Đề tài: Quan hệ biên chứng giữa lực lượng sản xuất với quan hệ sản xuất và vận dụng nó trong quá trình xây dựng nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần ở Việt Nam
A. MỞ ĐẦU
Lịch sử phát triển của nền sản xuất xã hội là lịch sử phát triển của những phương thức sản xuất kế tiếp nhau từ thấp đến cao. Sự thống nhất và tác động qua lại giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất hợp thành phương thức sản xuất . Tác động qua lại giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất được Mác-Ănghen khái quát t
14 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1455 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Quan hệ biện chứng giữa Lực lượng sản xuất và Quan hệ sản xuất & vận dụng nó trong quá trình xây dựng nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hành quyluật về sự phù hợp với quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất . Đây là quyluật cơ bản của đời sống xã hội , chỉ rõ động lực và xu thế phát triển của lịch sử.
Mâu thuẫn giữa hai mặt đối lập: lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất tồn tại trong một phương thức sản xuất đến một mức độ nào đó, khi quan hệ sản xuất lỗi thời trở nên kìm hãm lực lượng sản xuất phát triển thì tất yếu quan hệ sản xuất cũ sẽ bị thay thế bằng quan hệ sản xuất mới phù hợp hơn với lực lượng sản xuất. Khi đó có thể chế độ xã hội lạc hậu sẽ mất đi , ra đời chế độ xã hội mới tiến bộ hơn . Trong nền kinh tế kế hoạch hoá bao cấp trước đây , chúng ta đã không có được sự nhận thức đúng đắn về quy luật của sự phù hợp giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất. Cơ chế quan liêu bao cấp đã bóp méo các yéu tố của quan hệ sản xuất , kìm hãm lực lượng sản xuất .Quan hệ hàng hoá tiền tệ bị thu hẹp hoặc xoá bỏ , nền kinh tế bị “hiện vật hoá” . Cơ chế cũ là cơ chế kế hoạch hoá mệnh lệnh kèm theo lệnh giá cả , tài chính tiền tệ theo qui tắc cấp phát giao nộp nhằm thực hiện kế hoạch , tất cả các phạm trù của kinh tế hàng hoá chỉ là hình thức . Kết quả sự không phù hợp giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất làm cho nền kinh tế dã bị trì trệ vì vậy chúng ta cần phải xây dựng lại lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất để phù hợp hơn với nền kinh tế hiện nay.
B. NỘI DUNG
PHẦN I: LÝ LUẬN CHUNG
Quy luật thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập là quy luật quan trọng của phép biện chứng, vạch ra nguồn gốc, động lực của sự vận động, phát triển của sự bản thân sự vật. Quy luật đã chỉ rõ trong tất cả các sự vật hiện tương của hế giới khách quan bao giờ cũng tồn tại các thuộc tính, trong đó có những mặt đối lập nhau. Các mặt đối lập trong sự vật, hiện tượng tác động liên hệ đấu tranh chuyển hoá bài trừ và phủ định lẫn nhau tạo thành động lực bên trong của mọi quá trình vận động và phát triển khách quan của chính bản thân các sự vật hiện tượng. Sự đấu tranh chuyển hoá của các mặt đối lập trong điều kiện cụ thể tạo thành mâu thuẫn được giải quyết sự vật cũ mất đi,sự vật mới được hình thành mâu thuẫn. Sự vật mới lại nảy sinh các mặt đối lập và mâu thuẫn mới…
Phương thức sản xuất cũng như các sự vật hiện tượng khác cũng phải tuân theo quy luật này.
Trong quá trình sản xuất con người thường xuyên tác động tự nhiên hình thành mối quan hệ giữa con người với tự nhiên. Mặt khác, con người cũng có quan hệ với nhau. Mối quan hệ hai mặt đó biểu hiện thành quan hệ hai mặt của nền sản xuất xã hội: lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất .
Lực lượng sản xuất phản ánh trình độ chinh phục tự nhiên của con người biểu hiện năng lực thực tiễn của con người trong quá trình tạo ra của cải vật chất. Lực lượng sản xuất xã hội bao gồm: những tư liệu sản xuất, kĩ năng, kĩ xảo và thói quen lao động của họ. Sự phát triển của lực lượng sản xuất xã hội là do sự phát triển của các yếu tố hợp thành nó. Trong sự phát triển của hệ thống công cụ lao động và trình độ khoa học kĩ thuật, kỹ năng lao động của con người đóng vai trò quyết định .
