Quá trình tranh giành ảnh hưởng giữa Nga và Mỹ ở các nước thuộc SNG thời kỳ sau chiến tranh lạnh

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH Đinh Thị Huê LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ Thành phố Hồ Chí Minh - 2009 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH Đinh Thị Huê Chuyên ngành: Lịch sử thế giới Mã số: 60 22 50 LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS - TS. NGUYỄN CẢNH HUỆ Thành phố Hồ Chí Minh - 2009 Lời cảm ơn Luận văn này được hoàn thành tại khoa Lịch sử - Trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh. Tôi x

pdf122 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1882 | Lượt tải: 3download
Tóm tắt tài liệu Quá trình tranh giành ảnh hưởng giữa Nga và Mỹ ở các nước thuộc SNG thời kỳ sau chiến tranh lạnh, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
in bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới PGS – TS Nguyễn Cảnh Huệ đã tận tình giúp đỡ, hướng dẫn tôi trong suốt quá trình xây dựng và hoàn thành luận văn. Tôi cũng xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới các thầy giáo, cô giáo trong khoa Lịch sử, Phòng Khoa học Công nghệ - Sau Đại học thuộc trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh đã nhiệt tình giảng dạy, đóng góp những ý kiến quý báu trong suốt quá trình tôi hoàn thiện luận văn. Cuối cùng, tôi xin gửi lời cảm ơn tới Ban giám hiệu, các thầy cô và bạn bè đồng nghiệp trường Cao đẳng Sư phạm Đồng Nai cùng gia đình đã tạo điều kiện và giúp đỡ tôi trong suốt quá trình học và hoàn thành luận văn này. Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 5 tháng 10 năm 2009 Đinh Thị Huê MỤC LỤC Trang phụ bìa Lời cảm ơn Mục lục Danh mục các chữ viết tắt MỞ ĐẦU ................................................................................................................ 1 Chương 1:CÁC NƯỚC THUỘC SNG TRONG CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI CỦA NGA VÀ MỸ ............................................................................... 9 1.1. Khái quát về các nước thuộc SNG .............................................................. 9 1.1.1. Vị trí địa – chính trị............................................................................. 9 1.1.2. Tiềm năng kinh tế ............................................................................. 12 1.2.Các nước thuộc SNG trong chính sách đối ngoại của Nga và Mỹ............. 14 1.2.1.Các nước thuộc SNG trong chính sách đối ngoại của Nga................. 14 1.2.2.Các nước thuộc SNG trong chính sách đối ngoại của Mỹ.................. 22 Chương 2: QUÁ TRÌNH TRANH GIÀNH ẢNH HƯỞNG GIỮA NGA VÀ MỸ Ở CÁC NƯỚC THUỘC SNG SAU CHIẾN TRANH LẠNH .................................................................................................. 28 2.1. Vấn đề dầu mỏ, khí đốt ............................................................................ 28 2.2. Cách mạng màu sắc................................................................................... 39 2.3. Vấn đề mở rộng NATO sang phía Đông................................................... 53 2.4. Vấn đề Chesnhia........................................................................................ 61 2.5. Vấn đề Nam Osettia .................................................................................. 68 Chương 3: NHẬN XÉT VỀ QUÁ TRÌNH TRANH GIÀNH ẢNH HƯỞNG GIỮA NGA VÀ MỸ Ở CÁC NƯỚC THUỘC SNG VÀ TRIỂN VỌNG CỦA VẤN ĐỀ.............................................. 79 3.1. Nhận xét về quá trình tranh giành ảnh hưởng giữa Nga và Mỹ ở các nước thuộc SNG...................................................................................................... 79 3.2. Triển vọng của vấn đề ............................................................................... 86 KẾT LUẬN.......................................................................................................... 95 PHỤ LỤC............................................................................................................. 99 TÀI LIỆU THAM KHẢO................................................................................ 111 DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT EPP (Easternt Partnership Program): Chương trình đối tác phương Đông EU (Europe Union): Liên minh châu Âu G8 (Group 8): Tổ chức các nước phát triển IAEA (International Atomic Energy Agency): Cơ quan năng lượng nguyên tử quốc tế NATO (North Atlantic Treaty Organization): Hiệp ước quân sự Bắc Đại Tây Dương NGOs (Non – Government Organization): Tổ chức phi chính phủ OPEC (Organization Petrol Export Country): Tổ chức các nước xuất khẩu dầu mỏ OSCE (Organization Security Cooperation Europe): Tổ chức an ninh và hợp tác châu Âu PACE (Europen Parliament Subcommitee): Uỷ ban Nghị viện châu Âu SCO (Shanghai Convention Organization): Tổ chức Hiệp ước Thượng Hải SNG/CIS (Commonwealth of Independent States): Cộng đồng các quốc gia độc lập TBCN: Tư bản chủ nghĩa XHCN: Xã hội chủ nghĩa 1 MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Trong lịch sử quan hệ quốc tế từ cổ đại đến hiện đại, mối quan hệ giữa các nước lớn luôn là mối quan hệ chi phối cục diện thế giới, ảnh hưởng đến tình hình chính trị quốc tế. Trong thời kỳ Chiến tranh lạnh (1947-1991), trật tự thế giới hai cực Xô-Mỹ luôn đặt thế giới trong tình trạng chiến tranh. Cuối thập niên 80 của thế kỷ XX, Chiến tranh lạnh kết thúc, tiếp theo đó là sự tan vỡ của Liên Xô – thành trì của Chủ nghĩa xã hội trên thế giới – đã đưa đến sự thay đổi lớn lao trong cục diện thế giới. Trật tự thế giới theo thể chế hai cực Yalta không còn tồn tại nữa, nhường chỗ cho một trật tự thế giới mới đang dần được hình thành. Trật tự thế giới trong tương lai được dự đoán sẽ phát triển theo xu hướng đa cực hóa, cùng tồn tại và phát triển, song cũng có những mâu thuẫn hết sức gay gắt, quyết liệt giữa các nước, các khu vực với nhau. Mỗi dân tộc đều vì lợi ích của dân tộc mình cạnh tranh gay gắt với nhau để đạt được một địa vị thích hợp trong cục diện thế giới tương lai. Là hai nước lớn trên thế giới, Nga và Mỹ cũng không nằm ngoài xu thế phát triển đó. Mỹ – siêu cường số một thế giới, ngày càng tìm cách mở rộng phạm vi ảnh hưởng của mình tới mọi khu vực trên thế giới nhằm khẳng định hơn nữa vai trò của mình đối với thế giới. Trong những khu vực Mỹ hướng tới, vùng lãnh thổ thuộc Cộng đồng các Quốc gia độc lập (SNG) là nơi Mỹ đặt ưu tiên khá lớn nhằm tranh giành ảnh hưởng với Nga. Nước Nga – tuy nằm trong hoàn cảnh bất ổn về kinh tế và chính trị từ sau sự sụp đổ của Liên Xô, song vẫn là một cường quốc về quân sự và có tiềm lực mạnh về kinh tế. Với tham vọng khôi phục lại địa vị trên trường quốc tế của Liên Xô trước đây, Nga cũng tăng cường mở rộng phạm vi ảnh hưởng ra các khu vực trên thế giới, thiết lập các mối quan hệ rộng rãi, có lợi cho mình trong quan hệ quốc tế. 2 Trong suốt thời kỳ Chiến tranh lạnh, quan hệ giữa hai cường quốc Liên Xô và Mỹ là quan hệ đối đầu căng thẳng với liên tiếp những cuộc chạy đua vũ trang. Cũng trong thời kỳ này, vùng ảnh hưởng của mỗi nước được phân chia rõ ràng và là vùng “bất khả xâm phạm” của đối phương. Liên Xô tạo ảnh hưởng mạnh mẽ đối với Đông Âu, các nước XHCN và đặc biệt ở các nước Cộng hòa thuộc Liên bang Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Xô viết. Ngược lại, Mỹ có ảnh hưởng tại Tây Âu và các nước TBCN khác. Sau khi Liên Xô tan rã, các nước Cộng hòa trong Liên bang Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Xô viết lần lượt tách ra khỏi Liên Xô và tuyên bố độc lập. Mười hai trong số mười lăm nước tập hợp lại trong Cộng đồng các quốc gia độc lập (SNG), trừ ba nước Baltic. Mặc dù tuyên bố độc lập nhưng tình hình ở các nước này luôn bất ổn về chính trị, yếu kém về kinh tế. Trong hoàn cảnh nước Nga chưa thoát khỏi khủng hoảng, vùng này trở thành một “khoảng trống quyền lực”. Mỹ muốn tạo ảnh hưởng của mình lên khu vực này để kiềm chế Nga, tiến sát biên giới Nga. Do đó, Mỹ muốn giữ được địa vị cũ cần có sự điều chỉnh đường lối đối ngoại, tăng cường chính sách ngoại giao với các nước, tăng cường ảnh hưởng của mình đối với các khu vực trên thế giới. Nước Nga không từ bỏ tham vọng trở thành một trong những cực quan trọng của cục diện thế giới tương lai, điều này càng được biểu hiện rõ rệt dưới thời Tổng thống V.Putin. Khu vực thuộc lãnh thổ các nước SNG (bao gồm mười hai nước Cộng hòa thuộc Liên Xô cũ) hiện nay đang phải đối mặt với nhiều vấn đề như xung đột sắc tộc, bất ổn về chính trị, sự lạc hậu về kinh tế, đặc biệt là thiếu nguồn vốn để khai thác có hiệu quả các nguồn tài nguyên vô cùng giàu có. Để giải quyết được những vấn đề trên, bên cạnh nội lực bản thân, các nước này cần dựa vào sự giúp đỡ từ bên ngoài. Lợi dụng tình hình đó, các nước lớn không ngừng can thiệp để tìm kiếm lợi ích trên tất cả các mặt. 3 Tranh giành ảnh hưởng Nga - Mỹ ở khu vực thuộc lãnh thổ các nước SNG thời kỳ sau Chiến tranh lạnh là một vấn đề mang tính thời sự, có tính thực tiễn cao. Đây là một nội dung mới trong lịch sử quan hệ quốc tế hiện đại, chưa được đề cập nhiều trong các giáo trình, tài liệu chuyên khảo. Tìm hiểu quá trình tranh giành ảnh hưởng Nga – Mỹ ở vùng lãnh thổ thuộc các nước SNG thời kỳ sau Chiến tranh lạnh góp phần bổ sung nguồn kiến thức về quan hệ quốc tế nói chung và quan hệ quốc tế hiện đại nói riêng, phục vụ cho công tác nghiên cứu khoa học và công tác giảng dạy. Với những lý do trên, chúng tôi chọn đề tài “Quá trình tranh giành ảnh hưởng giữa Nga và Mỹ ở các nước thuộc SNG thời kỳ sau Chiến tranh lạnh” làm đề tài luận văn tốt nghiệp cao học. Trong khuôn khổ có hạn của luận văn và giới hạn nhận thức chủ quan, chúng tôi chỉ mong muốn bước đầu tìm hiểu một cách có hệ thống cuộc tranh chấp giữa hai nước lớn Nga và Mỹ ở vùng lãnh thổ thuộc các nước SNG thời kỳ từ sau Chiến tranh lạnh đến nay. 2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề “Quá trình tranh giành ảnh hưởng giữa Nga và Mỹ ở các nước thuộc SNG thời kỳ sau Chiến tranh lạnh” là vấn đề mang tính thời sự, chưa có công trình nghiên cứu nào đề cập