Quan điểm lịch sử cụ thể đối với quá trình phát triển KT

A.Đặt Vấn Đề Bước vào thiên niên kỷ mới, loài người đã và đang có những bước tiến quan trọng trong công cuộc trinh phục thế giới. Những thành tựu trong lĩnh vực khoa học - kỹ thuật nói riêng và trong mọi mặt của đời sống xã hội nói chung đã nâng dần loài người lên một tầm cao mới. Trong sự chuyển biến mạnh mẽ đó, Việt Nam chúng ta cũng không ngừng biến đổi vận động. Tính đến nay nước ta đã thực hiện công cuộc đổi mới được hơn một thập kỷ, bên cạnh những thành tựu đã đạt được, những vấn đề của n

doc16 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1528 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Quan điểm lịch sử cụ thể đối với quá trình phát triển KT, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ền kinh tế luôn đặt ra những thách thức cho các nhà kinh tế. So với thế giới, nước ta vẫn là một nước nghèo, nền kinh tế còn yếu kém, chậm phát triển, những tàn dư của nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp vẫn còn tồn tại đã kìm hãm sự phát triển của nền kinh tế. Chính vì thế chúng ta phải nghiên cứu tìm ra hướng đi đúng đắn cho nền kinh tế, phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh đất nước, phù hợp với khu vực thế giới và thời đại. Điều đó cũng có nghĩa là phải phân tích các yếu tố kinh tế trong tổng thể các mối quan hệ, trong sự vận động, phát triển không ngừng. Do vậy việc vận dụng quan điểm lịch sử cụ thể của triết học Mác - Lênin vào qúa trình đối mới kinh tế ở Việt Nam là rất cần thiết. Quán triệt quan điểm lịch sử cụ thể vào quá trình đối mới kinh tế ở Việt Nam sẽ giúp cho nền kinh tế nước ta có được hướng đi đúng đắn. Vì vậy, trong bài viết tiểu luận triết học của mình em đã chọn đề tài: “Quan điểm lịch sử cụ thể với công cuộc đối mới kinh tế ở Việt Nam hiện nay”. Tuy nhiên, do kiến thức còn hạn hẹp sẽ không tránh khỏi nhiều sai xót. Do vậy, em kính mong nhận được sự góp ý và hướng dẫn của các thầy cô trong khoa để bà viết của em có kết quả tốt hơn. Hà Nội, tháng 3 năm 2005 Sinh viên: Đỗ Hoàng Anh Tuấn B. Nội dung I. Quan điểm lịch sử cụ thể 1. Cơ sở khách quan của quan điểm lịch sử cụ thể Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến và nguyên lý về sự phát triển là cơ sở hình thành quan điểm lịch sử cụ thể. Mọi sự vật hiện tượng của thế giới đều tồn tại, vận động và phát triển trong những điều kiện không gian và thời gian cụ thể xác định. Điều kiện không gian và thời gian có ảnh hưởng trực tiếp tới tính chất, đặc điểm của sự vật. Cùng một sự vật nhưng nếu tồn tại trong những điều kiện không gian và thời gian cụ thể khác nhau thì tính chất, đặc điểm của nó sẽ khác nhau, thậm trí có thể làm thay đổi hòan toàn bản chất của sự vật. 2. Yêu cầu của quan điểm lịch sử cụ thể Quan điểm lịch sử có 3 yêu cầu: Thứ nhất: Khi phân tích xem xét sự vật, hiện tượng phải đặt nó trong điều kiện không gian và thời gian cụ thể của nó, phải phân tích xem những điều kiện không gian ấy có ảnh hưởng như thế nào đến tính