Lời mở đầu
Trong nền kinh tế toàn cầu hóa, mở cửa nền kinh tế là cần thiết đối với tất cả các nước. Việt Nam là một nước đang phát triển với mức tăng trưởng khá cao, tốc độ công nghiệp hóa xảy ra nhanh chóng và mạnh mẽ. Để thúc đẩy mạnh hơn nữa sự phát triển nền kinh tế đất nước chúng ta cần phải gia nhập các tổ chức quốc tế nhằm thu hút đầu tư nước ngoài và học hỏi kinh nghiệm từ các nước phát triển .
Thấy được sự cần thiết khi gia nhập WTO, Chính phủ Việt Nam đã đề đơn xin gia nhập WTO, và
29 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1496 | Lượt tải: 1
Tóm tắt tài liệu Quan điểm toàn diện của việc Việt Nam hội nhập tổ chức thương mại thế giới WTO, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
trong năm 2006 vừa qua Việt Nam chính thức trở thành thành viên thứ 150 của WTO. đây là động lực mạnh mẽ cho toàn bộ quá trình cải cách thể chế và phát triển kinh tế của Việt Nam trong giai đoạn tới.
Việc tham gia vào WTO của Việt Nam có những thuận lợi và cũng có nhiều bất lợi, do đó Đảng và Nhà nước cần phải có cái nhìn đúng đắn và toàn diện về mọi mặt để có thể đưa ra những chính sách cho phù hợp với đường lối phát triển của đất nước. Đây luôn là một vấn đề cấp thiết và quan trọng của mọi nước trên thế giới khi gia nhập vào WTO. Chính vì vậy mà em đã chọn đề tài “Quan điểm toàn diện của việc Việt Nam gia nhập tổ chức thương mại thế giới WTO” để làm đề tài cho bài tiểu luận của mình. Đề tài sử dụng phương pháp quan điểm toàn diện từ nguyên lý mối liên hệ phổ biến nhằm làm sáng tỏ vấn đề đặt ra.
Trong quá trình thực hiện bài tiểu luận này, em đã được sự hướng dẫn nhiệt tình của cô giáo Nguyễn Thị Ngoc Anh. Do thời gian và hiểu biết con hạn chế, bài tiểu luận của em không tránh khỏi những thiếu sót. Vì vậy, em rất mong nhận được sự góp ý của cô để bài tiểu luận được hoàn thiện hơn.
CHƯƠNG 1: lý thuyết về quan điểm toàn diện
1.1. Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến
Các sự vật, hiện tượng tạo thành thế giới, dù đa dạng, phong phú, có khác nhau bao nhiêu, song chúng đều chỉ là những dạng khác nhau của một thế giới duy nhất, thống nhất – thế giới vật chất. Nhờ có tính thống nhất đó, chúng không thể tồn tại biệt lập tách rời nhau, mà tồn tại trong sự tác động qua lại, chuyển hóa lẫn nhau theo những quan hệ xác định.
Liên hệ là phạm trù triết học dùng để chỉ sự quy định, sự tác động qua lại, sự chuyển hóa lẫn nhau giữa các sự vật, hiện tượng hay giữa các mặt của một sự vật, một hiện tượng trong thế giới.
Quan điểm toàn diện
Các sự vật, các hiện tượng và các quá trình khác nhau của thế giới có mối liên hệ qua lại lẫn nhau, tác động, ảnh hưởng lẫn nhau. Ngay trong cùng một sự vật, hiện tượng thì bất kỳ một thành phần nào, một yếu tố nào cũng có mối liên hệ với những thành phần, những yếu tố khác. Do đó , con người phải nắm bắt đúng mối liên hệ đó để có cách tác động phù hợp nhằm đưa lại hiệu quả cao nhất trong hoạt động của mình.
Quan điểm toàn diện đòi hỏi chúng ta nhận thức về sự vật trong mối liên hệ qua lại giữa cá bộ phận giữa các yếu tố, giữa các mặt của chính sự vật và trong sự tác động qua lại giữa sự vật đó với sự vật khác, kể cả mối liên hệ trực tiếp và mối liên hệ gián tiếp. Chỉ trên cơ sở đó mới có thể nhận thức đúng sự vật.
Đồng thời, quan điểm toàn diện đòi hỏi chúng ta phải biết phân biệt từng mối liên hệ, phải chú ý tới mối liên hệ phổ biến bên trong, mối liên hệ bản chất, mối liên hệ chủ yếu, mối liên hệ tất nhiên, và lưu ý đến sự chuyển hóa lẫn nhau giữa các mối liên hệ để hiểu rõ bản chất của sự vật và có phương pháp tác động phù hợp nhằm đem lại hiệu quả cao nhất trong hoạt động của bản thân.
Trong hoạt động thực tế, theo quan điểm toàn diện , khi tác động vao sự vật, chúng ta không những phải chú ý tới những mối liên hệ nội tại của nó mà còn phải chú ý tới những mối liên hệ của sự vật áy với các sự vật khác. Đồng thời, chúng ta phải biết sử dụng đồng bộ các biện pháp, các phương tiện khác nhau để tác động nhằm đem lại hiệu quả cao nhất. Để thực hiện mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh ”, một mặt , chúng ta phải phát huy nội lực của đất nước ta; mặt khác, phải biết tranh thủ thời cơ, vượt qua thách thức do xu hướng quốc tế hóa mọi lĩnh vực của đời sống xã hội và toàn cầu hóa kinh tế đưa lại.
