Quan điểm toàn diện trong phát triển nghiệp vụ bảo lãnh tại Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam

Mục lục Mở đầu Cả nước ta đang chuyển mình trong giai đoạn xây dựng nền kinh tế thị trường, từng bước tiến hành công cuộc đổi mới công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa. Song song với sự phát triển không ngừng của nền kinh tế, hệ thống các ngân hàng thương mại Việt Nam cũng phải từng ngày từng giờ thay da đổi thịt cho phù hợp với yêu cầu của tiến trình phát triển đầy khắc nghiệt đó. Một thực tế không thể phủ nhận là cùng với xu hướng toàn cầu hoá nền kinh t

doc48 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1511 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Quan điểm toàn diện trong phát triển nghiệp vụ bảo lãnh tại Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ế, hoạt động thương mại trong nước và quốc tế ngày càng được mở rộng, đi cùng với đó là những rủi ro tăng theo cấp số nhân. Trong bối cảnh đó, nghiệp vụ bảo lãnh của ngân hàng ra đời như một phương tiện phòng ngừa rủi ro góp phần không nhỏ vào việc thông suốt quá trình sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp bằng cách đảm bảo tư cách của các bên trong quan hệ hợp đồng, từng bước đáp ứng yêu cầu của nền kinh tế trong quá trình hội nhập khu vực và thế giới. Không những thế còn có ý nghĩa quan trọng trong nâng cao vai trò, uy tín của hệ thống ngân hàng, khẳng định vị thế cũng như khả năng thích nghi phát triển của các nghiệp vụ ngân hàng đáp ứng đòi hỏi khách quan của nền kinh tế. Thực tiễn tại Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam cho thấy, so với các nghiệp vụ mang tính truyền thống của ngân hàng thì nghiệp vụ bảo lãnh là nghiệp vụ còn khá mới mẻ, các cán bộ nghiệp vụ còn thiếu kinh nghiệm, quy trình tiến hành còn chưa hoàn thiện, việc ra những quyết định bảo lãnh còn mang tính kinh nghiệm. Sự phát triển của nghiệp vụ này trong những năm qua chưa đáp ứng hết những đòi hỏi bức bách của nền kinh tế. Đôi lúc, Ngân hàng Ngoại thương cũng phải gánh chịu những rủi ro phát sinh từ nghiệp vụ này. Do vậy, một trong những mục tiêu, định hướng nghiệp vụ bảo lãnh của ngành Ngân hàng nói chung và Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam nói riêng đó là rút kinh nghiệm từ thực tế, không ngừng chấn chỉnh, ổn định, nâng cao chất lượng nghiệp vụ bảo lãnh, từ đó có thể hoàn thiện và phát triển nghiệp vụ bảo lãnh tại Ngân hàng lên ngang tầm với yêu cầu của nền kinh tế đang không ngừng phát triển. Xuất phát từ những nhận thức trên và trên cơ sở lý thuyết quan điểm toàn diện về việc nhìn nhận sự vật, hiện tượng và những vấn đề trong tính chỉnh thể và đặt sự vật hiện tượng trong những mối liên hệ nội tại của sự vật và cả những mối quan hệ bên ngoài. Trong suốt thời gian thực tập và làm việc cũng như đi sâu nghiên cứu chất lượng nghiệp vụ bảo lãnh tại Phòng bảo lãnh thuộc Sở giao dịch, Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam, em đã mạnh dạn lựa chọn đề tài : “Quan điểm toàn diện trong phát triển nghiệp vụ bảo lãnh tại Ngân hàng Ngoại Thương Việt Nam”. Ngoài lời mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung tiểu luận được trình bày theo ba chương. Chương 1: Quan điểm toàn diện và nghiệp vụ bảo lãnh của Ngân hàng thương mại. Chương 2: Nghiệp vụ bảo lãnh tại Ngân hàng Ngoại Thương Việt Nam . Chương 3: Giải pháp phát triển nghiệp vụ bảo lãnh tại Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam trên Quan điểm toàn diện. Chương 1: quan điểm toàn diện và nghiệp vụ bảo lãnh của ngân hàng thương mại 1.1 Nguyên lý mối liên hệ phổ biến 1.1.1. Khái niệm mối liên hệ phổ biến Khái niệm “mối liên hệ” (hay quan hệ) với tư cách là khái niệm cơ bản của phép biện chứng được sử dụng để chỉ sự ràng buộc lẫn nhau, quy định lẫn nhau, đồng thời là sự tác động làm biến đổi lẫn nhau của các sự vật hiện tượng. Như vậy, trong phép biện chứng khái niệm “mối liên hệ” không chỉ sử dụng với một nghĩa hạn hẹp mà là theo một nghĩa rất bao quát, phản ánh tính thống nhất và vận động, biến đổi của mọi sự vật hiện tượng: cái này là điều kiện, tiền đề tồn tại của cái kia và ngược lại; đồng thời sự tác động của cái này làm biến đổi cái kia và làm ngay chính bản thân cái đó. Phân tích mối quan hệ cung cầu của hàng hoá và dịch vụ trong kinh tế học hiện đại là một điển hình cho sự minh hoạ khái niệm này. Cung cầu ràng buộc lẫn nhau, làm tiền đề tồn tại cho nhau, đồng thời sự biến đổi của cung sẽ làm tiền đề cho sự thay đổi của cầu và ngược lại. Điều này là cơ sở của mọi phân tích thị trường hàng hoá và dịch vụ. Ba vấn đề cơ bản của kinh tế học hiện đại: sản xuất cái gì? cho ai? như thế nào và bằng cách nào? chỉ có thể giải quyết được khi xuất phát từ việc giải quyết một cách biện chứng mối quan hệ cung-cầu. Chẳng hạn, về phía người sản xuất, để giải quyết vấn đề “sản xuất cái gì”, người ta không thể chỉ dựa vào các khả năng sẵn có về tiềm lực của mình, mà quan trọng hơn là phải xuất phát từ sự phân tích thị trường tiêu thụ hàng hoá và dịch vụ – tức là xuất phát từ hoạt động marketing về cầu. Như vậy, khả năng cầu là xuất phát điểm để người sản xuất suy nghĩ, lập phương án sản xuất cái gì? chất lượng như thế nào? số lượng bao nhiêu?… Đối với việc giải quyết vấn đề sản xuất cho ai và bằng cách nào cũng tương tự như vậy, đều phải xuất phát từ thực tế khả năng cầu tiêu thụ hàng hoá dịch vụ trên thị trường. Chính trong quá trình thực hiện đó, người sản xuất phải tự biến đổi cho phù hợp với thị trường tiêu thụ, đồng thời người sản xuất cũng góp phần làm biến đổi thị trường tiêu thụ hàng hoá. Khái niệm “mối liên hệ” trong phép biện chứng với tư cách là khái niệm triết học phản ánh một cách khái quát tính thống nhất và biến đổi của toàn bộ thế giới. Vì vậy, những mối liên hệ mà phép biện chứng đề cập tới là “ mối liên hệ phổ biến”-tức là những mối liên hệ mang tính chất bao quát nhất, chẳng hạn mối liên hệ của các mặt đối lập, mối liên hệ lượng-chất, mối liên hệ phát triển…tuy nhiên, những mối liên hệ phổ biến đó không tồn tại một cách trừu tượng mà trái lại những mối liên hệ phổ biến được thể hiện qua các “mối liên hệ đặc thù” tức là những mối liên hệ tồn tại riêng biệt trong từng lĩnh vực cụ thể, thậm chí trong mỗi sự vật hiện tượng. Điều này cũng nói lên tính thống nhất đa dạng của các mối liên hệ của mọi sự vật hiện tượng. Điều đó cũng thể hiện tính đa dạng trong tính thống nhất của toàn bộ thế giới. Cũng vì vậy, trong nghiên cứu khoa học nói chung, các khoa học kinh tế nói riêng, người ta không thể không vận dụng các nguyên tắc quy luật chung của phép biện chứng, nhưng đồng thời cũng không chỉ dừng lại ở các phương pháp luận chung đó mà phải triển khai phương pháp luận chung trong những nghiên cứu cụ thể. 1.1.2. Tính khách quan và phổ biến của các mối liên hệ. Phép biện chứng duy tâm cũng đề cập và xác nhận tính phổ biến của các mối liên hệ các sự vật hiện tượng. Chẳng hạn Heghen cũng nói tới tính trung giới phổ biến của khái niệm, rằng mọi khái niệm đều là trung giới cho nhau. Tuy nhiên, do đứng trên lập trường triếy học duy tâm khách quan, Heghen đã khảo cứu cơ sở của các mối liên hệ tồn tại của tinh thần tuyệt đối – ý niệm tuyệt đối. Trái lại, phép biện chứng duy vật khoa học của C.Mác, Ph.