chất, đặc điểm của sự vật, hiện tượng. Phải phân tích cụ thể mọi tình hình cụ thể ảnh hưởng đến sự vật, hiện tượng. Thứ hai: Khi nghiên cứu một lý luận, một luận điểm khoa học nào đó cần phải phân tích nguồn gốc xuất xứ, hoàn cảnh làm nảy sinh lý luận đó. Có như vậy mới đánh giá đúng giá trị và hạn chế của lý luận đó. Việc tìm ra điểm mạnh và điểm yếu có tác dụng trực tiếp đến quá trình vận dụng sau này. Thứ ba: Khi vận dụng một lý luận nào đó vào thực tiễn phải tính đến điều kiện cụ thể của nơi được vận dụng. Điều kiện này sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến kết quả của sự vận dụng đó. 3. Tại sao phải vận dụng quan điểm lịch sử vào quá trình xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam? Trước tiên cần phải khẳng định rằng KTTT định hướng XHCN cũng là một dạng vật chất. Nền kinh tế Việt Nam là một dạng vật chất xã hội theo sự phân loại của triết học Mác-Lênin. Chính vì thế nền KTTT định hướng XHCN Việt Nam cũng tồn tại, vận động và phát triển theo những nguyên lý, quy luật của triết học Mác-Lênin, mà cụ thể là trong những điều kiện không gian thời gian theo quan điểm lịch sử cụ thể. Sự ra đời và phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần hơn 10 năm qua đã góp phần thay đổi bộ mặt đất nước, nâng cao đời sống nhân dân. Tuy nhiên đó chưa phải là cái đích cuối cùng của Đảng ta và nhân dân ta, bởi nền kinh tế nước ta vẫn còn chậm phát triển. Khi chúng ta vừa chuyển từ nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp sang cơ chế thị trường, từ một nền kinh tế yếu kém lạc hậu với hệ thống sản xuất, hệ thống quản lý kinh tế với những cán bộ mang nặng tư tưởng ỷ lại sang nền KTTT năng động, do đó khó có thể tránh khỏi những vấp váp sai lầm. Thêm nữa, thời điểm chúng ta bắt đầu đổi mới, chuyển sang nền KTTT là quá muộn so với các nước trên thế giới và khu vực khi mà các nước tư bản như Mỹ, Nhật, Tây Âu,...đã tiến hành cơ chế thị trường và phát triển vượt xa ta mấy trăm năm. Nhờ sử dụng triệt để KTTT, CNTB đã đạt được những thành tựu về kinh tế - xã hội, phát triển lực lượng sản xuất, nâng cao năng suất lao động, quản lý xã hội đã đạt được những thành tựu về văn minh hành chính, văn minh công cộng, con người nhậy cảm tinh tế với khả năng sáng tạo...và có cả những tiêu cực: sự gay gắt dẫn đến tình trạng “cá lớn nuốt cá bé” sự phân cách giàu nghèo ngày càng lớn, ô nhiễm môi trường, tài nguyên cạn kiệt, tệ nạn xã hội...Tuy nhiên, là nước đi sau và theo CNXH, chúng ta có cơ hội kế thừa và phát triển những thành tựu của nhân loại mà trước hết là sử dụng văn minh cuả KTTT, loại bỏ những khuyết tật của nó để xây dựng CNXH có hiệu quả hơn. Chính vì những lẽ đó, chúng ta cần phải vận dụng quan điểm lịch sử cụ thể vào việc nghiên cứu quá trình xây dựng nền KTTT định hướng XHCN ở Việt Nam. II. Quá trình xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa dưới góc nhìn của quan điểm lịch sử cụ thể 1. Những điều kiện cụ thể ảnh hưởng đến quá trình xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa a. Những điều kiện trong nước Đầu tiên chúng ta cần tìm hiểu xuất phát điểm về kinh tế của nước ta khi bắt đầu đổi mới. Bức tranh chung của kinh tế Việt Nam năm trước đổi mới là tăng trưởng thấp 3,7%/năm, làm không đủ ăn và dựa vào nguồn viện trợ bên ngoài rất lớn. Thu nhập quốc dân trong nước, sản xuất chỉ đáp ứng được 80-90% thu nhập quốc dân sử dụng. Đến năm 1985 tỷ trọng thu từ bên ngoài chiếm 10,2% thu nhập quốc dân sử dụng, nợ nước ngoài lên tới 8,5 tỷ rúp và 1,9 tỷ USD. Cũng vào các năm đó nền kinh tế rơi vào tình trạng khủng khoảng trầm trọng, siêu lạm phát ở mức 774,7% vào năm 1986 kéo theo giá cả leo thang và vô phương kiểm soát. Sự tàn phá của chiến tranh và nền kinh tế bao cấp yếu kém kéo dài đã để lại nhiều hậu quả nặng nề: cơ sở vật chất thấp kém với nền KH - CN, kỹ thuật lạc hậu, hầu hết các hệ thống máy móc trong các xí nghiệp đều do Liên Xô cũ giúp đỡ từ trong chiến tranh nên năng suất thấp, chất lượng kém. Điều kiện địa lý cũng là một nhân tố quan trọng ảnh hưởng mạnh mẽ đến nền kinh tế. Về địa hình, nước ta trải dài trên nhiều vĩ tuyến, bề ngang hẹp, địa hình phức tạp mang đậm nét của sự phân dị sâu sắc về điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội. Các đặc điểm này chi phối sự phân công lao động xã hội theo lãnh thổ và phát triển các vùng kinh tế. Nằm ở Tây Thái Bình Dương và Đông Nam á, khu vực phát triển cao, ổn định, nơi cửa ngõ của giao lưu quốc tế, Việt Nam có nhiều khả năng để phát triển nhiều loại hình kinh tế khác nhau dựa trên những lợi thế về vận tải biển, dịch vụ viễn thông, du lịch. Tài nguyên khoáng sản phân bố không đều trên các vùng, ngay ở mỗi vùng cũng phân tán và thiếu đồng bộ không gắn với nhau gây khó khăn cho việc khai thác sử dụng chúng và ảnh hưởng đến việc bố chí kinh tế của các vùng. Về dân số, nước ta có dân số đông, nguồn lao động dồi dào nhưng phân bố cũng không đồng đều. Về chế độ chính trị: Quan hệ giữa kinh tế và chính trị là một trong những vấn đề cơ bản của công cuộc đổi mới ở Việt Nam. Theo các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin thì kinh tế quyết định chính trị “ chính trị là sự biểu hiện tập trung của kinh tế, chính trị không phải là mục đích mà chỉ là phương tiện để thực hiện mục đích kinh tế.” Lênin đã chỉ rõ: “để thoả mãn những lợi ích kinh tế thì quyền lực chính trị chỉ được sử dụng làm phương tiện đơn thuần.” Khẳng định đó của Lênin không có nghĩa là phủ nhận vai trò quyết định của kinh tế đối với chính trị mà muốn nhấn mạnh tác động của chính trị đối với kinh tế. Vấn đề kinh tế không thể tách rời vấn đề chính trị mà nó được xem xét giải quyết theo một lập trường chính trị nhất định. Như vậy chúng ta có thể khẳng định rằng kinh tế và chính trị thống nhất biện chứng với nhau trên nền tảng quyết định của kinh tế. Sau khi miền Bắc giải phóng và từ sau năm 1975 thống nhất đất nước, cả nước ta đã kiên quyết đi theo con đường XHCN - đây là lựa chọn tất yếu và đúng đắn. Tuy nhiên, vì không qua giai đoạn TBCN, chúng