Con người là nhân tố trung tâm và là mục đích của nền kinh tế xã hội. Sản xuất suy cho đến cùng để tiêu dùng, vì không có tiêu dùng sẽ không có sản xuất con người ngày nay giữ vai trò quyết định đối với sản xuất. Việc nâng cao trình độ dân trí, trình độ văn hoá, khoa học kĩ thuật đang trở thành nhu cầu bức bách, là điều kiện để thúc đẩy nền sản xuất xã hội phát triển nhanh hơn. Lực lượng sản xuất đóng vai trò quyết định phương thức sản xuất.
Quan hệ sản xuất là mối quan hệ giữa người với người trong sản xuất vật chất thể hiện ở quan hệ sở hữu đối với tư liệu sản xuất, quan hệ tổ chức quản lí sản xuất và phân phối sản phẩm. Ba quan hệ này hợp thành quan hệ kinh tế xã hội.
Ngoài ra trong quan hệ sản xuất con có quan hệ kinh tế tổ chức. Quan hệ kinh tế tổ chức xuất hiện trong quá trình tổ chức sản xuất. Nó vừa biểu hiện quan hệ giữa người với người, vừa biểu hiện trạng thái tự nhiên kĩ thuật của nền sản xuất. Quan hệ kinh tế – tổ chức phản ánh trình độ phân công lao động xã hội, chuyên môn hoá và hiệp tác hoá sản xuất, do tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất quyđịnh.
Ba mặt của quan hệ sản xuất: quan hệ sở hữu đối đối với tư liệu sản xuất, quan hệ trong tổ chức và quản lý sản xuất, quan hệ phân phối sản phẩm lao động có quan hệ biện chứng với nhau. Trong đó quan hệ sở hữu đối với tư liệu sản xuất giữ vai trò quyết định, nó quyết định cả tính chất của quan hệ sản xuất.
Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất có quan hệ biện chứng cùng tồn tại thống nhất với nhau trong phương thức sản xuất. Trong sự thống nhất biện chứng này, sự phát triển của lực lượng sản xuất đóng vai trò quyết định đối với quan hệ sản xuất. Quan hệ sản xuất phải phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Lực lượng sản xuất phải thường xuyên vận động, phát triển nên quan hệ sản xuất cũng cũng luôn luôn thay đổi nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển của lực lượng sản xuất.
Xu hướng của sản xuất vật chất là không ngừng biến đổi, phát triển sự biến đổi đó bao giờ cũng bắt đầu bằng sự biến đổi và phát triển của lực lượng sản xuất trước hết là sự phát triển của công cụ lao động. Tri thức khoa học, trình độ kĩ thuật của con người ngày càng hoàn thiện và nâng cao. Sự phát triển của lực lượng sản xuất đòi hỏi quan hệ sản xuất phải thay đổi phù hợp với lực lượng sản xuất.
Sự tác động trở lại của quan hệ sản xuất đối với lực lượng sản xuất diễn ra theo hai hướng hoặc là thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển hoặc là kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất. Ngược lại, quan hệ sản xuất lạc hậu sẽ kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất. Ngay cả trong trường hợp quan hệ sản xuất đi quá xa so với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Chính do tính độc lập tương đối của quan hệ sản xuất với lực lượng sản xuất với kết cấu khác nhau mà sự phù hợp giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất chỉ là tạm thời. Khi sự khác biệt, không phù hợp giữa chúng là quá lớn thì quan hệ sản xuất phải có sự thay đổi căn bản trong kết cấu vật cất của nó để phù hợp hơn với sự thay đổi của lực lượng sản xuất. Sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất chỉ là trạng thái yên tĩnh tạm thời còn sự vận động, mâu thuẫn là vĩnh viễn tuyệt đối, là động lực của sự phát triển của phương thức sản xuất.
Mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất làm hình thành quy luật quan hệ sản xuất phải phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Quy luật kinh tế đó chi phối lịch sử phát triển của các phương thức sản xuất xã hội, đồng thời trực tiếp tác động tới sự vận động của mỗi phương thức sản xuất.