Ănghen và V.I.Lênin, do đứng trên lập trường của chủ nghĩa duy vật khoa học đã khẳng định tính khách quan của các mối liên hệ; tức là tìm cơ sở vật chất của mọi mối liên hệ của các sự vật hiện tượng. Theo quan điểm niệm này, cơ sở của mọi mối liên hệ của giới tự nhiên, xã hội và tinh thần là vật chất – là tính thống nhất vật chất. Các mối liên hệ của đời sống tinh thần, của các khái niệm suy đến cùng chính là phản ánh các mối liên hệ vật chất khách quan. Và phương pháp luận quan trọng tất yếu được rút ra từ quan niệm này trong nghiên cứu khoa học là phải đòi hỏi thái độ khách quan trong việc phân tích và giải quyết các vấn. Khái niệm về tính phổ biến của các mối liên hệ bao hàm quan niệm về tính cố hữu của các mối liên hệ trong quá trình thống nhất vận động và phát triể.n không ngừng của các sự vật hiện tượng. Nói cách khác, mọi sự vật hiện tượng đều có mối liên hệ. Xét trong tính thống nhất của thế giới, trong quá trình vận động và phát triển không ngừng của mọi sự vật hiện tượng thì không có giới hạn cuối cùng của các mối liên hệ. Quan niệm này tất yếu đi tới quan niệm: sự vật hiện tượng không phải là đồng nhất, không phải là sự cô lập tuyệt đối hay cố định ở những giới hạn tuyệt đối, mà trái lại chúng là một hệ thống mở, luôn trong tương quan tác động qua lại làm biến đổi lẫn nhau. Tính khách quan và phổ biến của các mối liên hệ có vai trò trong việc xác lập cơ sở lý luận của lý thuyết cấu trúc hệ thống. Lý thuyết cấu trúc hệ thống là một lý thuyết khoa học hiện đại, được vận dụng phổ biến trong mọi nghiên cứu khoa học. Xét theo cơ sở phương pháp luận triết học của lý thuyết đó có thể thấy vai trò đặc biệt quan trọng của nguyên lý về mối liên hệ phổ biến. Theo lý thuyết này, không thể nói tới giới hạn cuối cùng của mọi sự phân chia một đối tượng nghiên cứu. Những giới hạn đó chỉ mang tính tương đối trong những hình thức nghiên cứu nhất định. Nếu tuyệt đối hoá sự phân chia đó, tất yếu mang lại những sai lầm về tính độc lập tương đổi của các mối liên hệ. 1.2. Quan điểm toàn diện, quan điểm cơ bản trong nhận thức khoa học 1.2.1.Quan điểm toàn diện quan điểm bổ sung cho quan niệm về tính phổ biến của các mối liên hệ. Trong thực tế khách quan, một đối tượng nghiên cứu xem xét trong tính chỉnh thể thống nhất của mọi tồn tại, trong mọi sự vận động và phát triển không ngừng là tập hợp vô vàn các nhân tố tác động. Cũng vì thế mỗi giả định trong nghiên cứu khoa học chân lý tuyệt đối trong khoa học chính là tổng số các chân lý tương đối trong quá trình phát triển nhận thức, tiến dần tới sự phản ánh đầy đủ, toàn diện hơn về khách thể nghiên cứu. Từ đó có thể thấy quan điểm toàn diện phải là quan điểm cơ bản trong nhận thức khoa học. Nguyên tắc toàn diện trong nghiên cứu phải là nguyên tắc chủ đạo. Theo nguyên tắc này, trong mọi nghiên cứu phải xem xét, phân tích các khách thể nghiên cứu trên mọi mặt, mọi mối liên hệ có thể có và có thể được, tránh những phiến diện trong phân tích một vấn đề cụ thể. Theo đó, sau những phân tích có giới hạn của những giả định khoa học là những phân tích mở rộng nhằm đạt tới phản ánh đầy đủ hơn những biến đổi trong tính chỉnh thể của một khách thể nghiên cứu. Đơn cử một ví dụ trong kinh tế học hiện đại, áp dụng phương pháp mô hình toán người ta phân tích tìm ra điểm cân bằng của hai đường cong cung – cầu trong nền kinh tế thị trường. Trong những giới hạn nhất định, điểm cân bằng đó là có thể xác định. Trái lại, nó lại thường xuyên dịch chuyển dưới sự tác động mở rộng của nhiều nhân tố khách quan và chủ quan. Như thế, những điểm cân bằng đã xác định hướng cho những tác nghiệp kinh doanh. 1.2.2. Quan điểm toàn diện trong quản lý kinh tế. Trong nền kinh tế không có một sự kiện nào tồn tại trong trạng thái cô lập tách rời những sự kiện khác. Bất kỳ một sự kiện kinh tế nào cũng chỉ tồn tại với tư cách là trong mối liên hệ với những sự kiện kinh tế khác. Ví dụ: Giá cả thị trường của mỗi loại hàng hoá chỉ biểu hiện ra trong mối quan hệ với sự biến động cung – cầu về loại hàng hoá đó, trong mối quan hệ với giá cả các loại hàng hoá khác (tỷ giá với các loại hàng hoá cạnh tranh cùng chủng loại, nhu cầu các loại hàng hoá bổ sung). Các thị trường hàng hoá dịch vụ cụ thể, thị trường lao động không tồn tại trong trạng thái cô lập tách biệt nhau mà trong sự liên hệ tác động qua lại chế ước lẫn nhau. Mỗi sự biến động về giá cả trên thị trường vốn (lãi suất) kéo theo hàng loạt các sự biến động lan truyền trên các thị trường lao động, thị trường hàng hoá. Khi lãi suất trên thị trường vốn giảm (giá của tiền) các doanh nghiệp có cơ hội mở rộng đầu tư phát triển sản xuất làm cho giá cả sức lao động, tiền công, tiền lương tăng lên do đó giá cả trên thị trường hàng hoá cũng tăng lên… Bản thân nền kinh tế cũng không tồn tại trong trạng thái cô lập mà trong mối quan hệ quy định lẫn nhau giữa các lĩnh vực kinh tế – chính trị – ngoại giao; kinh tế, chính trị, đạo đức – pháp quyền; kinh tế – chính trị – khoa học- nghệ thuật…Nền kinh tế nước ta khi chuyển từ cơ chế quản lý tập trung sang cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước thì những sự thay đổi trong quan điểm kinh tế, cơ cấu kinh tế và cơ chế kinh tế kéo theo sự thay đổi trong quan niệm về vai trò, vị trí, ngoại giao, đạo đức, pháp quyền, khoa học và nghệ thuật… Vì mọi sự kiện kinh tế chỉ tồn tại, và chỉ biểu hiện với tư cách là bản thân sự kiện đó trong mối quan hệ với những sự kiện khác cho nên nguyên tắc toàn diện đòi hỏi: Khi nghiên cứu một sự kiện kinh tế nào đó, để có thể nhận thức được bản chất của sự kiện cần phải xem xét trên tất cả các mặt, các mối liên hệ có thể có. Bản chất của sự kiện sẽ là cái chung, được chứa đựng trong tất cả các mối quan hệ đó. Tính chân lý và xác thực của tri thức khoa học được rút ra phụ thuộc vào độ lớn của tổng thể các mối quan hệ có thể thu thập được. Tuy nhiên, vì số lượng các mối liên hệ có thể có là vô cùng, người nghiên cứu không thể nào bao quát hết, cho nên sai lầm vẫn có thể xảy ra. Chính vì vậy chân lý – sai lầm là hai mặt cùng tồn tại trong một tri thức. Và để khắc phục tình trạng bỏ sót trên cơ sở ứng dụng quan điểm toàn diện cần phải phân loại các mối liên hệ thành từng nhóm. Mỗi chuyên ngành khác nhau có cách phân nhóm các mối liên hệ theo phương pháp khác nhau. Trên bình diện triết học thường quan tâm đến các nhóm chủ yếu sau: Mối liên hệ bên trong – bên ngoài. Mối liên hệ nhân – quả. Mối liên hệ trực tiếp – gián tiếp. 1.3. Nghiệp vụ bảo lãnh của Ngân hàng thương mại. Sự ra đời của nghiệp vụ bảo lãnh không đồng thời với sự ra đời của ngân hàng. Nhưng quá trình tồn tại và phát triển của ngân hàng cùng với sự phát triển của thương mại quốc tế và nhu cầu về một đối tác đáng tin cậy bảo đảm cho các thương vụ mới làm nảy sinh nghiệp vụ bảo lãnh như một loại hình nghiệp vụ mới của ngân hàng hiện đại. Nền kinh tế ngày càng phát triển, các hoạt động thương mại trong nước cũng như quốc tế cũng ngày càng đa dạng và phong phú. Một giao dịch thương mại có thể giải thích đơn thuần: người bán sẽ cung cấp hàng hoá, dịch vụ cho người mua và người mua trả tiền cho khối lượng hàng hoá, dịch vụ nhận được, nhưng những phát sinh từ đó lại vô cùng phức tạp, đặc biệt trong thương mại quốc tế. Hoạt động thương mại quốc tế với sự vô giới hạn về không gian và thời gian đã kéo theo cả những vấn đề từ sự khác biệt về thể chế chính trị, hệ thống pháp lý, quy chế mậu dịch, điều kiện thanh toán, điều kiện thị trường, tình hình tài chính. Chính những sự khác biệt này kéo theo những rủi ro không lường trước được đã là tiền đề ban đầu đòi hỏi sự xuất hiện nghiệp vụ bảo lãnh của ngân hàng. 1.3.1.Khái niệm và phân loại nghiệp vụ bảo lãnh (Bank Guarantee) * Khái niệm nghiệp vụ bảo lãnh (Bank Guarantee) Theo khoản 12, Điều 20 của Luật các tổ chức tín dụng, Theo Điều 1 trong Quyết định số 196 ra ngày 16/9/1994 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước về quy chế nghiệp vụ bảo lãnh của các Ngân hàng. Theo Quyết định số 263/QĐ- NHNN ngày 19/9/1995. Và gần đây nhất theo Quyết định số 283/2000/QĐ-NHNN ngày 25/8/2000 khái niệm nghiệp vụ bảo lãnh Ngân hàng như sau: “Bảo lãnh Ngân hàng là cam kết bằng văn bản của tổ chức tín dụng (bên bảo lãnh) với bên có