ta đã gặp nhiều khó khăn và bỡ ngỡ trong công cuộc xây dựng một hệ thống chính trị vững mạnh. Thêm vào đó, khi ta đang trong tình trạng ban đầu của công cuộc đổi mới, một giai đoạn quan trọng mà chính trị là yếu tố định hướng dẫn đường thì CNXH ở Liên Xô cũ và các nước Đông Âu sụp đổ hàng loạt đã gây nhiều hoang mang cho Đảng và nhân dân ta. Điều này cũng chứng tỏ rằng đang có rất nhiều thế lực phản động không ngừng tìm cách phá hoại, lật đổ chế độ CNXH ở nước ta. b. Những điều kiện thế giới và khu vực Sau khi chiến tranh lạnh kết thúc, mặc dù thế giới còn nhiều diễn biến phức tạp nhưng hoà bình và hợp tác là xu thế chủ đạo, là đòi hỏi bức xúc của các dân tộc và các quốc gia. Các cuộc cách mạng khoa học và công nghệ đạt được những bước tiến vượt bậc đặc biệt trong lĩnh vực tin học, viễn thông, sinh học, vật liệu mới và năng lượng mới đang đẩy mạnh quá trình quốc tế hoá cao độ các lực lượng sản xuất dẫn đến sự phân công lao động quốc tế ngày càng sâu sắc. Như vậy có nghĩa là ngày nay, không một nền kinh tế nào có thể đứng tách ra khỏi cộng đồng quốc tế. Tình hình đó đòi hỏi một sự hợp tác ngày càng rộng tạo nên thế tuỳ thuộc lẫn nhau giữa các nước dù lớn hay nhỏ, phát triển hay đang phát triển. Trong lịch sử phát triển của xã hội có lẽ chưa bao giờ có một sự hợp tác để phát triển rộng rãi đan xen lồng ghép và nhiều tầng lớp như hiện nay với sự hình thành nhiều tổ chức kinh tế như ASEAN (Hiệp hội các nước Đông Nam á), WTO (tổ chức thương mại thế giới) AFTA, EU,... Đối với các khu vực, Việt Nam nằm trong khu vực Đông Nam á, Châu á Thái Bình Dương, một khu vực được coi là có nền kinh tế năng động và có tốc độ tăng trưởng cao nhất thế giới trong những năm gần đây. Hầu hết các nước trong khu vực như Singapore, Thái Lan, Inđônêsia đều đã tiến hành nền KTTT được mấy thập kỷ và một số nước đã trở thành các nước công nghiệp mới (NIC). Như vậy thế giới và khu vực đã phát triển vượt ta khá xa về mọi mặt đặc biệt là về kinh tế. Vì thế đã đặt ra cho Việt Nam nhiều thách thức trong qúa trình phấn đấu xây dựng và cải tiến nền KTTT định hướng XHCN. 2. Thực trạng quá trình xây dựng nền KTTT định hướng XHCN ở Việt Nam dưới tác động của những điều kiện cụ thể 2.1 Giai đoạn 1986 - 1991 Đây là giai đoạn đầu chúng ta chuyển sang nền KTTT. Do chưa nhận thức được đầy đủ những yếu tố cụ thể ảnh hưởng đến nền kinh tế nên ta đã có một số chính sách chưa đúng. Một chính sách sai lầm trong giai đoạn này là tập trung công nghiệp hoá - hiện đại hoá theo hướng ưu tiên cho công nghiệp nặng. Đây là một sai lầm nghiêm trọng đã làm mất rất nhiều thời gian, tốn rất nhiều tiền bạc bởi lúc này với xuất phát điểm và kinh tế rất thấp, cơ sở vật chất, công nghệ còn quá lạc hậu thêm vào đó là thiếu vốn và thiếu đội ngũ các nhà khoa học tài giỏi. Trong khi đó ta có đầy đủ điều kiện để phát triển công nghiệp nhẹ. Sự khéo léo cần cù của người dân Việt Nam, sự ưu đãi của thiên nhiên khí hậu tạo nên một danh mục nông sản đa dạng phong phú và nhiều loại hình sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ. Với những điều kiện đó ta hoàn toàn có thể phát triển những ngành công nghiệp nhẹ mà chỉ cần ít vốn như công nghiệp chế biến thực phẩm, đồ mỹ nghệ,... Chuyển sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần nhưng trong giai đoạn này lượng hàng hoá của chúng ta còn ít và chất lượng còn chưa tốt. Chính vì thế, hàng hoá sản xuất ra không có sức cạnh tranh trên thị trường vì số lượng hàng hoá ít nên phần lớn vẫn phải nhập khẩu và chưa xuất khẩu được hàng hoá ra thị trường thế giới. Với điều kiện địa lý địa hình phức tạp, hệ thống giao thông vận tải yếu kém như trên chưa có những chính sách phát triển kinh tế phù hợp với từng vùng, từng miền, chúng ta đã rơi vào tình trạng đầu tư phát triển kinh tế tràn lan, không tập trung, gây nên sự bất hợp lý giữa các vùng. Cơ cấu giữa các thành phần kinh tế cũng là một vấn đề đáng quan tâm. Trong giai đoạn này các thành phần kinh tế mới như kinh tế tư bản tư nhân, kinh tế tư bản Nhà nước chưa phát triển, chủ yếu vẫn là thành phần kinh tế Nhà nước. Nguyên nhân của vấn đề này là do ta vẫn còn chậm đổi mới các hình thức sở hữu tư liệu sản xuất đã có trong nền kinh tế bao cấp cũ và chưa có được những chính sách phù hợp để kinh tế tư bản tư nhân và tư bản Nhà nước phát triển. Tóm lại, trong giai đoạn này mặc dù đã đạt được một số thành tựu, nền kinh tế đã từng bước ổn định và phát triển, các cơn sốt do hậu quả của cơ chế quan liêu bao cấp đã dần dà vơi đi nhưng nền kinh tế Việt Nam vẫn chưa bước hẳn ra sự khủng hoảng của những năm trước đổi mới. 2.2Giai đoạn 1991 đến nay Giai đoạn này, do đã dần điều chỉnh phù hợp với những điều kiện, nhân tố cụ thể ảnh hưởng đến nền KTTT nên kinh tế Việt Nam đã đạt được một số thành tựu đáng kể: Điều đầu tiên cần nói đến là tốc độ tăng trưởng kinh tế cao và tương đối ổn định. Giai đoạn 1986 - 1990, GDP tăng trung bình 3,9% thì đến giai đoạn này GDP tăng bình quân 8,2%. Cơ cấu giữa các thành phần kinh tế và các ngành cũng hợp lý hơn. Hàng loạt các công ty, doanh nghiệp tư nhân hoạt động trong mọi lĩnh vực đã ra đời. Dịch vụ thương mại phát triển tương đối mạnh đã tạo điều kiện cho việc sản xuất hàng hoá, làm cho số lượng hàng hoá phong phú hơn và chất lượng không ngừng được cải tiến. Giao thông vận tải được chú trọng sửa chữa và xây mới nên hàng hoá đã đến được các vùng sâu, vùng xa và miền núi. Một thành tựu quan trọng nữa là trong điều kiện nền kinh tế thế giới với sự cạnh tranh rất khốc liệt gây ra sự phân cực giàu nghèo mạnh mẽ với nhiều cuộc khủng hoảng kinh tế nghiêm trọng, Đảng ta kịp thời rút kinh nghiệm và đã có những đường lối, chính sách định hướng cho nền kinh tế phát triển theo đúng định hướng XHCN, hướng thị trường hàng hoá vào ưũy đạo cạnh tranh lành mạnh cùng phát triển. Chính vì vậy nền KTTT của ta chẳng những không xảy ra khủng hoảng mà còn tránh được ảnh hưởng tiêu cực từ những cuộc khủng hoảng kinh tế ở các nước trong khu vực và thế giới mà cụ thể là cuộc khủng hoảng tiền tệ vào năm 