I. CƠ sở lí luận của đề tài
1. quan điển lịch sử cụ thể đối với công cuộc đổi mới của việt nam:
Sau hơn 20 năm đổi mới, đất nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn. Điều đó đã khẳng định sự đúng đắn của dân tộc ta khi lựa chọn con đường đi lên chủ nghĩa xã hội. Việc lựa chọn con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta là một tất yếu lịch sử phù hợp với nguyên lí của sự phát triển, chỉ có chủ nghĩa xã hội mới giành cho nước ta quyền độc lập tự chủ đưa nước ta tiến lên xây dựng một xã hội tiế
14 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1552 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Quan điển lịch sử cụ thể đối với công cuộc đổi mới của Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
n bộ, văn minh.Trong lịch sử nhân loại đã chứng minh không phải bất kì một quốc gia nào cũng tuần tự trải qua các hình thế kinh tế - xã hội đã có trong lịch sử. Việc lựa chọn và bỏ qua các hình thái kinh tế- xã hội của một quốc gia tùy thuộc vào hoàn cảnh cụ thể của quốc gia ấy và một số điều kiện tác động bên ngoài.Cuộc cách mạng khoa học - kĩ thuộc đã tạo ra nhiều cơ hội cho các nước chậm phát triển vươn mình lên sánh vai cùng các nước phát triển trên thế giới.ở nước ta có đầy đủ điều kiện cho phép chúng ta lựa chọn con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, kết hợp sức mạnh đân tộc với sức mạnh thời đại để quá độ lên chủ nghĩa xã hội, xây dựng một xã hội tiên tiến, công bằng,văn minh.
Đối với nhân loại hiện nay việc lựa chọn con đường đi lên chủ nghĩa xã hội là một tất yếu khách quan, điều này thể hiện ở sự ra đời của một loạt hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu, Liên Xô, Trung Quốc và một số nơi trên thế giới, vì vậy việc lựa chọn con đương đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta là phù hợp với nguyên lí của sự phát triển và nằm trong mối liên hệ phổ biến đối với phong trào cách mạng trên toàn thế giới.
Tuy nhiên, xét trên quan điểm lịch sử cụ thể, nước ta đi lên chủ nghĩa xã hội từ một xuất phát điểm rất thấp. Là một nước nông nghiệp lạc hậu vừa mới thoát ra khỏi ách kìm kẹp nô lệ của thực dân, phong kiến, Đảng ta đã chỉ rõ điều này trong cương lĩnh đi lên chủ nghĩa xã hội : " Nước ta quá độ lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ tư bản, từ một xã hội vốn là thuộc địa nửa phong kiến, lực lượng sản xuất rất thấp". Điều này có nghĩa là, khi xét về tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất biểu hiện ở hai đặc trưng sau đây:
Một là:Lực lượng sản xuất thấp rất thấp, quy định tính tất yếu kinh tế- xã hội của xã hội ta chưa đầy đủ, chưa chín muồi cho sự phát triển của tự nhiên.
Hai là: Trong quan hệ sản xuất, tồn tại nhiều thành phần tàn dư quan hệ sản xuất ý thức tư tưởng, tâm lí do chế độ thực dân phong kiến để lại, đó là một khó khăn trở ngại lớn khi nước ta tiến hành xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Trước đây chúng ta đã sai lầm, nóng vội, chủ quan duy ý chí nhất loạt xây dựng quan hệ sản xuất một thành phần dựa trên chế độ công hữu về tư liệu sản xuất. Làm như vậy là đẩy quan hệ sản xuất đi quá xa so với trình độ của lực lượng sản xuất, không phù hợp với mối quan hệ biện chứng của lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, là phản quy luật, chưa nhận thức được rõ tình hình đặc điểm của đất nước.
