Quan điểm toàn diện với việc xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta hiện nay

LờI NóI đầu Trải qua hai cuộc chiến tranh tàn khốc,đất nước ta hoàn toàn kiệt quệ về kinh tế. Năm 1975,giải phóng miền Nam,đất nước hoàn toàn độc lập, hai miền Nam Bắc thống nhất, hoà trong không khí tưng bừng của ngày chiến thắng, Đảng và Nhà nước ta không quên nhiệm vụ phát triển kinh tế để đưa nước ta đi lên cùng với các nước bạn trên thế giới.Trong hoàn cảnh đó,Cách mạng nước ta chuyển sang một giai đoạn mới, cả nước xây dựng CNXH. Nhiệm vụ đặt ra trước mắt là phải khắc phục hậu quả nặng nề

doc17 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1634 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Quan điểm toàn diện với việc xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
của chiến tranh để lại và cải tạo nền kinh tế miền Nam cho phù hợp với mô hình kinh tế XHCN. Mặt khác,nước ta đi lên từ một nước nông nghiệp với nền kinh tế cơ chế quản lý tập trung quan liêu, bao cấp tồn tại nhiều năm nay không được tạo động lực phát triển sẽ làm suy yếu nền kinh tế XHCN, hạn chế việc sử dụng và cải tạo nên kinh tế, kìm hãm sản xuất,làm giảm năng suất, chất lượng, hiệu quả, làm rối loạn trong phân phối lưu thông và phát sinh nhiều hiện tượng tiêu cực trong xã hội. Sau khi được giải phóng, Việt Nam đã chọn con đường tiến lên theo CNXH vì vậy mà cơ chế quản lý nền kinh tế bằng mệnh lệnh hành chính là chủ yếu không phù hợp với nguyên tắc dân chủ. Cơ chế cũ gắn liền với tư duy kinh tế dựa trên những quan niệm giản đơn về chủ nghĩa xã hội, mang nặng tính chất chủ quan duy ý chí. Xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN là một trong những nội dung cơ bản của quá trình đổi mới quản lý kinh tế ở nước ta và đã được các Nghị quyết Đại hội VI, Đại hội VII, chiến lược phát triển kinh tế-xã hội 1991-2000 và nhiều Nghị quyết Trung Ương Đảng khẳng định trong đó cơ chế thị trường quản lý Nhà nước là hai yếu tố cơ bản có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Đại hội Đảng lần VI (1986), Đảng và Nhà nước quyết tâm thực hiện quá trình đổi mới thông qua việc thiết lập một chương trình đổi mới về thể chế một cách saau rộng, triệt để và toàn diện nhằm thực hiện việc xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN Việt Nam. Tiếp theo tai Đại hội Đảng lần thứ VII (1991) và Đại hội Đảng lần thứ VIII (1996), Đảng chủ trương tiếp tục đổi mới cơ chế quản lý nhằm vươn tới mục tiêu xoá bỏ cơ chế tập trung quan liêu, bao cấp hình thành tương đối đồng bộ cơ chế thị trường định hướng có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN. Trước hết, xác lập đồng bộ các yếu tố thị trường: thị trường hàng hoá, dịch vụ, thị trường sức lao động, thị trường bất động sản, thị trường vốn, đồng bộ và hoàn chỉnh hệ thống các công cụ quản lý kinh tế thị trường XHCN với các công cụ:pháp luật về kinh tế, kế hoạch hoá, các chính sách tài chính tiền tệ, nâng cao hiệu lưc quản lý. Do vậy, việc nghiên cứu ‘Quan điểm toàn diện với việc xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta hiện nay’ là hết sức cấp bách và quan trọng đối với quá trình phát triển của nước ta. Nhờ đó, chúng ta đã đạt được những thành tựu hết sức to lớn: chúng ta đã thoát khỏi tình trạng lạc hậu, đói kém, đời sống nhân dân đuựơc cải thiện một cách đáng kể và đang ngày càng được nâng cao, chính trị xã hội được ổn định, quốc phòng an ninh được giữ vững, nền kinh tế có tốc độ phát triển nhanh. Trong hoàn cảnh hiện nay, khi cánh cửa thương mại Thế giới đang mở ra đối với nước ta và khi nước ta gia nhập WTO thì việc nghiên cứu ‘Quan điểm toàn diện với việc xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta hiện nay ‘càng trở nên quan trọng hơn bao