Vì các mối liên hệ có tính đa dạng, phong phú – sự vật, hiện tượng khác nhau, không gian, thời gian khác nhau các mối liên hệ biểu hiện khác nhau nên trong hoat động nhận thức và hoạt động thưc tiễn con người phải tôn trọng quan điểm lịch sử - cụ thể
Quan điểm lịch sử - cụ thể đòi hỏi chúng ta khi nhận thức về sự vật và tác động vào sự vật phải chú ý điều kiện, hoàn cảnh lich sử – cụ thể, môi trường cụ thể trong đó sự vật sinh ra, tồn tại và phát triển. Thực tế cho thấy rằng, một luận điểm nào đó là luận điểm khoa học trong điều kiện này, nhưng sẽ không là luận điểm khoa học trong điều kiện khác. Vì vậy, để xác định đúng đường lối, chủ trương của từng giai đoạn cách mạng, của từng thời kỳ xây dựng đất nước, bao giờ Đảng ta cũng phân tích tình hình cụ thể của đất nước ta cũng như bối cảnh lịch sử quốc tế diễn ra trong từng giai đoạn và từng thời kỳ đó trong khi thực hiện đường lối, chủ trương, Đảng ta cũng điều chỉnh và bổ sung cho phù hợp với diễn biến và hoàn cảnh cụ thể.
Quan điểm toàn diện về việc hội nhập các tổ chức quốc tế
Trong nền kinh tế toàn cầu hóa, việc hội nhập các tổ chức quốc tế là rất quan trọng. Đó chính là cơ hội để nâng cao vị thế của đất nước ta trên trường quốc tế và cũng là thuận lợi to lớn cho quá trình phát triển nền kinh tế. Không những thế, khi nước ta tham gia vào tiến trình này, chúng ta sẽ có địa vị bình đẳng trong việc bàn thảo và xây dựng định chế của nền thương mại thế giới và sẽ có điều kiện để đấu tranh bảo vệ quyền lợi của mình. Tuy nhiên, muốn gia nhập các tổ chức quốc tế thì trước hết phải thỏa mãn các điều kiện mà tổ chức đó đặt ra. Mỗi tổ chức thì có các điều lệ tham gia khác nhau, do đó nước ta khi tham gia vào các tổ chức này sẽ phải có những thay đổi trong nhiều mặt, như trong công tác quản lý, đặc biệt là việc điều chỉnh các điều luật cho phù hợp với xu hướng cải cách của Nhà nước.
Hội nhập kinh tế quốc tế trong một thế giới toàn cầu hóa, tính tùy thuộc lẫn nhau giữa các nước sẽ tăng lên. Sự biến động trên thị trường các nước sẽ tác động mạnh đến thị trường trong nước, đòi hỏi chúng ta phải có chính sách kinh tế vĩ mô đúng đắn, có năng lực dự báo và phân tích tình hình, cơ chế quản lý phải tạo cơ sở để nền kinh tế có khả năng phản ứng tích cực, hạn chế được ảnh hưởng tiêu cực trước những biến động trên thị trường thế giới. Trong điều kiện tiềm lực đất nước có hạn, hệ thống pháp luật chưa hoàn thiện, kinh nghiệm vận hành nền kinh tế thị trường chưa nhiều thì đây là khó khăn không nhỏ, đòi hỏi chúng ta phải phấn đấu vươn lên mạnh mẽ, với lòng tự hào và trách nhiệm rất cao trước quốc gia, trước dân tộc.
Chương 2: quan điểm toàn diện trong việc gia nhập WTO của Việt Nam
2.1. Thực trạng nền kinh tế Việt Nam trước khi gia nhập WTO
2.1.1. Những thuận lợi của Việt Nam
Đảng cộng sản Việt Nam với bản chất cách mạng và tư duy chính trị nhạy bén đã khởi xướng và tiến hành công cuộc đổi mới một cách toàn diện và sâu sắc trên các lĩnh vực, cả về đổi mới cơ chế quản lý, đổi mới cơ cấu kinh tế, đổi mới quan hệ kinh tế đối ngoại và cải cách nền hành chính quốc gia. Gắn kết các nội dung đổi mới và quản lý, từng bước hình thành đồng bộ các yếu tố của kinh tế thị trường, chính điều này không chỉ đảm bảo phát huy được nội lực của đất nước, sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân mà còn tạo ra tiền đề bên trong – nhân tố quyết định cho tiến trình hội nhập với bên ngoài.
Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành trung ương khóa VII tại đại hội toàn quốc lần thứ VIII của Đảng tháng 6 năm 1996 khẳng định:”Tiếp tục thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, mở rộng, đa dạng hóa các quan hệ đối ngoại… hợp tác nhiều mặt, song phương và đa phương với các nước, các tổ chức quốc tế và khu vực trên nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của nhau, bình đẳng cùng có lợi…”.