Với quan điểm lịch sử cụ thể, Đảng Cộng Sản Việt Nam ý thức rõ rằng cần xác định cho đúng điểm xuất phát , đặc điểm, điều kiện và nhất là hiện trạng của đất nước để từ đó đề ra các bước đi cụ thể cho tất cả các lĩnh vực của đời sống, kinh tế xã hội. Đảng ta kiên trì và trung thành với chủ nghĩa MAC-LÊNIN cho rằng quan hệ sản xuất lạc hậu sẽ cản trở và kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất. Đai hội Đảng VI đã bổ xung và phát triển quan điểm đó bằng một kết luận cực kì quan trọng rằng:" Lực lượng sản xuất bị kìm hãm không chỉ trong trường hợp quan hệ sản xuất lạc hậu mà cả khi quan hệ sản xuất phát triển không đồng bộ, có những yếu tố đi quá xa so với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất". Chính kết luận này đã mở ra một giai đoạn phát triển mới của nước ta thông qua việc từng bước điều chỉnh và thiết lập lại các quan hệ sản xuất cho phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất ở tất cả các lĩnh vực trong nền kinh tế quốc dân, dẫn đến thừa nhận và thực hiện trên thực tế nhiều loại hình sở hữu, hình thành và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đã từng bước khắc phục tính kém hiệu quả, thiếu động lực của cách quản lí tập trung, quan liêu bao cấp tràn lan vốn cản trở sự năng động của cả người quản lí lẫn lao động trực tiếp trong sản xuất và kinh doanh. Đồng thời, việc đó cũng tạo điều kiện thu hút vốn đầu tư của nước ngoài cùng các công nghệ và khoa học kĩ thuật. Những đổi mới trong lĩnh vực kinh tế và các lĩnh vực khác không tách rời đổi mới trong lĩnh vực chính trị, mà một trong những nét nổi bạt nhất là quá trình dân chủ hoá đời sống xã hội, chính từ sự đổi mới này mà quần chúng nhân dân đã thực sự tham gia vào nhiều đời sống sinh hoạt xã hội một cách thực chất,góp phần to lớn vào việc ổn định chính trị, chống lại các tệ nạn xã hội và sự đe doạ tới an ninh xã hội. Sự tăng trưởng nhanh chóng ổn định của kinh tế , thành công của nước ta trong công cuộc xoá đói giảm nghèo; sự ổn định, công bằng xã hội của nước ta sau 20 năm đổi mới chính là minh chứng hùng hồn cho sự đúng đắn của công cuộc đổi mới toàn diện và sâu rộng của đất nước ta .
Công cuộc đổi mới của nước ta còn gặp nhiều nguy cơ và thách thức, tuy nhiên dưới sự lãnh đạo của Đảng và nhà nước chắc chắn công cuộc đổi mới của đất nước sẽ đi tới thành công.
2.biện chứng của kinh tế và chính trị
Kinh tế và chính trị là hai mặt cốt lõi của mối quan hệ giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng. Trong mối quan hệ biện chứng giữa kinh tế và chính trị thì kinh tế nắm giữ vai trò quyết định chính trị bởi vì những lí do sau đây:
- Kinh tế là nội dung vật chất của chính trị, còn chính trị là biểu hiện tập trung của kinh tế. Kết cấu kinh tế của một xã hội là tổng hợp tất cả các mối quan hệ sản xuất có trong xã hội, những mối quan hệ sản xuất này là nội dung trực tiếp nảy sinh ra các mối quan hệ chính trị. Các mối quan hệ chính trị là sự cô đọng của các mối quan hệ sản xuất.
- Cơ sở kinh tế với tính cách là kết cấu hiện thực sinh ra hệ thống chính trị tương ứng và quy định tính chất của hệ thống đó. Điều này có thể thấy rõ trong lịch sử nhân loại, các kiểu nhà nước mà loài người trải qua đều được xây dựng trên một nền tảng phương thức sản xuất đặc trưng của xã hội đó. Nói theo một cách khác thì tính chất xã hội, giai cấp của chính trị bao giờ cũng phản ánh tính chất xã hội của giai cấp thống trị, bao giờ cũng phản ánh tính chất xã hội và giai cấp của cơ sở hạ tầng. Từ đó ta có thể đưa đến khẳng định sự biến đổi căn bản của kinh tế đưa đến sự biến đổi căn bản của chính trị.
-Tuy kinh tế nắm giữ vai trò quyết định chính trị nhưng chính trị có tính đọc lập tương đối, nó có tác động ảnh hưởng trở lại đối với kinh tế thông qua quyền lực nhà nước và các sức mạnh vật chất tương ứng khác. Nhà nước có tác dụng quyết định năng lực hiện thực hoá những tất yếu của kinh tế. Ăngghen nói :" Bạo lực( tức là quyền lực Nhà nước) cũng là một sức mạnh kinh tế. Sau khi giành được chính quyền, bất cứ giai cấp nào muốn giành được quyền thống trị vững chắc toàn xã hội thì giai cấp đó phải đưa ra đường lối mở rộng, phát triển kinh tế trên quy mô toàn xã hội. Kinh tế vững mạnh thì nhà nước được tăng cường. Nhà nước được tăng cường lại tạo thêm phương tiện vật chất để củng cố địa vị kinh tế- xã hội của giai cấp thống trị.
Như vậy giữa kinh tế và chính trị có mối quan hệ biện chứng với nhau, nó có tác động qua lại và hỗ trợ cho nhau, và là hai mặt cốt lõi trong mối quan hệ giữa kiến trúc thượng tầng và cơ sở hạ tầng.