một cách trọn vẹn vấn đề này. Trong các bài viết trên các tạp chí chuyên ngành và trong các cuốn sách về chính sách đối ngoại, quan hệ quốc tế của Nga và Mỹ có phân tích về quá trình tranh chấp ảnh hưởng giữa hai nước ở khu vực này. Hầu hết những tác phẩm và bài viết chủ yếu tìm hiểu từng mảng thời gian hoặc không gian cụ thể, hay phân tích chính sách của Nga và Mỹ đối với tùng khu vực hoặc trong một khoảng thời gian nhất định. Một nhóm tác giả thuộc Viện nghiên cứu Châu Âu trong cuốn “Cộng đồng các Quốc gia độc lập – quá trình hình thành và phát triển” do Nhà xuất bản Khoa học Xã hội ấn hành năm 2007 (Nguyễn Quang Thuấn chủ biên) đã 4 phân tích bối cảnh ra đời, quá trình phát triển và triển vọng của các nước SNG. Có thể nói, đây là công trình nghiên cứu mang tính toàn diện về sự phát triển của Cộng đồng các Quốc gia độc lập. Các tác giả nhấn mạnh vai trò của Nga đối với tổ chức này. Ngược lại, các nước SNG cũng là ưu tiên số một trong chính sách đối ngoại của Nga bởi vị trí địa – chính trị và nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú ở một số nước thuộc Cộng đồng. Trong cuốn sách có đề cập cuộc tranh giành ảnh hưởng Nga – Mỹ ở các nước này tuy chưa tập trung. Tuy nhiên, vấn đề này mới được đề cập rải rác trong từng chương, từng mục của cuốn sách. “Bàn cờ lớn” là công trình nổi tiếng của học giả, chính trị gia Zbigniew Brzezinski. Cuốn sách tập trung phân tích, đánh giá tình hình thế giới sau khi Liên Xô sụp đổ, về sự phân bố địa bàn chính trị thế giới, đặc biệt là “bàn cờ Âu – Á”, đồng thời đề cao vai trò lãnh đạo thế giới của Mỹ ở hiện tại và cả trong tương lai. Tác giả khẳng định: “Sự sụp đổ của đế quốc Nga đã tạo ra một khoảng trống về quyền lực ngay ở trung tâm lục địa Âu – Á”, “lục địa Âu – Á là một bàn cờ lớn, ở đấy ván cờ đấu tranh giành vị thế đứng đầu toàn cầu vẫn tiếp tục được chơi”. Tuy nhiên, là một người có tư tưởng chống cộng khét tiếng, Z.Brzezinski không thể tránh khỏi cái nhìn phiến diện khi nhìn nhận nhiều vấn đề. Chính trị gia nổi tiếng này cố tình không nhìn thấy xu thế phát triển của thế giới là đa cực hóa. Mọi cuộc tranh chấp ảnh hưởng của các nước lớn ở các khu vực, trong đó có tranh giành ảnh hưởng Nga – Mỹ ở vùng lãnh thổ thuộc các nước SNG đều chịu tác động của nhiều yếu tố khách quan và chủ quan, do đó Mỹ không dễ dàng đạt được mục đích. Tác giả Đỗ Thanh Hải trên tạp chí Châu Mỹ ngày nay số 7-8/2005 có bài viết “Cạnh tranh ảnh hưởng Nga – Mỹ ở Trung Á và Cápcadơ sau sự kiện 11/9”. Bài viết tập trung phân tích những điều chỉnh chính sách của Nga và Mỹ đối với Trung Á và Cápcadơ sau sự kiện 11/9, trên cơ sở đó đánh giá và 5 dự báo về quá trình cạnh tranh ảnh hưởng giữa hai nước ở khu vực này. Do khuôn khổ hạn hẹp của một bài báo nên các sự kiện trước 11/9 và những khu vực khác thuộc không gian hậu Xô viết (Baltic) chưa được phân tích sâu sắc. Trong các công trình nghiên cứu về mối quan hệ Nga – Mỹ từ sau Chiến tranh lạnh đến nay phải kể đến công trình “Quan hệ Nga – Mỹ sau Chiến tranh lạnh” của tác giả Hà Mỹ Hương. Sau khi khái quát lại quan hệ Xô – Mỹ trong Chiến tranh lạnh và những tiền đề của quan hệ hợp tác Nga – Mỹ sau Chiến tranh lạnh, tác giả phân tích sự điều chỉnh chính sách đối ngoại của mỗi nước sau khi Chiến tranh lạnh kết thúc. Đường lối đối ngoại của nước Nga dưới thời Tổng thống B.Yeltsin lấy “định hướng Đại Tây Dương” và sau đó là “định hướng Á – Âu” làm trọng tâm. Bước sang thời kỳ V.Putin, lợi ích dân tộc được đặt lên hàng đầu, các nước thuộc Liên Xô cũ là ưu tiên số một trong chính sách đối ngoại. Nước Mỹ trong gian đoạn đầu sau Chiến tranh lạnh, Tổng thống B.Clinton thực hiện chính sách “Cam kết và mở rộng” (Engagement and Enlargement) nhằm mở rộng mô hình Mỹ ra toàn thế giới. Bước sang giai đoạn G. Bush, trước những thay đổi mau lẹ của tình hình thế giới và trong lòng nước Mỹ sau sự kiện 11/9, vị Tổng thống của phái Diều hâu đưa ra chiến lược “đánh đòn phủ đầu”, tấn công vào những nơi mà Mỹ cho là có thể tấn công hoặc đe dọa nước Mỹ. Trên cơ sở phân tích sự điều chỉnh đường lối đối ngoại của hai nước sau Chiến tranh lạnh, tác giả tìm hiểu quan hệ Nga – Mỹ trên các lĩnh vực chính trị - an ninh, kinh tế - thương mại, khoa học – công nghệ. Trong lĩnh vực chính trị - an ninh, hai nước đã có sự hợp tác để giải quyết nhiều vấn đề quốc tế: vấn đề hạt nhân trên bán đảo Triều Tiên, vấn đề hòa giải ở Trung Đông…. Bên cạnh sự hợp tác kể trên, Nga và Mỹ vẫn có những bất đồng chưa thể giải quyết được, trong số đó có khu vực thuộc các nước Liên Xô cũ. Ở đây, hai nước không thể dung hòa lợi ích của nhau. Mỹ lo sợ Nga sẽ nắm 6 lấy khu vực này làm đối trọng với mình; trong khi Nga coi đây là vùng ảnh hưởng truyền thống của Nga. Mặc dù có đề cập đến vấn đề các nước SNG và Baltic trong quan hệ Nga – Mỹ, cuốn sách chưa dẫn ra nhiều sự kiện chứng minh một cách thuyết phục cho sự tranh chấp của Nga và Mỹ ở khu vực này. Dù vậy, công trình này là sự gợi ý cho chúng tôi trong khi tìm hiểu vấn đề và là một tài liệu tham khảo quan trọng. Năm 2001, sự kiện nước Mỹ bị tấn công làm bàng hoàng nhân dân Mỹ và thế giới. Tổng thống V.Putin là nguyên thủ quốc gia nước ngoài đầu tiên gọi điện chia sẻ với Tổng thống và nhân dân Mỹ. Hàng loạt các báo lớn trên thế giới không bỏ lỡ cơ hội, nhanh chóng có những bài viết phân tích mối quan hệ Nga – Mỹ trong hoàn cảnh mới. Tác giả Nguyễn Đình Lập đã tổng hợp những bài viết đó trong cuốn “Quan hệ Nga – Mỹ: vừa là đối tác, vừa là đối thủ”. Cuốn sách phân tích mối quan hệ Nga – Mỹ trên cơ sở lợi ích và toan tính chiến lược riêng của mỗi quốc gia. Trong cuốn sách có dành một phần nói về tranh giành ảnh hưởng Nga – Mỹ ở Trung Á và Cápcadơ. Do tập trung vào những biến cố từ sự kiện 11/9 trở về sau nên thập kỷ 90 của thế kỷ XX chưa được tác giả đề cập tới và các khu vực khác của không gian hậu Xô viết cũng bị bỏ ngõ. 3. Giới hạn đề tài Chúng tôi không có tham vọng tìm hiểu tất cả mọi cuộc tranh chấp ảnh hưởng Nga – Mỹ ở tất cả các khu vực trên thế giới. Tên gọi của đề tài chứa đựng giới hạn của vấn đề chúng tôi cần giải quyết. Về thời gian, đề tài chỉ giới hạn trong những sự kiện xảy ra từ khi Chiến tranh lạnh kết thúc đến nay. Những sự kiện trước thập niên 90 của thế kỷ XX được xem là dẫn nhập của vấn đề. Về không gian, đề tài giới hạn trong “vùng lãnh thổ thuộc các nước SNG” – những nước thuộc Liên bang Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Xô viết. 7 Liên bang Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Xô viết bao gồm mười lăm nước, trong số đó, mười hai quốc gia đã tập hợp lại trong Cộng đồng các Quốc gia độc lập (SNG), còn lại ba nước Baltic (Latvia, Litva, Estonia). Nga cũng là một thành phần trong SNG. Tuy nhiên, trong luận văn chúng tôi coi Nga là một chủ thể của cuộc tranh giành ảnh hưởng, do đó SNG chỉ giới hạn trong mười một nước còn lại. 4. Phương pháp nghiên cứu Về mặt phương pháp luận, trong suốt quá trình nghiên cứu, chúng tôi đứng trên quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh để phân tích, nhìn nhận và đánh giá vấn đề. Phương pháp lịch sử và phương pháp logic là hai phương pháp được chúng tôi sử dụng chủ yếu trong suốt quá trình thực hiện luận văn. Phương pháp lịch sử được sử dụng nhằm tái hiện lại bức tranh sinh động của quá trình tranh giành ảnh hưởng giữa Nga và Mỹ ở khu vực thuộc các nước Liên Xô cũ sau Chiến tranh lạnh. Tranh chấp giữa hai nước diễn ra trên các lĩnh vực kinh tế, an ninh – chính trị, quân sự. Trên cở sở bức tranh sinh động ấy, chúng tôi sử dụng phương pháp logic để rút ra bản chất của vấn đề. Thực chất của tranh chấp Nga – Mỹ ở khu vực này là tranh giành bá quyền ở “khoảng trống quyền lực”, là muốn tìm kiếm lợi ích của mỗi nước, quyền lợi của mười một nước còn lại hầu như không được tôn trọng. Chúng tôi cũng sử dụng phương pháp nghiên cứu quan hệ quốc tế nhằm làm rõ những nhân tố quốc tế chi phối đến quá trình tranh giành ảnh hưởng của Nga và Mỹ trên địa bàn SNG. 5. Đóng góp của luận văn Luận văn góp phần dựng lại quá trình tranh giành ảnh hưởng giữa Nga và Mỹ ở vùng lãnh thổ thuộc các nước SNG thời kỳ sau Chiến tranh lạnh. 8 Trên cơ sở đó, chúng tôi rút ra một số nhận xét về quá trình này và những vấn đề có tính chất lý luận. Không dừng lại ở đó, chúng tôi cũng dự báo triển vọng của vấn đề, những kịch bản có thể xảy ra trong quá trình tranh giành ảnh hưởng giữa Nga và Mỹ ở vùng lãnh thổ thuộc các nước SNG. Bên cạnh những đóng góp trên, tư liệu và kết quả nghiên cứu của luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho phần lịch sử quan hệ quốc tế trong giảng dạy và nghiên cứu. 6. Bố cục của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục, tài liệu tham khảo, luận văn gồm 3 chương: Chương I: Các nước thuộc SNG trong chính sách đối ngoại của Nga và Mỹ. Chương II: Quá trình tranh giành ảnh hưởng giữa Nga và Mỹ ở các nước thuộc SNG thời kỳ sau Chiến tranh lạnh. Chương III: Nhận xét về quá trình tranh giành ảnh hưởng giữa Nga và Mỹ ở các nước thuộc SNG và triển vọng của vấn đề. 9 Chương 1. CÁC NƯỚC THUỘC SNG TRONG CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI CỦA NGA VÀ MỸ 1.1 Khái quát về các nước thuộc SNG 1.1.1 Vị trí địa – chính trị Cộng đồng các quốc gia độc lập (SNG/CIS) là sản phẩm trực tiếp từ sự sụp đổ của Liên Xô. Đây là tổ chức hợp tác của 12 trong số 15 nước Cộng hoà thuộc Liên bang Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Xô viết. Cộng đồng các quốc gia độc lập ra đời trong bối cảnh quốc tế hết sức đặc biệt, đó là sự sụp đổ của các nước XHCN ở Liên Xô, Đông Âu. Vào những năm cuối thập niên 80, đầu thập niên 90 của thế kỷ XX, nhân loại chứng kiến một sự kiện “làm rung chuyển thế giới” - sự sụp đổ của hệ thống XHCN. Vào thời gian này, do sự khủng hoảng kinh tế, chính trị sâu sắc, Liên Xô tiến hành công cuộc cải tổ nhằm đưa đất nước thoát khỏi khủng hoảng nhưng trên thực tế tình hình không được giải quyết, ngược lại khủng hoảng còn trầm trọng hơn. Năm 1991, những mâu thuẫn kinh tế và chính trị lên đến đỉnh cao và cuối cùng chế độ Xô viết hoàn toàn sụp đổ sau cuộc đảo chính ngày 19 – 8 – 1991. Ngày 