PHẦN II: VẬN DỤNG QUY LUẬT QUAN HỆ SẢN XUẤT PHÙ HỢP VỚI TÍNH CHẤT VÀ TRÌNH ĐỘ PHÁT TRIỂN CỦA LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT TRONG QUÁ TRÌNH XÂY DỰNG NỀN KINH TẾ HÀNG HOÁ NHIỀU THÀNH PHẦN Ở VIỆT NAM
I. Mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất trong thời kì kinh tế kế hoạch hoá tập trung
Đi lên chủ nghĩa xã hội không qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa nước ta thiếu “cái cốt vật chất” của một nền kinh tế phát triển. Thực trạng kinh tế được biểu hiện ở những mặt cơ bản như : cơ cấu hạ tầng vật chất và xã hội thấp kém, trình độ cơ sở vật chất và công nghệ trong các doanh nghiệp lạc hậu, kém khả năng cạnh tranh, sản xuất phân tán nhỏ lẻ, kĩ thuật thủ công, mang nặng tính bảo thủ, trì trệ, các mối liên hệ kinh tế kém phát triển, thu nhập của dân cư thấp.
Từ năm 1986 trở về trước mặc dù trên thực tế vẫn thừa nhận sản xuất hàng hoá, thừa nhận quan hệ hàng hoá- tiền tệ nhưng thực chất đó chỉ là kinh tế hàng hoá một thành phần- thành phần xã hội chủ nghĩa dựa trên công hữu về tư liệu sản xuất dưới hai hình thức: toàn dân và tập thể.
Kinh tế hàng hóa tập trung với cơ chế quan liêu bao cấp đã làm cho các phạm trù của kinh tế hàng hoá vốn sống động mềm dẻo như: giá trị, giá cả, lợi nhuận… bị hình thức hoá đến cao độ, không phản ánh các quy luật của thị trường, không còn nội dung kinh tế hàng hoá nữa. Chúng ta đã vi phạm sai lầm chủ quan, duy ý chí, vi phạm các quy luật khách quan trong cải tạo xã hội chủ nghĩa, trong quá trình tiến hành công nghiệp hoá và trong quản lý kinh tế.
Chính vì quá nhấn mạnh mặt quan hệ sản xuất nhất là quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất mà không xuất phát tư lực lượng sản xuất với tư cách là nội dung, dẫn đến nôn nóng muốn xoá bỏ các hình thức tư nhân, xác lập chế công hữu về tư liệu sản xuất dưới hình thức sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể. Chúng ta đã áp đặt một quan hệ sản xuất hoàn toàn không phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất của nước ta trong thời kì đó. Chúng ta đã tập thể hoá ồ ạt thông qua quốc hữu hoá các hợp tác xã. Việc này đã kìm hãm sự phát triển lực lượng sản xuất, kìm hãm tiến bộ xã hội. Chúng ta đã áp đặt một quan hệ sản xuất hoàn toàn không phù hợp với tính chất và trình độ của của lực lượng sản xuất của nước ta trong thời kì đó. Chúng ta đã lầm lẫn đồng nhất sản xuất lớn với qui mô lớn, giữa hợp tác với tập thể hoá. Các cá nhân doanh nghiệp hoạt động không phải vì lợi nhuận như vốn có của kinh tế hàng hoá mà tuân thủ một cách nghiêm ngặt hệ thống chỉ tiêu pháp lệnh được phát ra từ trung tâm. các quy luật kinh tế hàng hoá hoặc do ý chí chủ quan “bị thu hẹp phạm vi hoạt động”, xem như “không hợp pháp” hoặc có thừa nhận cũng chỉ đóng vai trò hết sức thứ yếu trong sự vận động của nền kinh tế. Các hàng hoá đặc biệt hoặc phi hàng hoá, các loại thị trường có tổ chức, có kế hoạch chi phối các lĩnh vực quan trọng nhất của quá trình tái sản xuất xã hội. Chúng ta đã không tuân thủ theo “quá trình lịch sử tự nhiên” trong sự phát triển xã hội nói chung và trong kinh tế nói riêng.
Chúng ta đã sai lầm khi tiến hành xây dựng quan hệ sản xuất tiên tiến rồi mới thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển. Sự vượt quá quan hệ sản xuất lại trở lên kìm hãm lực lượng sản xuất phát triển . quan hệ sản xuất ở đây không phải do tính chất xã hội hoá của lực lượng sản xuất quy định mà do ý chí chủ quan áp đặt tạo ra. Chúng ta đã đi theo đường lối:đưa quan hệ sản xuất đi trước mở đường cho lực lượng sản xuất phát triển. Chúng ta đã dần dần lựa chọn lực lượng sản xuất phù hợp với “quan hệ sản xuất đi trước” ấy. Tư duy đó vô hình chung đã không nhận ra được mối quan hệ biện chứng vốn có giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, không thấy được sự vận động phát triển và quan hệ lẫn nhau giữa chúng.