II. thực tiễn công cuộc đổi mới của việt nam
1. tính tất yếu khách quan của công cuộc đổi mới
- Sau hai mươi năm đổi mới chúng ta có thể khẳng định đổi mới kinh tế là phù hợp với yêu cầu biện chứng của quy luật mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất. Trước đây do không xác định được hoàn cảnh cụ thể của đất nước, chúng ta áp dụng chủ quan máy móc duy ý chí lý luận của chủ nghĩa Mác- Lênin vào thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội của đất nước, áp dụng quan hệ sản xuất của đất nước xã hội chủ nghĩa với chế độ công hữu về tư liệu sản xuất đối với nước ta trong khi trình độ của lực lượng sản xuất đang còn thấp kém, chưa phát triển. Việc đẩy quan hệ sản xuất đi quá xa so với sự phát triển của lực lượng sản xuất đã đưa nước ta đi vào trì trệ, khủng hoảng. Việc đổi mới kinh tế, đổi mới quan hệ sản xuất thừa nhận nền kinh tế thị trường tức là thừa nhận sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất là một tất yếu không thể tránh khỏi.
- Đảng ta đã xác định:" Nước ta đi lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ Tư bản chủ nghĩa". Nhưng bỏ qua ở đây là bỏ qua sự bóc lột của giai cấp tư sản và sự thống trị của Nhà nước tư bản, chứ không thể bỏ qua, phủ nhận những thành tựu tiến bộ của Chủ nghĩa tư bản. Việc chấp nhận kinh tế thị trường, chấp nhận đa dạng hoá loại hình sở hữu là khách quan phù hợp với nguyên lý của sự phát triển.
- Kể từ thập kỉ 80 trở đi, xu hướng toàn cầu hoá tác động mạnh mẽ tới tất cả các nước trên thế giới, hầu hết tất cả các quốc gia trong thế giới tư bản và các nước xã hội chủ nghĩa đều tiến hành đổi mới kinh tế cho phù hợp với sự phát triển của kinh tế thế giới.Trong hệ thống xã hội chủ nghĩa, nhiều quốc gia như Liên Xô, Đông Âu và Trung Quốc đã tiến hành đổi mới, tuy nhiên do những đường lối sai lầm nên công cuộc đổi mới kinh tế ở Liên Xô và Đông Âu không thành công dẫn đến sụp đổ về hệ thống chính trị, chỉ có Trung Quốc là thành công, và đã để lại nhiều bài học kinh nghiệm cho chúng ta. Đứng trước làn sóng đổi mới và hội nhập đó, Việt Nam không thể đứng ngoài cuộc chỉ có đổi mới, tham gia hội nhập thì chúng ta mới có thể vươn lên đứng ngang tầm với các cường quốc trên thế giới.
Mỗi phương thức sản xuất xã hội chỉ có thể được xác lập vững chắc trên cơ sở vật chất-kĩ thật tương ứng. Phương thức sản xuất chủ nghĩa xã hội chỉ có thể xác lập trên cơ sở nền tảng vật chất-kĩ thuật tiên tiến, với lực lượng sản xuất phát triển rất cao. Để thực hiện mục tiêu xã hội chủ nghĩa, trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội cần phải xây dựng được cơ sở vật chất - kĩ thuật của chủ nghĩa xã hội, mà muốn xây dựng được cơ sở vật chất - kĩ thuật cho chủ nghĩa xã hội nhất thiết phải phát triển lực lượng sản xuất, giải phóng triệt để sức sản xuất, đồng thời phải xây dựng quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất. Muốn vậy không thể áp dụng mô hình kinh tế kế hoạch hoá tập trung quan liêu bao cấp, mà phải phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Như đã trình bày ở trên, giữa kinh tế và chính trị có mối liên hệ biện chứng với nhau. Do đó quá trình đổi mới kinh tế phải tiến hành đồng bộ với đổi mới chính trị. Việc đổi mới kinh tế sẽ tạo ra tiền đề cho đổi mới chính trị, quá trình đổi mới chính trị sẽ tác động tích cực đối với đổi mới kinh tế, là một trong những yếu tố thúc đẩy quá trình đổi mới kinh tế ở nước ta. Việc đổi mới chính trị theo hướng tăng cường thực thi dân chủ của nhân dân là hoàn toàn đúng đắn, vì nhà nước ta là nhà nước xã hội chủ nghĩa do dân và vì dân, nhân dân làm chủ, tăng cường thực thi dân chủ tức là sẽ phát huy được quyền làm chủ của nhân dân, huy động được sức dân vào quá trình đổi mới kinh tế của đất nước.
