn xảy ra nữa. Phần giá trị mới đó sẽ do chính bản thân người lao động hưởng để nâng cao mức sống của họ và của xã hội. Lao động trong xã hội chủ nghĩa là lao động cho bản thân mình và cho xã hội của người lao động. Hai hình thức sở hữu chính của xã hội chủ nghĩa là sở hữu Nhà nước và hợp tác xã, chúng đều cùng một bản chất là xã hội chủ nghĩa, đều phục vụ lợi ích của nhân dân, chỉ khác nhau về trình độ, chế độ sở hữu Nhà nước có trình độ xã hội hoá cao hơn. Công nghiệp hoá không những thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển mà còn là biểu hiện mở rộng tái sản xuất của quan hệ sản xuất. Lực lượng sản xuất dưới chế độ xã hội chủ nghĩa cũng như dưới bất cứ phương thức sản xuất nào là yếu tố động hơn, biến đổi nhanh hơn quan hệ sản xuất. Vì vậy trong xã hội chủ nghĩa vẫn có sự mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, sự phù hợp giữa hai mặt của phương thức sản xuất này không phải là tuyệt đối mà nó có biến đổi và mâu thuẫn. Sẽ không bao giờ có sự phù hợp tuyệt đối giữa hai yếu tố này, vì nếu như vậy nền kinh tế sẽ không thể phát triển. Tuy nhiên chế độ xã hội chủ nghĩa không có các giai cấp đối kháng, vì vậy tư liệu sản xuất là tài sản chung của nhân dân, nhưng ta cũng cần tránh hiểu nhầm tài sản chung tức là phải chia nhỏ nó ra mỗi người giữ một phần, cũng như không phải chung tức là không ai lo, không ai quan tâm, giữ gìn. Khi đó, lực lượng sản xuất phát triển làm cho quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa được củng cố và phát triển. Cũng do không còn giai cấp đối kháng nên sự phát triển của lực lượng sản xuất không dẫn đến xung đột với quan hệ sản xuất như các hình thái xã hội có giai cấp khác. Mâu thuẫn trong chế độ xã hội chủ nghĩa không mang tính đối kháng, nên dù nó nảy sinh, nó sẽ được giải quyết trên cơ sở của quyền sở hữu công cộng, trong sự thống nhất về chính trị và tinh thần của nhân dân, nhưng những mâu thuẫn này cũng cần sự phát hiện và giải quyết kịp thời. Dưới chế độ xã hội chủ nghĩa, mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất còn liên quan đến cả quan hệ phân phối và trao đổi. Lực lượng sản xuất càng phát triển thì hình thức phân phối cũng càng phát triển, đồng thời nguyên tắc lợi ích vật chất._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc35446.doc