Thực hiện đường lối của Đảng, chúng ta đã phát triển mạnh quan hệ và mở cửa buôn bán biên giới với Trung Quốc; gia nhập hiệp hội các nước Đông Nam á (ASEAN), tham gia hiệp định mậu dịch tự do ASEAN; diễn đàn kinh tế Châu á - Thái Bình Dương (APEC); là sáng lập viên Diễn đàn hợp tác á - Âu (ASEM). Cùng với các nước ASEAN ký hiệp định thành lập khu vực mậu dịch tự do ASEAN – Trung Quốc, ASEAN – Hàn Quốc, ASEAN – ấn Độ, ASEAN – úc và Niu Zilan. Ký hiệp định thương mại song phương với Hoa Kỳ (BTA). Đây là những bước đi quan trọng, là sự “cọ xát” từng bước trong tiến trình hội nhập.
Thực tiễn những năm qua chi rõ: khi mở cửa thị trường, lúc đầu chúng ta có gặp khó khăn. Mở cửa buôn bán biên giới với Trung Quốc , hàng hóa nước bạn tràn vào đẩy doanh nghiệp nước ta vào thế bị động, một số ngành sản xuất “lao đao”, một số doanh nghiệp phải giải thể. Tuy nhiên với thời gian, các doanh nghiệp nước ta đã vươn lên, trụ vững và đã có bước phát triển mới. Nhiều doanh nghiệp đã đổi mới công nghệ sản xuất, cải tiến kiểu dáng, mẫu mã, nâng cao chất lượng sản phẩm, nhờ đó mà tăng được sức cạnh tranh, phát triển được sản xuất, mở rộng được thị trường. Thực hiện các cam kết theo hiệp định mậu dịch tự do ASEAN, chúng ta đã loại bỏ hàng rào phi thuế quan, giảm thuế nhập khẩu. Đến năm 2006, có 10.283 dòng thuế chiếm 99,43% biểu thuế nhập khẩu ASEAN có thuế suất chỉ ở mức 0 – 5%, nhưng các ngàng sản xuất của ta vẫn phát triển với tốc độ rất cao. Trong nhiều năm qua, sản xuất công nghiệp tăng trung bình 15-16%/năm, kim ngạch xuất khẩu tăng trung bình trên 20%/năm là nhân tố quan trọng đảm bảo tăng trưởng kinh tế khá cao và liên tục, tạo thêm nhiều công ăn việc làm.
Điều đặc biệt quan trọng, có ảnh hưởng lâu dài là tiến trình đổi mới kinh tế theo cơ chế thị trường và hội nhập quốc tế đã từng bước xuất hiện lớp cán bộ trẻ có trình độ chuyên môn cao, thông thạo ngoại ngữ, xuất hiện một đội ngũ những nhà doanh nghiệp mới, có kiến thức, năng động và tự tin, dám chấp nhận mạo hiểm, dám đối đầu với cạnh tranh. Đây là nguồn lực quý báu cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Nền kinh tế Việt Nam sau hơn 20 năm đổi mới đã có những biến đổi rõ rệt. Việc chuyển sang cơ chế thị trường và thực hiện chế độ mở cửa đã giúp cho Việt Nam có một không gian phát triển lớn với mức GDP tăng lên gấp 4 lần, quan hệ kinh tế quốc tế được mở rộng gắn chặt với sức hút mạnh mẽ của dòng FDI và sự tăng nhanh của kim ngạch ngoại thương. Đặc biệt, trong vòng 5 năm gần đây nền kinh tế Việt Nam đã thành công trên cả 3 phương diện: phục hồi tăng trưởng sau cuộc khủng hoảng tài chính – tiền tệ Đông á, đẩy mạnh cải cách thể chế và tăng cường mở cửa hội nhập kinh tế quốc tế. Cụ thể, Việt Nam đã đạt được mức tăng trưởng GDP bình quân giai đoạn 2001-2005 là 7,5% so với 6,2% giai đoạn 1998-2000; trong vòng 6 năm (2000-2005) số doanh nghiệp mới được thành lập đã gấp 3,3 lần so với 9 năm trước (1991-1999); dòng FDI được phục hồi vững chắc đạt 5,7 tỷ USD.
Việt Nam được xem là nước có một nền chính trị ổn định và kinh tế phát triển nhanh, tạo một niềm tin về việc đầu tư an toàn cho các nhà đầu tư nước ngoài. Mức tăng trưởng kinh tế của Việt Nam trong những năm qua khá nhanh, lạm phát giảm hơn 40%, vốn đầu tư nước ngoài được thực hiện tăng từ 600 triệu USD năm 1990 lên 3,8 tỷ USD năm 1994 và lên 6,8 tỷ USD năm 1995.
Các xu hướng kinh tế chỉ ra rằng, Việt Nam có thể thực hiện được mục tiêu tăng GDP lên gấp đôi so với những năm 1990 vào năm 2000.