II. Vấn đề giải quyết mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất trong quá trình xây dựng kinh tế hàng hoá nhiều thành phần ở Việt Nam
Đại hội VI Đảng năm 1986 đã đề ra tiến hành công cuộc đổi mới tư duy, đổi mới kinh tế và mọi mặt của đời sống xã hội. Công cuộc đổi mới đòi hỏi chúng ta phải xây dựng lại quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Đại hội VI nhận thấy rằng việc cải tạo quan hệ sản xuất xã hội là cần thiết nhưng không thể tiến hành một cách chủ quan nóng vội như trước mà gắn liền với sự phát triển của lực lượng sản xuất. Trước hết phải cải tạo quan hệ sở hữu vì đó là nội dung quan trọng của quan hệ sản xuất. Việc đa dạng hoá các hình thức sở hữu với những năng lực sản xuất mới, trình độ kĩ thuật vốn liếng, quy mô khác nhau nhằm đáp ứng nhu cầu đa dạng về sản xuất và tiêu dùng. Tương ứng với mỗi trình độ lực lượng sản xuất một thành phần kinh tế nhất định. Việc tồn tại nhiều thành phần kinh tế nhất định. Việc tồn tại nhiều thành phần kinh tế do đó là một tất yếu khách quan. Đại hội VI đã khẳng định các thành phần kinh tế đang tồn tại khách quan tương ứng với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.
Nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần trong sự vận động của cơ chế thị trường ở nước ta là nguồn lực tổng hợp to lớn để đưa nền kinh tế vượt khỏi thực trạng thấp kém, nền kinh tế hàng hoá phát triển. Sự tồn tại của nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần cũng có nghĩa là còn có những quy luật kinh tế khác nhau hoạt động. Sự vận động và phát triển của các thành phần kinh tế trong giai đoạn này chịu sự chi phối trực tiếp của các quy luật thị trường. Thông qua hoạt động của các quy luật thị trường mà nó đào thải những mặt, những yếu tố bất hợp lý, thúc đẩy nhanh quá trình xã hội hoá sản xuất.
Việc kết hợp từng ưu thế riêng của từng thành phần kinh tế thông qua phân công lao động xã hội là con đường hiệu quả để phát triển lực lượng sản xuất. Việc chuyển sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần chính là để giải phóng sức sản xuất, động viên tối đa mọi nguồn lực bên trong và bên ngoài để phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, nâng cao hiệu quả kinh tế, cải thiện đời sống nhân dân. Cụ thể:
Đối với kinh tế nhà nước: đây là thành phần đóng vai trò chủ đạo trong nền kinh tế Việt Nam. Thành phần này phải mở đường dẫn dắt cho nền kinh tế phát triển theo hướng xã hội chủ nghĩa, chiếm giữ vị trí then chốt trong nền kinh tế, đảm bảo sản xuất và cung ứng những dịch vụ công cộng, thuộc lĩnh vực quốc tế dân sinh. Cần phải củng cố lại hệ thống kinh tế nhà nước, xắp xếp lại các doanh nghiệp nhà nước, cải tiến quản lý.
Đối với kinh tế hợp tác: cần phải rút kinh nghiệm về mô hình hợp tác xã kiểu cũ, xây dựng mô hình kiểu mới hiện nay. Nhà nước cần xây dựng và thực hiện có hiệu lực các chính sách kinh tế vĩ mô đối với nông nghiệp, có chính sách đầu tư trang thiết bị kĩ thuật và ứng dụng công nghệ mới trong nông nghiệp, tạo việc làm và thu nhập, từng bước công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp để đưa kinh tế hợp tác xã dần trở thành nền tảng của nền kinh tế quốc dân.
Đối với kinh tế tư bản nhà nước: cần phải có các chính sách và các hình thức đa dạng để thu hút vốn đầu tư của các nhà tư bản trong nước và nước ngoài thông qua phát triển các khu công nghiệp tập trung, các hình thức chế xuất, liên doanh liên kết…
Đối với tư bản tư nhân: cần có chính sách khuyến khích thành phần kinh tế này để các nhà tư bản yên tâm và mạnh dạn đầu tư vào nền kinh tế đặc biệt là lĩnh vực sản xuất hàng hoá tiêu dùng và xuất khẩu .