2. 1quan điểm của đảng cộng sản việt nam về công cuộc đổi mới
Với tinh thần dũng cảm, dám nhìn thẳng vào sự thật, bắt dầu từ đại hội Đảng lần thứ VI, Đảng ta đã quyết định tiến hành đổi mới toàn diện, sâu rộng trên tất cả các lĩnh vực của đất nước. Một trong những quan điểm chủ trương quan trọng của Đảng trong công cuộc đổi mới của nước ta đó là tiến hành phát triển kinh tế nhiều thành phần. Tại đại hội VI Đảng ta đã tiến hành xem xét lại một cách căn bản vấn đề cải tạo xã hội chủ nghĩa và đã đưa ra quan điểm về nền kinh tế nhiều thành phần:"Đi đôi với việc phát triển kinh tế quốc doanh kinh tế tập thể, tăng cường nguồn tích luỹ tập trung vốn của nhà nước và tranh thủ vốn của nước ngoài, cần có chính sách sử dụng và cải tạo đúng đắn các thành phần kinh tế". (Báo cáo chính trị của Ban chấp hành trung ương Đảng tại đại hội VI). Quan điểm xây dựng một nề kinh tế nhiều thành phần xuất phát từ điều kiện kịch sử cụ thể của Việt Nam, với lực lực lượng sản xuất còn thấp kém, chậm phát triển,trong xã hội còn tồn tại nhiều thành phần kinh tế và loại hình sở hữu tương ứng với các thành phần kinh tế ấy còn chưa xoá bỏ được. Việc phát triển nền kinh tế nhiều thành phần đa dạng hoá các loại hình sở hữu là đúng với nguyên lí của sự phát triển và yêu cầu của mối liên hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất. Việc sử dụng tất cả các thành phần kinh tế sẽ phát huy được sức mạnh của toàn dân vào việc phát triển kinh tế. Thông qua sự cạnh tranh của các thành phần kinh tế sẽ tạo được động lực để thúc đẩy sự phát triển của lực lượng sản xuất, thúc đẩy sự phát triển của kinh tế.
- Cùng với quan điểm về phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, bắt đầu từ đại hội Đảng IX, Đảng ta bắt đầu sử dụng khái niệm "Kinh tế thị trương định hướng Xã hội chủ nghĩa" đó là một nền kinh tế dựa trên cơ sơ kết hợp sự năng động của kinh tế thị trường với ưu thế của chế độ chính trị tiên tiến. Kết hợp mặt tích cực của cơ chế thị trường với sự điều tiết vĩ mô của nhà nước nhằm khắc phục những tiêu cực của kinh tế thị trường (tính tự phát, mù quáng...). Đại hội Đảng IX đã đưa ra khái niệm kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa xem đó là mô hình kinh tế tổng quát của nước ta trong suốt thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Để đảm bảo tính chất Xã hội chủ nghĩa, trong quá trình đổi mới nền kinh tế chúng ta phải thực hiện tốt những quan điểm sau đây:
- Lấy việc giải phóng sức sản xuất, động viên tối đa mọi nguồn lực bên trong và bên ngoài cho công nghiệp hoá hiện đại hoá, nâng cao hiệu quả kinh tế xã hội, cải thiện đời sống nhân dân làm mục tiêu hàng đầu trong việc khuyến khích phát triển các thành phần kinh tế và các hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh.
- Chủ động đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả của kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể. Việc đảm bảo tính chất xã hội chủ nghĩa là phụ thuộc quan trong vào vai trò của nền kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể. Phải tạo điều kiện để các nhà kinh doanh tư nhân yên tâm đầu tư kinh doanh lâu dài, áp dụng linh hoạt và sáng tạo các hình thức kinh tế tư bản nhà nước.
- Xác lập, củng cố và nâng cao địa vị làm chủ của người lao động trong nền sản xuất xã hội, từng bước thực hiện công bằng xã hội. Thực hiện nhiều hình thức phân phối, chủ yếu dựa trên nguyên tắc phân phối theo lao động. Thừa nhận sự tồn tại của các hình thức thuê mướn nhưng không thể biến thành quan hệ thống trị, bóc lột. Tiến hành phân phối và phân phối lại một cách hợp lí, Đảng ta không coi mục tiêu phát triển tăng trưởng kinh tế là mục tiêu trên nhất mà mục đích trên hết đó chính là yếu tố con người. Việc phát triển kinh tế phải đi đôi với tiến bộ và công bằng xã hội. Không thể chờ đến khi tăng trưởng kinh tế đến trình độ cao mới thực hiện công bằng xã hội, càng không thể hi sinh tiến bộ và công bằng xã hội để chạy theo lợi ích tăng trưởng kinh tế.