giờ hết để khẳng định vị trí của nước ta trên thị trường Thế giới. Ngày 10 tháng 5 năm 2007 PHầN MộT: NHữNG Lý LUậN Về QUAN ĐIểM TOàN DIệN 1. cơ sở lý luận: Quan điểm toàn diện được xuất phát từ nguyên lý về mối liên hệ phổ biến của phép biện chứng là: - Các sự vật hiện tượng không tồn tại cô lập mà thống nhất với nhau trong đó các sự vật hiện tượng tồn tại bằng cách tác động lẫn nhau, ràng buộc lẫn nhau, quy định và chuyển hoá lẫn nhau - Không chỉ trong tự nhiên mà cả trong lĩnh vực đời sống xã hội và tinh thần, mọi sự vật hiện tượng tồn tại bằng cách tác động qua lại lẫn nhau. - Sự liên hệ đó chỉ là tính khách quan và là tính phổ biến của các sự vật hiện tượng trong thế giới khách quan - Trong thế giới khách quan có vô vàn mối liên hệ, chúng rất đa dạng và giữ vai trò vị trí khác nhau trong sự tồn tại, vận động và phát triển của sự vật hiện tượng - Có mối liên hệ bên trong(sự liên hệ tác động qua lại giữa các mặt, các yếu tố bên trong sự vật hiện tượng) lại có mối liên hệ bên ngoài, nói chung mối liên hệ này không có ý nghĩa quyết định, hơn nữa nó thường thông qua mối liên hệ bên trong mà phát huy tấc dụng với các sự vận động về phát triển của sự vật. Tuy nhiên, nó cũng là mối liên hệ hết sức quan trọng trong nền kinh tế thị trường. Vì vậy không có một sự kiện nào tồn tại trong trạng thái cô lập, tách rời những sự kiện khác. Chẳng hạn qua cuộc cách mạng khoa học- kỹ thuật và công nghệ hiẹn đại vừa qua tạo ra nhưng cũng vừa tạo ra những thách thức to lớn đối với tất cả các nước chậm phát triển. Nước ta có tranh thủ được thời cơ do cuộc cách mạng đó tạo ra hay không, trước hết và chủ yếu phụ thuộc năng lự của Đảng, của Nhà nước và của nhân dân ta. Xong chúng ta cũng khó xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội nếu không hội nhập quốc tế, không tận dụng được những thành tựu của cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật và công nghệ mà thế giới đạt được. Nói cách khác mối liên hệ bên ngoài cũng hết sức quan trọng đôi khi có thể giữ vai trò quyết định. Có mối liên hệ chung trong toàn bộ thế giới, cũng có mối liên hệ riêng trong từng lĩnh vực cụ thể. Có mối liên hệ trực tiếp giữa hai hay nhiều sự vật hiện tượng lại có mối liên hệ gián tiếp (sự vật, hiện tượng liên hệ tác động qua lại lẫn nhau thông qua một chiều hay nhiều khâu trung gian). Từ nhận thức trên trong việc xây dựng nền kinh tế thị trường đòi hỏi phải có các yếu tố thị trường, các công cụ quản lý nền kinh tế. Quan điểm toàn diện ở đây thể hiện ở chỗ muốn xây dựng nền kinh tế thị trường phảI xây dựnh các yếu tố thị trường mang tính đồng bộ, tính toàn diện, phải xây dựng các công cụ đồng thời hoạt động chứ không thể xây dựng riêng rẽ, như vậy sẽ rất khó có tác dụng trong việc xây dựng nền kinh tế. 2. Yêu cầu của quan điểm toàn diện: Quan điểm toàn diện đòi hỏi chúng ta nhận thức về sự vật hiện tượng trên hai khía cạnh: thứ nhất là trong mối quan hệ các bộ phận giữa các yếu tố, các thuộc tính khác của chính sự vật đó, thứ hai là trong mối quan hệ giữa các sự vật đó với sự vật khác (kể cả trực tiếp và gián tiếp). V.I.Lênin viết ‘Muốn thực sự hiểu biết sự vật cần phải nhìn bao quát và nghiên cứu tất cả các mặt, tất cả các mối liên hệ và quan hệ gián tiếp của sự vật đó’ (V. I. Lênin toàn tập NXB Tiến bộ, Mátxcơva, 1979 t.42, tr364) Quan điểm toàn diện đòi hỏi chúng ta để nhận thức được sự vật, cần xem xét nó trong mối quan hệ nhu cầu thực tiễn của con người. Ưng với mỗi người, mỗi thời đại, mỗi hoàn cảnh nhất định con người bao giờ cũng chỉ phản ánh được một số lượng hữu hạn những mối liên hệ. Bởi vậy tri thức đạt được về sự vật cũng chỉ là tương đối, không đầy đủ, không trọn vẹn. Như vậy quan điểm toàn diện chân thực đòi hỏi chúng ta