Đối với loại hình sản xuất hàng hoá nhỏ: thông qua cơ chế, chính sách và hướng dẫn phát triển của nhà nước khuyến khích sự phát triển của thành phần kinh tế này. Mặt khác cần tăng cường công tác quản lý để xây dựng nề nếp sản xuất kinh doanh theo quy định cuả pháp luật .
Các biện pháp vận dụng quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất ở Việt Nam hiện nay :
Phát triển lực lượng sản xuất ở Việt Nam:
- Phát huy yếu tố con người trong lực lượng sản xuất. Công cụ lao động dù có hiện đại đến đâu nếu không có sự điều khiển và trình độ khoa học kĩ thuật của con người thì không có tác dụng. Chúng ta cần phải phân tích những đặc điểm tiềm năng của lực lượng lao động ở Việt Nam để từ đó có những chính sách biện pháp kích thích người lao động.
Có thể nói Việt Nam có một lực lượng lao động dồi dào: 40 triệu lao động/77 triệu dân. Người lao động Việt Nam có nhiều phẩm chất đáng quí: cần cù, khéo léo, thông minh, có khả năng nắm bắt kĩ thuật và nâng cao tay nghề. Tuy nhiên do sản xuất chưa phát triển cho nên lao động thường xuyên dư thừa, tình trạng thất nghiệp là khá phổ biến. Tỷ lệ lao động chất xám có trí tuệ còn thấp. Nhà nước cần phải có những biện pháp huy nhân tố con người trên cơ sở đảm bảo công bằng và quyền lợi nghĩa vụ công dân. Nhưng một trong những điều kiện đảm bảo thắng lợi cho sự nghiệp xây dựng con người trong giai đoạn hiện nay là đời sống sinh hoạt vật chất. Những nhu cầu vật chất – tinh thần phong phú của con người chỉ có thể được thoả mãn trong một nền kinh tế vững vàng, ổ định, phát triển cao. Nhà nước cần tạo điều kiện và môi trường thuận lợi cho mọi người lao động có việc làm, cải thiện điều kiện lao động khuyến khích tăng thu nhập. Các chính sách xã hội bảo đảm và không ngừng nâng cao đời sống vật chất của mọi thành viên trong xã hội về ăn ở, đi lại, học tập nghỉ ngơi, chữ bệnh và nâng cao thể chất.
Cần phải có sự kết hợp hài hoàgiữa lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội. Trong điều kiên kinh tế thị trường hiện nay cần thực hiện bình đẳng về cơ hội, tạo điều kiện để mọi người đều có thể tham gia vào quá trình sản xuất kinh doanh và các hoạt động xã hội khác trên cơ sở đó có mức hưởng thụ tương xứng với năng lực của mình. Để có được tăng trưởng kinh tế, bất kì một chính sách kinh tế nào cũng phải quan tâm đến lợi ích cá nhân. Để phát huy nhân tố con người không thể đặt ngoài mối quan hệ biên chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất.
Đẩy mạnh phát triển khoa học kĩ thuật ở Việt Nam:
Khoa học là một hình thái ý thức xã hội, tự nó không thể gây nên một biến đổi nào cho lực lượng sản xuất. Khoa học vốn bắt nguồn từ hoạt động lao động sản xuất, là kết quả hoạt động nhận thức của con người, gắn liền và phụ thuộc vào con người. Thông qua hoạt động của con người, khoa học mới trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp. Xây dựng năng lực nội sinh về khoa học công nghệ để đủ sức lựa chọn, làm chủ, thích nghi với công nghệ nhập, cải tiến. Nắm bắt các thành tựu khoa học và công nghệ thế giới, lựa chọ và làm chủ công nghệ chuyển giao vào Việt Nam .
Cần phải xây dựng đội ngũ cán bộ khoa học và công nghệ vững mạnh phát hiện, bồi dưỡng và trọng dụng nhân tài trong các lĩnh vực khoa học – công nghệ, văn hoá, quản lý kinh tế- xã hội…
Trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước ta đòi hỏi phải kết hợp công nghệ truyền thống với công nghệ hiện đại, tranh thủ đi vào công nghệ hiên đại ở những khâu quyết định.