quyền (bên nhận bảo lãnh) về việc thực hiện nghĩa vụ tài chính thay cho khách hàng (bên được bảo lãnh) khi khách hàng không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ đã cam kết với bên nhận bảo lãnh. Khách hàng phải nhận nợ và hoàn trả các tổ chức tín dụng số tiền đã được trả thay”. Bên bảo lãnh là các tổ chức tín dụng quy định tại Điều 3 của Quy chế bảo lãnh ngân hàng theo Quyết định 283/2000 của NHNN bao gồm: + Ngân hàng thương mại Nhà nước, ngân hàng thương mại cổ phần, ngân hàng đầu tư, ngân hàng phát triển, ngân hàng chính sách, ngân hàng liên doanh, chi nhánh ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam, ngân hàng hợp tác, các loại hình ngân hàng khác và các tổ chức tín dụng phi ngân hàng thành lập và hoạt động theo Luật các tổ chức tín dụng (gọi chung là tổ chức tín dụng) được thực hiện nghiệp vụ bảo lãnh ngân hàng theo các quy định của pháp luật có liên quan và quy định tại Quy chế này. + Các ngân hàng được Thống đốc Ngân hàng Nhà nước cho phép thực hiện thanh toán quốc tế được thực hiện bảo lãnh vay, bảolãnh thanh toán và các hình thức bảo lãnh khác mà bên nhận bảo lãnh là các tổ chức, cá nhân nước ngoài. + Tổ chức, tín dụng thực hiện bảo lãnh hối phiếu, lệnh phiếu theo quy định của pháp luật về thương phiếu. Bên được bảo lãnh là các khách hàng được quy định tại điều 4 quy chế bao gồm: + Các doanh nghiệp đang hoạt động kinh doanh hợp pháp tại Việt Nam: doanh nghiệp nhà nước, công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty hợp danh, doanh nghiệp của các tổ chức chính trị, tổ chức chính trị-xã hội, doanh nghiệp liên doanh, doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, doanh nghiệp tư nhân, hộ kinh doanh cá thể. + Các tổ chức tín dụng được thành lập và hoạt động theo Luật Các tổ chức tín dụng + Hợp tác xã + Các tổ chức kinh tế nước ngoài tham gia các hợp đồng hợp tác liên doanh và tham gia đấu thầu các dự án tại Việt Nam hoặc vay vốn để thực hiện các dự án đầu tư tại Việt Nam. Bên nhận bảo lãnh là các cá nhân tổ chức trong và ngoài nước có quyền thụ hưởng các cam kết bảo lãnh của tổ chức tín dụng. Nghiệp vụ bảo lãnh đòi hỏi phải luôn xuất hiện ba yếu tố: - Phải có một nghĩa vụ cụ thể - Nghĩa vụ đó phải là nghĩa vụ tài chính - Các thành viên tham gia phải có ba bên: người yêu cầu bảo lãnh(người được bảo lãnh), người nhận bảo lãnh (người thụ hưởng), người bảo lãnh Đồng thời trong nghiệp vụ bảo lãnh luôn phải xem xét tổng hợp ba hợp đồng cơ bản: + Hợp đồng giữa người yêu cầu bảo lãnh (người được bảo lãnh) và Ngân hàng phát hành. + Hợp đồng giữa người được bảo lãnh và người nhận bảo lãnh (Hợp đồng mua - bán cơ sở). + Hợp đồng giữa Ngân hàng phát hành và người nhận bảo lãnh (Thư bảo lãnh). Các hợp đồng này ràng buộc trách nhiệm giữa các bên và để tiến hành nghiệp vụ bảo lãnh không thể thiếu bất cứ hợp đồng nào. Ngân hàng sẽ tiếp nhận đơn xin phát hành bảo lãnh từ phía người mua, xem xét các yếu tố bảo đảm thanh toán, khả năng tài chính cũng như khả năng thực hiện hợp đồng của khách hàng…Khi các điều kiện thoả mãn, ngân hàng sẽ ký hợp đồng bảo lãnh với người được bảo lãnh và phát hành bảo lãnh cho người thụ hưởng dưới hình thức thư bảo lãnh. Người thụ hưởng có thể yêu cầu sửa đổi bảo lãnh trên cơ sở thoả thuận của hợp đồng cơ sở. Khi đó ngân hàng phát hành sẽ xem xét lại để chấp nhận sửa đổi. Nếu các giao dịch diễn biến thuận lợi, bảo lãnh sẽ được điều chỉnh để đảm bảo quyền lợi và nghĩa vụ cho cả ba bên. Đối với bên được bảo lãnh: được tạm thời sử dụng một phần vốn của bên nhận bảo lãnh, mà chỉ phải trả một khoản phí cho người bảo lãnh. Và khoản phí đó chính là chi phí cho việc người được bảo lãnh sẽ được đảm bảo quyền lợi cũng như nghĩa vụ theo hợp đồng cơ sở. Đối với bên nhận bảo lãnh :hoàn toàn yên tâm về việc thực hiện hợp đồng của bên được bảo lãnh và tin tưởng những rủi ro phát sinh trong hợp đồng của họ sẽ được bù đắp. Đối với ngân hàng bảo lãnh: ngân hàng thu được phí bảo lãnh mà vẫn đảm bảo được lợi ích của ngân hàng thông qua biện pháp an toàn phù hợp. Mặt khác khi tiến hàng bảo lãnh, ngân hàng đã nhận được sự tín nhiệm, được sự tin tưởng của cả hai bên. Trong khi thực chất, ngân hàng chỉ cho vay trừu tượng, nghĩa là ngân hàng không bỏ ra một khoản vốn nào cả, mà chỉ lấy uy tín, danh dự của ngân hàng ra cho vay, làm cơ sở cho vay. Có quan niệm cho rằng trong nền kinh tế phát sinh những quan hệ hợp đồng nào thì có thể phát sinh tương ứng những nghiệp vụ bảo lãnh của ngân hàng. Quan niệm trên tuy không hoàn toàn đúng nhưng đã phản ánh được sự phong phú của các loại nghiệp vụ bảo lãnh với rất nhiều những phương pháp phân loại khác nhau. * Phân loại nghiệp vụ bảo lãnh Bảo lãnh ngân hàng rất đa dạng, tuỳ theo cách thức phát hành, theo phạm vi, theo mục đích và nội dung của bảo lãnh mà có những loại hình khác nhau. Ta có thể xem xét những phương pháp phân loại cơ bản sau: + Theo phương thức phát hành bảo lãnh -Bảo lãnh trực tiếp ( Direct Guarantee) Bảo lãnh trực tiếp là loại bảo lãnh trong đó ngân hàng phát hành bảo lãnh chịu trách nhiệm bảo lãnh trực tiếp cho bên được bảo lãnh, người được bảo lãnh chịu trách nhiệm bồi hoàn trực tiếp cho ngân hàng phát hành bảo lãnh. Loại bảo lãnh này chịu sự chi phối của luật trong nước và khi hết hạn có thể trực tiếp tất toán với người bảo lãnh mà không cần có sự hoàn trả thư bảo lãnh. Ưu điểm của loại bảo lãnh này là người được bảo lãnh không phải mất thêm phí cho ngân hàng đại lý nước ngoài (ngân hàng trung gian). Ngân hàng phục vụ người được bảo lãnh và trực tiếp phát hành bảo lãnh gọi là ngân hàng phát hành bảo lãnh và ngân hàng có trụ sở tại nước người thụ hưởng gọi là ngân hàng thông báo. Ngân hàng thông báo có vai trò là kiểm tra tính chính xác, tính chân thực của bảo lãnh như: chữ ký, test key, ... khi nhận được thư bảo lãnh từ ngân hàng phát hành, sau đó thông báo và chuyển nội dung thư bảo lãnh cho người thụ hưởng. Sơ đồ bảo lãnh trực tiếp: (1) Ngân hàng phát hành Ngân hàng thông báo Người được bảo lãnh Người nhận bảo lãnh (2) (3) (4) (1): Người được bảo lãnh và người nhận bảo lãnh (người thụ hưởng) ký kết hợp đồng cơ sở trong đó quy định các điều khoản bảo lãnh. (2): Người được bảo lãnh yêu cầu ngân hàng phục vụ mình phát hành thư bảo lãnh. (3): Ngân hàng phục vụ người được bảo lãnh phát hành thư bảo lãnh và đề nghị ngân hàng có trụ sở tại nước người thụ hưởng thông báo và chuyển nội dung thư bảo lãnh tới người thụ hưởng. (4): Ngân hàng thông báo thực hiện việc thông báo và chuyển nội dung thư bảo lãnh cho người thụ hưởng. Ngân hàng thông báo không được chỉ định là ngân hàng thanh toán, không chịu trách nhiệm về nội dung thư bảo lãnh và các tranh chấp (nếu có) phát sinh trong quá trình bảo lãnh sau này. Ngoài ra, ngân hàng phát hành bảo lãnh có thể phát hành bảo lãnh trực tiếp cho người nhận bảo lãnh mà không cần thông qua ngân hàng thông báo bằng cách trực tiếp thông báo và chuyển nội dung thư bảo lãnh cho người nhận bảo lãnh. - Bảo lãnh gián tiếp (Indirect Guarantee) Bảo lãnh gián tiếp hay còn gọi là bảo lãnh đối ứng (Counter Guarantee) là loại bảo lãnh trong đó ngân hàng bảo lãnh đã phát hành bảo lãnh theo chỉ thị của một ngân hàng trung gian phục vụ cho người được bảo lãnh. Bảo lãnh gián tiếp được thực hiện thường do người thụ hưởng mong muốn thư bảo lãnh được một ngân hàng có trụ sở tại nước mình phát hành (Local Bank) để thuận lợi trong giao dịch hoặc đòi tiền sau này. Vì vậy, người được bảo lãnh phải yêu cầu ngân hàng phục vụ mình chỉ định một ngân hàng đóng trụ sở tại nước người thụ hưởng phát hành bảo lãnh. Ngân hàng thứ nhất trong quan hệ trên gọi là Ngân hàng chỉ dẫn (Instructing Bank), ngân hàng thứ hai gọi là Ngân hàng phát hành (Issuing Bank). Mối quan hệ giữa hai ngân hàng