phải đi từ tri thức nhiều mặt nhiều mối liên hệ sự vật đến chỗ khái quát để rút ra các bản chất chi phối sự tồn tại và phát triển của sự vật hoặc hiện tượng đó. Quan điểm toàn diện không đồng nhất với cách xem xét dàn trải, liệt kê những tính quy định khác nhau của sự vật hiện tượng; nó đòi hỏi phải làm nổi bật cái cơ bản nhất, chủ yếu nhất và quan trọng nhất của sự vật hay hiện tượng đó. 3. ý nghĩa phương pháp luận của quan điểm toàn diện: - Để cải tạo một sự vật, hiện tượng, để hoàn thành một nhiệm vụ đặt ra trong hoạt động thực tiễn, đỏi hỏi một hệ thống biện pháp nhất định. Nừu thiếu quan điểm toàn diện trong các chủ trương biện pháp thì không thể đạt được hiệu quả như mong muốn. Song toàn diện đồng bộ không phải cái gì cũng đặt ra một cách dàn đều tràn lan mà đòi hỏi trong mỗi thời kỳ, mỗi giai đoạn phải có những biện pháp mang tính trọng tâm, trọng điểm,phải xác định những khâu then chốt tập trung giải quyết để làm cơ sở cho những chủ trương biện pháp khác một cách đồng bộ. Góp phần khắc phục lối suy nghĩ giản đơn, một chiều, phiến diên. Trong thế giới khách quan mọi sự vật hiện tượng đều có rất nhiều mối liên hệ. Vì vậy mà chỉ xem xét một mặt hay một vài mặt mà đã vội vàng kết luận vấn đề ngay như vậy sẽ không chính xác. Các quan hệ lợi ích thường thấy lợi ích trước mắt mà không thấy lợi ích lâu dài. Quan điểm toàn diện với những yêu cầu của nó giúp chúng ta tìm hiểu mọi vấn đề ơ cái bản chất, cái bên trong bản thân nó. Chống lại chủ nghĩa triết chung và thuật nguỵ biện (chủ nghĩa triết chung nhân danh toàn diện để kết hợp một cách vô nguyên tắc nhuững cái hết sức khác nhau thành một hình ảnh không đúng về sự vật; Thuật nguỵ biện thì lại lập luận chủ quan, lấy thứ yếu thay cho chủ yếu, lấy cái không cơ bản thay cho cái cơ bản nhằm xuyên tạc sự vật) PHầN HAI: Vận dụng lý luận vào việc xây dựng Nền kinh tế thị trường 1. Khái niệm kinh tế thị trường, ưu điểm và nhược điểm của nó: 1.1. Khái niệm kinh tế thị trường: - Kinh tế thị trường là trình độ phát triển cao của kinh tế hàng hoá, trong đó toàn bộ các yếu tố ‘đầu vào’ và ‘đầu ra’ của sản xuất đều thông qua thị trường. Kinh tế thị trường phát triển qua hai giai đoạn: kinh tế thị trường tự do và kinh tế thị trường hỗn hợp (còn gọi là kinh tế thị trường hiện đại). Sự khác biệt cơ bản giữa hai giai đoạn này là,kinh tế thị trường hỗn hợp có sự điều tiết của nhà nước. - Kinh tế thị trường đầy đủ gắn liền với hệ thống luật lệ, thể chế, hệ thống các đạo luật, các quy phạm là xương sống của nền kinh tế. Về thực chất là những khuôn khổ pháp lý bảo đảm cho nền kinh tế hoạt động năng động có trật tự. - Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, một mặt có những đặc trưng của kinh tế thị trường, mặt khác cũng có những đặc trưng riêng đó là nền kinh tế thị trường nhiều thành phần trong đó thành phần kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, có nhiều hình thức phân phối thu nhập, trong đó phân phối theo thu nhập là chủ yếu và cơ chế vận hành là cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước. 1.2. Ưu điểm và nhược điểm của nền kinh tế thị trường trong đời sống xã hội ở nước ta: Nền kinh tế thị trường khác hẳn với nền kinh tế quan liêu, tập trung, bao cấp trước kia là ở sự cạnh tranh. Nghiên cứu dưới góc độ của quan điểm toàn diện, chúng ta thấy rằng một mặt kinh tế thị trường làm cho cạnh tranh phát triển thúc đẩy khoa học phát triển, tiếp thu và ứng dụng được các tiến bộ khoa học; mặt khác cạnh tranh cũng làm cho hàng loạt các doanh nghiệp khác bị phá sản. 1.2.1. Ưu điểm: Kinh tế thị trường tạo ra sự cạnh tranh và sự cạnh tranh đã tạo ra những con người năng động, quyết đoán có được kinh nghiệm sau những lần cạnh tranh đó nhằm: +)Thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển, tạo ra năng suất lao động cao +) Đẩy mạnh quá trình xã hội hoá lực lượng sản xuất +) Đẩy nhanh quá trình tích tụ và tập trung sản xuất +) Kích thích nâng cao năng suất, hiệu quả kinh tế và chất lượng, hàng hoá và dịch vụ dồi dào và luôn luôn được cải biến +) Tính năng động và tự điều chỉnh của nền kinh tế 1.2.2. Nhược điểm: +Phân hoá giàu nghèo quá xa dẫn đến phân phối thu nhập không công bằng trong xã hội và mâu thuẫn xã hội. Thị trường càng phát triển, mâu thuẫn càng lớn và đến lượt nó lại là nguyên nhân cản trở sự phát triển do tình trạng bất công và dẫn đến thế bất ổn định +)Sự phát triển mù quáng của các doanh nghiệp riêng lẻ tất yếu dẫn đến khủng hoảng chu kì, triệt tiêu lẫn nhau và thất nghiệp +)Động cơ săn đuổi lợi nhuận tối đa luôn luôn gắn liền với những thủ đoạn không lành mạnh: đàu cơ, buôn lậu và lối sống duy vật chất xem thường đạo đức và truyền thống xã hội +)Độc quyền của những doanh nghiệp lớn và các nước lớn trong việc khống chế và lưu thông giá cả, đầu cơ nâng cao giá hoặc bán phá giá +)Gía cả tự do hình thành trên thị trường, tự nó không thể hiện đúng giá trị của nó Phát triển kinh tế thị trường là mục tiêu hàng đầu của nước ta và trong thời gian qua, nước ta vẫn tiếp tục đi lên theo hướng đó. Trong quá trình đó chúng ta cũng đã cố gắng hạn chế tối đa những nhược điểm đó để đạt được kết quả tốt nhất. 2. Mục đích của kinh tế thị trường: - Trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Đảng ta đã xác định xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng là một xã hội: +) Do nhân dân lao động làm chủ +) Có một nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yêú +) Có nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc +) Con người được giải, phóng khỏi áp bức, bất công, làm theo năng lực, hưởng theo lao động, có cuộc sống ấm no, hạnh phúc, có điều kiện để phát triển toàn diện cá nhân +) Các dân tộc trong nước bình đẳng, đoàn kết, giúp đỡ nhau cùng tiến bộ +) Có quan hệ hữu nghị và hợp tác với tất cả nhân dân các nước trên thế giới Cương lĩnh cũng xác định rõ mục tiêu tổng quát phải đạt tới khi kết thúc thời kì quá độ là ‘ xây dựng xong về cơ bản những cơ sở kỹ thuật của CNXH vơí kiến trúc thượng tầng về chính trị và tư tưởng vă hoá phù hợp, làm cho nước ta trở thành một nước xã hội chủ nghĩa phồn vinh’ Với những định xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta nêu trên thì mục tiêu hàng đầu phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta được xác định là giải phóng và phát triển lực lượng sản xuất , phát triển nền kinh tế, động viên mọi nguồn lực trong nước và ngoài nước để xây dựng cơ sở vật chất kĩ thuật của CNXH tạo ra sự phát triển năng động hiệu quả cao của nền kinh tế, trên cơ sở đó cải thiện từng bước đời sống của nhân dân, từng bước thực hiện công bằng, bình đẳng và lành mạnh các quan hệ xã hội. 3. Thực trạng và quá trình phát triển nền kinh tế thị trường ở nước ta: 3.1. Giai đoạn trước năm 1986: Khi đất nước vừa được giải phóng, để khắc phục hậu quả nặng nề do chiến tranh để lại, Đảng ta đã từng bước khôi phục và phát triển nền kinh tế, ổn định chính trị, từng bước xác lập quan hệ sản xuất mới, bước đầu xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của CNXH, phát triển sự nghiệp giáo dục. Tuy nhiên, nền kinh tế vẫn trong tình trạng kém phát triển, sản xuất nhỏ là chủ yếu và mang nặng tính tự cung tự cấp. Trình độ trang bị kỹ thuật trong sản xuất cũng như kết cấu hạ tầng kinh tế, văn hoá - xã hội, năng suất xã hội thấp. Cơ cấu kinh tế vẫn mang đặc trưng của một nước có nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu, mất cân đối về nhiều mặt, trình độ kỹ thuật chưa cao, chưa tạo được