Ngày nay không chỉ có khoa học tự nhiên mà cả khoa học xã hội cũng tham gia mạnh mẽ trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp, các môn khoa học xã hội là cơ sở lý luận cho hoạt động quản lý.
Xây dựng và hoàn thiện quan hệ sản xuất:
Cần phải xây dựng và hoàn thiện quan hệ sản xuất để phát huy vai trò tích cực của quan hệ sản xuất đối với lực lượng sản xuất. Trước đây do chủ quan duy ý chí chúng ta đã làm sai qui luật, xoá bỏ quá nhanh các thành phần kinh tế tư bản tư nhân.
Việc chuyển sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần chính là để giải phóng sức sản xuất, động viên tối đa mọi nguồn lực bên trong và bên ngoài để phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, nâng cao hiệu quả kinh tế xã hội, cải thiện đời sống nhân dân.
Cần phải đa dạng hoá các hình thức về tư liệu sản xuất , là cơ sở để hình thành đa dạng các đơn vị sản xuất hàng hoá : sử hữu nhà nước , sở hữu tập thể . sở hữu cá thể , sở hữu tư bản tư nhân , sở hữu tư bản nhà nước , sở hữu hỗn hợp .
Làm như vậy thực chất là để xây dựng củng cố và phát triển quan hệ sản xuất , thực hiện mọi giả pháp có hiệu quả các thành phần kinh tế thuộc khu vực sở hữu nhà nước , sở hữu tập thể .
Phát triển nhiều thành phần mở cửa thu hút nhiều đầu tư nước ngoài là chiến lược đúng đắn . Nếu xuất phát từ ý muốc chủ quan thu hẹp hay cản trở quá rình tiền tệ hoá các mối quan hệ kinh tế trong gia đoạn lịch sử hiện nay bằng những hình thức khác nhau ( sớm xoá bỏ hay cản trở sự phát triển các thành phần kinh tế , quản lý kinh tế bằng kế hoạch hoá tập trung , qua liêu bao cấp …)sẽ kìm hãm sự phát triển kinh tế Việt Nam . Do đó chúng ta cần chủ động có những chính sách thích hợp để khuyến khích sự phát triển các thành phần kinh tế đúng mức , đúng hướng theo nguyên tắc tự nhiên của nền kinh tế , có nhu cầu xã hội thì tất yếu có người đáp ứng nhu cầu đó và ai trong cuộc cạnh tranh vươn tới thỏa mãn tốt hơn và tốt nhất nhu cầu của xã hội thì ngưới đó sẽ tồn tại và phát triển .
C. KẾT LUẬN
Việc duy trì tồn tại nhiều thành phần kinh tế là một tất yếu khách quan của Việt Nam trong thời kì quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội . Xây dựng nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần thể hiện chủ trương đúng đắn của Nhà nước ta là đa dạng hoá các loại hình sở hữu , cải thiện căn bản sản xuất cho phù hợp với lực lượng sản xuất đang phát triển . Điều này phù hợp với quá trình đi lên từ sản xuất nhỏ đi lên sản xuất lớn ở Việt Nam . Chúng ta đã vận dụng hợp lý quy luật sản xuất phải phù hợp tính chất và phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất vào thực hiện tại Việt Nam .
Tuy vậy thực tế đặt ra vấn đề nan giải là bằng cách nào để phát triển
trình độ lực lượng sản xuất ở Việt Nam bắt kịp với các nước trên thế giới ?
Điều này đặc biệt có ý nghĩa khi điều kiện của Việt Nam là từ một nước phong kiến bỏ qua giai đoạn kinh tế tư bản chủ nghĩa tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội mà rất thiếu các “cốt vật chất” hiện đại của lực lượng sản xuất tư bản chủ nghĩa, trong khi ở các nước khác phải mất hàng chục năm thậm chí hàng trăm năm phát triển mới có được lực lượng sản xuất hiện đại.
Mấu chốt ở dây là các thủ tục biện pháp hành chính, các điều kiện hành lang pháp lý tạo điều kiện thuận lợi cho các hoạt động giao lưu hội nhập với kinh tế thế giới, thu hút vốn đầu tư trực tiếp từ nước ngoài sẽ phải cải tiến ra sao, nhanh hay chậm là không đơn giản.
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- T0011.doc