- Xây dựng một nền kinh tế độc lập tự chủ, đi đôi với mở cửa, hội nhập quốc tế. Đây là một trong những điều kiện quan trọng cho sự phát triển kinh tế của mỗi thành phần kinh tế cũng như toàn bộ nền kinh tế.
- Cùng với những quan điểm trong đổi mới kinh tế, Đảng ta cũng đưa ra một số quan điểm về đổi mới chính trị, để tăng cường năng lực lãnh đạo của Đảng, nhà nước, xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa bảo đảm thực hiện quyền làm chủ của nhân dân, tạo điều kiện cho kinh tế phát triển.
- Dân chủ xã hội chủ nghĩa là bản chất của chế độ chính trị ở nước ta. Xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm quyền làm chủ của cách mạng nước ta. Để thực hiện được điều đó, cùng với việc nâng cao nhận thức , thống nhất tư tưởng, phải có cơ cấu tổ chức và cơ cấu vận hành một cách khoa học, muốn vậy chúng ta phải tiến hành đổi mới cơ cấu và tổ chức của hệ thống chính trị. Hệ thống chính trị ở nước ta bao gồm Đảng, Nhà nước, mặt trận tổ quốc và cac đoàn thể chính trị - xã hội, trong đó Đảng giữ vai trò lãnh đạo, Nhà nước đóng vai trò quản lý, mặt trận tổ quốc và các đoàn thể chính trị xã hội có vai trò quan trọng trong việc phát huy quyền làm chủ của nhân dân, xây dựng khối đại đoàn kết của dân tộc. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kì qua độ lên chủ nghĩa xã hội khẳng định:" Toàn bộ tổ chức và hoạt động của hệ thống chính trị ở nước ta trong giai đoạn mới là nhằm xây dựng và từng bước hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm quyền lực thuộc về nhân dân". Báo cáo chính trị của Đại hội VII đã chỉ rõ:" Thực chất của công cuộc đổi mới và kiện toàn hệ thống chính trị ở nước ta là xây dựng một nền dan chủ xã hội chủ nghĩa". Có thể khẳng định dân chủ vừa là mục tiêu, vừa là động lực của công cuộc đổi mới.
- Với tư cách là thiết chế bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân, Nhà nước pháp quyền Xã hội chủ nghĩa Việt Nam phải thực sự là một Nhà nước của dân, do dân và vì dân, bao nhiêu lợi ích vì dân, bao nhiêu quyền lợi ở nhân dân. Mô hình tổ chức và hoạt động của Nhà nước phải bảo đảm nguyên tắc quyền lực Nhà nước là thống nhất, nhưng phải có sự phân công rành mạch và phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan quyền lực Nhà nước trong việc thực hiện ba quyền: lập pháp, hành pháp và tư pháp; nâng cao hiệu lực hiệu quả thống nhất ở TW và địa phương. Đổi mới bộ máy Nhà nước làm cho bộ máy nhà nước thực sự là thiết chế phục vụ nhân dân, hoạt động theo phương châm việc gì có lợi cho dân phải hết sức làm, việc gì có hại cho dân phải hết sức tránh.
- Để công cuộc đổi mới được thành công, Đảng ta cần nầng cao vai trò lãnh đạo và năng lực cầm quyền của Đảng. Trong điều kiện phát triển nền kinh tế thị trường, mở cửa hội nhập chúng ta phải kiên định sự lãnh đạo của Đảng coi đây là vấn đề nguyên tắc, vấn đề sống còn, đảm bảo sự phát triển của đất nước theo đinh hướng xã hội chủ nghĩa, không có sự lãnh đạo của Đảng thì không thể nói gì đến xây dựng chủ nghĩa xã hội. Muốn thế Đảng phải tiếp thục đổi mới tư duy lí luận, làm tốt công tác tư tưởng chính trị, nâng cao trình độ trí tuệ và năng lực lãnh đạo chính trị, năng lực cầm quyền, đơi mới nội dung và phương thức lãnh đạo của Đảng phat huy dân chủ giữ vững kỉ luật, tăng cường đoàn kêt thống nhất làm trong sạch và nâng cao chất lượng đội ngũ Đảng viên.