tích luỹ trong nước và lệ thuộc nhiều vào nước ngoài. Cơ chế quản lý tập trung quan liêu, bao cấp để lại nhiều hậu quả tiêu cực, nến kinh tế hoạt độnh với hiệu quả thấp Từ Nghị quyết hội nghị VI Ban chấp hành Trung Ương khoá IV(1979), các quan hệ hàng hoá -tiền tệ đã được chấp nhận nhưng mới chỉ ở mức độ thứ yếu. Điều đó là do qua nhiều thập kỉ, tư tưởng kinh tế xã hội chủ nghĩa mang nặng thành kiến, kiêng kỵ quan hệ hàng hoá và cơ chế thị trường coi nó là biểu hiện thuộc tính của chế độ tư hữu và tư bản. Mặt khác, do nước ta đi lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa cho nên phải trải qua một thời kì quá độ lâu dài với nhiều chặng đường, nhiều hình thức tổ chức kinh tế, xã hội có tính chất quá độ. 3.2. Giai đoạn từ năm 1986 đến năm 1990 Trước tình hình đó, tháng 12- 1986, Đại hội VI đã nhìn thẳng vào sự thật, thừa nhận những sai lầm, thiếu sót chủ quan trong lãnh đạo và điều hành, chủ yếu là duy ý chí, nóng vội đốt cháy giai đoạn, muốn tiến hành nhanh, lên chủ nghĩa xã hội. Không thể có công cuộc đổi mới nếu rời xa tư tưởng cách mạng, khoa học chủ nghĩa Mac- Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Đồng thời, Đảng quyết định đường lối đổi mới toàn diện mang tính chiến lược, mở ra thời kì mới phát triển nền kinh tế nước ta. Đổi mới tư duy lý luận, trước hết là đổi mới tư duy kinh tế với nền kinh tế tập trung, quan liêu bao cấp tồn tại lâu đời trong nền kinh tế nước ta cần phải xoá bỏ triệt để để xây dựng một cơ chế mới phù hợp quy luật khách quan và trình độ phát triển của nền kinh tế. Đại hội đã xác định những mục tiêu cụ thể về kinh tế xã hội như: xây dựng và hoàn thiện một bước quan hệ sản xuất mới phù hợp với trình độ phát triển kinh tế và lực lượng sản xuất. Củng cố thành phần kinh tế xã hội chủ nghĩa bao gồm thành phần cả khu vực quốc doanh và khu vực tập thể một cách toàn dện, cả về chế độ sở hữu , chế độ quanr lý, chế độ phân phối làm cho thành phần kinh tế này giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân, thể hiện tính ưu việt về năng suất lao động, chất lượng sản phẩm, thu nhập của người lao độnh và tích luỹ cho quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá Tuy nhiên để áp dụng được ngay điều đó đòi hỏi phải một thời gian lâu dàivà thực tế trong quá trình đổi mới nước ta đang dần khắc phục những mặt yếu kém để đạt được kết quả cao nhất trong nền kinh tế. Ví dụ như trong giai đoạn 1986- 1990 đầu tư toàn xã hội trung bình là 12,5% GDP; tăng trưởng kinh tế trung bình là 3,9%; kim ngạch xuất khẩu bình quân đạt 1,3 tỷ USD/năm; kim ngạch nhập khẩu trung bình là 2,4 tỷ USD/năm. Về lạm phát năm 1986 là 77,4% đến năm 1990 giảm xuống còn 67,15% (Nguồn Tổng cục thống kê) 3.3. Giai đoạn từ năm 1991 đến năm 2000: Đại hội Đảng lần thứ VII (6/1991) với những quyết sách quan trọng như: - Phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý và điều tiết của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa - Tiếp tục đẩy mạnh đổi mới cả về bề rộng và bề sâu, lấy đổi mới kinh tế làm trọng tâm - Tiếp tục kiềm chế và đẩy lùi lạm phát, giữ vững và phát triển sản xuất, bắt đầu có tích luỹ từ nội bộ nền kinh tế - Ôn định và từng bước cải thiện đời sống của nhân dân (về vật chất và tinh thần), tạo việc làm cho người lao động, giảm nhịp độ tăng dân số … Tiếp đó, Đang ta đã đặt nhiều kế hoach 5 năm để phát triển kinh tế như từ 1991- 1995; 1996- 2000 và đã đạt được nhiều thành tựu đáng kể: tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, tổng sản phẩm trong nước lớn từ chỗ không đáng kể đến năm 2000 đạt 25% GDP, tích luỹ nội bộ nhiều, đời sống nhân dân dược cải thiện đáng kể … 3.4. Giai đoạn từ năm 2000 đến nay: Nền kinh tế thị trường cơ bản đã góp phần thúc đẩy nền kinh tế nước ta phát triển với tốc độ cao. Sự thành công của nó là ở chỗ đem lại thành quả của tăng trưởng kinh tế cao đến với mọi người bằng cách không ngừng nâng cao đời sống nhân dân, bảo đảm tốt các vấn đề xã hội và công bằng, bình đẳng trong xã hội. Nền kinh tế hiện nay ở nước ta là nền kinh tế mở với nhiều thành phần kinh tế tham gia thị trường: thành phần kinh tế nhà nước, thành phần kinh tập thể, thành phần kinh tế cá thể, tiểu chủ, thành phần kinh tế tư bản tư nhân, thành phần kinh tế tư bản nhà nước, thành phần kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Đó là nhờ sự phát triển toàn diện của việc phát triển kinh tế đi kèm với việc phát triển lực lượng sản xuất và đi theo đường lối đúng đắn mà Đảng và Bác Hồ đã lựa chọn. 4. Đổi mới tư duy lý luận trong sự nghiệp đổi mới ở nước ta: Đại hội của Đảng Cộng Sản đã đề ra đường lối đổi mới toàn diện – từ đổi mới nền kinh tế là trọng tâm, đến đổi mới chính trị, văn hoá, xã hội; từ đôỉ mới tư duy, nhận thức, tư tưởng đến hoạt động thực tiễn của Đảng, nhà nước và của nhân dân. Vấn đề có ý nghĩa quyết định trong quá trình đổi mới là Đảng phải đổi mới trên cả ba lĩnh vực: tư duy, tổ chức đội ngũ cán bộ và phong cách làm việc. Đổi mới tư duy là phương pháp tư duy khắc phục lối tư duy giáo điều chủ quan duy ý chí, đấu tranh loại bỏ những quan điểm sai trái, khắc phục những quan điểm lạc hậu về CNXH và con đường đi lên XHCN ở Việt Nam. Đổi mới tư duy nhằm quán triệt phương pháp tư duy biện chứng duy vật nhằm khẳng định con đường đi lên CNXH ở Việt Nam dựa trên nền tảng chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh là hoàn toàn phù hợp với quá trình đổi mới ở nước ta Từ Đại hội VI đến nay đã gần 15 năm, đường lối đổi mới đã được cụ thể hoá và phát triển đem lại thành quả to lớn và quan trọng trong sự nghiệp đổi mới ở nước ta. Tại hội VII,Đảng Cộng Sản Việt Nam đã khẳng định “Trong cách mạng XHCN, Đảng ta đã có nhiều cố gắng, nghiên cứu, tìm tòi, xây dựng đường lối, xây dưngj mục tiêu và phương án XHCN. Nhưng Đảng đã phạm sai lầm chủ quan duy ý chí, vi phạm quy luật khách quan: nóng vội cải tạo XHCN, xoá bỏ ngay nền kinh tế nhiều thành phần, có lúc đẩy quá mức xây dựng công nghiệp nặng, duy trì quá lâu chế đọ quản lý tập trung, quan liêu bao cấp…Quán triệt nguyên tắc khách quan, khắc phục bệnh chủ quan duy ý chí là nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn dân ta và nhiệm vụ này chỉ thực hiện được nếu chúng ta kết hợp chặt chẽ giữa nhiệt tình cách mạng và tri thức khoa học. - Trong việc hoạch định các chương trình phát triển kinh tế nhà nước phải dự báo được xu hướng vận động của nền kinh tế trong tương lai, đồng thời dự báo được xu hướng vận động của các sự kiện, lĩnh vực liên quan. - Mỗi lĩnh vực của thế giới, của đơì sống đều co những quy luật đặc thù do đó phải nhận thức được các quy luật triết học ở bên trong nó đẻ có những chính sách phù hợp để đạt được kết quả cao nhất trong quá trình đổi mới. - Mối liên hệ giữa sự vận động và phát triển là hai mặt của quá trình tồn tại của sự vật; sự vật liên hệ lẫn nhau tạo ra vận động ngược lại vận động tạo ra liên hệ. Yêu cầu toàn diện chỉ đạt được khi tính đến sự phát triển và ngược lại chỉ có thể dự báo được xu hướng phát triển khi xem xét một cách toàn diện Đảng ta đã đưa ra những định hướng lớn cho quá trình đổi mới: - Chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng, là kim chỉ nam cho hành động của Đảng và cách mạng Việt Nam - Công nghiệp hoá, hiện đại hoá là nhiệm vụ trung tâm của thời kì đổi mới kinh tế ở nước ta - Nền kinh tế nước ta là nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng XHCN. Tăng trưởng kinh tế đi đôi với tiến bộ và công bằng xã hội. - Phát triển văn hoá, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc kết hợp với văn hoá tinh hoa nhân loại Trong những năm đổi mới vừa qua, sở dĩ Đảng ta giữ vững được vai trò quản lý và lãnh đạo nước ta đi lên theo con đường CNXH là do Đảng ta luôn kên định theo chủ nghĩa Mác –Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh Vào giai đoạn đầu khi CNXH sụp đổ ở Đông Âu và Liên Xô cũ đã gây nên một tác động rất xấu về niềm tin và cả hoài nghi về CNXH, người ta đã tự hỏi rằng có hay không một chế độ XHCN mà bấy lâu nay chế độ tư bản chủ nghĩa vãn giữ vị trí thống trị nhưng bằng những lỗ lực và kiên định theo chủ nghĩa Mác –Lênin và con đường mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã lựa chọn chúng ta đã xây dựng đất nước Việt Nam trở thành một nước XHCN tưởng chừng như không thể có ở nước ta và chứng minh cho bạn bè trên thế giới biết CNXH là một nhà nước do dân,vì dân và sẽ tiếp tục phát triển. 5. Tính toàn diện trong xây dựng nền kinh tế thị trường: 5.1. Tạo lập tính đồng bộ các yếu tố thị trường: - Vận dụng quan điểm toàn diện trong việc thúc đẩy sự hình thành, phát triển và từng bước hoàn thiện các loại thị trường theo định hướng XHCN, đặc biệt quan tâm đến các thị trường chưa có hoặc còn kém phát triển như: thị trường sức lao động, thị trường chứng khoán, thị trường bất động sản - Trong điều kiện các yếu tố thị trường phát triển không đồng bộ và toàn diện sẽ cản trở sự phát triển nền kinh tế thị trường, làm cho thị trường phát triển không đúng theo bản chất của nó, làm sai lẹch đI những nội dung cần có của kinh tế thị trường. Trong các giải pháp để phát triển nền kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay thì hình thành đồng bộ các loại thị trường là giải pháp cấp thiết, cụ thể là: (1) Phát triển thị trường hàng hoá và dịch vụ vì thị trường hàng hoá và dịch vụ là yếu tố nòng cốt của nền kinh tế hàng hoá. (2) Phát triển thị trường sức lao động: ở nước ta loại thị trường này tuy chưa phát triển nhưng theo quan điểm toàn diện, lao động là yếu tố không thể thiếu trong kinh doanh. Do vậy việc phát triển thị trường lao động sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho người lao động có thể tự tìm được công việc phù hợp với năng lực của họ. (3) Phát triển thị trường vốn:Để đảm bảo cho nền kinh tế phát triển bền vững và ổn định cần phát triển thị trường vốn để có tích tụ vốn kịp thời ứng phó những lúc cấp bách. Như vậy, việc vận dụng quan điểm phát triển toàn diên, đồng bộ các yếu tố thị trường, các loại thị trường là yếu tố rất cần thiết để thúc đẩy nền kinh tế Việt Nam phát trỉên. Tuy nhiên việc phát triển các yếu tố thị trường cần được định hướng của nhà nước bằng hàng loạt các công cụ quản lý nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. 5.2. Hoàn chỉnh đồng bộ và toàn diện hệ thống các công cụ quản lý nền kinh tế thị trường: Văn kiện Đại hội VIII của Đảng đã nêu “ Nhà nước quản lý thị trường bằng pháp luật, cơ chế, chính sách, các đòn bẩy kinh tế và bằng các nguồn lực của khu vực kinh tế nhà nước “ Nhà nước tác động vào thị trường nhằm kích thích những mặt tích cực đồng thời hạn chế, khắc phục những tiêu cực của kinh tế thị trường. Hệ thống các công cụ được Đảng và nhà nước ta chỉ ra rõ là: - Pháp luật - Kế hoạch - Cơ chế chính sách, đòn bẩy kinh tế - Các nguồn lực của khu vực kinh tế nhà nước Như vậy để định hướng nền kinh tế thị trường đi theo định hướng XHCN cần có các cơ chế chính sách, các công cụ quản lý nền kinh tế một cách đồng bộ và toàn diện nền kinh tế quốc dân. Các công cụ đã nêu ở trên không thể bỏ qua bất kì công cụ quản lý nào, nếu thiếu đi một trong các công cụ trên thì hậu quả của nó rất nghiêm trọng. Do vậy quan điểm toàn diện trong việc xây dựng các công cụ quản lý nền kinh tế là hết sức quan trọng và cần thiết. Kết luận Trong thời gian vừa qua việc xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta đã gặt hái được nhiều thành tựu đáng kể. Chúng ta đã chứng tỏ cho thế giới thấy nước ta từ một nước nông nghiệp nghèo nàn, lạc hậu đã đi lên xây dựng thành công mô hình xã hội XHCN và quan trọng hơn là chúng ta đa phát triển nền kinh thị trường theo định hướng XHCN mà tư trước đến giờ vẫn được coi là một mô hình lý tưởng và khó có thể đạt được. Điều đó có được là do chúng ta đã biết vận dụng đúng đắn quan điểm toàn diện trong việc phát triển nền kinh tế ngay từ khi bắt đầu đổi mới. Những bài học đổi mới do Đại hội VI, VII, VIII nêu lên đến nay vẫn có giá trị hết sức to lớn trong quá trình đổi mới Chúng ta đã khắc phục được nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu dần trở thành một nước có nền kinh tế phát triển, xoá bỏ được cơ chế quan liêu, tập trung, bao cấp, đời sống người dân được cải thiện một cách đáng kể. Điều đó có được là do Đảng ta đã kiên định với chủ nghĩa Mác – Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh, trên cơ sở đó xây dựng các chính sách chủ trương đổi mới. Chúng ta kiên trì bảo vệ những truyền thống quý báu của dân tộc và những thành tựu cách mạng đã đạt được, giữ vững mục tiêu độc lập dân tộc, vững bước theo con đường XHCN. Với thực tiễn đổi mới, trước hết là đổi mới tư duy, nhận thức về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên CNXH ở Việt Nam ngày một rõ ràng và đầy đủ hơn. Điều này trên thực tế đã trở thành nguồn lực đặc biật có ý nghĩa bảo đảm cho mỗi hoạt động kinh tế, văn hoá, xã hội cụ thể trong sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước Nhận thức bao giờ cũng là quá trình đi từ đơn giản đến phức tạp, từ chưa hoàn thiện đến hoàn thiện hơn. Hơn thế CNXH là một hiện tượng mới mẻ, đang vận động, hình thành trong lịch sử loài người. Bởi vậy, bám sát thực tiễn, nghiên cứu và tổng kết thực tiễn để phát triển lý luận đó là yêu cầu to lớn mà thực tiễn lý luận đặt ra cho Đảng ngày hôm nay Thực tế cho thấy, nhờ vận dụng quan điểm toàn diện trong việc hình thành đồng bộ các yếu tố thị trường, hình thành các công cụ quản lý kinh tế đã thu được nhiều thành công, cho chúng ta nhiều bài học trong việc xây dựng nền kinh tế thị trường rất quý giá. Qua quá trình đổi mới ở nước ta, chúng ta đã thấy có rất nhiều thành tựu to lớn mà Đảng ta đã đạt được góp phần cải thiện đáng kể đời sống nhân dân lao động và yếu tố quan trọng góp phần làm nên thành công đó là do Đảng và nhà nước ta đã biết vận dụng hợp lý quan điểm toàn diện trong việc xây dựng đồng bộ các yếu tố thị trường. Thực hiện chuyên đề này, tôi đã rút ra được rất nhiều bài học quý giá về sự ngiệp đổi mới của đất nước ta và đó cũng là một niềm tự hào cho tất cả người dân Việt Nam đồng thời cũng thấy được vai trò quan trọng của quan điểm toàn diện trong việc nhìn nhận, đánh giá, phát triển các sự vật, hiện tượng là một điều đáng quan tâm và hết sức quan trọng. TàI liệu tham khảo 1. Dự thảo các văn kiện trình Đại hội IX của Đảng 2. Giáo trình kinh tế chính trị Mác - Lênin NXB chính trị quốc gia năm 2005 3. Giáo trình triết học Mác –Lênin NXB chính trị quốc gia năm 2005 4. Kinh tế xã hội Việt Nam năm 2000 mục tiêu, phương hướng và giải pháp 5. Tạp chí cộng sản số 19 tháng 10 / 1998 6. Tạp chí cộng sản số 7 tháng 4/ 2000 7. Tạp chí cộng sản số 17 tháng 9 / 2000 8. Tạp chí cộng sản số 24 tháng 12/ 2000 9. Vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng Sản Việt Nam trong thời kì đổi mới đất nước – PGS, PTS Nguyễn Trọng Phúc NXB chính trị quốc gia 10. Và một số tạp chí khác. ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc35950.doc
Tài liệu liên quan