1997. Tuy nhiên nền kinh tế nước ta so với khu vực và thế giới vẫn là một nền kinh tế kém phát triển, cần có nhiều biện pháp để phát triển theo kịp các quốc gia khác. KTTT đã ra đời và phát triển qua nhiều gia đoạn và cho đến bây giờ nó vẫn là kiểu kinh tế xã hội tiến bộ nhất. Trải qua các giai đoạn phát triển, KTTT ngày càng được hoàn thiện và được áp dụng trên nhiều quốc gia. Nền KTTT định hướng XHCN ở Việt Nam mặc dù mới ra đời cách đây hơn một thập kỷ nhưng cũng đã trải qua nhiều thăng trầm, không ngừng vận động và luôn biến đổi dưới sự tác động của nhiều yếu tố cả bên ngoài lẫn bên trong bản thân nền kinh tế. Các yếu tố này vừa không ngừng có ảnh hưởng đến sự phát triển của nền KTTT vừa chịu sự tác động của chính nền KTTT đó. Như vậy, trải qua mỗi giai đoạn lại hình thành nên những yếu tố mới khiến cho công cuộc xây dựng và phát triển nền KTTT định hướng XHCN Việt Nam ngày càng phức tạp, đòi hỏi phải có sự phân tích kỹ lưỡng chi tiết kịp thời từng yếu tố. Chính vì vậy quan điểm lịch sử cụ thể luôn là quan điểm gắn liền với quá trình xây dựng nền KTTT định hướng XHCN Việt Nam. III. Một số giải pháp nhằm xây dựng nền KTTT theo định hướng XHCN Trong giai đoạn hiện nay, chúng ta đang từng bước xây dựng cơ sở vật chất để đẩy mạnh quá trình phát triển nền KTTT định hướng XHCN nhanh chóng đưa đất nước trở thành nước công nghiệp hóa hiện đại hóa. Và việc nghiên cứu tìm hiểu các yếu tố ảnh hưởng để tìm ra các giải pháp nhằm khắc phục những mặt yếu kém phát huy những mặt mạnh đang là vấn đề bức thiết. Cụ thể : Đẩy mạnh việc thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài. Trước mắt cần tiếp tục cải tiến hành chính trong lĩnh vực đầu tư nước ngoài với những qui định rõ ràng thông suốt và đơn giản. Về lâu dài cần tiến tới xây dựng một hành lang pháp lý chung cho các nhà đầu tư nước ngoài cũng như trong nước để tạo một sân chơi bình đẳng. Huy động tối đa và sử dụng có hiệu quả nguồn vốn trong nước. Trong lĩnh vực này, huy động tiết kiệm là mục tiêu hàng đầu, từ đó sẽ phát huy được hết các nguồn nội lực thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Tiếp tục cân đối lại các thành phần kinh tế và các ngành; chú trọng phát triển kinh tế giữa các vùng hợp lý hơn. Tăng cường hội nhập hợp tác với các nền kinh tế trong khu vực và thế giới; giữ vững vai trò của Nhà nước trong việc điều tiết vĩ mô, định hướng nền KTTT theo định hướng XHCN, lấy công bằng xã hội làm mục tiêu tăng trưởng kinh tế, bảo đảm nguồn nhân lực thông qua hệ thống giáo dục đào tạo, bảo đảm y tế, nâng cao trình độ văn hoá cho người lao động. Giữ vững an ninh, trật tự xã hội, củng cố sự nghiệp quốc phòng an ninh nhằm ngăn chặn mọi thế lực phản động phá hoại trong và ngoài nước; Tích cực cải tạo xã hội, xoá bỏ các tệ nạn xã hội như tham nhũng, nghiện hút, mại dâm, ma tuý, hạn chế ô nhiễm môi trường, giữ vững sự cân bằng sinh thái. Muốn vậy cần nâng cao nhận thức con người trong việc bảo vệ giữ gìn cuộc sống của chính họ; vận dụng sáng tạo, không rập khuôn các mô hình KTTT trên thế giới; Có phương hướng kết hợp định hướng XHCN với tăng trưởng kinh tế trong những năm tới. C. kết luận Với việc áp dụng quan điểm lịch sử cụ thể vào công cuộc đổi mới kinh tế ở Việt Nam, chúng ta đã có được một nền kinh tế thị trường năng động, một nền kinh tế theo định hướng XHCN với những thành tựu hết sức to lớn: Nhịp độ bình quân hàng năm về sản phẩm quốc nội trong 5 năm 1991 -1995 là 8,5%, nhịp độ tăng bình quân hàng năm về sản xuất công nghiệp là 13,3%, sản xuất nông nghiệp là 4,5%, kim ngạch xuất khẩu 20%. Cơ cấu kinh tế có bước chuyển đổi tích cực: tỷ trọng công nghiệp và xây dựng trong GDP từ 22,7% năm 1990 lên 30,3% năm 1995, tỷ trọng dịch vụ từ 38,6% lên 41,5%. Bắt đầu có tích luỹ từ nội bộ nền kinh tế. Vốn đầu tư cơ bản toàn xã hội tăng từ 15,8% GDP năm 1990 lên 27,7% năm 1995. Lạm phát bị đẩy lùi từ 67,1% năm 1991 xuống 12,4% đầu năm 1995. Quan hệ sản xuất được điều chỉnhphù hợp hơn với yêu cầu của lực lượng sản xuất. Số hộ có thu nhập trung bình số hộ giàu tăng lên, tỷ lệ hộ nghèo giảm. Bên cạnh những thành tựu đã đạt được, nền kinh tế nước ta vẫn còn những hạn chế nhất định, đất nước ta vẫn còn chậm phát triển so với khu vực và thế giới. Chúng ta cần phải áp dụng các giải pháp hợp lý để cải thiện tình hình, đặc biệt chú trọng đến sự vận dụng đến sự vận dụng sáng tạo để có được một nền KTTT hoàn chỉnh, phát huy hết tính ưu việt của nó và tránh được những sai lầm của nền KTTT của các quốc gia khác. Từng bước thực hiện các giải pháp để đề ra, Việt Nam sẽ có thêm tự tin bước vào thế kỷ 21 với những thách thức mới, cơ hội mới. Nền KTTT định hướng XHCN Việt Nam sẽ ngày càng phát triển ổn định và nhanh chóng đuổi kịp trình độ của thế giới, trở thành một nước công nghiệp phát triển trong tương lai không xa. d.Tài liệu tham khảo 1. Sách: - Nguyễn Sinh Cúc “Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa” - NXB Chính trị quốc gia TP - HCM, năm 1996. - Giáo trình “Triết học Mác - Lênin” - Tập II, NXB Chính trị quốc gia, 1997. 2. Tạp chí: - Nghiên cứu trao đổi số 11 tháng 6 năm 1998. - Triết học số 4 (110) - tháng 8 - 1998. - Những vấn đề kinh tế thế giới số 1 (45) năm 1997. - Cộng sản số 4 (2-2000). - Triết học số 2 (96) tháng 4 - 1997. Triết học số 2 (108) tháng 4 - 1999. Triết học số 2 - 2001 Và một số tạp chí khác. Mục lục Trang A. Đặt vấn đề 1 Nội dung 3 I. Quan điểm lịch sử cụ thể 3 1- Cơ sở khách quan của quan điểm lịch sử cụ thể 3 2- Yêu cầu của quan điểm lịch sử cụ thể. 3 3- Tại sao phải vận dụng quan điểm lịch sử vào quá trình xây dựng nền KTTT định hướng xhcn ở Việt Nam. 4 II.Quá trình xây dựng nền KTTT định hướng XHCN dưới góc nhìn của quan điểm lịch sử cụ thể. 5 1-Những điều kiện cụ thể ảnh hưởng đến quá trình xây dựng nền KTTT định hướng XHCN. 5 2- Thực trạng xây dựng nền KTTT 8 III. Một số giải pháp nhằm xây dựng nền KTTT theo định hướng XHCN. 12 Kết luận 14 Tài liệu tham khảo 15 ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docT0602.Doc
Tài liệu liên quan