Những chính sách luôn cải cách, đổi mới mở cửa nền kinh tế Việt Nam của Đảng và Nhà nước đã đưa Việt Nam ngày càng tiến nhanh hội nhập với thế giới. Những nỗ lực của Việt Nam trong việc cải thiện mối quan hệ quốc tế với các quốc gia, đặc biệt là Hoa Kỳ cũng là một điều kiện thuận lợi cho Việt Nam gia nhập WTO.
2.1.2. Những khó khăn trên con đường hội nhập
Mặc dù nền kinh tế đất nước ta đã có những bước phát triển to lớn, tuy nhiên vẫn còn tồn tại nhiều mặt hạn chế cần phải khắc phục.
Nhìn từ góc độ thể chế chính trị, thị trường Việt Nam chưa hình thành đầy đủ và vận hành chưa được đồng bộ. Như thị trường một số yếu tố đầu vào cơ bản là đất đai và bất động sản, lao động, khoa học- công nghệ còn chậm phát triển, cơ chế kế hoạch hóa tập trung còn nặng như: can thiệp hành chính, bao cấp…Môi trường kinh doanh không bình đẳng, thị trường bị chia nhỏ theo từng địa phương. Số lượng doanh nghiệp tư nhân tăng mạnh song chất lượng vẵn yếu kém khiến cho Việt Nam không có được những doanh nghiệp tư nhân lớn mạnh, không có thương hiệu mạnh. Bên cạnh đó, sự liên kết giữa các doanh nghiệp tư nhân lại không được bền chặt là một trong những nguyên nhân dẫn đến năng lực cạnh tranh thấp, do đó tầm nhìn kinh doanh của các doanh nghiệp bị hạn chế. Hệ thống các ngân hàng còn yếu về mặt tài chính, chất lượng và công nghệ đưa vào hoạt động thường sản sinh ra nợ xấu. Vì vậy, ngân hàng nhà nước Việt Nam được đánh giá là chưa trở thành một ngân hàng trung ương theo đúng nghĩa. Thành phần kinh tế bị chênh lệch, đặc biệt là kinh tế nhà nước mà hạt nhân là các doanh nghiệp nhà nước đóng vai trò chủ đạo với vốn dầu tư nhà nước chiếm tỷ trọng lớn trong tổng đầu tư xã hội, song hiệu quả đầu tư lại thấp.
Trên thực tế, chúng ta còn thấy sự phát triển chênh lệch rõ ràng giữa các vùng nông thôn và thành thị, thu nhập giữa các nhóm xã hội vẫn đang còn khoảng cách xa. Một vấn đề then chốt của nền kinh tế Việt Nam để tiến đến hội nhập là sự cạnh tranh của nền kinh tế còn yếu và chậm cải thiện. Điều này được chứng tỏ trong bảng xếp hạng năng lực cạnh tranh toàn cầu của Diễn đần kinh tế thế giới (WEF), hạng của Việt Nam bị tụt liên tục với tốc độ nhanh. Có thể nói rằng nền kinh tế Việt Nam vận động trong một nghịch lý: tăng trưởng nhanh nhưng sức cạnh tranh không được cải thiện.
2.2. Tác động và những thách thức khi vào WTO
Tháng 01/1995 tổ chức này đẫ nhận đơn và thành lập Ban công tác Việt Nam gồm thành viên của 38 quốc gia và các vùng lãnh thổ. Trên 10 năm kiên trì và đàm phán, tại kỳ họp đa phương lần thứ 11, thành viên của Ban công tác đều ủng hộ để Việt Nam sớm gia nhập tổ chức thương mại toàn cầu. Hội nhập kinh tế quốc tế và gia nhập WTO mang lại cho nước ta nhiều cơ hội nhưng đồng thời cũng có nhiều khó khăn, thách thức cần phải vượt qua.
2.2.1. Cam kết WTO với cải cách thể chế
Những quy định về WTO đã được coi như công ước đa phương của một Bộ luật hành chính quốc tế. Từ cam kết không phân biệt đối xử dựa trên nguyên tắc tối huệ ước (MFN) và đối xử quốc gia (NT), thể hiện trong khuôn khổ những hiệp định về thương mại và dịch vụ (GATS), các biện pháp đầu tư liên quan đến thương mại (TRIMs), quyền sở hữu trí tuệ liên quan đến thương mại (TRIMs), biện pháp khắc phục thương mại (trade reme-dies), cấp phép nhập khẩu (IL), ràng buộc thuế quan, định giá hải quan (CVA) và các rào cản kỹ thuật đối với thương mại (TBT) đã có ảnh hưởng tích cực đối với nhiều nền kinh tế.