này được thể hiện bằng văn bản của Ngân hàng chỉ dẫn đề nghị Ngân hàng phát hành thực hiện việc phát hành bảo lãnh và văn bản của Ngân hàng chỉ dẫn cam kết bồi hoàn cho Ngân hàng phát hành nếu Ngân hàng phát hành thanh toán bảo lãnh - việc này được thể hiện bằng một văn bản đối ứng. Sơ đồ bảo lãnh gián tiếp: (2) (4) (3) (1) Ngân hàng phát hành Ngân hàng Chỉ dẫn Người được Bảo lãnh Người nhận Bảo lãnh (1): Người được bảo lãnh và người thụ hưởng ký kết hợp đồng cơ sở trong đó có quy định các điều khoản, điều kiện về bảo lãnh. (2): Người được bảo lãnh yêu cầu ngân hàng phục vụ mình chỉ định một ngân hàng đóng trụ sở tại nước người thụ hưởng phát hành bảo lãnh. (3): Ngân hàng phục vụ người được bảo lãnh yêu cầu ngân hàng đóng trụ sở tại nước người thụ hưởng phát hành thư bảo lãnh kèm theo thư bảo lãnh đối ứng hoặc thư tín dụng dự phòng. (4): Ngân hàng đóng trụ sở tại nước người thụ hưởng phát hành thư bảo lãnh, thông báo và chuyển nội dung thư bảo lãnh cho người thụ hưởng. - Đồng bảo lãnh (Syndicate Guarantee, Co-Guarantee) Trong trường hợp những thương vụ lớn, khả năng rủi ro cao, một ngân hàng riêng lẻ không thể thực hiện bảo lãnh hoặc vì những quy định hạn chế và mục tiêu phân tán rủi ro của Chính phủ nước đó. Do vậy, các ngân hàng có thể thực hiện đồng bảo lãnh cho một khoản bảo lãnh. Các ngân hàng thành viên tham gia đồng bảo lãnh sẽ chọn một ngân hàng đứng ra là ngân hàng bảo lãnh chính. Ngân hàng này sẽ phát hành thư bảo lãnh cho toàn bộ số tiền bảo lãnh, giữ các chứng từ có liên quan, thu phí bảo lãnh từ người được bảo lãnh và chia lại cho các ngân hàng thành viên theo tỷ lệ. Các ngân hàng còn lại cam kết chịu trách nhiệm theo từng phần đóng góp của mình bằng những bảo lãnh đối ứng. Khi ngân hàng bảo lãnh chính thanh toán cho người thụ hưởng thì họ có quyền truy đòi các ngân hàng thành viên số tiền mà họ đã cam kết bằng bảo lãnh đối ứng. Sơ đồ đồng bảo lãnh: (1) (2) (3) NH a NH B NH C Ngân Hàng phát hành bảo lãnh Người được Bảo lãnh Người nhận Bảo lãnh (1): Hai bên ký kết hợp đồng cơ sở. (2): Bên được bảo lãnh nộp đơn xin các ngân hàng bảo lãnh cho mình. (3): Quan hệ thanh toán giữa các ngân hàng tham gia đồng bảo lãnh và bên nhận bảo lãnh. + Theo mục đích bảo lãnh - Bảo lãnh dự thầu(Tender Guarantee) Bảo lãnh dự thầu là loại bảo lãnh trong đó ngân hàng bảo lãnh cam kết với chủ thầu về việc tham gia đấu thầu của nhà thầu. Trong trường hợp khách hàng bị phạt do vi phạm quy định dự thầu mà không nộp hoặc nộp không đủ tiền phạt cho bên mời thầu thì tổ chức tín dụng thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh đã cam kết. Mục đích: Đảm bảo cho người dự thầu không phải rút lui, không ký kết hợp đồng hay thay đổi ý định khi đã được trúng thầu. Nếu người dự thầu đã trúng thầu nhưng không ký hợp đồng thì chủ thầu (Người thụ hưởng) sẽ rút tiền thanh toán từ bảo lãnh để trang trải cho chi phí đấu thầu, thiệt hại do chậm trễ tiến độ thi công hay chi phí để tổ chức laị một cuộc đấu thầu khác. Trị giá của bảo lãnh thông thường từ 1- 5% giá trị hợp đồng đấu thầu. Thời hạn hiệu lực của bảo lãnh sẽ chấm dứt khi bên được bảo lãnh (Người tham gia dự thầu ) không trúng thầu hoặc sau khi ký kết hợp đồng hoặc chấp nhận ký kết hợp đồng nếu bên bảo lãnh trúng thầu. - Bảo lãnh vay vốn (Credit Guarantee, Loan Guarantee), hay có thể gọi là bảo lãnh tín dụng là cam kết của ngân hàng bảo lãnh với bên cho vay về việc sẽ chịu trách nhiệm trả thay cho bên vay trong trường hợp bên vay không thanh toán đầy đủ, đúng hạn nợ gốc và lãi như đã ký kết ngay khi bên thụ hưởng bảo lãnh có yêu cầu mà không cần có sự kiểm tra nào. Việc thực hiện bảo lãnh tín dụng rất phức tạp và đòi hỏi phía ngân hàng phải có sự xem xét kỹ lưỡng về tính khả thi của dự án vay vốn, các điều kiện về tài sản cầm cố - thế chấp, ... vì khối lượng tiền bảo lãnh lớn sẽ dẫn đến rủi ro cao trong trường hợp người đi vay không trả được nợ. Số tiền và thời hạn bảo lãnh được xác định theo thoả thuận giữa các bên. - Bảo lãnh thanh toán (Payment Guarantee) Bảo lãnh thanh toán là loại hình bảo lãnh mà ngân hàng bảo lãnh cam kết với nhà thầu về việc thanh toán tiền đúng hợp đồng của chủ thầu. Trong trường hợp chủ thầu không thanh toán đủ số tiền theo hợp đồng thì ngân hàng bảo lãnh sẽ chịu trách nhiệm thay cho chủ thầu. Mục đích: Cung cấp sự bảo đảm cho nhà thầu (Người thụ hưởng) có thể nhận được khoản thanh toán một cách thuận lợi đầy đủ, đúng hạn về sản phẩm, hàng hoá hay dịch vụ đã cung cấp cho chủ thầu (người được bảo lãnh ). Loại bảo lãnh này có hình thức gần giống với bảo lãnh tín dụng thương mại, nhưng khác nhau về bản chất và cách truy đòi tiền thanh toán. Đối với hình thức này, tiến độ thanh toán (nếu có) sẽ tương ứng với tiến độ thực hiện hợp đồng và trị giá của mỗi bảo lãnh thanh toán (nếu có) thì tương ứng với giá trị thanh toán của từng khâu trong tiến độ thanh toán. Thời gian hiệu lực của bảo lãnh do các bên thoả thuận. - Bảo lãnh thực hiện hợp đồng(Performance Guarantee) Bảo lãnh thực hiện hợp đồng là loại hình bảo lãnh mà ngân hàng bảo lãnh cam kết về việc thực hiện hợp đồng của nhà thầu. Trong trường hợp nhà thầu không thực hiện hợp đồng, hoặc không nộp đủ tiền phạt cho chủ thầu thì ngân hàng bảo lãnh sẽ chịu trách nhiệm trả tiền thay trả thay cho nhà thầu. Mục đích của loại hình bảo lãnh này chính là đảm bảo quyền lợi cho chủ thầu hay người thụ hưởng tránh được rủi ro. Trị giá của bảo lãnh thì tuỳ theo loại hình và qui mô hợp đồng, sẽ từ 10 - 15% tổng giá trị hợp đồng. Trường hợp đặc biệt, mức bảo lãnh thực hiện hợp đồng có thể yêu cầu trên 15% nhưng phải được người có thẩm quyền quyết định đầu tư chấp nhận. Tuy nhiên, số tiền bảo lãnh có thể giảm dần theo tiến độ thực hiện hợp đồng. Về thời hạn hiệu lực: Thư bảo lãnh có giá trị đến ngày hoàn thành hợp đồng. Thời hạn hiệu lực được xác định cụ thể theo thoả thuận giữa hai bên. Thời hạn bắt đầu từ ngày kết thúc đấu thầu, kéo dài đến khi hoàn thành hợp đồng như: hàng hoá đã giao xong, máy móc thiết bị đã được vận hành, công trình đã đưa vào sử dụng... - Bảo lãnh đảm bảo chất lượng sản phẩm (Guarantee of Quality): là loại hình bảo lãnh ngân hàng do tổ chức tín dụng phát hành cho bên nhận bảo lãnh bảo đảm khách hàng thực hiện đúng các thoả thuận về chất lượng của sản phẩm theo hợp đồng đã ký kết với bên nhận bảo lãnh. Trong trường hợp khách hàng bị phạt tiền do không thực hiện đúng các thoả thuận trong hợp đồng về chất lượng sản phẩm với bên nhận bảo lãnh mà không nộp hoặc không nộp đủ tiền phạt cho bên nhận bảo lãnh, tổ chức tín dụng thựchiện nghĩa vụ bảo lãnh đã cam kết. - Bảo lãnh hoàn thanh toán (Repayment Guarantee) : là loại hình bảo lãnh ngân hàng do tổ chức tín dụng phát hành cho bên nhận bảo lãnh về việc bảo đảm nghĩa vụ hoàn trả tiền ứng trước của khách hàng theo hợp đồng đã ký kết với bên nhận bảo lãnh. Trường hợp khách hàng vi phạm các cam kết với bên nhận bảo lãnh và phải hoàn trả tiền ứng trước những không hoàn trả hoặc hoàn trả không đủ số tiền ứng trước cho bên nhận bảo lãnh thì tổ chức tín dụng sẽ hoàn trả số tiền ứng trước cho bên nhận bảo lãnh. - Bảo lãnh bảo hành(Guarantee for Warranty Obligation): là bảo lãnh ngân hàng do tổ chức tín dụng phát hành về việc cam kết sẽ bồi thường giá trị bảo lãnh khi bên có trách nhiệm bảo hành (người được bảo lãnh) không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ nghĩa vụ bảo hành như quy định. 1.3.2. Các yếu tố ảnh hưởng tới nghiệp vụ bảo lãnh. Đ Những nhân tố chủ quan Các nhân tổ chủ quan ảnh hưởng tới hoạt động bảo lãnh là các nhân tố ảnh hưởng trực tiếp tới tất cả các khía cạnh khác nhau của chất lượng bảo lãnh. Chất lượng bảo lãnh của ngân hàng thương mại bị ảnh hưởng bởi một số nhân tố chủ quan sau: * Chiến lược kinh doanh của ngân hàng Chiến lược kinh doanh là nhân tổ ảnh hưởng đầu tiên đến chất lượng bảo lãnh, nếu không có chiến lược kinh doanh các ngân hàng sẽ luôn bị động. Một chiến lược kinh doanh hiệu quả sẽ giúp ngân hàng có một phương hướng phát triển nhất quán, giúp cho ngân hàng khai thác tốt nhất năng lực hiện có của ngân h._.àng và đồng thời nó cũng giúp cho ngân hàng có thể thích ứng một cách nhanh chóng với những biến đổi của môi trường kinh doanh. Trên cơ sở có chiến lược kinh doanh đúng đắn, ngân hàng thương mại mới có thể có những kế hoạch bộ phận đúng đắn cho từng thời kỳ để đảm bảo thực hiện mục tiêu đề ra. Đối với nghiệp vụ bảo lãnh, chiến lược kinh doanh của ngân hàng phải được cụ thể hóa thành các mục tiêu và nhiệm vụ, định hướng khách hàng, thị trường mục tiêu và các loại hình bảo lãnh tương ứng, góp phần cân đối nghiệp vụ bảo lãnh trong các loại hình nghiệp vụ khác. Trong chiến lược kinh doanh có bao hàm các chiến lược Marketing, chiến lược cơ cấu tổ chức và phát triển nguồn nhân lực…Ngay với chiến lược Marketing lại là hệ thống các chiến lược sản phẩm, chiến lược giá cả, chiến lược phân phối, chiến lược giao tiếp khuyếch trương và đương nhiên định hướng phát triển nghiệp vụ bảo lãnh nói chung cũng phải tuân theo chiến lược chung đó. * Chính sách tín dụng của ngân hàng thương mại. Chính sách tín dụng là một hệ thống các chỉ tiêu tín dụng mà ngân hàng đặt ra và các biện pháp cụ thể để thực hiện các chỉ tiêu đó. Chính sách tín dụng ảnh hưởng trực tiếp đến quy mô, tính chất của các khoản bảo lãnh cũng như phương thức hoạt động bảo lãnh của ngân hàng. Nghiệp vụ bảo lãnh xét về mặt bản chất mang nhiều nét của nghiệp vụ tín dụng, nhất là khi phát sinh nghĩa vụ và thư bảo lãnh đã được thanh toán xong thì hợp đồng bảo lãnh giống với hợp đồng tín dụng. Hơn thế nữa, ngay quy trình bảo lãnh cũng có nhiều điểm tương đồng. Đó cũng là lý do tại sao chính sách tín dụng lại có tác động không nhỏ tới nghiệp vụ bảo lãnh. Chính sách tín dụng bao hàm các vần đề về lãi suất, quy mô, khách hàng và thị trường mục tiêu. Và như ta đã trình bày ở trên, khi nghĩa vụ bảo lãnh phát sinh, ngân hàng đã tiến hành thanh toán xong theo thư bảo lãnh lúc này nghiệp vụ bảo lãnh chịu ảnh hưởng điển hình của chính sách tín dụng. Từ đó có thể khẳng định một chính sách tín dụng hợp lý sẽ giúp nâng cao hiệu quả cũng như chất lượng nghiệp vụ bảo lãnh của ngân hàng. * Công tác tổ chức ngân hàng. Tổ chức ngân hàng được sắp xếp một cách có khoa học, đảm bảo sự phối hợp chặt chẽ, nhịp nhàng giữa các phòng ban chức năng sẽ tạo điều kiện đáp ứng kịp thời nhu cầu của khách hàng, giúp ngân hàng theo dõi, quản lý sát sao các khoản bảo lãnh, các khoản cho vay, huy động vốn. Đây là cơ sở để tiến hành các hoạt động bảo lãnh an toàn và quản lý hiệu quả các khoản bảo lãnh. Để tiến hành một quy trình nghiệp vụ bảo lãnh thông thường đòi hỏi sự kết hợp của một hệ thống các phòng ban đơn giản nhất là bắt đầu phải qua phòng thẩm định khách hàng rồi đến phòng bảo lãnh và đòi hỏi cả sự liên quan của phòng hạch toán kế toán khi kiểm tra hay xem xét tài khoản của khách hàng nhằm đảm bảo những yêu cầu trước khi phát hành bảo lãnh. Trong quan niệm về khách hàng trong ngân hàng hiện đại bao hàm khách hàng giao dịch bên ngoài ngân hàng và khách hàng trong nội bộ giữa các phòng ban và một tất yếu mà chúng ta không thể phủ nhận là để phục vụ tốt khách hàng giao dịch bên ngoài thì ngân hàng phải tạo dựng được sự hỗ trợ lẫn nhau giữa các phòng ban hay chính là quan hệ tốt với khách hàng trong nội bộ ngân hàng. Chính vì vậy mà sự phối hợp chặt chẽ giữa các phòng ban chức năng trong cùng hệ thống ngân hàng sẽ là nhân tố không nhỏ ảnh hưởng tới chất lượng nghiệp vụ bảo lãnh. * Quy trình bảo lãnh. Quy trình bảo lãnh là nhân tố quan trọng quy định các bước tiến hành một nghiệp vụ bảo lãnh, nên chất lượng nghiệp vụ bảo lãnh sẽ chịu ảnh hưởng trực tiếp của quy trình này. Quy trình bảo lãnh bao gồm: Bước 1: Thẩm định khả năng tài chính cũng như khả năng thực hiện hợp đồng của khách hàng trước khi cấp bảo lãnh. Đây là bước đầu tiên cũng là quan trọng nhất trong quy trình bảo lãnh. Nó ảnh hưởng trực tiếp đến quyết định của ngân hàng trong việc cấp hay không cấp bảo lãnh cho khách hàng. Việc thẩm định trước khi cấp bảo lãnh có hiệu quả bao nhiêu thì chất lượng bảo lãnh có hiệu quả bấy nhiêu. Thẩm định trước khi cấp bảo lãnh giúp ngân hàng xem xét một cách toàn diện về cả khách hàng và dự án trình thẩm định. Công tác thẩm định trước khi cấp bảo lãnh phụ thuộc rất lớn vào trình độ cũng như trách nhiệm của cán bộ thẩm định bảo lãnh. Bước 2: Xây dựng và ký kết hợp đồng bảo lãnh. Hợp đồng bảo lãnh là văn bản viết ghi lại thoả thuận giữa người xin bảo lãnh (khách hàng) và ngân hàng, với nội dụng chủ yếu là ngân hàng cam kết thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh cho khách hàng khi có vi phạm được qui định trong hợp đồng trong một khoảng thời gian nhất định. Hợp đồng bảo lãnh có ảnh hưởng tới chất lượng bảo lãnh. Một hợp đồng chặt chẽ, đầy đủ là điều kiện để ngân hàng tránh được và hạn chế những tổn thất có thể xảy ra. Và việc thể thức hoá các điều khoản trong hợp đồng với từng loại bảo lãnh sẽ có ý nghĩa không nhỏ đối với chất lượng nghiệp vụ bảo lãnh. Bước 3: Thực hiện và xử lý sau bảo lãnh Sau khi hợp đồng bảo lãnh đã được ký kết, ngân hàng phải có trách nhiệm với người được bảo lãnh như thoả thuận. Cũng như phải thực hiện đầy đủ nghĩa vụ với bên thụ hưởng sau khi đã phát hành thư bảo lãnh. Quan hệ bảo lãnh kết thúc khi thời hạn bảo lãnh hết hiệu lực. Ngân hàng sẽ tiến hành thực hiện thu phí hoặc thực hiện nghĩa vụ thay cho bên được bảo lãnh như qui định trong hợp đồng bảo lãnh. Trường hợp khách hàng cố tình lừa đảo ngân hàng, làm ăn yếu kém không có cách cứu vãn, ngân hàng áp dụng phương án thanh lý, tức là sử dụng các biện pháp có thể được để thu hồi khoản nợ, bao gồm phong toả và bán các tài sản thế chấp, phong toả các khoản tiền kí quỹ, hoặc áp dụng các biện pháp khác… Mỗi bước trong qui trình bảo lãnh đều có ảnh hưởng tới chất lượng bảo lãnh. Do vậy, trong quá trình thực hiện mỗi bước, ngân hàng phải có sự quản lý chặt chẽ và phân chia trách nhiệm rõ ràng cho mỗi cá nhân. *Định phí bảo lãnh. Đúng với ý nghĩa của một ngân hàng thương mại, khi tiến hành bất ký nghiệp vụ nào, mục tiêu của ngân hàng là hiệu quả kinh doanh và đạt đến lợi nhuận kỳ vọng của ngân hàng mà vẫn đảm bảo tính cạnh tranh cho dịch vụ của ngân hàng mình với ngân hàng khác. Nhưng để làm được điều đó, ngân hàng phải định ra mức phí phù hợp dung hoà lợi ích của cả ngân hàng và khách hàng. Vì vậy xác định biểu phí phù hợp là nhân tố quan trọng đánh giá chất lượng nghiệp vụ tín dụng của ngân hàng. * Phẩm chất và trình độ cán bộ tín dụng. Con người là yếu tố quyết định đến sự thành bại trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng cũng như việc đảm bảo chất lượng bảo lãnh. Chất lượng nhân sự ngày càng được đòi hỏi cao để có thể đáp ứng kịp thời có hiệu quả, thích ứng với sự thay đổi nhanh chóng của môi trường kinh doanh từ đó tác động đến sự thay đổi của hoạt động bảo lãnh. Việc tuyển chọn nhân sự có đạo đức nghề nghiệp tốt và giỏi chuyên môn (có khả năng phân tích, đánh giá hiệu quả kinh tế của dự án xin bảo lãnh, đánh giá tài sản đảm bảo, giám sát quản lý hoạt động bảo lãnh,..) sẽ giúp cho ngân hàng có thể ngăn ngừa được những sai phạm có thể xảy ra trong hoạt động bảo lãnh. Đ Những nhân tố khách quan Từ phía khách hàng Các doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, muốn mở rộng sản xuất, đầu tư cho máy móc thiết bị, dây chuyền công nghệ,…phải cần một sự hậu thuẫn rất lớn về mọi mặt và trong một thời gian dài. Chính vì vậy, nhu cầu về