- Đảng ta nêu rõ nguy cơ lớn nhất của Đảng cầm quyền là sự sai lầm về đường lối, tệ quan liêu xa dân tha hoá biến chất, đi đến mất phương hướng chính trị. Trong điều kiện kinh tế thị trường và toàn cầu hoá cần cảnh giác và có giai pháp khắc phục nguy cơ nói trrên, Đảng kiên định tư tưởng Hồ Chí Minh, chủ nghĩa Mac- Lênin, kiên định nguyên tắc tổ chức của Đảng là nguyên tắc tập trung dân chủ, kết hợp chặt chẽ việc phát huy dân chủ trong Đảng, kỉ cương của Đảng chỉ có một Đảng lãnh đạo là Đảng cộng sản, không chấp nhận" Đa nguyên, đa đảng".
3. Những thành tựu đạt được trong công cuộc đổi mới
a- Thành tựu về kinh tế.
- Sau hai mươi năm đổi mới điều dễ nhận thấy là đất nước ta thay da đổi thịt từng ngày. Chúng ta đã đạt được những thành tựu to lớn về kinh tế, đặc biệt là chương trình xoá đói giảm nghè o, được các quốc gia trên thế giới đánh giá rất cao, vị thế của đất nước chúng ta trên trường quốc tế ngày càng được củng cố và nâng cao. Trong suốt thời kì đổi mới từ năm 1986 đến nay, nền kinh tế Việt Nam luôn có nhịp độ tăng trưởng dương, đặc biệt đã đạt được tốc độ tăng trưởng nhanh và liên tục, đỉnh cao là năm 1995 với tốc độ tăng trưởng là 9,5%. Đại hội VII của Đảng (1996) đã nhận định:" Nước ta đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, nhưng một số mặt còn chưa vững chắc. Nhiệm vụ đề ra cho chặng đường đầu của thời kì qua độ là chuẩn bị tiền đề cho công nghiệp hoá đã cơ bản hoàn thành, cho phép chuyển sang thời kì đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước".
- Cùng với sự tăng trưởng nhanh chóng và ổn định của nền kinh tế, thì cơ cấu kinh tế cũng chuyển dịch theo đinh hướng tiến bộ. Về cơ cấu nghành kinh tế đã có sự chuyển dich theo hướng tỉ trọng các nghành nông nghiệp, lâm nghiệp, thuỷ sản giảm xuống tỉ trọng các nghành công nghiệp, xây dựng và dịch vụ ngày cang tăng lên, các thành phần kinh tế trong GDP cũng có sự chuyển dịch từ chủ yếu là quốc doanh, hợp tác sang đa thành phần, nhưng vai trò chủ đạo của kinh tế quốc doanh vẫn được tăng cường. Các doanh nghiệp Nhà nước được sắp xếp, tổ chức lại để hoạt động có hiệu quả hơn những doanh nghiệp làm ăn không hiệu quả, đẩy nhanh tốc độ cổ phần hoá các doanh nghiệp Nhà nước... Khu vực kinh tế ngoài quốc doanh đặc biệt là kinh tế tư nhân có sự biến đổi phát triển nhanh chóng và hết sức năng động.Càng ngày tỉ trọng đóng góp vào GDP của khu vực kinh tế tư nhân càng tăng,số lượng các doanh nghiệp tư nhân, các công ty trách nhiệm hữu hạn ,công ty cổ phần tăng lên nhanh chóng, từ 132 doanh nghiệp năm 1991,tăng lên 42393 vào cuối năm 1999. Đặc biệt từ 1/01/2000 khi nhà nước ban hành luật doanh nghiệp, thì khu vực kinh tế tư nhân tăng lên nhanh chóng. Riêng năm 200 đã có tới 14000 doanh nghiệp đăng ký thành lập mới.
- Kinh tế hợp tác đang có nhiều chuyển biến sang mô hình thích hợp hơn, các hợp tác xã làm ăn không hiệu quả bị giải thể. Kinh tế cá thể tiểu chủ rất phổ biến. Sự phát triển của khu vực kinh té ngoài quốc doanh có ý nghĩa rất quan trọng trong việc tận dụng nguồn vốn và lao động, tự tạo ra việc làm tăng thu nhập của dân cư và đóng góp vào sự tăng trưởng chung của nền kinh tế.