Trong xu thế toàn cầu hóa, khi là thành viên chính thức của WTO, Việt Nam có những thuận lợi cơ bản để thâm nhập, mở rộng thị trường, thu hút vốn đầu tư nước ngoài, đẩy mạnh công nghiệp hóa và tăng cường năng lực của nền kinh tế. Những cơ hội mới trong phát triển kinh tế xã hội chỉ có được khi hệ thống pháp luật phù hợp với thông lệ quốc tế và tạo môi trường kinh doanh thuận lợi, cạnh tranh lành mạnh để mọi loại hình doanh nghiệp được đối xử công bằng trong các hoạt động thị trường. Muốn đón nhận thời cơ, tận dụng điều kiện thoát khỏi tình trạng bị các nước lớn gây sức ép, Việt Nam phải sớm hoàn thiện hệ thống luật pháp, cơ chế thị trường, cải cách hành chính và doanh nghiệp cho tương đồng với những thể chế toàn cầu. Thời gian gia nhập WTO càng gần thì các kế hoạch hành động càng phải thiết thực, cụ thể và rất khẩn trương. đây chính là tác động mạnh mẽ của WTO đến hoạt động mở cửa thị trường và cải cách chính sách, thể chế pháp luật. Hệ thống chính sách minh bạch, ổn định và dễ dự đoán, tạo môi trường thuận lợi cho hoạt động sản xuất kinh doanh, là cơ sở quan trọng để thu hút đầu tư đặc biệt là đầu tư nước ngoài vào những lĩnh vực cần mở mang.
Với việc hoàn thiện hệ thống pháp luật kinh tế theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và thực hiện công khai minh bạch các thiết chế quản lý theo quy định của WTO, môi trường kinh doanh của nước ta ngày càng được cải thiện. Đây là tiền đề rất quan trọng để không những phát huy tiếm năng của các thành phần kinh tế trong nước mà còn thu hút mạnh đầu tư nước ngoài, qua đó tiếp nhận vốn, công nghệ sản xuất và công nghệ quản lý, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tạo ra công ăn việc làm và chuyển dịch cơ cấu lao động, thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, bảo đảm tốc độ tăng trưởng và rút ngắn khoảng cách phát triển.
Thực tế trong những năm qua đã chỉ rõ, cùng với phát huy nội lực, đầu tư nước ngoài có vai trò quan trọng trong nền kinh tế nước ta và xu thế ngày càng nổi trội: năm 2006, đầu tư nước ngoài chiếm 37% giá trị sản xuất công nghiệp, gần 56% kim ngạch xuất khẩu và 15,5% GDP, thu hút hơn một triệu lao động trực tiếp làm việc trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
2.2.2. Về đầu tư xây dựng tiềm lực
Các biện pháp đầu tư liên quan đến thương mại là vấn đề có ý nghĩa to lớn. Thực hiện nghĩa vụ của hiệp định TRIMs sẽ xóa bỏ rào cản đối với đầu tư nước ngoài (FDI), tạo tuận lợi cho các nhà đầu tư tham gia vào các ngành công nghiệp, chế biến nông sản và nhất là dịch vụ có lợi thế. Việc điều chỉnh chính sách nhằm xóa bỏ yêu cầu cân đối thương mại và cân đối ngoại tệ cũng là điều kiện thuận lợi để thu hút vốn đầu tư nước ngoài vào các ngành hàng có lợi thế xuất khẩu.
Khi gia nhập WTO, hiệp định TRIPs, một cơ chế hữu hiệu bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ, có tác dụng kích thích mạnh mẽ việc đầu tư chuyển giao công nghệ và đưa công nghệ cao vào các ngành kinh tế. Thực hiện nghiêm chỉnh những cam kết TRIPs, tôn trọng quyền sở hữu trí tuệ cũng là giải pháp kích thích sáng tạo, khích lệ doanh nghiệp nước ngoài đầu tư vào hoạt động R&D, đặc biệt là ở những ngành đòi hỏi trí tuệ cao, mang lại lợi ích kinh tế lớn. Làn sóng đầu tư nước ngoài nếu được gia tăng sẽ là động lực tích cực để tăng cường sản xuất công nghiệp, tăng cường nghiên cứu, chuyển giao công nghệ, đẩy mạnh các hoạt động R&D, góp phần quan trọng vào nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp và những sản phẩm ngành hàng.
Nước ta mở rộng thị trường khi đại bộ phận các tổ chức sản xuất kinh doanh là những doanh nghiệp vừa và nhỏ, thiếu nguồn lực đầu tư, trình độ nhân lực thấp, cơ sở hạ tầng kỹ thuật yếu kém, nhiều lĩnh vực công nghệ đang còn lạc hậu. Sức ép lớn đối với các doanh nghiệp trong nước khi vào WTO là sự cạnh tranh gay gắt. Cạnh tranh thị trường nội địa ngày càng trở nên gay gắt hơn khi các rào cản thương mại bị cắt giảm, những doanh nghiệp nhỏ, khả năng cạnh tranh yếu kém có nguy cơ phá sản hoặc giảm hiệu quả kinh doanh. Với tiềm lực hạn chế, doanh nghiệp Việt Nam đang ở thế yếu trong những tranh chấp thương mại quôc tế, thu hút được đầu tư nước ngoài vào phát triển những ngành có lợi thế phát triển, đòi hỏi trình độ công nghệ cao sẽ là một hướng thúc đẩy nhanh các ngành hàng có lợi thế xuất khẩu để chiếm lĩnh thị trường toàn cầu.