bảo lãnh là tất yếu. Các điều kiện bảo lãnh đưa ra nhằm tiêu chuẩn hoá khả năng của doanh nghiệp trong quá trình xin bảo lãnh, đảm bảo tính chất an toàn và hiệu quả cho ngân hàng. Khả năng đáp ứng các điều kiện bảo lãnh thể hiện ở những mặt sau: * Năng lực thị trường của doanh nghiệp. Năng lực thị trường của doanh nghiệp biểu hiện ở khối lượng sản phẩm tiêu thụ, chất lượng sản phẩm có đáp ứng được nhu cầu thị trường không? Vị trí của doanh nghiệp trên thị trường. Hệ thống mạng lưới tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp, mối quan hệ với các bạn hàng đối tác. Năng lực thị trường của doanh nghiệp còn được lượng hoá qua tiêu thức cơ bản là sự gia tăng của doanh số tiêu thụ sản phẩm. Năng lực thị trường của doanh nghiệp càng cao, nhu cầu đầu tư càng lớn, rủi ro thị trường của doanh nghiệp càng nhỏ là nhân tố nâng cao chất lượng bảo lãnh. * Năng lực tài chính của doanh nghiệp. Năng lực tài chính của doanh nghiệp thể hiện ở khối lượng vốn tự có, tỷ trọng vốn tự có trong tổng nguồn vốn của doanh nghiệp đang sử dụng, khả năng thanh toán của doanh nghiệp và tính lỏng của tài sản. Năng lực tài chính của doanh nghiệp càng cao, khả năng đáp ứng các điều kiện bảo lãnh càng lớn càng góp phần vào việc nâng cao chất lượng bảo lãnh. * Quyền sở hữu tài sản và khả năng đáp ứng các biện pháp bảo đảm. Quan hệ bảo lãnh thường đưa ra đòi hỏi phải có tài sản kí quỹ, tài sản bảo đảm dưới các hình thức như thế chấp, cầm cố, hoặc xác nhận bảo lãnh của bên thứ ba. Đây là biện pháp an toàn có tính tất yếu đảm bảo nguyên tắc cẩn trọng cần thiết trong ngân hàng. Một ví dụ điển hình về hạn mức bảo lãnh ngân hàng tính theo tỷ lệ % giá trị của tài sản bảo đảm . Và khả năng đáp ứng những đòi hỏi này của người yêu cầu bảo lãnh sẽ tác động không nhỏ đến chất lượng nghiệp vụ bảo lãnh. Từ phía môi trường kinh tế xã hội Hoạt động của ngân hàng thương mại chịu ảnh hưởng rất lớn của môi trường kinh tế xã hội. Một ngân hàng dù có cố gắng trong hoạt động kinh doanh của mình song nếu môi trường kinh tế- xã hội không ổn định thì ảnh hưởng lớn đến thành công của ngân hàng. Chính vì vậy, việc nghiên cứu môi trường kinh doanh là hoạt động thường xuyên của mỗi ngân hàng thương mại. Chất lượng bảo lãnh của ngân hàng thương mại bị ảnh hưởng bởi một số yếu tố của môi trường kinh tế- xã hội như: * Môi trường kinh tế. Nghiệp vụ bảo lãnh ra đời xuất phát trước hết từ những đòi hỏi trong chính nền kinh tế, sự phát triển không ngừng của những giao dịch trong nền kinh tế của những rủi ro không ngừng gia tăng trong những giao dịch đó, vậy thì những biến đổi trong môi trường kinh tế đương nhiên có ảnh hưởng đến chất lượng nghiệp vụ bảo lãnh. Môi trường kinh tế phát triển có thể tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động bảo lãnh. Một môi trường kinh tế lành mạnh, các chủ thể tham gia nền kinh tế hoạt động có hiệu quả sẽ thúc đẩy mở rộng quy mô bảo lãnh, chất lượng hoạt động bảo lãnh cũng sẽ được nâng lên. Mặt khác môi trường kinh tế cũng có thể có những thay đổi bất ngờ như sự thay đổi về lãi suất, tỷ giá, những biến động thị trường khác. Như vậy chất lượng bảo lãnh của ngân hàng thương mại chịu ảnh hưởng rất lớn bởi môi trường kinh tế là vấn đề tất yếu. Nhưng vấn đề đặt ra đối với mỗi ngân hàng là phải làm tốt công tác dự báo và khả năng thích nghi nhanh khi có biến động nhằm đảm bảo chất lượng hoạt động bảo lãnh. * Môi trường pháp lý. Ngân hàng thương mại khi hoạt động phải tuân thủ đầy đủ các quy định về pháp luật của Nhà nước. Một hệ thống pháp luật đầy đủ, đồng bộ và ổn định sẽ giúp ngân hàng thương mại có điều kiện xây dựng kế hoạch kinh doanh tốt và tiến hành trôi chảy các nghiệp vụ chức năng. Nghiệp vụ bảo lãnh cũng khồng phải là ngoại lệ. Ban đầu khi mới ra đời, nghiệp vụ bảo lãnh hầu như không có văn bản quy phạm pháp luật dẫn chiếu và quy trình tiến hành nghiệp vụ chủ yếu theo những quy định, tiền lệ trước đây của ngân hàng cũng như quy trình của nghiệp vụ tín dụng. Ngân hàng đã gặp phải không ít những khó khăn khi phát sinh những tranh chấp mà lại thiếu hành lang pháp lý điều chỉnh, mọi thứ đều phải quy định cụ thể trong quan hệ hợp đồng. Từ khi xuất hiện Luật các tổ chức tín dụng và các điều khoản quy định có liên quan và rồi một loạt các văn bản khác như: quyết định số 196 ra ngày 16/9/1994 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước về quy chế nghiệp vụ bảo lãnh của các Ngân hàng, quyết định số 263/QĐ-NHNN ngày 19/9/1995, và gần đây nhất theo quyết định số 283/2000/QĐ-NHNN ngày 25/8/2000 đã tạo nên nền tảng pháp lý ban đầu cho nghiệp vụ bảo lãnh. Tuy nhiên không đơn thuần chỉ chịu sự điều chỉnh của những văn bản quy phạm điều chỉnh trực tiếp nói trên, nghiệp vụ bảo lãnh cũng như bao hoạt động khác trong nền kinh tế chịu sự tác động tổng hợp của nhiều ngành luật. Và việc hoàn thiện môi trường pháp lý sẽ góp phần vào việc nâng cao chất lượng nghiệp vụ bảo lãnh của ngân hàng. * Môi trường chính trị xã hội. Môi trường chính trị xã hội ổn định là một nhân tố quan trọng thúc đẩy hoạt động đầu tư, kích thích sự gia tăng của các hoạt động thương mại trong nước cũng như quốc tế. Đó cũng là tiền đề cho sự ra đời cũng như phát triển của nghiệp vụ bảo lãnh ngân hàng. Môi trường kinh tế xã hội là nhân tố mang tính vĩ mô tác động tổng hoà đến hầu hết các nghiệp vụ của ngân hàng chứ không đơn thuần là nghiệp vụ bảo lãnh. Sự phát triển của một nghiệp vụ bảo lãnh không thể đặt ra bên ngoài sự phát triển của các nghiệp vụ ngân hàng khác. Chính vì vậy mà môi trường kinh tế xã hội sẽ có ảnh hưởng cả trực tiếp và gián tiếp đến chất lượng nghiệp vụ bảo lãnh của ngân hàng Chương 2: nghiệp vụ bảo lãnh tại ngân hàng ngoại thương việt nam 2.1. Khái quát về Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam 2.1.1.Quá trình hình thành và phát triển của Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam Ngân hàng Ngoại Thương Việt Nam - tên tiếng Anh: Bank for foreign trade of Việt Nam gọi tắt là Vietcombank - được chính thức thành lập vào ngày 01/04/1963 với tư cách là ngân hàng phục vụ kinh tế ngoại thương duy nhất của Việt Nam. Theo điều 2 trong Điều lệ Ngân hàng Ngoại Thương Việt Nam: Ngân hàng Ngoại thương là doanh nghiệp nhà nước kinh doanh tiền tệ, tín dụng, dịch vụ ngân hàng đối với các thành phần kinh tế, chủ yếu trong lĩnh vực kinh tế đối ngoại theo Pháp lệnh Ngân hàng, Hợp tác xã tín dụng và Công ty tài chính. Ngân hàng Ngoại thương được thành lập theo Nghị định số 115/CP ngày 30/12/1962 của Hội đồng Chính phủ và Chỉ thị số 403/CT ngày 14/11/1990 của Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng, là một pháp nhân được Nhà nước cấp vốn điều lệ, hạch toán kinh tế độc lập, tự chủ về tài chính, có bảng tổng kết tài sản và con dấu riêng; trực tiếp làm nghĩa vụ với Ngân sách Nhà nước. Trong hơn 40 năm qua, quá trình xây dựng và phát triển của Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam gắn liền với sự phát triển của hệ thống Ngân hàng cũng như Ngân hàng Quốc gia Việt Nam. Từ tổ chức tiền thân là Cục quản lý Ngoại hối của Ngân hàng Quốc gia, NHNT ra đời đánh dấu những bước phát triển quan trọng trong hoạt động ngân hàng tại Việt Nam. Khi đất nước được thống nhất, NHNT được Chính phủ giao cho nhiệm vụ tiếp thu toàn bộ tài sản của Ngân hàng Việt Nam cộng hoà về ngoại hối và NHNT trở thành Ngân hàng duy nhất đảm đương nhiệm vụ nắm giữ ngoại hối của cả nước, đảm đương hoạt động đối ngoại với các tổ chức và các khối kinh tế có quan hệ với nước ta. Sau năm 1990, khi hai Pháp lệnh về ngân hàng ra đời, có rất nhiều ngân hàng thương mại có tên tuổi trên thị trường quốc tế đã có mặt tại Việt Nam. Vì vậy, NHNT không còn thế độc quyền về ngoại tệ như trước nữa. Trong bối cảnh đó, NHNT buộc