- Cơ chế kinh tế quản lý mới đã bước đầu được hình thành nhà nước đã xoá bỏ về cơ bản cơ chế kinh tế kế hoạch hoá tập trung quan liêu bao cấp bước đầu xây dựng một nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường, có sự quản lý và điều tiết của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
- Đất nước chúng ta đã kiềm chế và đẩy lùi lạm phát, kinh tế đối ngoại được phát triển nhanh chóng mở rộng cả qui mô, đa dạng hoá hình thức và đa phương hoá thị trường. Sau nhiều năm bị bao vây cấm vận ngày 11 tháng 7 năm 1995 Mỹ tuyên bố bình thường hoá quan hệ và ngày 12 tháng 7 năm 1995 đã thiết lập quan hệ kinh tế với Việt Nam. Ngày 17 tháng 7 năm 1995 nước ta và liên minh châu Âu đã kí hiệp định chung về hợp tác kinh tế, thương mại và khoa học kỹ thuật. Ngày 28 tháng 7 năm 1995 Việt Nam chính thức gia nhập ASEAN đến nay chúng ta có quan hệ thương mại với hơn 165 nước và vùng lãnh thổ trên toàn thế giới, kí hiệp định thương mại với 72 nước.
- Hoạt động xuất nhập khẩu có sự tiến bộ vượt bậc. Năm 2001 Việt Nam dạt kim ngạch xuất khẩu 15,027 tỷ USD, nhập khẩu là 16,16 tỷ USD so với 822,9 triệu USD và gần 2,16 tỷ USD của năm 1986. Kim ngạch xuất nhập khẩu tăng bình quân hàng năm trên 20%.
- Hoạt động đầu tưu nước ngoài tăng mạnh, nguồn vốn FDI chiếm khoảng 30% tống số vốn đầu tư trực tiếp phát triển toàn xã hội. Nếu tính cả đầu tư trực tiếp nước ngoài và ODA thì vốn có nguồn gốc nước ngoài chiếm tới 47% tổng nguồn vốn. Vốn nước ngoài, trong đó có vốn đầu tư trực tiếp đã đi kèm với công nghệ tiên tiến, đã góp phần đáng kể vào sự phát triển kinh tế nước ta trong thời kì đổi mới.
- Tuy còn nhiều khó khăn nhưng nhìn chung đời sống nhân dân cả về vật chất lẫn tinh thần đã được cải thiện một bước rõ rệt. Tỉ lệ nghèo chung theo chuẩn quốc tế giảm từ 58% năm 1993 xuống còn 28,9% năm 2002 với khoảng 25 triệu người thoát cảnh nghèo đói, hoàn thành sớm hơn so với kế hoạch toàn cầu. Cùng với đời sống vật chất, đời sống tinh thần của nhân dân cũng được nâng lên đáng kể, chỉ số phát triển con người (HDI) của Việt Nam được cải thiện và nâng cao đáng kể từ 0,610 năm 1990 lên 0,691 năm 2002 (Trích báo cáo của phó thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng tại hội thảo tổng kết 20 năm đổi mới).
b- Về chính trị:
- Cùng với những thành tựu quan trọng về kinh tế thì chính trị cũng có nhiều cải cách cho phù hợp với sự phát triển của nền kinh tế. Quá trình cải cách được tiến hành một cách rộng rãi, bộ máy hành chính tự TW đến địa phương được kiện toàn đổi mới để hoạt động có hiệu quả hơn. Bộ máy chính phủ đã giảm từ 76 đầu mối xuống còn 39 trong đó có 17 bộ, 6 cơ quan ngang bộ và 13 cơ quan thuộc chính phủ. Bộ máy UBND cấp tỉnh giảm từ trên 40 đầu mối xuống còn 20 đầu mối, cấp huyện từ 20 giảm xuống còn 10 (Trích báo cáo của phó thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng tại hội thảo tổng kết 20 năm đổi mới).
- Hệ thống pháp luật được sửa đổi cho phù hợp và hoàn chỉnh hơn, nhiều bộ luật được kiện toàn, bổ sung và sửa đổi, nhiều bộ luật mới được ra đời đặc biệt là các bộ luật như luật kinh doanh, luật thương mại, luật đầu tư... đã tạo ra hành lang pháp lý thông thoáng cho kinh tế phát triển.
- Nền dân chủ XHCN từng bước được hoàn thiện, dân chủ được thực thi hiệu quả ở mọi nơi từ TW đến địa phương. Các chính sách công việc của Đảng và nhà nước luôn luôn có tiếng nói đóng góp ý kiến của người dân thực hiện tương đối tốt chủ trương: "Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra".
- Những thành tựu kinh tế- Xã hội đã đạt được nêu trên đây là kết quả của đường lối đổi mới do Đảng khởi xướng và lãnh đạo. Đồng thời đó cũng là kết quả của sự phù hợp giữa ý Đảng và lòng dân. Những thành tựu đó có ý nghĩa rất quan trọng trong việc nâng cao lòng tin của nhân dân đối với Đảng, nhà nước ta. Uy tín của nước ta trên trường quốc tế cũng ngày càng nâng cao, tạo ra thế và lực mới cho nước ta phát triển mạnh mẽ hơn nữa trong thế kỉ XXI.