Từ thực tiễn ở nhiều quốc gia, trong thu hút đầu tư nước ngoài, các doanh nghiệp FDI thường mở mang những ngành nghề mới, thực hiện chuyển giao công nghệ và kỹ năng sản xuất kinh doanh cho lao động của nước sở tại nhằm thu được lợi nhuận cao. Mở mang phát triển những ngành nghề mới áp dụng công nghệ hiện đại đòi hỏi lao động có trình độ kỹ thuật cao, buộc lực lượng lao động trẻ phải tự học hỏi vươn lên để có việc làm. Đây chính là cơ hội để nâng cao trình độ nguồn nhân lực nước ta khi vào WTO.
2.2.3. Tác động trong ngành nông nghiệp
Được hưởng ưu đãi của 148 nước thành viên, mặt hàng nông sản nhiệt đới có thế mạnh của nước ta không bị phân biệt đối xử, có nhiều cơ hội thâm nhập vào thị trường toàn cầu, đặc biệt trong những nước phát triển có nhu cầu cao. Ngoài những sản phẩm có ưu thế đặc thù, cây trồng vụ đông là một thế mạnh khi các nước ôn đới đang mùa đông băng giá cần nhiều, nông sản thực phẩm sạch có khả năng mở rộng cũng là một hướng có nhiều triển vọng phát triển lâu dài… Khi gia nhập WTO, ngành nông nghiệp nước ta có thuận lợi hơn trong các tranh chấp, với cam kết không phân biệt đối xử, hàng nông sản xuất khẩu giá rẻ nước ta sẽ có cơ hội thâm nhập vào nhiều thị trường. Thêm vào đó, ảnh hưởng trong các chương trình nghị sự và quyền đàm phán đa bên của các nước thành viên WTO cũng là những thuận lợi để tối đa hóa các lợi ích trong vòng đàm phán thương mại.
Từ chính sách và thể chế phù hợp với những thông lệ quốc tế, nông nghiệp nước nhà sẽ có sức hút nhiều nhà đầu tư vào lĩnh vực này. Ngoài ra, khi vào WTO, Việt Nam còn được tham gia nhiều hơn vào những chương trình hợp tác khoa học công nghệ, thu hút đầu tư đổi mới công nghệ, mở mang ngành nghề nông thôn, hiện đại hóa công nghiệp chế biến….sẽ tác động lớn đến chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp và kinh tế – xã hội nông thôn. Với hướng phát triển này, theo ước tính của ngành lao động thương binh xã hội, nếu xuất khẩu nông nghiệp, thủy sản và lâm nghiệp tăng dược 31%, 62% và 7% thì việc làm cho lao động nông nghiệp có thể tăng thêm 85 vạn.
Những hạn chế đối với ngành nông nghiệp:
Nước ta còn là một nước với 67% lao động xã hội sống bằng nghề nông, nông nghiệp tạo ra khoảng 25% GDP và khoảng 1/3 kim ngạch xuất khẩu. Thách thức lớn nhất của nông nghiệp khi vào WTO là khả năng cạnh tranh của các mặt hàng nông sản và doanh nghiệp chế biến nông sản phải cạnh tranh khốc liệt với hàng nhập ngoại có chất lượng cao.
Thực thi quyền sở hữu trí tuệ, buộc nông dân phải mua giống vật tư, tư liệu sản xuất với giá cao có thể làm tăng chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm. Trong khi những nước giàu gây sức ép với nước nghèo mở của thị trường thì họ vẫn tiếp tục duy trì trợ cấp và những rào cản đối với thị trường nông sản nước mình, điều này khiến nông nghiệp nước ta khó sử dụng được biện pháp tự vệ đặc biệt đối với nông sản nhập khẩu.
2.2.4. Tác động tổng thể đối với ngành công nghiệp
Có thể nói, khả năng cạnh tranh của ngành công nghiệp nước ta còn ở thế yếu do năng suất lao động, hiệu quả sản xuất kinh doanh thấp và trình độ khoa học công nghệ, khả năng quản lí còn hạn chế.
Ngành công nghiệp có một số mặt hàng có thể cạnh tranh được với các nước trong khu vực và thế giới song tỷ trọng nhỏ, chủ yếu dựa vào lợi thế tài nguyên, thiên nhiên và nguồn lao động rẻ. Với chính sách thúc đẩy tự do hóa thương mại, việc bảo hộ sản xuất trong nước bằng thuế quanchỉ thực hiện được trong những hoàn cảnh nhất định và ngày càng giảm, khả năng Nhà nước bảo hộ cho ngành công nghiệp trước sức ép cạnh tranh ngày càng hạn hẹp, ngành công nghiệp nước nhà đang phải chấp nhận một cuộc chơi không cân sức, phải có những nỗ lực tối đa mới không bị biến thành thị trường tiêu thụ của các nước công nghiệp phát triển khi vào WTO.