phải nhanh chóng thích nghi với cơ chế mới và đã thực sự trở thành một doanh nghiệp tự hạch toán kinh doanh độc lập, tự đổi mới trong nhiều lĩnh vực. Đây có thể coi là thời kỳ ổn định và đi vào khởi sắc đặt nền móng quan trọng cho sự phát triển của NHNT . Trước yêu cầu của thực tiễn nền kinh tế mang tính cạnh tranh, trước những thách thức đặt ra do sự phát triển không ngừng của trình độ công nghệ ngân hàng quốc tế hiện đại, tháng 5/2000, ban lãnh đạo của NHNT đã chủ động đề xuất với Thống đốc Ngân hàng Nhà nước về chương trình cơ cấu lại ngân hàng. Đến ngày 23/10/2001, Thủ tướng Chính phủ đã ra Quyết định số 149-2001/QĐ-TTg phê duyệt bản Đề án cơ cấu lại NHNT: Thứ nhất, NHNT muốn phát triển phải có một cơ sở hạ tầng tốt, phải có công nghệ hiện đại, giúp cho các kênh phân phối dịch vụ nhanh nhất, tiết kiệm nhất, hiệu quả nhất, đồng thời có một hệ thống công nghệ thông tin tốt mới có thể giúp cho ngân hàng quản lý tốt. Thứ hai, nếu một quốc gia cần có một nền giáo dục tốt thì NHNT cũng cần có một hệ thống đào tạo cán bộ tốt, tuyển chọn được cán bộ có trình độ tương thích với công việc ngân hàng hiện đại. Thứ ba, phải có một mô hình quản lý hành chính tốt thì NHNT mới thực hiện được những nhiệm vụ kể trên. Trong đó, sáu nội dung chính của đề án tái cơ cấu là: - Cơ cấu lại tình hình tài chính - Cơ cấu lại tổ chức hệ thống - mở rộng mạng lưới. - Cơ cấu lại tổ chức theo đối tượng khách hàng và theo sản phẩm - Nâng cao khả năng quản lý và tăng cường kỹ năng quản lý rủi ro - Tăng cường tính minh bạch, nâng cao năng lực kiểm tra kiểm toán nội bộ để đảm bảo hiệu quả trong hoạt động kinh doanh. - Tiếp tục đổi mới công nghệ đưa nhiều tiện ích khách hàng. Qua hai năm triển khai và thực hiện, đề án đã đạt được những hiệu quả hết sức khả quan: xử lý nợ tồn đọng và lành mạnh hoá tình hình tài chính; phát triển và mở rộng mạng lưới; cơ cấu lại tổ chức và nâng cao hiệu quả điều hành; cơ cấu lại khách hàng sản phẩm và chuyển dịch cơ cấu vốn; nâng cao chất lượng công nghệ; đào tạo cán bộ; hoàn thiện cơ sở hạ tầng. Đi cùng với chặng đường lịch sử đấu tranh hào hùng của dân tộc. Ta có thể thấy, NHNT là một trong những Ngân hàng quốc doanh thành lập lâu đời ở Việt Nam. 40 năm xây dựng và trưởng thành, với phương châm “ Luôn mang đến cho khách hàng sự thành đạt ” NHNT đã đạt được một số thành tựu đáng kể và trở thành ngân hàng thương mại uy tín nhất Việt Nam. Hiện nay, NHNT là thành viên của Hiệp hội Châu á - Thái Bình Dương, là thành viên của hệ thống thanh toán quốc tế SWIFT, hiệp hội thanh toán thẻ quốc tế MasterCard, VisaCard và tổ chức chuyển tiền quốc tế. NHNT có bộ máy tổ chức gọn nhẹ (chỉ có 2 cấp Trung Ương và Chi nhánh), gồm 24 chi nhánh cấp I cùng 16 chi nhánh cấp II ở trong nước, 1 công ty tài chính và 3 văn phòng đại diện ở nước ngoài chủ yếu tập trung ở những địa bàn phục vụ tốt nhất cho việc thanh toán xuất - nhập khẩu và ngoại hối. Đến nay, NHNT có trên 1200 Ngân hàng đại lý ở 85 nước trên thế giới. NHNT là ngân hàng có luồng ngoại tệ lớn nhất ở Việt Nam, tổng nguồn vốn luôn tăng khoảng 15% mỗi năm, trong đó ngoại tệ chiếm 65 ->70% - điều này đã tạo ra thế mạnh cho ngân hàng trong việc tập hợp tiền gửi lớn về ngoại tệ trong dân cư và trở thành ngân hàng duy nhất ở Việt Nam thực hiện thị trường liên ngân hàng về ngoại tệ. 2.1.2.Kết quả hoạt động kinh doanh của Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam trong những năm gần đây Trong giai đoạn 2001-2002, việc thực hiện đề án tái cơ cấu của ngân hàng đã đạt được những bước tiến đáng kể. Quá trình thực hiện đề án tái cơ cấu giai đoạn 1, Ngân hàng Ngoại thương đã giải quyết cơ bản nợ tồn đọng thông qua sử dụng dự phòng rủi ro được khoảng 2400 tỷ đồng, tận thu khai thác tài sản xiết nợ được gần 500 tỷ đồng. Theo tiến độ này, toàn bộ nợ tồn đọng trên bảng tổng kết tài sản sẽ được làm sạch trong năm 2003. * Nguồn vốn và tình hình huy động vốn: Khác với 6 tháng đầu năm, tình hình huy động vốn 6 tháng cuối năm 2003 diễn biến tương đối thuận lợi. Việc các NHTM thận trọng hơn khi xem xét cho vay đã làm giảm áp lực lên công tác huy động vốn. Lãi suất VND đã chững lại và có xu hướng giảm tuy nhiên lãi suất vốn trên thị trường quốc tế vẫn ở mức thấp nên việc huy động vốn ngoại tệ còn gặp khó khăn. Trong năm 2003, công tác quản trị vốn đã và đang không ngừng được tăng cường và chất và lượng: việc điều hành quản trị lãi suất được thực hiện một cách năng động theo tín hiệu thị trường; cơ chế quản lý vốn tập trung toàn hệ thống tiếp tục được củng cố và phát huy hiệu quả. Công tác quản trị thanh khoản đã được nâng cao và được quán triệt trong toàn hệ thống. Nhờ đó, công tác huy động vốn đã đạt được những kết quả khả quan, thể hiện như sau: + Tổng nguồn vốn đến cuối tháng 12/2003 đạt 97.521 tỷ quy đồng, tăng 19,0% so với đầu năm (kế hoạch năm tăng 11%). Cơ cấu tổng nguồn vốn có sự chuyển dịch theo hướng tỷ trọng vốn VND tăng đáng kể, đạt 42,6% so với 33,8% vào cuối năm ngoái. Nguồn vốn huy động trực tiếp từ nền kinh tế (thị trường I) đạt 75.811 tỷ quy đồng, tăng 21,8% (kế hoạch năm tăng 14%), chiếm 20,3% vốn huy động của toàn ngành ngân hàng. Trong đó, vốn huy động bằng VND tăng 65,3% (kế hoạch tăng trưởng là 16%), vốn huy động bằng ngoại tệ tăng 1,2% (kế hoạch đặt ra là tăng 8%). Nguồn vốn huy động có kỳ hạn đạt 40.899 tỷ quy đồng, tăng 8,5% so với đầu năm. * Xử lý nợ tồn đọng và nâng cao năng lực tài chính: Nợ tồn đọng được xây dựng theo Đề án tái cơ cấu là 4.562 tỷ VND bao gồm nợ tồn đọng tín dụng 3.663 tỷ VND và nợ Ngân sách Nhà nước(NSNN) 899 tỷ VND. Trong 3 năm thực hiện Đề án tái cơ cấu, NHNT đã sử dụng tổng hợp những biện pháp khác nhau và đạt kết quả tương đối khả quan. Tổn xử lý nợ được đến 31/12/2003 là 4.223 tỷ đồng đạt 92,6% so với tổng số nợ tồn đọng theo đề án. *Thanh toán quốc tế: Doanh số thanh toán xuất nhập khẩu năm 2003 đạt gần 12,5 tỷ USD, tăng 21,9% so với năm 2002, chiếm 28% thị phần xuất nhập khẩu của cả nước. Thanh toán xuất khẩu: Doanh số thanh toán xuất khẩu trong năm 2003 đạt 5.692 triệu USD, tăng 21,8% so với năm 2002 và chiếm 28,6% kim ngạch xuất khẩu hàng hoá của cả nước. Những mặt hàng chủ lực trong doanh số thanh toán xuất khẩu qua NHNT là dầu thô đạt 2.159 triệu USD(tỷ trọng 38%), thuỷ sản đạt 819 triệu USD chiếm 14,4%, gạo đạt 405 triệu USD chiếm 7,1% . Thanh toán nhập khẩu: Doanh số thanh toán nhập khẩu năm 2003 đạt 6.756 triệu USD, tăng 21,9% so với năm 2002, chiếm 27% kim ngạch nhập khẩu hàng hoá của cả nước. Một số mặt hàng đạt tỷ trọng lớn trong doanh số thanh toán nhập khẩu của NHNT là xăng dầu 26%, máy móc thiết bị 10,6%, sắt thép 7,4%. Hai mặt hàng có doanh số thanh toán lớn nhất là xăng dầu và sắt thép. Thanh toán phi mậu dịch : Doanh số thanh toán thu và chi phi mậu dịch qua NHNT trong năm 2003 đạt 4.143 triệu USD, tăng 21% so với năm 2002. Doanh số thu đạt 2.812 triệu USD, tăng 23%, trong đó doanh số thu tiền kiều hối đạt 400 triệu USD, tăng 29,5%. Doanh số chi là 1.331 triệu USD, tăng 16,9%. * Kinh doanh ngoại tệ: Trong năm 2003, doanh số mua bán ngoại tệ đạt 10.052 triệu USD, tăng 1.258 triệu USD hay 14,3% so với năm ngoái. Lượng ngoại tệ NHNT mua được là 5.027 triệu USD, tăng 13,2% so với năm 2002. NHNT đã bán 5.025 triệu USD cho khách hàng, tăng 15,4% so với năm trước. Doanh số ngoại tệ NHNT bán cho các doanh nghiệp nhập khẩu xăng dầu đạt 1.307 triệu USD, tăng 22,3%; lượng ngoại tệ được cân đối từ Ngân hàng Nhà nước(NHNN) để đáp ứng nhu cầu nhập khẩu xăng dầu trong năm qua là 622 triệu USD. Chênh lệch giữa số ngoại tệ bán cho mục đích xăng dầu và số được cân đối là 685 triệu USD. * Phát triển sản phẩm mới trên nền tảng công nghệ hiện đại: Củng cố nền tảng công nghệ, trong năm 2003, NHNT tiếp tục