8 – 12 – 1991, Tổng thống ba nước Nga, Ucraina, Belarus ra tuyên bố chung, trong đó nêu rõ Liên bang Xô viết không còn tồn tại nữa và quyết định thành lập một hình thức liên minh mới gọi là Cộng đồng các quốc gia độc lập (SNG). Hiệp ước đã xác nhận: “Liên bang Xô viết như một chủ thể pháp lý và địa chính trị quốc tế đã hoàn toàn kết thúc sự tồn tại của mình” [10, tr12]. Tám nước còn lại tuyên bố tham gia SNG. Ngày 21 – 12 – 1991, tại thủ đô Alma Ata (Kazakhstan), 11 nước Cộng hoà ký kết Hiệp định về giải tán Liên bang Xô viết, chính thức thành lập Cộng đồng các quốc gia độc lập. Toàn bộ lãnh thổ của các quốc gia thuộc SNG nằm gọn trong diện tích Liên bang Xô viết trước kia. Về vị trí địa lý, hầu hết các nước này đều nằm ở 10 phía Tây và có đường biên giới chung với nước Nga, tạo thành một hành lang bảo vệ biên giới phía Tây cho nước Nga. Diện tích của 11 nước trong SNG (không bao gồm Nga) khoảng 5.025.500 km2 với dân số khoảng 300 triệu người. Các nước SNG có vị trí ở phía đông châu Âu và phía Tây Nam châu Á. Có thể chia các nước SNG thành các tiểu khu vực: Trung Á (bao gồm các nước Uzbekistan, Cazakhstan, Kyrgyzstan, Turmenistan, Tagikistan), ngoại Kavkaz (gồm Grudia, Azecbaizan, Armenia) và các nước phía Tây (Ucraina, Belarus, Moldova). Địa hình của khu vực thuộc các nước SNG nhìn chung rất đa dạng, nhưng kiểu địa hình chủ yếu là đồi núi. Do vị trí tiếp giáp với cả hai châu lục nên đây là khu vực gây được sự chú ý của các nước lớn. SNG là con đường thông ra phía Tây của nước Nga để sang châu Âu. Các nước SNG còn là hành lang bảo vệ an ninh cho Nga khi NATO đang bành trướng về phía Đông. Từ các nước SNG, Nga có thể kiểm soát được con đường tiến xuống Nam Á, xuống vùng Ấn Độ Dương, ngăn chặn các thế lực tôn giáo cực đoan tiến vào nước Nga. Do từ thời Liên Xô, đặc biệt là dưới thời Stalin đã thực hiện chiến lược di dân, đưa người Nga đến các khu vực này định cư, do đó hiện nay ở các nước này vẫn còn rất nhiều người gốc Nga sinh sống nên chính quyền Nga cần bảo vệ quyền lợi của người Nga. SNG là khu vực ảnh hưởng truyền thống của Nga, do đó bảo vệ ảnh hưởng ở khu vực cũng chính là bảo vệ uy tín, chủ quyền và thể diện nước Nga trên trường quốc tế. Tổng thống Nga V.Putin từng tuyên bố ưu tiên số một trong chính sách đối ngoại của Nga là bảo vệ người Nga và quyền lợi nước Nga. Trong số các nước SNG, Ucraina là nước lớn thứ hai sau Nga về địa vị chiến lược và tiềm năng kinh tế, có tầm quan trọng bậc nhất đối với Nga. Vào giữa thế kỷ XVII, Ucraina tự nguyện gia nhập vào nước Nga Sa hoàng, nhờ đó thế lực của nước Nga lớn mạnh lên đáng kể. Sự kiện Ucraina tuyên bố tách 11 khỏi Liên bang Xô viết là một đòn giáng nặng nề đối với Liên Xô và là sự kiện góp phần quan trọng vào sự sụp đổ của thể chế XHCN. Hiện nay, trên lãnh thổ Ucraina còn lại rất nhiều vũ khí hạt nhân từ thời Liên Xô. Phần lớn chúng đều đã hết hạn bảo quản và Ucraina không có kinh phí để duy trì. Nếu những kho vũ khí này rơi vào tay bọn khủng bố thì an ninh của thế giới nói chung, của Ucraina và các nước SNG bị đe dọa nghiêm trọng. Bên cạnh đó, về mặt chính trị, Ucraina không muốn duy trì tổ chức SNG trong khi Nga thì ngược lại. Ucraina coi SNG là công cụ để Nga áp đặt ảnh hưởng đối với các nước Cộng hòa thuộc Liên Xô trước đây. Với những ý nghĩa trên, SNG là khu vực “bất khả xâm phạm” của Nga. Đối với Mỹ, mục tiêu lâu dài và xuyên suốt của các nhiệm kỳ Tổng thống Mỹ kể từ sau Chiến tranh thế giới đến nay là thiết lập trật tự thế giới do Mỹ lãnh đạo, kiềm chế sự nổi lên của các cường quốc khác đe dọa vị thế của Mỹ. Xét về địa – chiến lược, châu Âu án ngữ vị trí trọng yếu trên thế giới. Nằm cạnh dòng hải lưu Bắc Đại Tây Dương, châu Âu có lợi thế trong việc sử dụng và kiểm soát các tuyến giao thông huyết mạch trên Đại Tây Dương để sang Bắc và Nam Mỹ. Sau đó, qua kênh đào Sue, các nước châu Âu có thể đến được vùng vịnh Persique, Nam Á và Đông Nam Á trên những tuyến đường biển ngắn nhất. Đồng thời, từ châu Âu cũng có thể đến vùng Kavkaz, Trung Á, Viễn Đông bằng đường bộ. Do mối quan hệ chặt chẽ giữa châu Âu với Mỹ nên mọi biến cố quan trọng ở châu Âu trên tất cả các lĩnh vực luôn có ảnh hưởng nhất định đối với Hoa Kỳ. Đối với nước Nga, các chính quyền kế tiếp nhau của Mỹ nhận thấy đây là một “thế lực” có nhiều khả năng đe dọa thế lực của Mỹ trong tương lai. Để kiềm chế Nga, một trong những biện pháp có tính khả quan là thu hẹp ảnh hưởng của nước này ở những khu vực truyền thống, SNG là một khu vực như vậy. Nếu SNG có ý nghĩa sống còn với Nga thì với Mỹ, khu vực này cũng có tầm quan trọng đáng phải quan tâm. 12 Z.Brzezinski – nguyên trợ lý an ninh quốc gia của Tổng thống Mỹ đã gọi khu vực “hậu Xô viết” này là “Balkan Âu – Á”, là bàn cờ lớn trong ván cờ địa – chính trị của Mỹ ở đại lục địa Á – Âu. Nếu kiểm soát được khu vực này, Mỹ không những sẽ có điều kiện để khống chế hai lục địa Á – Âu, kiềm chế Nga ở phía tây và phía bắc, mà còn kiểm soát được Ấn Độ ở phía nam, kiểm soát được Trung Quốc ở phía đông và kiểm soát được châu Âu ở phía tây. Bên cạnh đó, nếu tiếp cận được khu vực này, Mỹ coi như đã đặt chân được vào “sân sau” của Nga, từ đó có những can thiệp vào Nga khi cần thiết. 1.1.2 Tiềm năng kinh tế SNG là một trong những khu vực giàu tài nguyên vào loại bậc nhất của thế giới. Không chỉ có tài nguyên trên mặt đất, trong lòng đất của các nước thuộc khu vực này cũng rất phong phú tài nguyên. Có thể kể đến một số loại tài nguyên như than đá, vàng, đồng, kẽm, nhôm…, trong đó dầu mỏ, khí đốt là nguồn tài nguyên chiếm vị trí số một. Tuy nhiên, do những bất ổn về chính trị và sự yếu kém về kinh tế nên những loại tài nguyên này chưa được khai thác đúng tiềm năng. Các nước lớn rất muốn tham gia vào quá trình thăm dò, khai thác các nguồn tài nguyên của khu vực này. Không chỉ giàu có về tài nguyên, các nước SNG còn là thị trường nhiều tiềm năng. Hầu hết các nước này đều mới tuyên bố giành độc lập, đang trong thời kỳ chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường, vì vậy họ rất cần những nguồn vốn đầu tư từ bên ngoài để một mặt tạo đà cho phát triển kinh tế, mặt khác ngày càng bớt phụ thuộc vào Nga hơn. Hiện nay, trong nội bộ các nước SNG đang diễn ra quá trình tái liên kết kinh tế giữa các nước thành viên nhằm khôi phục những quan hệ kinh tế và thương mại, củng cố quan hệ hữu nghị anh em giữa các nước thành viên. Tuy nhiên, quá trình này diễn ra không dễ dàng như mong đợi của các nước SNG. Có thể kể đến một số nguyên nhân của nó như chưa có cơ cấu liên kết mang tính chính trị hiệu quả, chất lượng của các sản 13 phẩm xuất khẩu rất thấp dẫn đến khả năng cạnh tranh kém do công nghiệp lạc hậu và thiết bị máy móc cũ kỹ…..Vì vậy, bên cạnh sự giúp đỡ lẫn nhau của các nước trong khu vực, SNG rất cần có sự hỗ trợ từ bên ngoài, đặc biệt là từ các nền kinh tế mạnh. Đây là một cơ hội lớn cho Mỹ đặt chân vào khu vực SNG trong lĩnh vực kinh tế. Đối với Nga, mậu dịch giữa Nga và SNG luôn chiếm tỉ trọng cao trong cán cân ngoại thương giữa hai bên. Trong kim ngạch ngoại thương của Nga, các nước SNG chiếm 23%. Nga chiếm tới 70% xuất nhập khẩu của SNG. Trong năm 1998, tổng giá trị trao đổi thương mại của các nước SNG xuất khẩu vào Nga là 51,7% còn nhập khẩu từ Nga là 38,8%. Mặt khác, đối với một số nước SNG, thị trường Liên bang Nga không chỉ hấp dẫn mà đôi khi là duy nhất cho việc xuất nhập khẩu các sản phảm công nông nghiệp, nguyên liệu thô và vật liệu. Số liệu ngoại thương của các nước cho thấy, tỉ trọng của Nga đối với xuất khẩu của Belarus năm 1998 là 64,9%, còn đối với tổng xuất khẩu của các nước SNG là 89,2%, những chỉ số này của Moldova tương ứng là 53,3% và 78,5%, Kazakhstan là 28,9% và 73,5%, với Ucraina là 23,1% và 69,2% (13, tr34). Một tài nguyên mà thiên nhiên ban tặng cho khu vực này là “vàng đen”. Khu vực Trung Á được đánh giá có trữ lượng dầu khí lớn hơn cả Cowet, vùng vịnh Mehico và Biển Bắc. Nước Nga cũng là nước có trữ lượng dầu mỏ và khí đốt lớn vào loại bậc nhất trên thế giới. Tuy nhiên, để khí đốt Nga đến được với thị trường thế giới, các hệ thống đường ống dẫn dầu của Nga đều phải đi qua các nước SNG để tới cảng Novorosik trên biển Đen trước khi xuất khẩu trên thị trường châu Âu và thế giới là con đường ngắn nhất. Mỹ hiện nay chiếm 1/4 nhu cầu tiêu thụ dầu thô trên thế giới, do đó Mỹ không thể bỏ qua khu vực giàu tài nguyên dầu mỏ này. Nền kinh tế Mỹ phát triển nhanh nhưng phụ thuộc quá nhiều vào nguồn năng lượng từ bên ngoài. 14 Trong tương lai gần, khi các nguồn năng lượng thay thế dầu mỏ chưa được đưa vào sử dụng rộng rãi, chưa đóng vai trò chủ đạo đối với nền kinh tế Mỹ thì khu vực SNG vẫn còn là một trong những mục tiêu chủ đạo mà chính sách đối ngoại của Mỹ không thể không chú ý tới. 1.2. Các nước thuộc SNG trong chính sách đối ngoại của Nga và Mỹ 1.2.1 Các nước thuộc SNG trong chính sách đối ngoại của Nga Liên bang Xô viết tan rã, nước Nga được quốc tế công nhận kế tục vai trò của Liên Xô trên trường quốc tế, được thừa hưởng một thực lực quân sự to lớn. Tuy nhiên điều này cũng không giúp Nga thoát khỏi khủng hoảng toàn diện về kinh tế, chính trị, xã hội… Trong khi đó, nước Nga phải “thừa kế” một khoản nợ lớn do Liên Xô trước đây để lại (khoảng 103 tỉ USD). Nền kinh tế trong nước suy sụp, nợ nước ngoài thúc ép, Nga không còn cách nào khác là trông chờ vào sự giúp đỡ to lớn về kinh tế ở bên ngoài với hi vọng đưa đất nước thoát khỏi tình trạng trên. Mỹ và các nước phương Tây được Nga coi là chỗ dựa của mình trong việc đưa nền kinh tế Nga thoát khỏi khủng hoảng. Do đó, trên lĩnh vực tư tưởng, nước Nga tuyên bố hoàn toàn đoạn tuyệt với Liên Xô, lựa chọn bạn đồng minh trên cơ sở cùng có lợi. Giới lãnh đạo Nga cho rằng các nước dân chủ phương Tây có nền kinh tế thị trường là những “đồng minh” của Nga. Một đường lối đối ngoại do Bộ trưởng Ngoại giao Nga lúc đó là Kozyrev vạch ra và được Tổng thống Yeltsin chấp nhận “tự nguyện ngả theo phương Tây”. Mục tiêu hàng đầu của đường lối đối ngoại mới là Nga phải được tham gia khu vực thịnh vượng chung Tây Âu, chuyển từ nền chính trị XHCN sang nền chính trị dân chủ theo