Hiện nay, do một số thị trường chưa được khai thông, hoặc bị phân biệt đối xử nên khả năng xuất khẩu còn hạn chế. Khi gia nhập WTO, Việt Nam sẽ có cơ hội mở rộng xuất khẩu những mặt hàng mà mình có tiềm năng ra toàn cầu nhờ được hưởng những thành quả của hơn 50 cuộc đàm phán giảm thuế và hàng rào phi thuế, tăng cường tiếp cận thị trường của WTO, đặc biệt trong các lĩnh vực hàng nông sản và dệt may. Cơ hội xuất khẩu bình đẳng sẽ kéo theo những ảnh hưởng tich cực tới các ngành kinh tế trong nước, sản xuất sẽ được mở rộng
Hạn chế đối với công nghiệp:
Những hiệp định liên quan đã đặt công nghiệp ôtô Việt Nam một trong những ngành quan trọng, trước nhiều thách thức. Với cam kết xóa bỏ yêu cầu nội địa hóa khi vào WTO, dường như nước ta không còn cơ hội để tiếp tục thực thi chương trình nội địa hóa lĩnh vực công nghiệp này.
Chế biến sữa là ngành sử dụng nguyên liệu thô của chăn nuôi bò sữa. Quy định hiện hành của nước ta yêu cầu các nhà đầu tư phải gắn chế biến sữa với phát triển đàn bò sữa để cấp giấy phép đầu tư. Do nguồn nguyên liệu cung cấp trong nước hạn chế, nhập khẩu nguyên liệu sữa bột từ nước ngoài có xu hướng gia tăng. Thực hiện cam kết TRIMs, các doanh nghiệp chủ động quyết định nguồn nguyên liệu phục vụ chế biến, điều này càng làm gia tăng nhập khẩu sữa, tạo những khó khăn mới trong thực hiện chương trình phát triển bò sữa ở nước ta.
Công nghiệp dược phẩm là lĩnh vực ảnh hưởng nhiều dến đời sống xã hội. Liên quan nhiều tới việc tiếp cận dược phẩm là bằng phát minh sáng chế (patens), nhãn mác hàng hóa và những bí mật kinh doanh, trong đó quy định về patens có vai trò quan trọng nhất. Thực hiện cam kết TRIPs có lợi nhuận cho hoạt động đầu tư, nhưng cũng gây nhiều sức ép. Những quy định liên quan đến phát minh, sáng chế dẫn đến làm gia tăng giá thuốc, gánh nặng của người nghèo lại càng tăng thêm vì khả năng tiêp cận thuốc của họ vốn đã thấp lại càng khó khăn hơn khi ngân sách nước nhà hạn hẹp.
2.2.5. Trong nghành dịch vụ
Gia nhập WTO, dịch vụ sẽ là khu vực có độ mở cao. Đón nhận dòng đầu tư trực tiếp nước ngoài, FDI sẽ đến cùng với công nghệ và kinh nghiệm quản lý tiên tiến của các nhà đầu tư, xu hướng này cũng tạo nhiều thuận lợi để đa dạng hóa và nâng cao chất lượng phát triển các ngành dịch vụ. Sự tăng trưởng các ngành dich vụ, đến lượt mình lại tạo điều kiện để tăng sự hấp dẫn và nâng cao khả năng cạnh tranh trong thu hút nguồn vốn FDI. Các nguồn đầu tư được phân phối lại theo hướng hiệu quả cho phép phát triển nhanh các ngành hàng có lợi thế cạnh tranh. Đi theo hướng này, nước ta có thể mở rộng một số dịch vụ du lịch và xuất khẩu lao động. Khi vào WTO, thị trường mở rộng, người tiêu dùng trong nước được tiếp cận với những dịch vụ đa ngành với giá thấp và chất lượng tốt sẽ là cơ hội để giảm chi phi sản xuất và quan trọng là nâng cao được sức cạng tranhcủa hàng hóa và dịch vụ Việt Nam .
Khó khăn của ngành dịch vụ khi vào WTO:
Ngành dịch vụ nước ta phát triển chưa cao, mới chiếm 40% GDP (bình quân chung thế giới là 68%). Phần lớn các doanh nghiệp dịch vụ khoa học, nghiên cứu thị trường, tiếp thị, kế toán, thiết kế mẫu mã…mới được hình thành, khả năng cạnh tranh thấp đang có nguy cơ bị các doang nghiệp nước ngoài chiếm lĩnh ngay khi mở cửa thị trường. Do đó việc xuất hiện của các ngân hàng 100% vốn nước ngoài khi vào WTO, cơ cấu thị phần tiền tệ sẽ có nhiều thay đổi, việc hình thành chính sách tiền tệ quốc gia sẽ chịu tác động chi phối của ngững thay đổi kinh tế xã hội toàn cầu, biến động tỷ giá và hành vi của giới đầu tư quôc tế sẽ làm tăng các hoạt động giao dịch vốn và gia tăng rủi ro trong các hệ thống Ngân hàng.
2.2.6. Hạn chế và những thách thức
Nước ta mở của thị trường trong điều kiện nền kinh tế chưa đủ sức cạnh tranh, trong khi các doanh nghiệp không ngang sức với công ty nước ngoài, việc thực hiện yêu cầu tự do hóa dịch vụ, cải cách tài chính, ngân hàng, việc tôn trọng nghiêm ngặt những rào cản về sở hữu trí tuệ, chất lượng sản phẩm, vệ sinh an toàn thực phẩm, trợ cấp sản xuất xuất khẩu và tiếp cận thị trường hàng hóa công nghiệp…đang dặt ra cho các nhà quản lý, hoạch định chính sách và doanh nghiệp phải tìm lời giải cho nhiều bài toán khó.