củng cố hệ thống công nghệ nền tảng VCB-Vision 2010, đồng thời đã chính thức nghiệm thu Tiểu dự án của World Bank với 5 module chính là:bán lẻ, kinh doanh vốn, tài trợ thương mại, chuyển tiền và thông tin quản lý. Trong năm, NHNT đã ký kết hợp đồng tư vấn Dự án hỗ trợ liên kết kỹ thuật cơ cấu lại với NHNN và liên doanh tư vấn ING & PRICE WARTERHOUSE COOPER nhằm nâng cao hiệu quả và năng lực cạnh tranh của NHNT, bằng việc xây dựng lại bộ máy tổ chức, phát triển và đa dạng hoá sản phẩm, ứng dụng công nghệ tiên tiến. Phát triển sản phẩm mới: Sản phẩm dịch vụ thẻ :Ngân hàng Ngoại thương(NHNT) chiếm 50% thị phần thanh toán thẻ và 40% thị phần phát hành thẻ quốc tế. Vừa qua NHNT được tổ chức thẻ quốc tế VISA trao giải Ngân hàng đứng đầu thị trường 2003 (Strategic Leader award 2003). Trong năm 2003, NHNT phát hành được 123.964 thẻ VCB connect 24, tăng hơn 4 lần so với năm 2002, nâng tổng số thẻ lên 153.313 thẻ, đồng thời phát hành được 9.832 thẻ VCB Visa và VCB Mastercard, tăng 28% so với năm 2002. Riêng với thẻ VCB Amex, NHNT mới phát hành trong năm 2003 song đã đạt 1.044 thẻ. NHNT cũng đã kết nối thành công với 11 ngân hàng bạn trong việc sử dụng hệ thống ATM. Sản phẩm ngân hàng tại nhà-dịch vụ VCB Money: dịch vụ hiện đang được cung cấp cho hầu hết các Tổ chức tín dụng và một số khách hàng lớn như Tổng công ty Dầu khí Việt Nam, Tổng công ty bảo hiểm Việt Nam, Vietnam Airline…Kể từ tháng 10/2003, dịch vụ VCB Money đã được mở rộng cung cấp cho các đối tượng là Tổ chức kinh tế. NHNT có kế hoạch gia tăng các tiện ích khác cho khách hàng như kinh doanh vốn, mở L/C thanh toán, tiếp nhận dịch vụ tư vấn từ Ngân hàng… Kết qủa kinh doanh Biểu 1: Kết quả hoạt động kinh doanh 2000-2003 : Đơn vị: Triệu VND Năm 2000 Năm 2001 Năm 2002 Năm 2003 Kết quả KD (Tổng lợi nhuận) 212.385 312.815 328.951 394.741 Nguồn: Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh của NHNT Đóng góp không nhỏ vào kết quả hoạt động kinh doanh của NHNT chính là sự phát triển không ngừng của nghiệp vụ bảo lãnh. Thông qua nghiệp vụ bảo lãnh không những mang lại nguồn lợi từ phí bảo lãnh mà còn thể hiện uy tín của ngân hàng trên thị trường trong nước và quốc tế. 2.2.Thực trạng nghiệp vụ bảo lãnh tại Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam (NHNT) 2.2.1.Quy trình tiến hành nghiệp vụ bảo lãnh tại NHNT * Tại Sở giao dịch và tại các Chi nhánh của NHNT: Bước 1: Trước khi ký kết hợp đồng bảo lãnh phải tiến hành quá trình chuẩn bị bảo lãnh Tiếp nhận yêu cầu bảo lãnh; tư vấn và hướng dẫn cho khách hàng lập hồ sơ xin bảo lãnh. Tiếp nhận hồ sơ xin bảo lãnh của khách hàng bao gồm :Đơn xin phát hành bảo lãnh (theo mẫu), tờ khai hồ sơ khách hàng (theo mẫu), hồ sơ pháp lý đối với các doanh nghiệp, hộ kinh doanh cá thể gồm: Quyết định thành lập, Giấy đăng ký kinh doanh, Quyết định bổ nhiệm giám đốc, kế toán trưởng(riêng đối với cá nhân chỉ cần xuất trình Chứng minh thư nhân dân), các hồ sơ liên quan đến nội dung xin bảo lãnh: Thông báo mời thầu (đối với bảo lãnh dự thầu), Thông báo trúng thầu và các hợp đồng kinh tế có liên quan(đối với bảo lãnh khác), phương án kinh doanh, Báo cáo tài chính, báo cáo Kết quả Kinh doanh(với khách hàng là doanh nghiệp) Ngoài ra, với khách hàng đã ký quỹ 100% trị giá bảo lãnh được miễn các tài liệu về Báo cáo tài chính hay Báo cáo kết quả kinh doanh. Các tài liệu như Tờ khai hồ sơ khách hàng và pháp lý chỉ áp dụng cho các khách hàng đến giao dịch lần đầu. Bước 2: Thẩm định hồ sơ xin bảo lãnh : *Trong trường hợp khách hàng ký quỹ 100% trị giá bảo lãnh và các chi phí cần thiết, Sở giao dịch hoặc chi nhánh có thể xem xét miễn các thủ tục thẩm định thông thường *Trong trường hợp khách hàng không ký quỹ 100% Cán bộ nghiệp vụ bảo lãnh trực tiếp kiểm tra hồ sơ của khách hàng. Lưu ý các dấu hiệu sửa chữa, mâu thuẫn hay trái quy luật thông thường của các hồ sơ và giữa các hồ sơ do khách hàng cung cấp. Phân tích năng lực pháp luật, năng lực hành vi dân sự của khách hàng yêu cầu bảo lãnh, thẩm định tình hình tài chính, khả năng thực hiện hợp động và khả năng trả nợ của khách hàng khi nghĩa vụ bảo lãnh phát sinh. Kiểm tra các phương trình tính toán, kết quả tính toán trong hồ sơ. Đối chiếu với các chuẩn mực, tiêu chuẩn đã được công bố thừa nhận (nếu có). Đặc biệt chú ý tới các khoản mục khó hiểu, không rõ ràng trên các Báo cáo tài chính. Từ đó lên danh mục các vấn đề, các mâu thuẫn trong nội dung hồ sơ để chuẩn bị cho việc khảo sát thực tế. Cán bộ nghiệp vụ bảo lãnh có trách nhiệm lập Tờ trình thẩm định hay Báo cảo thẩm định. Báo cáo thẩm định có thể được lập sau khi kết thúc quá trình thẩm định song cũng có thể lập song song với quá trình thẩm định khoản bảo lãnh. Báo cáo thẩm định cần thể hiện mạch lạc, sạch sẽ không tẩy xoá, trung thực các thông tin thu thập, tổng hợp được. Cán bộ nghiệp vụ bảo lãnh phải có ý kiến rõ ràng về các nội dung sau: ý kiến của Trưởng phòng bảo lãnh được nêu tại phần cuối của Báo cáo thẩm định và phải thể hiện các nội dung sau: Có đồng ý với các ý kiến đánh giá khoản bảo lãnh và kết luận bảo lãnh của cán bộ nghiệp vụ bảo lãnh hay không? Trường hợp không đồng ý với ý kiến đánh giá của cán bộ nghiệp vụ bảo lãnh cần nêu rõ lý do và đề xuất giải pháp thực hiện. Bước 3: Ra quyết định bảo lãnh Sau khi nhận được Báo cáo thẩm định cùng với toàn bộ hồ sơ xin bảo lãnh do Phòng bảo lãnh trình, người được uỷ quyền ra quyết định bảo lãnh có thể là Giám đốc, kiểm tra lại các thông tin nêu tại tờ trình, đánh giá tính thuyết phục của khoản bảo lãnh, căn cứ phạm vi quyền hạn được phân công và quyết định. Đồng ý bảo lãnh : trong trường hợp này, người được uỷ quyền quyết định bảo lãnh ghi rõ nội dung đồng ý bảo lãnh, các điều kiện cho bảo lãnh, ký tên, ghi ngày ký tên và chuyển trả hồ sơ cho Phòng bảo lãnh thực hiện các bước tiếp theo. Từ chối bảo lãnh: trong trường hợp này, người được uỷ quyền quyết định bảo lãnh thực hiện tương tự như trường hợp đồng ý bảo lãnh. Các quyết định khác có thể là: Yêu cầu bổ sung thêm các tài liệu, yêu cầu tái thẩm định, thông qua hội đồng thẩm định hoặc thể phải trình trung ương xem xét. Bước 4: Thực hiện quyết định bảo lãnh Trường hợp đồng ý bảo lãnh : Cán bộ nghiệp vụ bảo lãnh dự thảo và trình trưởng phòng các văn bản sau: Hợp đồng bảo lãnh (phù hợp thoả thuận với khách hàng); hợp đồng bảo đảm bảo lãnh hoặc thông báo gửi khách hàng các điều kiện để được chấp thuận bảo lãnh(nếu có ). Trưởng phòng bảo lãnh trực tiếp kiểm tra, kiểm soát, ký kiểm soát trên từng trang hợp đồng tín dụng, ký kiểm soát các công văn giấy tờ có liên quan do cán bộ nghiệp vụ bảo lãnh dự thảo. Khai báo trên máy tính theo quy định. Phân loại hồ sơ và gửi: Gửi bộ phận phụ trách kế toán bảo lãnh (bản gốc) gồm :Tờ trình duyệt bảo lãnh, hợp đồng bảo lãnh, hợp đồng thế chấp cầm cố (nếu có), biên bản hội đồng thẩm định (nếu có) Gửi bộ phận ngân quỹ (bản gốc): Hợp đồng thế chấp, cầm cố, giấy tờ, tài liệu pháp lý liên quan đến tài sản thế chấp, cầm cố, bảo lãnh hoặc đơn thư bảo lãnh của bên thứ ba, các giấy tờ có giá nhận cầm cố (nếu có), biên bản thẩm định, xác định giá trị tài sản thế chấp, cầm cố, bảo lãnh (nếu có), biên bản giao nhận giấy tờ thế chấp, cầm cố, bảo lãnh giữa khách hàng và NHNT, các tài liệu liên quan khác (nếu có). Gửi khách hàng: Hợp đồng bảo lãnh, bản gốc thư bảo lãnh, hợp đồng thế chấp, cầm cố (nếu có), biên bản giao nhận, xác định giá trị tài sản bảo đảm… Lưu giữ tại Phòng bảo lãnh ( do cán bộ nghiệp vụ bảo lãnh quản lý): cán bộ nghiệp vụ bảo lãnh chịu trách nhiệm lưu giữ và bảo quản chặt chẽ toàn bộ các tài liệu do khách hàng cung cấp theo quy định, các tờ trình báo cáo phát sinh trong quá trìn._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docT0328.doc
Tài liệu liên quan