III- Những khó khăn, yếu kém còn tồn tại và một số phương hướng giải quyết
1- Khó khăn và yếu kém:
- Nền kinh tế nước ta vẫn chủ yếu là nông nghiệp; công nghiệp còn nhỏ bé, kết cấu hạ tầng kém phát triển, cơ sợ vật chất- kỹ thuật chưa xây dựng được bao nhiêu. Mặc dù cơ cấu các ngành trong GDP có sự chuyển dịch rõ rệt, nhưng cơ cấu lao động chậm biến đổi. Hiện nay, hơn 75% dân số vẫn sống ở nông thôn, lao động nông nghiệp vẫn chiếm hơn 60% trong tổng lao động xã hội.
- Nước ta còn nghèo nhưng chưa thực hiện tốt cần kiệm trong sản xuất, tiết kiệm trong tiêu dùng, tích luỹ từ nội bộ nền kinh tế và đầu tư phát triển còn thấp.
- Nền kinh tế có mức tăng trưởng nhanh và khá cao nhưng năng suất, chất lượng và hiệu quả còn thấp.
- Vai trò quản lý của nhà nước đối với nền kinh tế- Xã hội còn yếu: Khả năng kiềm chế lạm phát chưa vững chắc, ngân sách thu không đủ chi, tỉ lệ bội chi ngân sách còn cao.
- Tình trạng bất công xã hội, tham nhũng, buôn lậu, vi phạm kỉ cương còn nặng và phổ biến.
Nguyên nhân của những yếu kém trên một mặt là do hậu quả của nhiều năm trước đây để lại và do những tác động bất lợi cảu tình hình thế giới; Mặt khác còn do những khuyết điểm trong công tác lãnh đạo của Đảng và quản lý của nhà nước.
2- Một số phương hướng giải quyết:
- Cần phải tăng cường điều chỉnh lại cơ cấu các ngành kinh tế phát triển công nghiệp và dịch vụ để cho tỉ trọng đóng góp vào GDP của hai ngành này cao hơn nữa.
- Đẩy mạnh cải cách hành chính nhà nước, loại bỏ những thủ tục rườm rà, gây khó dễ cho nhân dân. Kiện toàn lại hệ thống văn bản, pháp luật sao cho hệ thống pháp luật ngày càng khoa học, hợp lý và chặt chẽ.
- Cần đáu tranh, xử lý kiên quyết hơn nữa đối với tình trạng tham nhũng và vi phạm kỉ cương pháp luật. Tham nhũng làm suy giảm uy tín lãnh đạo của Đảng và nhà nước vì vậy cần phải kiên quyết đấu tranh hơn nữa đối với tệ nạn tham nhũng.
- Cần nâng cao năng lực cầm quyền và lãnh đạo của Đảng, bồi dưỡng nâng cao trình độ và làm trong sạch đội ngũ đảng viên để Đảng ta ngày càng vững mạnh thể hiện được vai trò, vị trí của Đảng trong việc lãnh đạo và tổ chức bộ máy chính trị.
- Tăng cường quản lý và sử dụng hiệu quả nguồn vốn đầu tư của nước ngoài cần tạo ra một môi trường đầu tư thông thoáng, an toàn cho các nhà đầu tư nước ngoài.
IV- Kết luận:
Sau 20 năm đổi mới đất nước ta đã đạt được nhiều thành tựu to lớn và rất quan trọng. Điều đó đã khẳng định công cuộc đổi mới ở nước ta là phù hợp giữa ý Đảng và lòng dân, là đúng với các qui luật phát triển của lịch sử khẳng định việc lựa chọn con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của dân tộc là hoàn toàn đúng đắn.
Công cuộc đổi mới đã diễn ra toàn diện, đồng bộ và triệt để, việc kết hợp đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị, lấy đổi mới kinh tế làm trọng tâm đồng thời từng bước đổi mới chính trị đã cho thấy mối quan hệ biện chứng của kinh tế và chính trị trong công cuộc đổi mới ở nước ta.
Tuy còn gặp nhiều khó khăn và thách thức nhưng với những gì đã đạt được thì chúng ta có thể khẳng định công cuộc đổi mới ở nước ta sẽ thành công, con đường đi lên chủ nghĩa xã hội nhất định sẽ thắng lợi.
Danh mục tài liệu tham khảo
1. Giáo trình triết học Mác- Lênin.
2. Văn kiện đại hội Đảng VI-VII-IX.
3. Tạp chí cộng sản.
4. Trang WEB: www.cpv.org.vn.
5. Giáo trình lịch sử kinh tế.
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- T0464.doc