Thách thức lớn nhất đối với công việc quản lý , hoạch định chính sách là trong thời gian ngắn, phải sửa đổi và xây dựng được cơ chế và hệ thống chính sách đồng bộ phù hợp với các quy định của WTO. Cùng với nội dung này, thực hiện cam kết thương mại toàn cầu, nguồn thu ngân sách sẽ giảm đáng kể trong giai đoạn đầu nhưng phải xử lý thâm hụt cán cân thanh toán, giải quyết việc làm, nâng cao trình độ cho người lao động và cải cách doanh nghiệp là những công việc đòi hỏi có nguồn vốn lớn, trình độ kỹ thuật và năng lực con người rất cao.
Trong quá trình đàm phán gia nhập WTO, những nỗ lực của lãnh đạo Nhà nước để đẩy nhanh tiến độ xây dựng và ban hành pháp luật đã được cộng đồng quốc tế ghi nhận. Với việc thông qua hầu hết những bộ luật cần thiết trong năm 2005, Việt Nam được đánh giá là một trong những nước đầu tiên xây dựng khá hoàn chỉnh hệ thống pháp luật trước khi gia nhập WTO. Tuy nhiên, hệ thống này vẫn còn nhiều tồn tại do thiếu tính cụ thể và đồng bộ, thường giới hạn ở những chế định mang tính nguyên tắc, tính minh bạch và ổn định còn hạn chế nên ảnh hưởng không nhỏ đến hiệu quả và hiệu lực thực thi.
Trong khi nhận thức rõ những cơ hội có được do việc gia nhập WTO mang lại, cần thấy hết những thách thức mà chúng ta phải đối đầu, nhất là trong điều kiện nước ta là một nước đang phát triển ở trình độ thấp, quản lý nhà nước còn yếu kém và bất cập, doanh nghiệp và đội ngũ doanh nhân còn nhỏ bé. Những thách thức này bắt nguồn từ sự chênh lệch giữa năng lực nội sinh của đất nước với yêu cầu hội nhập, từ những tác động tiêu cực tiềm tàng của chính quá trình hội nhập.
2.2.6.1. Cạnh tranh gay găt đối với các doanh nghiệp và Nhà nước
Đại bộ phận các doanh nghiệp Việt Nam nhỏ về quy mô, ít vốn, dàn trải và còn trồng chéo về quản lý, năng suất lao động không cao, trình độ công nghệ và năng lực kỹ thuật thấp đang là rào cản lớn nhất để nâng cao năng lực cạnh tranh. Do hiểu biết thị trường hạn chế, doanh nghiệp trong nước chưa sẵn sàng tận dụng cơ hội tiếp cận thị trường, thường vấp phải những tranh chấp thương mại quốc tế và ở thế yếu.
Cùng với xu thế toàn cầu, cạnh tranh thị trường nội địa sẽ gia tăng mạnh khi gỡ bỏ các hàng rào thương mại. Dưới tác động giảm thuế và mở cửa thị trường, những doanh nghiệp năng lực cạnh tranh kém có nguy cơ giảm lợi nhuận, thiếu việc làm hoặc phá sản có thể dẫn tới những gánh nặng cho xã hội sau này.
Khi vào WTO, cạnh tranh sẽ diễn ra gay gắt hơn, nhiều “ đối thủ” hơn, trên bình diện rộng hơn, sâu hơn. Đây là sự cạnh tranh giữa sản phẩm của ta với sản phẩm các nước, giữa doanh nghiệp nước ta với doanh nghiệp các nước, không chỉ trên thị trường thế giới mà ngay trên thị trường nước ta. Do thuế nhập khẩu phải cắt giảm từ mức trung bình 17,4% hiện nay xuống mức trung bình 13,4% trong vòng 3 đến 5 năm tới, nhiều mặt hàng còn giảm mạnh hơn. Cạnh tranh không chỉ diễn ra ở cấp độ sản phẩm với sản phẩm, doanh nghiệp với doanh nghiệp, cạnh tranh còn diễn ra giữa nhà nước và nhà nước trong việc hoạch định chính sách quản lý và chiến lược phát triển nhằm phát huy nội lực và thu hút đầu tư từ bên ngoài. Chiến lược phát triển có phát huy được lợi thế so sánh hay không , có thể hiện được khả năng “phản ánh vượt trước” trong một thế giới biến đổi nhanh chóng hay không. Chính sách quản lý có tạo được chi phí giao dịch xã hội thấp nhất cho sản xuất kinh doanh hay không, có tạo dựng được môi trường kinh doanh, đầu tư thông thoáng, thuận lợi hay không..v.v… Tổng hợp các yếu tố cạnh tranh trên sẽ tạo nên sức cạnh tranh của toàn bộ nền kinh tế, sức cạnh tranh quốc gia.
2.2.6.2. Hạn chế từ những hiệp định liên quan đến đầu tư và sở hữu trí tuệ
Thực hiện cam kết của hiệp định TRIMs, nhìn chung sẽ tạo điều kiện thuận lợi để thu hút đầu tư nước n._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 35976.doc