kiểu Tây Âu và khôi phục lại nền kinh tế. Hai mục tiêu trên chi phối toàn bộ chính sách đối ngoại của Nga trong những năm 1991 – 1993. Trong chính sách đối ngoại mới, nước Nga tự coi mình là một thành viên của Tây Âu và mong muốn hoàn toàn đứng vào thế giới của các nước phương Tây. Do đó những chính sách của Nga hoàn toàn lệ 15 thuộc vào Mỹ với hi vọng điều này sẽ giúp Nga gia nhập vào xã hội phương Tây và các cơ cấu kinh tế thế giới. Nga đặt toàn bộ hi vọng và._.o liên minh chiến lược với Mỹ (sau này được thay đổi bằng sự hợp tác chiến lược). Nga tự nguyện phụ thuộc vào Mỹ và các nước phương Tây để đổi lấy sự trợ giúp kinh tế, đầu tư và hiện đại hóa công nghệ cho Nga. Chính sách đối ngoại của Nga ở thời kỳ này nêu ra rằng, Nga cần phải đi theo con đường Đức, Nhật – tạm thời phụ thuộc vào Mỹ và các nước phương Tây để khôi phục lại nền kinh tế, tạm thời từ bỏ chính sách đối ngoại độc lập để hòa nhập với Mỹ và thế giới phương Tây. Do vậy, Nga cho rằng việc Nga gia nhập NATO và khối thị trường chung châu Âu là hoàn toàn phù hợp. Ngày 20 – 12 – 1992, Tổng thống Nga B.Yeltsin đã đưa ra vấn đề Nga muốn gia nhập NATO như là một “mục tiêu chính trị lâu dài”. Nhằm thúc đẩy Nga có thể nhanh chóng hòa nhập vào thế giới Tư bản chủ nghĩa, Bộ trưởng bộ Ngoại giao Nga kêu gọi cần phải thay đổi thái độ với thế giới này, cần phải công nhận Mỹ đóng một vai trò tích cực trong thế giới hiện tại và việc duy trì sự có mặt quân sự của Mỹ ở các nước thuộc thế giới thứ ba có thể là một nhân tố cân bằng. Để nhận được sự giúp đỡ về kinh tế của Mỹ và phương Tây, Nga đã phải đơn phương thực hiện nhiều đòi hỏi, yêu cầu của các nước này, trong đó có nhiều yêu cầu không phù hợp với tình hình nước Nga. Nga phải chấp nhận từ bỏ quyền lợi của mình ở các nước thuộc Liên Xô cũ, Đông Âu. Trong khi đó, Nga không đòi hỏi một sự cam kết nào từ Mỹ và phương Tây. Điều này có nghĩa là Nga chấp nhận một sự nhượng bộ vô điều kiện chỉ để đổi lấy sự ủng hộ của những nước này. Đối với các nước thuộc Liên Xô cũ, Nga thực hiện chính sách “thoát li”, nghĩa là không can dự trước mọi vấn đề xảy ra ở các nước này, thả nổi quyền lợi chính trị ở đây cho Mỹ và các nước Tây Âu. Điều này đúng với mong muốn của Mỹ đang tìm cách lôi kéo các nước này 16 hội nhập với thế giới phương Tây để cô lập và uy hiếp Nga, ngăn chặn sự thành lập liên minh giữa Nga và các nước này. Liên Xô tan rã, Nga xuất hiện với tư cách một quốc gia độc lập song sức mạnh kinh tế, chính trị, quân sự đã yếu đi nhiều so với Liên Xô trước đây. Vì thế Nga buộc phải từ bỏ hoặc tham gia rất hạn chế vào nền chính trị thế giới. Mặt khác, thời kỳ này do các nhà lãnh đạo Nga quá chú trọng vào quan hệ với phương Tây nên chưa có những chính sách tích cực với những khu vực khác trên thế giới như châu Á, châu Phi và khu vực Mỹ Latinh, đặc biệt là lãnh thổ thuộc các nước SNG. Sự thay đổi định hướng tư tưởng – chính trị của Nga được Mỹ và các nước phương Tây ủng hộ. Tuy nhiên những quan điểm trên đây hoàn toàn không phù hợp với Nga – một dân tộc luôn tự hào mình là cường quốc cho dù tạm thời suy yếu. Trước hết, việc các nhà lãnh đạo hướng nước Nga đi theo con đường Đức – Nhật là hoàn toàn không phù hợp bởi sự thua trận của Đức, Nhật trong cuộc chiến tranh thế giới thứ hai và sự thua trận của Nga trong chiến tranh Lạnh không giống nhau. Nga hoàn toàn không bị tước đi chính sách đối ngoại của riêng mình, mà chính Nga tự nguyện từ bỏ quyền ngoại giao độc lập để phụ thuộc vào Mỹ và phương Tây để hi vọng nhận được một sự trợ giúp to lớn về kinh tế. Mặt khác, để sớm cải thiện quan hệ với Mỹ và đồng minh của Mỹ, Nga phải tiến hành cải cách nóng vội, thiếu các tiền đề vất chất cũng như tư tưởng cần thiết. Điều này ngày càng đẩy Nga vào cuộc khủng hoảng trầm trọng hơn như nạn thất nghiệp, lạm phát tăng nhanh, cuộc đấu tranh giành quyền lực giữa các phe phái chính trị…khiến cho người dân Nga bất bình. Một làn sóng phản đối chính sách thân phương Tây dấy lên. Hoa Kỳ sau một thời gian chờ đợi sự ổn định và phục hồi của nền kinh tế Nga cũng dần dần mất hi vọng bởi sự khủng hoảng ngày càng tăng trong lĩnh vực kinh tế, xã hội. Các yếu tố đó 17 đã khiến cho sự “thân mật” ban đầu giữa Mỹ với Nga giảm dần. Bên cạnh đó, đường lối đối ngoại của giới lãnh đạo Nga cũng không tạo được sự đồng tình trong nước. Nhà nước Nga đang dần được phục hồi, giới chính trị Nga muốn nhìn thấy Nga là một cường quốc, được tôn trọng trong các vấn đề quốc tế chứ không phải là một nước Nga chỉ biết gật đầu theo Mỹ và phương Tây. Bắt đầu từ năm 1994, chính sách đối ngoại của Nga không chỉ tập trung vào phương Tây và có những biện pháp tích cực nhằm khôi phục lại ảnh hưởng của Liên Xô trước đây, đặc biệt ở các nước SNG. Nga tăng cường quan hệ với các nước này để khôi phục lại ảnh hưởng của mình ở đó. Đồng thời, quan hệ này giúp Nga khắc phục được sự lệ thuộc quá lớn vào phương Tây, giúp Nga đảm bảo an ninh quốc gia và vị trí trên trường quốc tế. Chính sách này được thể hiện trong tuyên bố của Tổng thống Nga: “đã đến lúc sửa đổi sự thái quá trong quan hệ với phương Tây, cần nghĩ về đối tác chiến lược trong tương lai” (64, tr 15). Lúc này, sự thống nhất của Nhà nước Liên bang Nga được giữ vững nên Nga nhận thấy lợi ích của các nước thuộc Cộng đồng các Quốc gia Độc lập (SNG) không thể tách rời khỏi lợi ích của Nga. Việc Mỹ tranh thủ sự xa rời của Nga đối với các nước này trong thời kỳ đầu để tìm cách lôi kéo họ đi theo Mỹ hòng cô lập Nga đã uy hiếp nghiêm trọng đến an ninh quốc gia của Nga. Do vậy, Nga nhận thấy cần phải xác lập lại vị trí của mình trong phạm vi những biên giới mới, thiết lập quan hệ với các nước trước đây hầu như là bộ phận cấu thành và xác định những lợi ích quốc gia mới của mình. Trong đường lối đối ngoại, Nga đã thay đổi thái độ thoát li khỏi các nước SNG trong thời kỳ đầu sau khi Liên Xô tan rã bằng tuyên bố: “Nga có trách nhiệm đặc biệt đối với khu vực thuộc Liên Xô trước đây và có lợi ích đặc biệt ở Đông Âu. Lực lượng vũ trang của Nga có thể lập căn cứ quân sự ở khu vực thuộc Liên Xô cũ, chịu trách nhiệm bảo vệ an ninh toàn khu vực”(84, tr3). Như vậy, sau một thời kỳ tạm rút lui, Nga đã bắt đầu lên tiếng khẳng 18 định vị trí của mình. Tháng 2 – 1995, Tổng thống B.Yeltsin đã nêu lên một cách toàn diện các mục tiêu chiến lược đối ngoại của Nga và chỉ rõ mục tiêu hàng đầu là tăng cường nhất thể hóa về kinh tế, chính trị, quân sự với các nước SNG; còn với Mỹ và các nước phương Tây chỉ còn là quan hệ bạn bè bình đẳng. Tổng thống Yeltsin cũng yêu cầu Mỹ công nhận vị trí đặc biệt của Nga trong khu vực Liên Xô trước đây, phản đối Mỹ đơn phương can thiệp vào việc duy trì hòa bình trên phần lãnh thổ Liên Xô cũ. Từ chính sách thân và tuyệt đối nghe theo phương Tây, chính sách đối ngoại của Nga chuyển sang mục tiêu “đặt lợi ích dân tộc lên hàng đầu”, đặc biệt từ khi E.Primacov lên làm Ngoại trưởng, đường lối đối ngoại của Nga ngày càng cứng rắn hơn. Primacov đã nói về một số nhiệm vụ ưu tiên trong chính sách đối ngoại của nước Nga (3, tr 46): thứ nhất, tạo những điều kiện đối ngoại tốt nhất, thuận lợi nhất cho việc củng cố toàn vẹn lãnh thổ Nga; thứ hai, củng cố các xu thế hướng tâm, liên kết trên lãnh thổ Liên Xô cũ, loại trừ khả năng để bất cứ thế lực bên ngoài nào chia rẽ Nga và các nước SNG vì mục đích trên; thứ ba, phát triển các mối quan hệ có hiệu quả giữa các quốc gia, ngăn chặn sự hình thành các lò lửa căng thẳng mới. Primacov gọi đó là chính sách “ngoại giao đa phương”, “ngoại giao tích cực”. Chính sách đối ngoại của Nga tiếp tục được thể hiện trong “Học thuyết an ninh quốc gia của Liên bang Nga” tháng 12 – 1997. Học thuyết nêu rõ, để bảo vệ quyền lợi dân tộc trên trường quốc tế, Nga sẽ tiến hành đường lối đối ngoại tích cực, củng cố vị trí cường quốc của mình, tăng cường liên kết với các nước SNG… Trong chính sách đối ngoại của Nga, các nước SNG luôn ở vị trí ưu tiên hàng đầu. Đối với Nga, quan trọng trước hết là những gì đang diễn ra trong SNG sát biên giới Nga. Một trong những nguyên nhân chính mà Bộ trưởng Ngoại giao đầu tiên của Liên bang Nga A.Kozyrev bị cách chức là do 19 ông ta không chú ý đúng mức đến việc giữ gìn và củng cố quan hệ với các nước láng giềng của Nga, trước hết là SNG. Khi E.Primacov lên làm Bộ trưởng Ngoại giao (1995), công việc đó được đẩy lên nhưng sự chuyển biến về chất không đáng kể. Có nhiều lý do, song một trong những lý do quan trọng là Tổng thống B.Yeltsin ít thực hiện các chuyến viếng thăm lẫn nhau giữa nguyên thủ quốc gia Nga và các nước lân cận để bàn bạc, tìm cách giải quyết kịp thời những vấn đề lớn trong quan hệ song phương giữa Nga với từng quốc gia SNG cũng như quan hệ đa phương trong khuôn khổ SNG. Sau khi lên làm Tổng thống, V.Putin đã xác định lại đường lối đối ngoại của Nga. Đó là đường lối đối ngoại thực dụng, đặt quyền lợi nước Nga và dân tộc Nga lên vị trí hàng đầu, mọi chính sách đối ngoại đều phục vụ cho mục tiêu này. Phương hướng địa – chính trị trong chính sách đối ngoại của Nga là không gian SNG. Quan hệ với các nước SNG vẫn là hướng ưu tiên chính của Nga bởi đây là khu vực “cận ngoại biên” có tầm quan trọng chiến lược đối với Nga. Nga quan tâm tới mục tiêu quanh đường biên giới của mình là các quốc gia hữu nghị, ổn định, dân chủ và phồn thịnh. Nga cho rằng các nước SNG tự mình quyết định tiến trình chuyển đổi mô hình phát triển dân chủ thị trường. Dựa trên những kinh nghiệm tích lũy được, Nga quan niệm tăng cường hợp tác kinh tế - thương mại với các nước SNG là điều kiện tiên quyết cho ổn định và phát triển trong khu vực, và vai trò của Nga là không thể thay thế được. Mục tiêu mà Nga đặt ra là xây dựng một hệ thống kinh tế đảm bảo cho sự phát triển hiệu quả của các nước thành viên, Nga hướng tới không gian tự do hóa kinh tế cũng như đầu tư trong khu vực. Sau khi lên cầm quyền, khác với người tiền nhiệm, V.Putin đã thực hiện hàng loạt chuyến viếng thăm: Thăm Belarus ngày 14 – 4 – 2000, chỉ ba tuần sau khi trúng cử Tổng thống (26 – 3 – 2000); trong vòng một năm đã thăm Ucraina hai lần; thăm một loạt nước như Uzbekistan, Turmenistan, 20 Azerbaijan; gặp gỡ các nguyên thủ quốc gia SNG nhiều lần tại các hội nghị trong khuôn khổ tổ chức SNG. Lên làm chủ điện Kremli với một thuận lợi tuyệt vời là có sự hậu thuẫn toàn diện của người tiền nhiệm Putin, Tổng thống D. Medvedev chắc chắn sẽ tiếp tục đưa nước Nga đi theo con đường mà ông Putin đã kiên trì thực hiện trong suốt hai nhiệm kỳ. Ngày 31 – 8 – 2008, Tổng thống Medvedev đã vạch ra 5 nguyên tắc mà chính sách ngoại giao tương lai của Moskva sẽ lấy đó làm căn cứ và cho biết nếu cần thiết, nó có thể mở đầu cho các biện pháp trừng phạt của Nga đối với các nước khác. Thứ nhất, tôn trọng những nguyên tắc cơ bản của pháp luật quốc tế. Thứ hai, thế giới phải đa cực. Nước Nga không công nhận một thế giới mà ở đó, tất cả các quyết định được ban hành bởi một phía, thậm chí đó là một quốc gia hùng mạnh như Mỹ. Điều đó cũng giống như một thế giới đầy bất ổn và luôn bị đe dọa bởi xung đột. Thứ ba, Nga không muốn đối đầu với bất kỳ nước nào và không có ý định để mình bị cô lập. Thứ tư, Nga sẽ bảo vệ tính mạng của công dân nước mình, cho dù họ ở bất cứ nơi đâu. Thứ năm, Nga cũng như những nước khác trên thế giới đều có những khu vực được ưu tiên và Nga sẽ phát triển quan hệ ở những khu vực thân thiện. Trong số các nước SNG, quan hệ Nga – Belarus được xem là mối quan hệ mẫu mực do sự gắn kết về kịch sử, truyền thống gắn kết về dân tộc, tôn giáo. Trước hết, mối quan hệ này được thể hiện trong việc xây dựng một nhà nước Liên minh với đồng Rup Nga dự kiến đưa vào sử dụng vào cuối năm 2006, nhưng trên thực tế chưa thực hiện được. Hiện nay Nga là bạn hàng lớn nhất của Belarus, đồng thời Belarus cũng là bạn hàng lớn nhất của Nga trong số các nước SNG. Thương mại có một vị trí quan trọng trong quan hệ kinh tế giữa hai quốc gia. Tuy nhiên, vấn đề không phải chỉ ở lĩnh vực thương mại, mà là sự liên kết chặt chẽ thông qua việc thành lập nhiều xí nghiệp liên doanh 21 giữa Nga và Belarus, loại bỏ những hạn chế về thuế quan, thông qua những biện pháp nhằm thống nhất các quy định điều tiết. Ngày 3 – 2 – 2009, Nga và Belarus đã ký kết hiệp định hợp tác bảo vệ biên giới đường không và thành lập hệ thống phòng không chung giữa hai nước. Hệ thống phòng không chung gồm năm đơn vị không quân, 10 đơn vị tên lửa đất đối không, năm đơn vị kỹ thuật vô tuyến và một đơn vị chống nhiễu. Như vậy, nếu xét về tình trạng kinh tế thì các nước SNG khó có gì để hỗ trợ cho Nga; ngược lại đa số họ còn khó khăn nhiều hơn, nhất là trong lĩnh vực năng lượng, khí đốt (Belarus, Ucraina, Moldova hầu như nhập hoàn toàn năng lượng từ Nga). Tuy vậy, Nga rất cần đến các nước này và đặt họ vào ưu tiên số một bởi nhiều lý do về lịch sử, văn hóa gắn bó trước đây cũng như ngôn ngữ, phong tục tập quán, lối sống giống nhau do 70 năm sống chung dưới thời Xô viết, và quan trọng nhất là ý nghĩa về vị trí địa – chiến lược của những nước này đối với Nga. Nó biểu hiện ở chỗ mọi diễn biến lớn của những nước láng giềng này đều tác động tức thời đến tình hình nước Nga. Nếu để cho những nước này (đặc biệt là Ucraina) rơi vào vòng ảnh hưởng của Mỹ thì vị trí và an ninh của Nga ở khu vực chắc chắn sẽ bị tổn thương. Tóm lại, nếu xem xét tất cả các mặt, nhất là từ góc độ lợi ích an ninh của Nga thì việc Nga tuyên bố rằng các nước SNG thuộc hàng ưu tiên số một trong chính sách đối ngoại của mình là hoàn toàn chính xác, bởi nếu Nga củng cố tốt mối quan hệ với những nước này thì họ chính là vành đai an ninh và khu đệm an toàn giữa Nga và Mỹ. Tuy nhiên, dù Liên bang Nga coi hợp tác với các nước SNG là ưu tiên số một trong chính sách đối ngoại của mình, nhưng trên thực tế Nga chưa làm được như vậy. Trong khi đó, các nước SNG khác lại luôn lo sợ Nga muốn gây áp lực chính trị, quân sự nhằm giữ lấy vai trò lãnh đạo trong SNG, vì vậy họ muốn tìm kiếm các đối tác khác ngoài khu vực để tránh sự phụ thuộc vào Nga. Những mâu thuẫn giữa các nước trong 22 SNG, đặc biệt là giữa Nga – Grudia, Nga – Belarus, Nga – Ucraina cho thấy triển vọng phát triển Nga – các nước SNG còn lại còn hết sức phức tạp và nhiều khó khăn. 1.2.2 Các nước thuộc SNG trong chính sách đối ngoại của Mỹ Mục tiêu lâu dài và xuyên suốt của các đời Tổng thống Mỹ kế tiếp nhau kể từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai đến nay là thiết lập trật tự do Mỹ lãnh đạo, kiềm chế sự nổi lên của các cường quốc khác đe dọa vị thế và lợi ích của Mỹ. Vị Tổng thống đầu tiên của Mỹ đắc cử sau khi Liên Xô tan rã là B.Clinton. Việc xây dựng một đường lối đối ngoại mới phù hợp hơn là điều cấp thiết. Ngay khi bước vào Nhà Trắng, trong diễn văn nhậm chức ngày 20 – 1 – 1993, Tổng thống mới đã phác họa những nét lớn trong chính sách ngoại giao mới của Hoa Kỳ. Ông nêu rõ: “Rõ ràng nước Mỹ phải tiếp tục lãnh đạo thế giới, đây là công việc mà trong quá khứ chúng ta đã nỗ lực rất nhiều mới làm được”. Nói đến cơ hội và thách thức mới, B.Clinton nhấn mạnh: “để đổi mới được nước Mỹ, chúng ta phải đương đầu với những thách thức ở ngoài cũng như ở trong nước. Không còn phân chia đâu là thách thức từ bên ngoài và đâu là từ bên trong” (32, tr 177-178). Trong nhiệm kỳ đầu làm chủ Nhà Trắng, B.Clinton đã công bố “Chiến lược an ninh quốc gia cam kết và mở rộng” (Chiến lược hai chữ E: Engagement and Enlargament). Yêu cầu bao trùm của nó là mở rộng và tăng cường cộng đồng các nền dân chủ theo kinh tế thị trường của thế giới. Điều này có nghĩa Hoa Kỳ tìm cách củng cố và mở rộng quỹ đạo của chủ nghĩa tư bản trên thế giới, từ đó thiết lập một trật tự quốc tế tư bản chủ nghĩa do Mỹ chỉ huy. “Chiến lược an ninh quốc gia cam kết và mở rộng” (hay còn gọi là Học thuyết Clinton) vừa kế thừa những chính sách đối ngoại của những người tiền nhiệm, vừa có những điều chỉnh cho phù hợp với thực tế Mỹ và tình hình thế giới “hậu Xô viết” (4, tr 135). 23 Sau khi trở thành vị Tổng thống thứ 43 trong lịch sử Hoa Kỳ, G.Bush ngay lập tức thể hiện sự cứng rắn, hiếu chiến vốn là thuộc tính cố hữu của Đảng Cộng hòa. Cũng với mục tiêu đối ngoại xuyên suốt, không thay đổi là củng cố vị thế siêu cường thế giới duy nhất và vai trò lãnh đạo thế giới theo trật tự đơn cực, chính quyền của Tổng thống Bush còn bộc lộ rõ hơn xu hướng đơn phương, cường quyền strong chính sách đối ngoại so với thời Clinton. Người ta từng hi vọng rằng sự kiện 11 – 9 với hậu quả khủng khiếp về nhiều mặt của nó có thể làm cho giới “diều hâu” trong chính quyền Mỹ vốn tự tin vào sức mạnh vô song của Mỹ bớt hung hãn, khi cả nước Mỹ bất ngờ hứng chịu một đòn tấn công vừa gây nhiều thiệt hại vừa mang tính cảnh báo đó. Nhưng vẫn như trước đây, dựa vào ưu thế vượt trội của siêu cường thế giới, chính quyền Bush bắt thế giới phải tuân theo quy tắc hành xử, chuẩn mực giá trị Mỹ. Ngân sách quốc phòng Mỹ trong những năm gần đây liên tục tăng cao, bằng khoảng 50% chi phí quốc phòng của cả thế giới cộng lại và trong những năm tới có thể lên đến 500 tỉ USD. Đây là một con số cao kỷ lục và chưa từng có trong lịch sử nước Mỹ, gây lo ngại cho nhiều nước. Và trên thực tế, bằng cách đó, Mỹ đã phát động một cuộc chạy đua vũ trang cực kỳ nguy hiểm. Kể từ sau sự kiện 11 – 9, Mỹ đã chuyển hướng chính sách ngoại giao sang “ngoại giao thời chiến”, theo đó Mỹ chú trọng lợi ích hợp tác trong cuộc chiến chống khủng bố toàn cầu. Phương châm ngoại giao của Mỹ là lấy chống khủng bố làm tiền đề, trong đó Mỹ sẽ căn cứ vào mục tiêu chống khủng bố cụ thể để tìm đồng minh có giá trị. Với chính sách “ngoại giao thời chiến”, G.Bush đã thay đổi phương châm “tránh thương vong” của B.Clinton trước đây. Tư duy ngoại giao của Mỹ hiện nay xuất phát từ giả thuyết: Tấn công là biện pháp tốt để phòng ngự. Với thực lực quân sự mạnh nhất thế giới hiện nay, Mỹ từ chối bất kỳ một hiệp định quốc tế nào hạn chế hoạt động của Mỹ. 24 Washington cho rằng cộng đồng quốc tế không nên gây khó khăn cho chính sách ngoại giao của Mỹ. Hiện nay, Mỹ cho rằng mối đe dọa toàn cầu mà Mỹ đang phải đối mặt là chủ nghĩa khủng bố và các thế lực Hồi giáo cực đoan. Thách thức đặt ra trước nước Mỹ là tiến công chủ nghĩa cực đoan, đồng thời tránh xung đột giữa các nền văn minh (71, tr 18). Học thuyết này chủ trương “đánh trước để phòng ngừa trong những trường hợp cần thiết phải tự vệ”. Mỹ không ngần ngại tấn công trước dù ra quân một mình. Quân đội Mỹ lúc nào cũng phải hùng mạnh để ứng phó với những nước nào có thể “đe dọa” Hoa Kỳ. Đối với Nga, ngay từ khi nước này mới ra đời, Clinton đã tuyên bố “Mỹ sẽ tìm cách hợp tác với Nga để làm cho thế giới an toàn hơn, ủng hộ nền dân chủ và kinh tế thị trường”. Vị Tổng thống này cho rằng Mỹ có ba lợi ích trong việc hợp tác với Nga: Một là làm cho thế giới an toàn hơn, tiếp tục giảm nguy cơ chiến tranh hạt nhân và không phổ biến vũ khí hạt nhân; hai là ủng hộ sự phát triển dân chủ và tự do cho nhân dân Nga; ba là ủng hộ một nền kinh tế tự do (83, tr 35). Trong thời kỳ đầu sau khi Liên Xô tan rã, Nga được đặt lên tầm quan trọng hàng đầu trong chính sách đối ngoại của Mỹ không chỉ vì những lợi ích trên. Nga từ “kẻ thù trực tiếp” trở thành “kẻ thù tiềm ẩn” của Mỹ. Do đó Mỹ thực hiện chính sách vừa giúp đỡ vừa kiềm chế Nga. Tuy thực lực giảm sút song Nga vẫn là một cường quốc hạt nhân, là mối đe dọa lớn đối với an ninh Mỹ. Vì vậy Mỹ một mặt ra sức giúp đỡ Nga về kinh tế và vận động các nước phương Tây, các đồng minh của mình giúp đỡ để Nga có thể cải cách kinh tế, đưa đất nước đi theo con đường dân chủ, kinh tế thị trường tự do và chính trị đa đảng. Mỹ làm như vậy nhằm ràng buộc Nga phải lệ thuộc vào Mỹ. Mặt khác, Mỹ lại tìm cách cô lập, ngăn sự phục hồi của Nga bằng viện trợ, đầu tư “nhỏ giọt” và đi kèm những điều kiện bất lợi cho Nga. Đồng thời Mỹ tìm cách mở rộng khối liên minh quân sự NATO sang phía 25 Đông để Nga rơi vào thế bị cô lập, bao vây lôi kéo các nước SNG nhằm thu hẹp ảnh hưởng của Nga đối với các nước này để dần tiến tới gạt bỏ ảnh hưởng của Nga. Mục tiêu của Mỹ ở khu vực SNG là “ngăn cản không cho nước nào kiểm soát không gian địa – chính trị này, đảm bảo tiếp cận tự do với khu vực về mặt tài chính và kinh tế” (14, tr 3). Sau khi Liên Xô tan rã, Ngoại trưởng Mỹ J.Baker đã đến thăm vùng này và Chính phủ Mỹ nhanh chóng công nhận nền độc lập của các nước trong khu vực. Ngoại trưởng J.Baker đưa ra bốn tiêu chuẩn tiếp nhận các nước SNG vào cộng đồng các quốc gia dân chủ: - Thừa nhận các giá trị dân chủ - Đảm bảo nhân quyền và quyền của các dân tộc ít người - Tôn trọng đường biên giới và các nguyên tắc thay đổi hòa bình - Thực hiện các nghĩa vụ quốc tế. (58, tr 9). Tuy nhiên, trong suốt thập niên 90 của thế kỷ trước, chính quyền Mỹ hầu như chưa có một chiến lược tổng thể đối với khu vực. Điều này xuất phát từ hai nguyên nhân: thứ nhất, suốt thập kỷ 1990, Mỹ có nhiều ưu tiên khác cấp thiết hơn như Chiến tranh vùng Vịnh lần thứ nhất, khủng hoảng hạt nhân trên bán đảo Triều Tiên (1994), khủng hoảng eo biển Đài Loan (1995), chiến dịch Con Cáo sa mạc ở Iraq (1996), chiến tranh Kosovo (1998); thứ hai, Mỹ chưa có cớ để trực tiếp can thiệp vào khu vực. Do đó, hoạt động triển khai đối ngoại của Mỹ liên quan đến khu vực chỉ là hệ quả của chính sách đối với Nga hoặc là phản ứng tình thế để đối phó với những chuyển biến của tình hình khu vực. Quan hệ giữa Mỹ và các nước này chủ yếu tập trung vào việc hỗ trợ các nước xây dựng nền kinh tế độc lập nhằm giảm bớt sự lệ thuộc vào Nga, dỡ bỏ các kho vũ khí hạt nhân và ngăn chặn việc phổ biến vũ khí hạt nhân ở khu vực (14, tr 7). Sau sự kiện 11 – 9, Mỹ có cả điều kiện cần và đủ để gia tăng ảnh hưởng 26 ở khu vực. Điều kiện cần là sự kiện 11 – 9 cung cấp cho Mỹ một lý do để can thiệp vào Afganistan, nơi được coi là lãnh địa của chủ nghĩa khủng bố. Để hỗ trợ cho các hoạt động quân sự và nhân đạo ở Afganistan, Mỹ đã đóng quân ở Uzbekistan và Kyrgystan, sử dụng một số sân bay quân sự và cơ sở hạ tầng ở khu vực. Điều kiện đủ là: thứ nhất, mười năm sau khi Chiến tranh Lạnh kết thúc, Mỹ vẫn duy trì được sức mạnh vượt trội so với các cường quốc khác; thứ hai, các nước trong khu vực muốn thắt chặt quan hệ với Mỹ để phát triển kinh tế, hạn chế ảnh hưởng của Nga. Bước sang thế kỷ XXI, Mỹ không ngừng tìm cách “thẩm thấu” vào các quốc gia SNG bằng cách đẩy mạnh hợp tác, liên kết trên nhiều lĩnh vực, đặc biệt là trên lĩnh vực kinh tế, quân sự, tăng cường ảnh hưởng về tự do dân chủ của Mỹ. Các nước thuộc Liên Xô cũ mất ổn định sẽ làm cho Mỹ lo lắng bởi nó sẽ ảnh hưởng tới an ninh của toàn bộ lục địa Á – Âu. Mục tiêu của Mỹ là phải xây dựng khu vực này ngày càng “dân chủ, ổn định và không bị chia cắt”. Mỹ tiến hành trợ giúp, khuyến khích các nước Đông Âu cùng các nước SNG gia nhập NATO nhằm củng cố thêm sức mạnh quân sự, đồng thời cô lập và uy hiếp Nga. Với mục tiêu “biến kẻ thù thành đồng minh”, Mỹ chủ trương hòa nhập các nước Cộng hòa thuộc Liên Xô cũ bằng cách cổ vũ các nước này hoàn toàn đoạn tuyệt với quá khứ, ra sức biến các nước này thành những quốc gia dân chủ, ổn định và có nền kinh tế thị trường. Mỹ luôn nhấn mạnh phải đề phòng khả năng khôi phục đế quốc Nga. Bất cứ lúc nào Mỹ cũng không chấp nhận những quyền lợi và ảnh hưởng của Nga đối với các nước láng giềng. Mỹ cổ vũ cho xu hướng đa nguyên, xu hướng li tâm của các nước SNG đối với Nga; giúp đỡ các lực lượng thân phương Tây lật đổ chính quyền một cách bất hợp pháp thông qua các cuộc “cách mạng màu sắc” như Nam Tư (2000), Grudia (2003), Ucraina (2004). Tuy nhiên, ở đây Mỹ cũng thực hiện chính sách hai mặt: Một mặt, Mỹ khuyến khích, tìm cách giúp đỡ các cuộc cải cách chính trị thành công, xây 27 dựng một xã hội dân chủ. Mặt khác, Mỹ thực hiện chính sách kìm hãm để không cho bất kỳ một nước Cộng hòa nào trở nên quá mạnh có thể đe dọa tới vị trí siêu cường của Mỹ. Sau sự kiện 11 – 9 – 2001, Mỹ lấy cớ chống khủng bố đã không ngừng tăng cường sức mạnh quân sự tại khu vực này, đặc biệt là các nước Cộng hòa ở Trung Á. Tính đến đầu năm 2002, Mỹ đã xây dựng 13 căn cứ quân sự tại 9 nước xung quanh Afganistan làm tăng nhanh đáng kể sức mạnh quân sự của Mỹ ở khu vực. Như vậy, việc Mỹ đặt chân được vào khu vực Trung Á và thành công của một số cuộc cách mạng màu sắc ở các nước SNG đã làm thay đổi cục diện chiến lược do Nga làm chủ trước đây, đồng thời thu hẹp không gian chiến lược và ảnh hưởng quốc tế của Nga tại khu vực này. Tiểu kết: Cộng đồng các Quốc gia độc lập (SNG) ra đời là một yếu tố đặc biệt cả về mặt lịch sử cũng như địa lý. Trong giai đoạn hiện nay, nhất là sau khi Grudia tuyên bố rút khỏi SNG (8 – 2008), sự phát triển của khối này đã có những thay đổi đáng kể. Tuy nhiên, dù tiếp tục tồn tại hay giải tán thì những yếu tố địa – chính trị và địa – kinh tế của khu vực này vẫn có sức hút rất lớn đối với các cường quốc trên thế giới. Nga và Mỹ là những cường quốc trên thế giới trong quá khứ cũng như hiện tại. Để có được một cực trong xu thế đa cực của thế giới hiện nay, một trong những biện pháp của mỗi nước là giữ ưu thế của mình tại các khu vực ảnh hưởng truyền thống và không ngừng gia tăng ảnh hưởng tại các “sân sau” của đối phương. Các nước SNG trước đây là khu vực ảnh hưởng truyền thống của Nga. Tuy nhiên, nếu Nga không có những chính sách cụ thể thì rất có thể các nước này sẽ rơi vào vòng ảnh hưởng không chỉ của Mỹ, mà còn nhiều nước khác như Trung Quốc, các nước trong Liên minh châu Âu. 28 Chương 2. QUÁ TRÌNH TRANH GIÀNH ẢNH HƯỞNG GIỮA NGA VÀ MỸ Ở CÁC NƯỚC THUỘC SNG SAU CHIẾN TRANH LẠNH. 2.1. Vấn đề dầu mỏ, khí đốt Kể từ sau cuộc khủng hoảng năng lượng 1973 đến nay, loài người ngày càng nhận thấy tầm quan trọng của nguồn tài nguyên “vàng đen” đối với kinh tế thế giới nói chung và đối với những nền kinh tế lớn nói riêng. Hiện nay, trong hoàn cảnh nền sản xuất thế giới ngày càng phát triển, một số nguồn nguyên liệu đang dần cạn kiệt thì dầu mỏ vẫn là một nguồn năng lượng sống còn đối với các quốc gia trên thế giới. Việc quan tâm tiếp cận và bảo vệ các nguồn cung cấp dầu mỏ, khí đốt luôn được ưu tiên hàng đầu trong chiến lược an ninh của các quốc gia. Khí đốt được đánh giá là năng lượng hóa thạch trong tương lai bởi lợi ích của nó không thể coi thường. Về giá cả, khí đốt cho phép tiết kiệm rất lớn. Một nhà máy điện chạy bằng khí sản sinh ra 1kw chỉ với giá 457 euro, trong khi nhà máy chạy bằng sức gió sẽ tiêu hao 1067 euro, còn với nhà máy năng lượng nguyên tử giá sẽ từ 1067 đến 1524 euro. Theo IAEA, vào năm 2030 điện sản xuất bằng vàng xanh trên thế giới sẽ chiếm 35% tổng sản lượng điện, so với hiện nay là 15%. Tất cả những tập đoàn điện lớn châu Âu như EDF và Suez của Pháp, E.ON-Ruhrgas và RWE của Đức, Enel của Ý và Endesa của Tây Ban Nha đều đầu tư mạnh vào các nhà máy điện chạy bằng khí. Lợi điểm của loại nhà máy này là xây dựng nhanh và ít tốn kém hơn các loại nhà máy điện khác. Xây nhà máy điện chạy bằng khí còn có ưu điểm lớn nhất là không bị dư luận phản đối dữ dội như xây nhà máy điện chạy bằng năng lượng hạt nhân Trong lòng đất của nhiều nước thuộc SNG có trữ lượng dầu mỏ và khí đốt rất lớn. Theo đánh giá của Bộ Năng lượng Mỹ, trữ lượng của một số nước như sau: Azerbaijan có trữ lượng dầu khí vào khoảng 6 đến 10 tỉ tấn; Kazakhstan: trữ lượng dầu đã được phát hiện là 2,9 tỉ tấn, dự đoán con số này 29 có thể lên đến 6-12 tỉ tấn, trữ lượng khí đã được phát hiện là 3000 tỉ m3; Turmenistan đứng thứ tư thế giới về khai thác khí đốt (sau Mỹ, Canada và Nga) và đứng thứ hai về xuất khẩu khí đốt với trữ lượng khí đốt từ 3 đến 21000 tỉ m3, trữ lượng dầu lửa gần 6 tỉ tấn – bằng 20% tiềm năng của các nước A rập, gấp hai lần trữ lượng dầu khí của biển Bắc và gấp 5 lần trữ lượng dầu khí của vịnh Mehico. Azerbaijan giữ vị trí địa – chính trị quan trọng, đó là chiếc nút chai khổng lồ vùng lưu vực biển Caspien và Trung Á. Hệ thống dẫn dầu và khí đốt Bacu qua Daghestan, Chesnhia tới cảng Novorosik của Nga trên biển Đen để đến châu Âu và thị trường thế giới. Đây là huyết mạch quan trọng, giảm tối đa chi phí vận tải dầu khí và thuận tiện nhất mà các nước đều mong muốn làm chủ. Daghestan với hơn 70% đường bờ biển của Nga với Caspien và với cảng biển Makhachkala – một cảng biển lý tưởng trong mọi thời tiết sẽ là con đường độc đạo vận chuyển tài nguyên thiên nhiên, dầu khí từ các nước SNG ra thế giới (29, tr 18). Sự tan rã của Liên Xô vào thập kỷ 90 của thế kỷ XX đã dẫn tới việc thành lập của một số nhà nước cộng hòa độc lập ở các nước Cộng hòa thuộc Liên Xô cũ, một khu vực giàu năng lượng mà các nước phương Tây chưa thể tiếp cận. Việc mở cửa thị trường cho những công ty năng lượng thế giới ở những nước giàu tài nguyên trong khu vực như Azerbaijan và Kazakhstan là ưu tiên hàng đầu của chính quyền Mỹ dưới thời Tổng thống Bill Clinton. Mỹ cũng nhận thấy rằng việc đưa các nước này vào quỹ đạo của phương Tây sẽ đem lại hai lợi ích chiến lược, gồm: đa dạng hoá các nguồn cung cấp năng lượng và hạn chế tầm ảnh hưởng của Nga ở đây. Bộ Ngoại giao Mỹ đã coi khu vực này là một “Kuwait mới”. Do đó Mỹ đã phớt lờ phản đối của Nga, tiếp tục theo đuổi chính sách ngoại giao tài nguyên ở những nước giàu tài nguyên vàng đen tại SNG và bắt đầu đi tìm các tuyến đường dẫn dầu mới nối khu vực này và các nước phương Tây không đi qua Nga. Mục tiêu của chính 30 sách này nhằm đảm bảo Nga không phải là con đường duy nhất để các nước vùng Caspien xuất khẩu dầu khí ra thế giới bên ngoài. Nga là một trong số ít nước có trữ lượng tài nguyên phong phú nhất thế giới. Dân số nước này chỉ chiếm 2,5% tổng dân số thế giới, nhưng Nga lại chiếm khoảng 45% trữ lượng khí đốt, 23% dầu mỏ, 14% urani, nghĩa là chiếm 30% trữ lượng năng lượng thiên nhiên của thế giới, tổng số năng lượng đã khai thác và gia công giai đoạn đầu khoảng 10% (73, tr 26). Đặc biệt trong vài năm gần đây, sau khi giá các loại năng lượng chủ yếu như dầu mỏ và khí đốt tăng lên vùn vụt, Nga – siêu cường về năng lượng có nguồn lực dồi dào đã kiếm được không ít lợi nhuận cả về kinh tế lẫn chính trị. Năm 2004, Nga sản xuất được 459 triệu tấn dầu, xuất khẩu 230 triệu tấn; khai thác hơn 632 tỉ m3 khí đốt, xuất khẩu hơn 180 tỉ m3. Năm 2005, sản ._. 27 nước Liên minh châu Âu (EU) và 6 nước thuộc Cộng đồng các quốc gia độc lập (SNG) là Azerbaijan, Armenia, Belarus, Gruzia, Moldova và Ucraina. Mặc dù 92 EU khẳng định EAP không phải là “tiền đề” mở ra triển vọng cho các nước trên gia nhập khối mà chỉ là sự hợp tác qua những dự án cụ thể để giúp 6 nước SNG này từng bước hội nhập kinh tế, luật pháp và chính trị của EU, song, không khó để nhận ra mục tiêu dài hạn của EU là mở ra con đường tiến về phía Đông của khối này. Dù EU quả quyết EAP không phải là một liên minh chống Nga, nhưng tất nhiên là Moskva không thể an tâm khi EU phình to dần và từng bước lấn vào khu vực “sân sau” của mình. Ngoại trưởng Nga Sergey Lavrov đã cáo buộc EU tìm cách tạo tầm ảnh hưởng mới ở “vùng đệm” chiến lược nhạy cảm này. Những diễn biến này cho thấy SNG vẫn là một trọng điểm chiến lược mà các cường quốc hướng tới. Mặc dù có những lo ngại về sự tồn tại của SNG từ các nước bên ngoài, nhưng các thành viên SNG vẫn cố gắng để liên minh này tiếp tục phát triển. Thủ đô Kishinev của Moldova vào ngày 14 – 11 – 2008 là nơi đăng cai cho Hội nghị Thượng đỉnh của nguyên thủ các nước nằm trong Cộng đồng các quốc gia độc lập (SNG), một cuộc gặp quan trọng được đánh giá là có thể trở thành một bước ngoặt trong lịch sử liên quan đến sự tồn tại của khối này. Các đối tác tham gia hội nghị đã cùng nhau phê chuẩn một chiến lược phát triển kinh tế dài hạn chung cho cả cộng đồng (đến năm 2020). Một mục tiêu quan trọng khác của hội nghị chính là những nỗ lực nhằm hàn gắn và củng cố sự gắn kết của SNG. Theo chiến lược mới này, tất cả các thành viên SNG sẽ có một thời hạn 12 năm để thực thi tất cả những gì đã được thỏa thuận từ 17 năm trở về trước, tức là kể từ thời điểm hình thành SNG. Văn kiện về chiến lược phát triển mới này cũng xác định thành lập một khu vực thương mại tự do, xây dựng một không gian kinh tế thống nhất và các thị trường chung dành cho những sản phẩm nông nghiệp cũng như liên kết chặt chẽ hơn giữa các nước thành viên nhờ một mạng lưới các hành lang vận tải tầm quốc tế. 93 Trên cơ sở phân tích điều kiện chủ quan và khách quan của mỗi bên, chúng ta thấy rằng trong cuộc tranh giành ảnh hưởng này có thể diễn ra theo hai phương án. Tìm kiếm sự bảo trợ của các cường quốc nằm ngoài khu vực hay ký kết hiệp định với Nga để có thể nhận được sự bảo đảm an ninh đó từ Nga. Trong phương án đầu, NATO sẽ là đồng minh phù hợp nhất. Tuy nhiên, tình hình trong thời gian qua cho thấy thậm chí áp lực tối đa của Washington cũng không làm giảm sự lo ngại của các đồng minh châu Âu. Các nước lớn ở châu Âu bằng mọi giá tìm cách tránh để bị lôi kéo vào bất cứ cuộc xung đột nào vì họ sợ sự xích lại gần với Gruzia hay Ukraine sẽ là trái với ý muốn của Moskva. Sau cuộc chiến ở Nam Ossetia, tâm trạng đó sẽ chỉ tăng lên. Vì thế, Mỹ là nước duy nhất có khả năng bảo đảm an ninh (cho các nước láng giềng của Nga). Về lý thuyết, các liên minh khu vực với sự tham gia của Mỹ, các nước châu Âu nào đó và các nước hữu quan trong số các nước Cộng hòa thuộc Liên Xô cũ, có thể là sự thay thế cho NATO. Tuy nhiên, Mỹ hiện đã bị oằn lưng vì những nghĩa vụ quân sự, nhưng việc phải chứng minh mình là đồng minh của "các nền dân chủ non trẻ" cũng như vai trò cường quốc có thể buộc Mỹ hành động. Nghĩa là kịch bản đối đầu giữa Mỹ và Nga là hoàn toàn có thể xảy ra. Các nước Trung và Đông Âu, có thể cả Ucraina, bắt đầu yêu cầu điều đó. Ngoài Ucraina rõ ràng ủng hộ Gruzia, các nước SNG khác tỏ ra im hơi lặng tiếng trong những diễn biến trên. Việc họ không muốn bày tỏ quan điểm là dễ hiểu. Một mặt, tất cả các nước láng giềng đều ướm thử hành động của Nga vào mình. Mặt khác, tuyên bố chống lại Moskva có thể làm tổn hại quan hệ, điều giờ đây được nhận thức theo kiểu đặc biệt. 94 Việc nhận thức tình hình mới ở khoảng không hậu Xô viết đòi hỏi thời gian nhất định. Nhiều điều phụ thuộc vào Nga. Rõ ràng là Moskva sẽ được tôn trọng hơn nhiều, điều không thể không ảnh hưởng đến việc các nước SNG soạn thảo chính sách an ninh, đến việc ra các quyết định chiến lược trong lĩnh vực năng lượng và đường lối chính trị. Trong tình huống đó, Nga phải tỏ ra đặc biệt tế nhị. Việc ép buộc đoàn kết chắc gì là phương pháp hiệu quả nhất. Lời khuyên nổi tiếng của Tổng thống Mỹ Roosevelt "hãy nói nhỏ hơn khi bạn có chiếc gậy to trong tay" đã trở nên thời sự. Nếu Nga tạo nên cảm giác rằng giờ đây Nga dự định tiến hành chính sách áp đặt đối với các nước láng giềng, sự căng thẳng ở các nước đó tiếp tục tăng và họ sẽ tìm kiếm sự lựa chọn thay thế. Phương án thứ hai có thể đồng nghĩa với việc củng cố và mở rộng Tổ chức Hiệp ước an ninh tập thể (Armenia, Belarus, Kazakhstan, Kyrgyzstan, Nga, Tajikistan và Uzbekistan) và có thể biến tổ chức này thành một liên minh quân sự - chính trị thực sự. Mong muốn mở rộng ảnh hưởng của Nga ở đây có thể vấp phải sự chống đối không chỉ của Mỹ mà cả Trung Quốc, bởi Bắc Kinh có lợi ích của mình ở Trung Á. Nhân tố đột phá mà chiến dịch Grudia tạo ra cho chính sách của Nga nên được phát triển bằng các biện pháp như các dự án liên kết có lợi. 95 KẾT LUẬN SNG là một khu vực địa lý đặc biệt bởi lịch sử hình thành của nó. Đây là tổ chức ra đời sau một cuộc chiến tranh mà bên thua không bị tổn thất về quân sự, kinh tế. Trong quá khứ, tất cả các nước này đều thuộc Liên bang Xô viết. Từ khi ra đời (1991) đến nay, SNG đã trải qua rất nhiều thăng trầm. Có những thời điểm người ta đã đặt ra câu hỏi liệu SNG có còn phù hợp để tồn tại nữa hay không. Tuy nhiên, nếu bản thân các nước SNG nghĩ rằng không cần thiết để khối này tồn tại nữa, thì đối với Nga, điều đó không hoàn toàn đúng. Nga không thể để SNG chấm dứt sự tồn tại bởi đây là khu vực ảnh hưởng truyền thống của Nga. Nếu để mất vùng này, biên giới của Nga bị bao vây từ mọi phía, an ninh Nga bị đe dọa. Tóm lại, dù tiếp tục tồn tại hay giải thể thì những yếu tố địa – chính trị và địa – kinh tế của khu vực này vẫn có sức hút rất lớn đối với các cường quốc trên thế giới. Nga và Mỹ là những cường quốc trên thế giới trong quá khứ cũng như trong hiện tại. Để có được một cực trong xu thế đa cực của thế giới hiện nay, một trong những biện pháp của mỗi nước là giữ ưu thế của mình tại các khu vực ảnh hưởng truyền thống và không ngừng gia tăng ảnh hưởng tại các sân sau của đối phương. Tranh giành ảnh hưởng Nga – Mỹ ở khu vực thuộc các nước SNG diễn ra khi gay gắt, khi âm ỉ kể từ sau khi Liên Xô sụp đổ. Cả Nga và Mỹ luôn có những hành động, bước đi để giành được ưu thế trong cuôc chiến này. Trong cuộc tranh giành này, có những thời điểm ảnh hưởng của Mỹ tại khu vực này rất mạnh mẽ qua những cuộc cách mạng màu sắc thành công, thành lập được một số chính quyền thân Mỹ. Trong ván bài địa – chính trị cả Nga và Mỹ đang chơi tại khu vực SNG, những năm gần đây còn có thêm sự tham gia của các nước và các khu vực khác như Trung Quốc và Liên minh châu Âu. Ưu thế 96 thuộc về Nga, Mỹ hay nước khác không chỉ được quyết định qua những chính sách của mỗi nước, mà là sự phối hợp về chính sách cũng như hành động của tất cả các thành viên. Đồng thời, quá trình cạnh tranh ảnh hưởng giữa Nga và Mỹ không thể không tính đến quyền lợi của bản thân các nước SNG. Xu thế thời đại đã thay đổi. Mọi xung đột giữa các cường quốc và các vấn đề quốc tế đều phải được giải quyết thông qua thương lượng, đàm phán hòa bình trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền của các bên. Quá trình tranh giành ảnh hưởng giữa Nga và Mỹ trên địa bàn SNG kể từ sau Chiến tranh lạnh đến nay được biểu hiện trên các vấn đề: dầu mỏ, khí đốt; cách mạng màu sắc; chính sách hướng Đông của NATO; các cuộc xung đột sắc tộc, phong trào ly khai tại các khu vực như Chesnhia, Nam Osettia. Có thể nhận thấy rằng, trong các vấn đề trên đan xen cả lợi ích kinh tế lẫn lợi ích chính trị, văn hoá; có những thời điểm thăng trầm khác nhau. Có những lúc dường như Nga đã đánh mất khu vực ảnh hưởng truyền thống này của mình; nhưng trong những năm gần đây Nga sau một thời gian dài bỏ quên SNG đã quay trở lại và giành lại ưu thế đối với Mỹ. Tóm lại, những diễn biến tại không gian SNG trong gần hai thập kỷ qua của hai cường quốc Nga, Mỹ cho chúng ta một cái nhìn chung nhất về xu thế thời đại đang diễn ra. Mỹ muốn tạo ảnh hưởng của mình lên khu vực này để kiềm chế Nga, tiến sát biên giới Nga. Trong khi đó, nước Nga không thể để mất khu vực ảnh hưởng truyền thống của mình. Trong tương lai, Nga và Mỹ sẽ tiếp tục quan hệ vừa hợp tác vừa đấu tranh, nhưng xu thế chủ đạo của mối quan hệ này sẽ là đối thoại, tìm cách giải quyết các vấn đề quốc tế bằng con đường hoà bình bởi đó là xu thế của thời đại. Do vậy, các vấn đề liên quan đến quá trình tranh giành ảnh hưởng giữa Nga và Mỹ tại các nước thuộc SNG cũng không nằm ngoài xu thế này. 97 Việt Nam trong những năm qua đã đạt được nhiều thành tựu to lớn nhờ những đường lối, chính sách đúng đắn từ công cuộc Đổi mới từ năm 1986 đến nay. Điều này đem lại cho đất nước một vị thế đáng kể trên trường quốc tế, tiếng nói của Việt Nam ngày càng được bạn bè quốc tế công nhận. Việt Nam tham gia tích cực vào các vấn đề thời sự quốc tế. Công cuộc Đổi mới cũng giúp cho Việt Nam có được nhiều bài học kinh nghiệm khi phát triển mối quan hệ với các nước lớn. Bên cạnh Việt Nam là đất nước Trung Quốc với một tiềm lực kinh tế, quân sự khổng lồ. Trong lịch sử, người Trung Hoa luôn muốn Việt Nam là “sân sau” của mình. Hiện nay, mặc dù hai nước có quan hệ tốt đẹp nhưng Việt Nam vẫn phải không ngừng tạo dựng vị thế của mình thật vững chắc. SNG trong quan hệ giữa Nga và Mỹ để lại cho Việt Nam nhiều kinh nghiệm quý báu trong quan hệ quốc tế. Bài học kinh nghiệm thứ nhất là mối quan hệ với các nước lớn. Trong mối quan hệ với các nước lớn, nguyên tắc đầu tiên để đàm phán và tăng cường quan hệ là tôn trọng độc lập chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam. Bên cạnh đó, chúng ta cũng phải mềm dẻo, linh hoạt trong các mối quan hệ quốc tế. Bài học kinh nghiệm thứ hai là không ngừng phát huy nội lực bản thân, đề cao cảnh giác trước các âm mưu và thủ đoạn từ các thế lực bên ngoài, tăng cường khả năng phòng thủ đất nước vì hoà bình không phải là vĩnh viễn. Bài học thứ ba là Việt Nam phải có đường lối đối ngoại đúng đắn, độc lập, luôn xem xét đến mọi biến động của tình hình thế giới để hoạch định những chính sách phù hợp, tận dụng cơ hội để phát triển đất nước. Như vậy, những diễn biến trong quan hệ Nga – Mỹ về các vấn đề liên quan đến các nước thuộc SNG cho chúng ta một cái nhìn chung nhất về sự vận động của quan hệ quốc tế từ sau Chiến tranh Lạnh đến nay. Trong tương lai gần, quá trình tranh giành ảnh hưởng giữa hai cường quốc này ở các nước 98 thuộc SNG nói riêng và các khu vực khác nói chung sẽ còn thu hút sự chú ý của các quốc gia khác cũng như giới nghiên cứu. 99 PHỤ LỤC PHỤ LỤC I: Thương mại hai chiều giữa Nga với các nước thành viên SNG (Đơn vị: tỉ USD) Năm 1991 1992 1993 1994 1995 1996 Khối lượng thương mại của Nga với các nước SNG 114.616 37.824 27.234 24.178 27.770 29.700 Tổng khối lượng ngoại thương của Nga 210.000 117.184 98.388 105.523 126.591 142.900 Tỉ trọng (%) 54.6 32.3 27.7 22.9 21.9 21.0 (Nguồn: Tài liệu 40, tr. 31) PHỤ LỤC II: NHỮNG THÔNG TIN CƠ BẢN VỀ CÁC NƯỚC SNG: 1. Cộng hòa Armenia: - Tên nước: Cộng hòa Armenia - Thủ đô: Yerevan - Ngày quốc khánh: 21 – 9 – 1991 - Diện tích: 29.800 km2 - Vị trí địa lý: Nằm ở Tây Á, thuộc khu vực ngoại Kavkaz, có đường biên giới chung với Ajerbaijan, Grudias, Thổ Nhĩ Kỳ, Iran - Khí hậu: lục địa, nóng về mùa hè, lạnh về mùa đông - Địa hình: nhiều đồi núi, không có biển - Các dân tộc chính: người Armania, người Cuốc, Nga - Tài nguyên thiên nhiên: vàng, đồng, molip đen, kẽm, nhôm 100 - Mặt hàng xuất khẩu chủ yếu: kim cương, máy móc, sản phẩm kim loại, năng lượng, thực phẩm - Mặt hàng nhập khẩu chủ yếu: khí gas, dầu mỏ - Dân số: 2.976.272 người (2006) - Thể chế chính trị: Cộng hòa Tổng thống 2. Cộng hòa Azerbaijan: - Tên nước: Cộng hòa Azerbaijan (The Republic of Azerbaijan) - Thủ đô: Baku - Ngày quốc khánh: 28 – 5 – 1918 (ngày thành lập cộng hòa dân chủ Azerbaijan) - Diện tích:86.600 km2 - Vị trí địa lý: Nằm ở Tây Nam châu Á, giữa nga và Iran, giáp với khu vực Kavkaz, biên giới giữa Armenia và Ajerbaijan, giữa Armenia với khu tự trị Narcivan thuộc Ajerbaijan, biên giới với Grudia, Iran và Ajerbaijan, Iran và khu tự trị Narcivan, Nga và Ajerbaijan, Ajerbaijan và Thổ Nhĩ Kì. - Khí hậu: khô ráo - Địa hình: rộng lớn, có đồng bằng giáp biển với 800 km bờ biển Kaspien, dãy núi Kavkaz ở phía Bắc, vùng đất cao Karabakh ở phía Tây - Các dân tộc chính: người Ajerbaijan, Nga, Daghestan, Armenia - Tài nguyên thiên nhiên: dầu mỏ, khí đốt, sắt, nhôm - Mặt hàng xuất khẩu chủ yếu: dầu mỏ, khí đốt, máy móc, bông, thực phẩm - Mặt hàng nhập khẩu chủ yếu: kim loại, hóa chất, các sản phẩm dầu - Dân số: 7.961.619 người (2006) - Thể chế chính trị: Cộng hòa Tổng thống 101 3. Cộng hòa Belarus - Tên nước: Cộng hòa Belarus - Thủ đô: Minsk - Ngày quốc khánh: 3 – 7 – 1944 (ngày thủ đô Minsk được giải phóng trong Chiến tranh thế giới thứ hai - Diện tích: 207.600 km2 - Vị trí địa lý: nằm ở phần phía Đông châu Âu, có đường biên giới chung với các nước Nga, Ucraina, Ba Lan, Latvia, Litva; tuy không có biển nhưng Belarus có vị trí địa chính trị quan trọng bởi đây là một trong những tuyến chính nối Nga với Tây Âu - Khí hậu: ôn đới, thuộc vùng chuyển tiếp giữa khí hậu lục địa và khí hậu biển nên mùa đông lạnh, mùa hè mát và ẩm ướt - Các dân tộc chính: người Belarus, Nga, Ba La, Ucraina - Tài nguyên thiên nhiên: rừng, than bùn, một số lượng ít dầu và khí thiên nhiên - Mặt hàng xuất khẩu chủ yếu: máy móc, thiết bị, khoáng sản, hóa chất, kim loại, dệt may - Mặt hàng nhập khẩu chủ yếu: thực phẩm, dầu mỏ, khí thiên nhiên - Dân số: 9.771.300 người (2006) - Thể chế chính trị: Cộng hòa 4. Cộng hòa Grudia - Tên nước: Cộng hòa Grudia (Georgia) - Thủ đô: Tbilisi - Ngày quốc khánh: 26 – 5 - 1919 - Diện tích: 69.700 km2 102 - Vị trí địa lý: Tây Nam Á, bên bờ biển Kaspien, nằm giữa Nga và Thổ Nhĩ Kỳ, có chung biên giới với Armenia, Ajerbaijan, Nga, Thổ Nhĩ Kỳ - Khí hậu: cận nhiệt đới - Địa hình: chủ yếu là đồi núi, rừng chiếm 39% diện tích - Các dân tộc chính: người Grudia, Azeri, Armenai, Nga - Tài nguyên thiên nhiên: rừng, thủy điện, mangan, đồng, sắt - Mặt hàng xuất khẩu chủ yếu: máy móc, hóa chất, nhiên liệu tái xuất khẩu - Mặt hàng nhập khẩu chủ yếu: nhiên liệu, máy móc và các bộ phận, thiết bị giao thông, lúa mì - Dân số: 4.661.473 người (2006) - Thể chế chính trị:Cộng hòa Tổng thống 5. Kazakhstan - Tên nước: Cộng hòa Kazakhstan (The Republic of Kazakhstan) - Thủ đô: Astana - Ngày quốc khánh: 25 – 10 - 1990 - Diện tích: 2.717.300 km2 - Vị trí địa lý: thuộc Trung Á, nằm giữa Nga và Uzbekistan, có đường biên giới giáp với Trung Quốc, Kyrgystan, Nga, Turmenistan, Uzbekistan, giáp với biển Chết và biển Kaspien. - Khí hậu: lục địa, mùa hè nóng, mùa đông lạnh và khô. - Địa hình: trải dài từ sông Vonga đến núi Antai, từ đồng cỏ phía Tây Siberia đến các ốc đảo và sa mạc Trung Á - Các dân tộc chính: người Kazakh, Nga,Ucraina, Đức, Tây tạng Trung Quốc - Tài nguyên thiên nhiên: dầu mỏ, khí đốt tự nhiên, than đá, sắt, mangan, kẽm, boxit, vàng, uranium 103 - Mặt hàng xuất khẩu chủ yếu: dầu mỏ và các sản phẩm từ dầu mỏ, kim loại màu, hóa chất - Mặt hàng nhập khẩu chủ yếu: máy móc thiết bị, sản phẩm kim loại, thực phẩm - Dân số: 15.233.300 người - Thể chế chính trị: Chế độ Cộng hòa 6. Kyrgystan - Tên nước: Cộng hòa Kyrgystan - Thủ đô: Biskkek - Ngày quốc khánh: 31 – 8 - 1991 - Diện tích: 198.500 km2 - Vị trí địa lý: thuộc Trung Á, không có biển, chung đường biên giới với Trung Quốc, Kazakhstan, Tajikistan, Uzbekistan. - Địa hình: có nhiều thung lũng và lòng chảo, thảo nguyên, rừng, sông và hồ - Khí hậu: lục địa khô, cận nhiệt đới - Các dân tộc chính: người Kyrgyz, Nga, Uzbech, Ucraina - Tài nguyên thiên nhiên: thủy điện, vàng, than, dầu, khí đốt, thủy ngân - Mặt hàng xuất khẩu chủ yếu: vải bông, len, thịt, vàng, thủy ngân, khí ga tự nhsiên - Mặt hàng nhập khẩu chủ yếu: máy móc và thiết bị, hóa chất, thực phẩm - Dân số: 5.213.898 người (2006) - Thể chế chính trị: Cộng hòa Tổng thống 104 7. Moldova - Tên nước: Cộng hòa Moldova - Thủ đô: Chisinev - Ngày quốc khánh: 27 – 8 - 1991 - Diện tích: 33.700 km2 - Vị trí địa lý: thuộc Đông Nam châu Âu, giữa hai con sông Dnhiev và Pơrus, có biên giới chung với Ucraina và Rumania - Địa hình: thảo nguyên nhấp nhô, thấp dần về phía nam ra biển Đen - Khí hậu:mùa đông ôn hòa, mùa hè ấm áp - Các dân tộc chính: người Moldova, Ucraina, Nga, Bungari - Tài nguyên thiên nhiên: than nâu, photpho, thạch cao, đá vôi - Mặt hàng xuất khẩu chủ yếu: thực phẩm, dệt may, máy móc - Mặt hàng nhập khẩu chủ yếu: khoáng sản và nhiên liệu, hóa chất - Dân số: 4.466.706 người - Thể chế chính trị: Cộng hòa Tổng thống 8. Tajikistan - Tên nước: Cộng hòa Tajikistan - Thủ đô: Dusanbe - Ngày quốc khánh: 9 – 9 - 1991 - Diện tích: 143.100 km2 - Vị trí địa lý: thuộc Trung Á, phía Tây của Trung Quốc, không có biển, chung đường biên giới với Trung Quốc, Afganistan, Kyrgystan, Uzbekistan - Khí hậu: lục địa, nóng về mùa hè, ấm áp về mùa đông - Các dân tộc chính: người Tajis, Uzbech, Nga - Tài nguyên thiên nhiên: thủy điện, dầu lửa, uranium, thủy ngân, than nâu, chì, kẽm, vonfram 105 - Mặt hàng xuất khẩu chủ yếu: nhôm, điện, bông, hoa quả, dầu thực vật, hàng dệt may - Mặt hàng nhập khẩu chủ yếu: các sản phẩm dầu mỏ, máy móc thiết bị, thực phẩm - Dân số: 7.320.815 người (2006) - Thể chế chính trị: Cộng hòa Tổng thống 9. Turkmenistan - Tên nước: Turkmenistan - Thủ đô: Ashgabad - Ngày quốc khánh: 27 – 10 - 1991 - Diện tích: 488.100 km2 - Vị trí địa lý: phía Bắc giáp Kazakhstan và Uzbekistan, phía Đông Nam giáp Afganistan, phía Nam giáp Iran, phía Tây giáp biển Kaspien - Các dân tộc chính: người Turmeni, Nga, Uzbech - Tài nguyên thiên nhiên: khí đốt, dầu lửa, than đá, muối mỏ - Mặt hàng xuất khẩu chủ yếu: khí ga, dầu thô, hóa chất dầu, sợi bông - Mặt hàng nhập khẩu chủ yếu: máy móc và thiết bị, hóa chất, thực phẩm - Dân số: 5.042.920 người (2006) - Thể chế chính trị: Cộng hòa Tổng thống 10. Ucraina - Tên nước: Ucraina - Thủ đô: Kiev - Ngày quốc khánh: 24 – 8 - 1991 - Diện tích: 603.700 km2 106 - Vị trí địa lý: Đông Nam châu Âu, chung đường biên giới với Belarus, Hungaria, Moldova, Ba Lan, Rumania, Nga, Slovakia - Các dân tộc chính: người Ucraina, Nga, Belarus, Moldova, Tarta, Bugaria, hungaria, Rumania, Ba Lan, Do Thái - Tài nguyên thiên nhiên: quặng sắt, than đá, mangan, khí ga tự nhiên, dầu, muối, đường, lưu huỳnh, thủy ngân - Mặt hàng xuất khẩu chủ yếu: kim loại đen và kim loại màu, máy móc và thiết bị vận tải, các sản phẩm lương thực - Mặt hàng nhập khẩu chủ yếu: năng lượng, máy móc và thiết bị - Dân số: 49.465000 người (2004) - Thể chế chính trị: Cộng hòa Nghị viện – Tổng thống 11. Uzbekistan - Tên nước: Cộng hòa Uzbekistan - Thủ đô: Tashtken - Ngày quốc khánh: 1 – 9 - 1991 - Diện tích: 447.400 km2 - Vị trí địa lý: trung tâm Trung Á, đường biên giới giáp với Afganistan, Kazakhstan, Kyrgystan, Tajikistan, Turmenistan, Uzbekistan, không có biển. - Khí hậu: sa mạc, mùa hè nóng, mùa đông lạnh - Các dân tộc chính: Uzbech, Nga, Tajis, Cazakh, Tarta - Tài nguyên thiên nhiên: khí ga tự nhiên, dầu mỏ, than đá, vàng, uranium - Mặt hàng xuất khẩu chủ yếu: vàng, các sản phẩm năng lượng, kim loại đen - Mặt hàng nhập khẩu chủ yếu: máy móc và thiết bị, thực phẩm, hóa chất, kim loại - Dân số: 27.307.134 người (2006) 107 - Thể chế chính trị: Chế độ Cộng hòa 12. Liên bang Nga: - Tên nước: Liên bang Nga (Russia Federation) - Thủ đô: Moscow - Ngày quốc khánh: 12 – 6 – 1990 - Diện tích: 17.075.400 km2 - Vị trí địa lý: Trải dài trên hai lục địa Âu – Á, biên giới chung với Trung Quốc, Ajerbaijan, Belarus, Estonia, Phần Lan, Grudia, Kazakhstan, Bắc Triều Tiên, Latvia, Litva, Mông Cổ, Ba Lan, Na Uy, Ucraina - Các dân tộc chính: Nga, Tarta, Ucraina - Tài nguyên thiên nhiên: dầu mỏ, khí gas, than đá, gỗ và nhiều khoáng sản khác - Mặt hành xuất khẩu chủ yếu: dầu mỏ và các sản phẩm từ dầu mỏ, khí gas tự nhiên, gỗ và các sản phẩm gỗ, kim loại, hóa chất - Mặt hành nhập khẩu chủ yếu: máy móc và thiết bị, hàng tiêu dùng, các sản phẩm kim loại tinh chế - Dân số: 142.400 000 người (2006) - Thể chế chính trị: Liên bang 108 Bản đồ chi tiết Nam Osettia Nguồn : www.http:// wikipedia.com Bản đồ khu vực Chesnhia và Kavkaz Nguồn : www.http:// wikipedia.com 109 110 111 TÀI LIỆU THAM KHