Quan điểm triết học duy vật biện chứng về con người & vấn đề xây dựng con người trong sự nghiệp Công nghiệp hóa - Hiện đại hóa

Tài liệu Quan điểm triết học duy vật biện chứng về con người & vấn đề xây dựng con người trong sự nghiệp Công nghiệp hóa - Hiện đại hóa: ... Ebook Quan điểm triết học duy vật biện chứng về con người & vấn đề xây dựng con người trong sự nghiệp Công nghiệp hóa - Hiện đại hóa

doc19 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1809 | Lượt tải: 4download
Tóm tắt tài liệu Quan điểm triết học duy vật biện chứng về con người & vấn đề xây dựng con người trong sự nghiệp Công nghiệp hóa - Hiện đại hóa, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Quan điểm triết học duy vật biện chứng về con người và vấn đề xây dựng con người trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam. Phần mở đầu Lịch sử của khoa học nói chung, của triết học nói riêng là lịch sử nghiên cứu về con người. Con người là động vật cao cấp nhất, là tinh hoa của muôn loài Con người là sản phẩm của quá trình hết sức lâu dài của tự nhiên, trong xã hội thì con người là yếu tố chủ chốt, là nhân tố quan trọng không thể thay thế trong tiến trình phát triển của lịch sử nhân loại của, lịch sử của loài người . Chủ nghĩa Mác-Lenin cho rằng, con người vừa là thực thể tự nhiên, là là thực thể xã hội, đồng thời là chủ thể cải tạo hoàn cảnh. Con người là một thực thể “song phùng” tự nhiên và xã hội, là sự kết hợp cái tự nhiên (sinh học) và cái xã hội. Hai yếu tố này gắn kết với nhau, đan quyện vào nhau, trong cái tự nhiên chứa đựng tính xã hội và không có cái xã hội tách rời cái tự nhiên. Con người là sản phẩm tiến hóa, phát triển lâu dài của tự nhiên. Thế giới tự nhiên luôn luôn vận động và phát triển, từ thấp đến cao, từ chưa hoàn thiên đến hoàn thiện mà đỉnh cao là con người. Con nguời là thực thể sống, có quá trình chao đổi chất với môi trường xung quanh, có tâm sinh lý, có những nhu cầu vật chất nhất định. Trước đây C.mác đã từng khẳng định, trước khi hoạt động chính trị, văn học, nghệ thuật, con người phải ăn, ở, đi lại. Mỗi cơ thể con người đều tuân theo quy luật của tự nhiên như: sinh ra, tồn tại, phát triển, trưởng thành, già nua và chết đi. Tuy nhiên những nhu cầu sinh học của con người đã mang tính xã hội, do vậy, C.Mác quan niệm con người là một thực thể tự nhiên đặc biệt, một thực thể tự nhiên đã nhân loại hóa. Con người trong quá trình tồn tại không chỉ tác động vào tự nhiên, làm biến đổi tự nhiên mà con người còn quan hệ với nhau tạo nên bản chất người. Con người không thể tồn tại được khi tách rời xã hội. Xã hội càng phát triển, con nguời còn người càng hòa vào cộng đồng xã hội, mối quan hệ giữa con người ngày càng bền chặt hơn, con người được mở rộng mối quan hệ với xã hội. Một khi quan hệ con người được mở rộng thì con người lại nhận thức về mình rõ hơn và sự hiểu biết tăng lên, vai trò của con người trong xã hội càng tăng lên. Như vậy con người có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong các tư tưởng triết học, nó chiếm m ột phần không thể thiếu trong hệ thống triết học duy vật biện chứng Mác-Lenin. Nghiên cứu về con người là một vấn đề vô cùng quan trọng và bức thiết. Nghiên cứu con người trong thời đại ngày nay có ý nghĩa hết sức to lớn nhất là trong thời kỳ đổi mới cụ thể là sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá của thế giới nói chung và nước ta nói riêng. Việt Nam là một nước đang trong thời kỳ quá độ lên CNXH. Nhiệm vụ quan trọng nhất của nước ta trong thời kỳ này là phải xây dựng cơ sở vật chất và kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, trong đó công nghiệp và nông nghiệp hiện đại, có văn hóa và khoa học tiên tiến. Muốn thực hiện thành công nhiệm vụ quan trọng nói trên, nhất thiết phải tiến hành công nghiệp hóa, tức là chuyển nền kinh nông nghiệp lạc hậu thành nền kinh tế công nghiệp. Thế giới đã trải qua hai cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật vĩ đại và đã có rất nhiều nước đã trở thành những nước công nghiệp lớn, vì vậy chúng ta cần tìm hiểu, nghiên cứu về vấn đề con người trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa vì con người là nhân tố quyết định trong mọi hoạt động của xã hội, là chủ thể của nền sản xuất, Nghiên cứu con người đó là phương thức duy nhất để phát triển kinh tế. Việt Nam là một trong số các quốc gia nghèo nhất trên thế giới, nền kinh tế vẫn còn ở tình trạng lạc hậu, làm ăn tản mạn, tùy tiện của sản xuất nhỏ, sản suất còn mang tính tự cung tự cấp, đời sông nhân dân còn nhiều khó khăn. Tổng sản phẩm quốc dân tính theo đầu người thuộc loại thấp nhất thế giới, tốc độ tăng bình quân chậm hơn nhiều nước trong khu vực. Vì vậy muốn không bị tụt hậu xa hơn nữa, muốn ổn định mọi mặt và phát triển thì tất yếu phải thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Tại hội nghị lần thứ VI ban chấp hành TW Đảng Cộng Sản Việt Nam khóa VII đã xác định nước ta “…Chuyển dần sang một thời kỳ phát triển mới, đẩy tới một bước công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, nhằm tạo thêm nhiều công ăn việc làm, đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế, cải thiện hơn nữa đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân. Đây là nhiệm vụ trung tâm có tầm quan trọng hàng đầu trong thời gian tới.” Chủ trương này có tiếp tục được hoàn thiện và có bước phát triển mới ở các Đại hội VII, VIII,IX và trong nhiều nghị quyết quan trọng của TW. Theo Mác thì con người có vai trò vô cùng quan trọng trong sản xuất và tổ chức xã hội, không có gì thay thế được con người trong tiến trình phát triển của lịch sử nhân loại, của xã hội loài người. Bản thân sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa mà chúng ta đang từng bước thực hiện với những thành công bước đầu của nó cũng ngày càng đòi hỏi mỗi chúng ta phải nhận thức sâu sắc “Những giá trị lớn lao, và ý nghĩa quyết định của nhân tố con người” phải thấy rõ vai trò của con người trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội. Chương l CON NGƯỜI TRONG CÁC TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC 1.1. Bản chất con người nói chung Con người không phải là một tồn tại trìu tuợng, ẩn náu ở đâu đó ngoài thế giới. Con người sống trong một thời đại nhât định, một môi trường xã hội nhất định. Có quan hệ xã hội phong phú, phức tạp với sự phát triển của văn minh. Bản chất con người không phải là một cái trìu tượng cố hữu cá nhân riêng biệt trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hòa những mối quan hệ xã hội. Tìm hiểu bản chất của con người thì phải tìm hiểu ở bên trong chứ không phải tìm hiểu đời sống hiện thưc của con người. Xét trên lĩnh vực sinh học thì ta chỉ hiểu được một phần của con người. Những đặc tính như lao động, giao tiếp, thẩm mỹ … không phải là đặc tính của cơ thể mà nó hình thành trong thực lịch sử xã hội, tiêu biểu cho thực chất con người. 1.2. Quan điểm triết học duy vật biện chứng con người. 1.2.1. Quan niệm về con người trong triết học trước Mác. 1.2.1.1. Quan niệm về con người trong triết học phương Đông. Các trường phái triết học tôn giáo phuơng Đông như Phật giáo, Hồi giáo nhận thức bản chất con người trên cơ sở thế giới quan duy tâm, thần bí hoặc nhị nguyên luận. Trong triết học Phật giáo, con người là sự kết hợp giữa danh và sắc (vật chất và tinh thần). Đời sống trên trần chỉ là ảo giác hư vô. Vì vậy, cuộc đời con người khi còn sống chỉ là sống gửi, là tạm bợ. Cuộc sống vĩnh cửu là phải hướng tới cõi Niết bàn, nơi tinh thần con người được giải thoát để trở thành bất diệt. Như vậy, dù bị chi phối bởi thế giới quan duy tâm hoặc nhị nguyên, suy đến cùng, con người trong quan niệm của các học thuyết tôn giáo phương Đông đều phản ánh sai lầm về bản chất con người, hướng con người đến thế giới thần linh. Trong triết học phương Đông, với sự chi phối bởi thế giới quan duy tâm hoặc duy vật chất phác,biểu hiện tư tưởng Nho giáo, Lão giáo, quan niêm về bản chất con người cũng thể hiện một cách phong phú. Khổng Tử cho bản chất con người do “thiên mệnh” chi phối quyết định, đức “nhân” chính là giá trị cao nhất của con người, đặc biệt là người quân tử. Mạnh tử quy tính thiện của con người vào năng lực bẩm sinh, do ảnh hưởng của phong tục, tập quán xấu mà con người bị nhiễm cái xấu, xa rời cái tốt đẹp. Vì vậy, phải thông qua tu dưỡng, rèn luyện để giữ được đạo đức của mình. Cũng như Không Tử, Mạnh Tử cho rằng phải lấy lòng nhân ái, quan hệ đạo đức để dẫn dắt con người hướng tới các giá trị đạo đức tốt đẹp. Triết học Tuân Tử lại cho rằng, bản chất con người khi sinh ra là ác, nhưng có thể cải bién được, phải chống lại cái ác ấy thì con người mới tốt được. Trong triết học phương Đông, còn có quan niệm duy tâm cho rằng trời và con người có thể hòa hợp với nhau (thiên nhân hợp nhất). Đổng Trọng Thư, một ngươi kế thừa Nho giáo theo khuynh hướng duy tâm cực đoan quan niệm trời và con người có thể thông hiểu lẫn nhau(thiên nhiên nhân cảm ứng). Nhìn chung, đây là quan điểm duy tâm, quy cuộc đời con nguời vào vào vai trò quyết định của “thiên mệnh”. Lão Tử người mở đầu cho phái Đạo gia, cho rằng con người sinh ra từ “Đạo”. Do vậy, con người cần phải sống “vô vi”, theo lẽ tự nhiên, thuần phác, không hành động một cách giả tạo gò ép, trái với tự nhiên. Quan niệm này biểu hiện tư tưởng duy tâm chủ quan của triết học Đạo gia. Có thể nói rằng, với nhiều hệ thống triết học, triết học phương Đông biểu hiện tính đa dạng và phong phú, thiên về vấn đề con người trong mối quan hệ chính chị, đạo đức. Nhìn chung, con người trong triết học phương Đông biểu hiện yếu tố duy tâm, có pha trộn tính chất duy vật chất phác ngây thơ trong mối quan hệ tự nhiên xã hội. 1.2.1.2. Quan niệm về con người trong triết học phương Tây trước Mác. Triết học phương Tây trước Mác biểu hiện nhiều quan niệm khác nhau về con người: Các trường phái triết học phương tây đặc biệt là Kitô giáo, nhận thức vấn đề con người trên cơ sở thế giới quan duy tâm, thần bí. Trong Kitô giáo, con người là kẻ có thể xác, Thể xác sẽ mất đi nhưng linh hồn sẽ tồn tại vĩnh cửu.Linh hồn là giá trị cao nhất của con người. Vì vậy, phải thường xuyên chăm sóc phần linh hồn để hướng tới Thiên đường vĩnh cửu. Trong triết học Hy Lạp cổ đại, con người được xem là điểm khởi đầu của tư duy triết học. Con người và thế giới xung quanh la tấm gương phản chiếu lẫn nhau. Con người là một tiểu vũ trụ trong vũ trụ bao la . Như vậy, triết học Hy Lạp cổ đại bước đầu đã có sự phân biệt con người với tự nhiên, nhưng chỉ là hiểu biết bên ngoài về tồn tại con người. Triết học Tây Âu trung cổ xem con người là sản phẩm của thượng đế tạo ra. Mọi số phận, nièm vui, nỗi buồn, sự may rủi của con người đều do Thượng đế sắp đặt. Trí tuệ của con người thấp hơn lý trí anh minh sáng suốt của thượng đế. Con người trở nên nhỏ bé trước cuộc sống nhưng đành bằng lòng với cuộc sống tạm bợ trên trần thế, vì hạnh phúc vĩnh cửu là ở thế giới bên kia. Triết học thời kỳ phục hưng – cận đại đặc biệt đề cao vai trò trí tuệ, lý trí con người, xem con người là một thực thể có trí tuệ. Đó là một trong những yếu tố quan trọng nhằm giải thpát con người khỏi mọi gông cùm chật hẹp mà chủ nghĩa thần học thời trung cổ đã áp đặt cho con người. Tu nhiên, để nhận thức đầy đủ bản chất con người cả về mặt sinh học và mặt xã hội thì chưa có trường phái triết học nào có được. Con người chỉ mới được nhấn mạnh về mặt cá thể, mà xem nhẹ mặt xã hội. Trong triết học cổ điển Đức, những nhà triết học nổi tiếng như Cantơ, Hêghen đã phát triển quan niệm về con người theo khuynh hướng của chủ nghĩa duy tâm. Hêghen, với cách nhìn của một nhà duy tâm khách quan, thông qua sự vận động của “ý niệm tuyệt đối” đã cho rằng, con người là hiện thân của “ý niệm tuyệt đối”. Bước diễu hành của “ý niệm tuyệt đối” thông qua quá trình tự ý thức của con người đã đưa con người trở về với giá trị tinh thần, giá trị bản thể và cao nhất trong đời sống con người. Hêghen cũng là người trình bày một cách có hệ thống các quy luật của quá trình tư duy của con người, làm rõ cơ chế của đời sóng tinh thần cá nhân trong mọi hoạt động của con người. Mặc dù, con người được nhận thức từ góc độ duy tâm khách quan, nhưng Hêghen là người khẳng định vai trò chủ thể của con người với lịch sử, đồng thời là kết quả của sự phát triển lịch sử. Tư tưởng triết học của Phoiơbắc đă vượt qua những hạn chế trong triết học Hêghen để hi vọng tìm đến bản chất con người một cách đích thực Phoiơbắc phê phán tính chất siêu tự nhiên, phi vật chất, phi thể xác về bản chất con người trong triết học Hêghen, đồng thời khẳng định con người do sự vận động của thế giới vật chất tạo nên. Con người là kết quả của sự phát triển của thế giới tự nhiê. Con người và tự nhiên là thống nhất, không thể tách rời *Có thể nói rằng, các quan niệm về con người trong triết học trước Mác, dù đứng trên nền tảng thế giới quan duy tâm, nhị nguyên luận hoặc duy vật siêu hình, đều không phản ánh đúng bản chất con người. Nhìn chung, các quan niệm đều xem xét con người một cáhc trìu tượng, tuyệt đối hóa mặt tinh thần hoặc thể xác con người, tuyệt đối hóa mặt tự nhiên - sinh học mà không thấy mặt xã hội trong đời sống con người. Tuy vậy, một số trường phái triết học vẫn đạt được một số thành tựu trong việc phân tích, quan sát con người, đề cao lý tính, xác lập các giá trị về nhân bản học để hướng con người đến tự do. Đó là những tiền đề có ý nghĩa trong việc hình thành tư tưởng con người của triết học Macxít. 1.2.2. Quan niệm của triết học Mác – Lênin về bản chất con người. 1.2.2.1. Con người là một thực thể thống nhất giữa mặt sinh vật với mặt xã hội. Triết học Mác đã kế thừa quan niệm về con người trong lịch sử triết học, đồng thời khẳng định con người hiện thực là sự thống nhất giữa yếu tố sinh học và yếu tố xã hội. Tiền đề vật chất đầu tiên quy sự tồn tại của con người là sản phẩm của thế giới tự nhiên. Con người tự nhiên là con người mang tất cả bản tính sinh học, tính loài. Yếu tố sinh học trong con ngườI là điều kiện đầu tiên quy định sự tồn tại của con người. Vì vậy, giới tự nhiên là “thân thể vô cơ thể của con người”. Con người là bộ phận của giới tự nhiên. Con người là tinh hoa của muôn loài, là sản phẩm của quá trình lâu dài của thế giới tự nhiên. Con người phải tìm mọi điều kiện cần thiết cho sự tồn tại trong đời sống tự nhiên như thức ăn, nước uống, hang động để ở. Đó là quá trình con người đấu tranh với tự nhiên, thú dữ để sinh tồn. Trải qua hàng chục vạn năm con người đã thay đổi từu vượn thành người, điều đó đã được chứng minh trong các công trình nghiên cứu của Đácuyn. Các gia đọan mang tính sinh học mà con người trải qua từ sinh thành, phát triên đến mất đi quy định bản chất sinh học trong đời sống con người. Như vậy con người trước hết là một tồn tại sinh vật, biểu hiện trong những cá nhân con người sống, là tổ chức cơ thể của con người và mối quan hệ của nó đối với tự nhiên. Những thuộc tính, những đặc điểm sinh học, quá trình tâm sinh lý các giai đoạn phát triển giống nhau nói lên bản chất sinh học của cá nhân con người. Tuy nhiên, mặt tự nhiên không phải là yếu tố duy nhất quy định bản chất con người. Đặc trưng quy định sự khác biệt giữa con người với thế giới loài vật là mặt xã hội. Trong kịch sử đã có hững quan niệm khác nhau phân biệt con người với loài vật, như con người là động vật sử dụng công cụ lao động, là “một động vật có tính xã hội”, hoặc con người là động vật có tư duy … Những quan niệm trên đều phiến diện chỉ vì nhấn mạnh một khía cạnh nào đó trong bản chất xã hội của con người mà chưa nêu lên được nguồn gốc của bản chất xã hội ấy. Với phương pháp biện chứng duy vật, triết học Mác đã nhận thức vấn đề con người một cách toàn diện, cụ thể trong toàn bộ tính hiện thực của nó, mà trước hết là vấn đề lao động sản xuất ra của cải vật chất. Thông qua hoạt động sản xuất vật chất con người đã làm thay đổi, cải biến tự nhiên: “Con vật chỉ tái sản xuất ra bản thân nó, còn con người thì tái sản xuất toàn bộ giới tự nhiên”. Tính xã hội của con người biểu hiện trong sản xuất vật chất; hoạt động vật chất tự biểu hiện một cách căn bản tính xã hội của con người. Thông qua hoạt động lao động sản xuẩt, con người sản xuất ra của cải vật chất và tinh thần, phục vụ đời sống của mình; hình thành phát triển ngôn ngữ và tư duy; xác lập quan hệ xã hội. Bởi vậy, lao động là yếu tố quyết định hình thành bản chất xã hội của con người, đồng thời hình thành nhân cách cá nhân trong cộng đồng xã hội. Là sản phẩm của tự nhiên và xã hội nên quá trình hình thành và phát triển của con người luôn luôn bị quyết định bởi ba hệ thống quy luật khác nhau, nhưng thống nhất với nhau. Hệ thống các quy luật tự nhiên như quy luật về sự phù hợp cơ thể với môi trường, quy luật về sự chao đổi chất, về di chuền, biến dị tiến hóa …quy định phương diện sinh học của con người. Hệ thống các quy luật tâm lý ý thức hình thành và vận động trên nền tảng sinh học của con người như hình thành tình cảm, khát vọng, niềm tin, ý chí. Hệ thống các quy luật xã hội quy định quan hệ giữa người với người. Ba hệ thống quy luật trên cùng tác động, tạo nên thể thống nhất hoàn chỉnh trong đời sống con người bao gồm cả mặt sinh học và mặt xã hội. Mối quan hệ sinh học và xã hội trong đời sống con nggười như nhu cầu ăn, mặc, ở ; nhu cầu tái sản xuất xã hội; nhu cầu tình cảm; nhu cầu thẩm mỹ và hưởng thụ các giá trị tinh thần. Như vậy với phương pháp luận duy vật biện chứng, chúng ta thấy rằng quan hệ giữa mặt sinh học và mặt xã hội, cũng như nhu cầu sinh học và nhu cầu xã hội trong mỗi con ngườI là thống nhất với nhau, hòa quyện vào nhau để tạo thành con người viết hoa, con người tự nhiên xã hội. 1.2.2.2. Bản chất con người là sự tổng hòa những quan hệ xã hội. C.Mác đã nêu lên luận đề nổi tiếng Luân cương về Phoiơbắc: “bản chất con người không phải là một cái trìu tượng cố hữu của cá nhân riêng biệt. Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hòa những mối quan hệ xã hội.” Luận đề khẳng định rằng, không có con người trìu tượng, thoát ly mọi điều kiện, hoàn cảnh kịch sử xã hội. Con người luôn luôn cụ thể, xác định, sống trong một điều kiện lịch sử cụ thể nhất định, một thời đại nhất định. Trong điều kiện lịch sử đó, bằng hoạt động thực tiễn của mình, con người tạo ra những giá trị vật chất và tinh thần để tồn tại và phát triển cả thể lực và tư duy trí tuệ. Chỉ trong toàn bộ các mối quan hệ xã hội đó (như quan hệ giai cấp, dân tộc, thời đại; quan hệ chính trị, kinh tế ; quan hệ cá nhân, gia đình xã hội …) con người mới bộc lộ bản chất của mình. 1.2.2.3. Con người là chủ thể và là sản phẩm của lịch sử. Không có thế giới tự nhiên, không có lịch sử xã hội thì không tồn tại con người. Bởi vậy con người là sản phẩm của lịch sử, của sự tiến hóa lâu dài của thế giới hữu sinh. Song điều quan trọng hơn cả là, con người luôn luôn là chủ thể của lịch sử - xã hội. Con người có hoạt động thực tiễn, tác động vào tự nhiên,cải biến tự nhiên, đồng thời thúc đẩy sự vận động phát triển của lịch sử xã hội. Thế giới loài vật dựa vào những điều kiện có sẵn của tự nhiên. Con người thì trái lại, thông qua hoạt động thực tiễn của mình để làm phong phú thêm thế giới tự nhiên, tái tạo lai một tự nhiên thứ hai theo mục đích của mình. Trong quá trình cải biến tự nhiên con người cũng làm ra lịch sử của mình. Con người là sản phẩm của tự nhiên, đồng thời là chủ thể sáng tạo ra lịch sử của chính bản thân con người. Hoat động lao động sản xuất vừa là vừa là điều kiện cho sự tồn tại con người, vừa là phương thức để làm biến đổi đời sống và bộ mặt xã hội. Trên cơ sở nắm bắt quy luật của kịch sử xã hội, con người thông qua hoạt động vật chất và tinh thần, thúc đẩy xã hội phát triển từ thấp đến cao, phù hợp với mục tiêu và nhu cầu do con người dặt ra. Không có hoạt động của con người thì cũng không tồn tại quy luật xã hội, và do đó, không có sự tồn tại của toàn bộ lịch sử xã hội loài người. * Vấn đề con người luôn là chủ đề trung tâm của lịch sử triết học từ cổ đại đến hiện đại. Triết học Mác – Lênin đã giải quyết những nội dung liên quan đến con người.Con người có vị trí và vai trò rất quan trọng đối với thế giới, và trong thực tế hiện nay thì con người là một lực lượng chủ đạo trong nền sản xuất xã hội. Trong công cuộc đổi mới xã hội chỉ có con người – yếu tố quan trọng nhất trong lực lượng sản xuất của xã hội mớI là nhân tố chính, là nguồn lực mang tính quyết định sự thành công hay thất bại. Nhưng con người cũng là mục tiêu, là cái đích của sự phát triển, đổi mới này. Với thực trạng nước ta hiện nay là nền kinh tế còn nghèo nàn lạc hậu thì biện pháp duy nhât để thoat khỏi tình trạng đó kà nhất thiết phải tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Nó vì lợi ích của con người và có thành công hay không là phụ thuộc vào con người. Chương 2 CON NGƯỜI TRONG SỰ NGHIỆP CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA Ở VIỆT NAM 2.1. Thế nào là công nghiệp hóa, hiện đại hóa 2.1.1. Khái niệm công nhiệp hóa. Khái niệm đơn giản: Là đưa tính công nghiệp cho một hoạt động, trang bị cho (một vùng, một nước), các nhà máy, các loại công ngiệp …Khái niệm này được hình thành trên cơ sở khái quát quá trình hình thành lịch sử công nghiệp hóa ở các nước Tây Âu, Bắc Mỹ. Theo các nhà kinh tế Liên Xô thì công nghiệp hóa là phát triển đại công nghiệp, trước hết là công nghiệp nặng, sự phát triển ấy cần thiết cho việc cải tạo toàn bộ nền kinh tế quốc dân trên cơ sở kỹ thuật tiên tiến. Năm 1963, tổ chức phát triển công nghiệp của Liên hiệp quốc đã đưa ra định nghĩa: Công nghiệp hóa là một quá trình phát triển kinh tế, trong quá trình này, một bộ phận ngày càng tăng các nguồn của cải quốc dân được động viên để phát triển cơ cấu kinh tế nhiều nghành ở trong nước với kỹ thuật hiện đại. 2.1.2. Khái niệm công nghiệp hóa hiện, đại hóa Công nghiệp hóa hiện đại hóa là quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế gắn liền với đổi mới công nghệ xây dựng cơ cấu vật chất - kỹ thuật, là quá trình chuyển nền sản xuất xã hội từ trình độ công nghệ thấp sang trình độ công nghệ cao hơn, nhờ đó mà tạo ra sự tăng trưởng bền vững và có hiệu quả của toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Khái niệm này rất phù hợp với điều kiện nước ta hiện nay. Nước ta là một nước nông nghiệp, nền kinh tế chủ yếu dựa vào nông nghiệp.Nền công nghiệp của nước ta còn yếu kém và lạc hậu, vì vậy thực hiện công nghiệp hóa hiện đại hóa là một bước đi vô cùng đúng đắn. 2.2. Nhân tố con người là nhân tố quyết định trong công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. 2.2.1. Tầm quan trọng của con người. Để thực hiện được công nghiệp hóa, hiện đại hóa thì cần có môi trường ổn định, phải có các nguồn lực cần thiết như: nguồn lực con người, vốn tài nguên thiên nhiên, cơ sở vật chất kỹ thuật, vị trí địa lý …Trong đó thì con người là nhân tố quyết định. Các nước lạc hậu đi sau như (nước ta hiện nay) không thể phát triển nhanh chóng nếu không tiếp thu khoa học kỹ thuật và công nghệ hiện đại của các nước phát triển. Nhưng không phải chuyển giao công nghệ bằng mọi cách mà không cần đến yếu tố con người. Công nghệ đó được phát huy tác dụng, hay bị phá hoại điều đó phụ thuộc vào con người. Con người là yếu tố chủ lực bởi vì: Thứ nhất, các nguồn lực khác như vốn, tài nguyên thiên nhiên, vị trí địa lý nó chỉ tồn tại dưới dạng tiềm năng. Chung chỉ phát huy tác dụng khi có sự tác động của con người, con người là nguồn lực duy nhất có trí tuệ, có ý trí, và biết gắn kết các nguồn lực khác lại với nhau, tạo thành một sức mạnh tổng hợp, cùng tác động vào quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa của đất nước. Thứ hai, các nguồn lực khác là hữu hạn, trong khi đó nguồn lực con người là vô hạn. Nó không chỉ tái sinh và tự sản sinh về mặt sinh học mà con tự đổi mới không ngừng. Thứ ba, trí tuệ con người có sức mạnh vô cùng to lớn một khi nó được vật thể hóa, trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp.Thực tế đã chứng minh trí tuệ con người chúng ta hiện nay đã đạt tới mức siêu đẳng, đã xản xuất ra người máy “bắt trước” hay “phỏng theo’’ những đặc tính trí tuệ của con người. Như vậy bằng những công nghệ kỹ thuật hiện đại do chính bàn tay khối óc con người làm ra, mà ngày nay nhân loại đang chứng kiến những biến đổi thần kỳ trong lịch sử phát triển của mình. Thứ tư, sự thành công của công nghiệp hóa, hiện đại hóa phụ thuộc chủ yếu vào hoạch định đường lối, chính sách cũng như tổ chức thực hiện, nghĩa là phụ thuộc vào năng lực nhận thức và hoạt động thực tiễn của con người. Khi thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa thì mặt chất lượng, cơ cấu và cơ chế sử dụng nguồn nhân lực rất quan trọng. Tóm lại, nguồn nhân lực con người là nguồn lực có vai trò quyết định sự thành công của công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Do vậy muốn có công nghiệp hóa hiện đại hóa thành công thì phải đầu tư vào con người, đây là nhiệm vụ quan trọng nhất và khó khăn nhất trong công cuộc đổi mới hiện nay, với nước ta thì đây là một nhiệm vụ nặng nề và cấp bách trong công cuộc thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa. 2.2.2. Con người Việt nam trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Chúng ta đã thấy rõ vai trò của con người rất quan trọng trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa của đất nước. Với Việt Nam thì công nghiệp hóa, hiện đại hóa có thành công hay không sẽ phụ thuộc phần lớn vào yếu tố con người, nhưng người Việt Nam liệu có làm được điều đó không? Ta cần nghiên cứu những thế mạnh và những hạn chế của nhân tố con người từ đó xem những điểm nào cần phát huy và những điểm nào cần khắc phục. Trước hết con người Việt Nam có những thế mạnh: Thứ nhất, theo thống kê năm 2001 cả nước ta có 39.489 nghìn người từ 15 tuổi trở lên đang có việc làm ổn định,khu vực thành thị có 9.182 nghìn người, khu vực nông thôn có 30.307 nghìn người. Như vậy tỷ lệ có việc làm là 97,24%, tỷ lệ thất nghiệp là 2,76% . Thứ hai, Việt Nam có tỷ trọng tương đối cao về lao động trẻ, phần lớn có học vấn phổ thông kể cả ở nông thôn. Đây là yếu tố quan trọng trong việc tiếp thu kỹ năng nghề nghiệp. So với các nước có thu nhập như nước ta thì lực lượng lao động của nước ta có trình độ cao. Tính đến năm 2001 lực lượng lao động có chuyên môn kỹ thuật lên tới 22,2% có khoảng gần một triệu người tốt nghiệp Đại học, Cao đẳng và 120.000 người có bằng thạc sỹ và tiến sỹ . Thứ ba, chúng ta có một lượng lớn Việt kiều làm ăn sinh sống ở nước ngoài và phần lớn họ có trình độ cao về chuyên môn nghiệp vụ cao. Đây là nguồn lực quan trọng giúp phát triển đất nước, là cầu nối giữa Việt Nam với nước ngoài về mặt chuyển giao tri thức, công nghệ và các quan hệ quốc tế. Thứ tư, đó là bản tính hiếu học, thông minh cần cù lao động của con người Việt Nam. Truyền thông đó cần được duy trì để làm cơ sở cho việc nắm bắt, tiếp thu và vận dụng một cách nhanh chóng, sáng tạo những phát minh, sáng kiến khoa học của nhân loại phục vụ cho sự nghiệp phát triển của đất nước. Tính cộg đồng, ý thức trách nhiệm với cộng đồng được phát huy mạnh mẽ sẽ hỗ trợ đắc lực không chỉ cho việc chuyền bá tay nghề, kinh nghiệm nghề nghiệp mà còn có thể giúp nhau về vốn, tạo dựng và phát triển cơ nghiệp, hỗ trợ nhau tìm kiếm việc làm, góp phần làm giảm sức ép lao động hiện nay. Dân tộc Việt Nam còn có truyền thống biết chịu đựng gian khổ để tiết kiệm, tích lũy cho đầu tư mở rộng, tạo dựng cơ đồ cho mình và cho nền kinh tế nước nhà nói chung. Bên cạnh những thế mạnh đó thi nguồn nhân lực Việt Nam còn có những mặt yếu kém sau: Thứ nhất, số người lao động được đào tạo quá ít chỉ chiếm 20% tổng số lao động, 77,71% sản xuất nông nghiệp có nghĩa là tỷ lệ qua đào tạo là rất hạn chế, hiện nay nước ta số lao động chưa qua đào tạo chiếm tỷ lệ là 51,74% (có học vấn từ tiểu học trở xuống). Đây là trở ngại lớn nhất trong công nghiệp hóa nông nghiệp trong kinh tế nông thôn nói riêng và trong cả nền kinh tế Việt Nam nói chung. Thứ hai, đội ngũ cán bộ khoa học trẻ còn quá ít. Điều tra ở 17 trường đại học cho thấy số cán bộ giang dạy dưới 35 tuổi chỉ có 8%. Phần lớn những tri thức có trình độ trên đại học đã ở độ tuổi từ 55 đến 60 tuổi. Có hơn 60% phó tiến sĩ va tiến sĩ, hơn 70% giá sư và hơn 90% giáo sư đều ở độ tuổi này, trong khi đó phần lớn các sinh viên giỏi ra trường không muốn ở lại trường giảng dạy vì thế mà việc chuẩn bị cho đội ngũ trí thức kế cận gặp rất nhiều khó khăn Thứ ba, việc sử dụng cán bộ còn nhiều bất hợp lý giữa các vùng, các nghành cụ thể là 80% cán bộ khoa học công nghệ làm việc tại Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh. Đa số các cán bộ này nghiên cứu trong các viện, các trường học, còn tham ra vào các nghành sản xuất vật chất thì ít ,ví dụ như trong nghành lâm ngư nghiệp chỉ có 8,1% cán bộ có trình độ đại học còn sau đại học là 6,49% .Trong khi đó các nước trong khu vực như Thái Lan, Hàn Quốc, Nhật Bản thì tỷ lệ đó chiếm tỷ lệ cao. Việc phân bố lao động không hợp lý dẫn tới việc nơi thì có việc làm, nơi thì lại thiếu. Qua điều tra thì tỷ lệ sinh viên có việc là 70% tức là còn 30% không có việc, trong khi đó nhiều vùng, nhiều miền nhất là miền núi lại không có cán bộ khoa học kỹ thuật. Vì thế việc sử dụng, phân bố nguời lao động có vai trò rất quan trọng. Thứ tư, Nguời lao động nước ta chưa có tác phong công nghiệp, quen với sản xuất nhỏ, lao động còn đơn giản còn giữ phong tục nghề nghiệp “cha truyền con nối”. Mặt khác thể chất và sức khỏe của người Việt Nam còn nhiều hạn chế vì thế mà khi lao động còn gặp nhiều khó khăn. Trên đây là những thế mạnh và yếu kém của nguồn lực Việt Nam. Với nhưng thế mạnh thì tiếp tục phát huy còn những hạn chế thì cần có biện pháp khắc phục. Phải có cuộc “cách mạng con người”, tức là cách mạng về người lao động, phải phát huy tối đa yếu tố con người, chỉ có như vậy thì Việt Nam mới vững bước trên con đường công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. 2.3. Phát huy yếu tố con người trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Phát huy nguồn lực con người là quá trình đào tạo, bồi dưỡng làm tằng nguồn lực con người về thể lực, trí lực, phẩm chẩt đạo đức, v.v…, là quá trình khai thác có hiệu quả những yếu tố đó trong lao động, học tập, chiến đấu nhằm phục vụ cho sự nghiệp xây dựng đất nước và bảo vệ tổ quốc. Xã hội loài người chỉ được phát triển khi phát triển tối đa từng cá nhân. Vấn đề phát triển cá nhân không còn là vấn đề lý thuyết mà là nhu cầu thiết yếu trong thực tiễn xã hội ta ngay từ hôm nay. Cụ thể để công nghiệp hóa, hiện đại hóa cần phải tiến hành một cuộc “cách mạng con người” nhằm tạo ra một số lượng lớn các nhà khoa học, đội ngũ đông đảo các nhân viên kỹ thuật có trình độ tri thức tương đối cao và những người lao động lành nghề. Điều đó đòi hỏi sự nghiệp giá dục bồi dưỡng nhân tài phải phát triển tương ứng. Phát triển nguồn nhân lực có mối quan hệ chặt chẽ với đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và phát triển nguồn nhân lực trong điều kiện cách mạng khoc học và công nghệ có những biến đổi nhanh chóng như ngày nay được coi là những phương thức cơ bản, quan trọng nhất để cải biến một xã hội nông nghiệp lạc hậu thành một xã hội công nghiệp văn minh. Hai quá trình nay không tách rời, biệt lập nhau, trái lại chúng có mối quan hệ chặt chẽ, tác động biện chứng. Kết quả là sự cộng hưởng giữa chúng tạo nên quá trình phát triển liên tục của xã hội. Với nước ta vấn đề phát triển nguồn nhân lực đã được nhà nước quan tâm và chú trọng. Nhà nước đã có những chính sách, biện pháp kịp thời, khá hợp lý tuy không tránh khỏi những hạn chế do điều kiện kinh tế hạn hẹp. 2.3.1. Những thành tựu đã đạt được. Trải qua mười lăm năm đổi mới, sự nghiệp giá dục - đào tạo nước ta có bước phát triển về quy mô, chất lượng, hình thức đào tạo cơ sở vật chất. Trình độ đân trí và chất lượng nguồn nhân lực được nâng lên đáng kể. Theo báo cáo phát._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docT0255.doc
Tài liệu liên quan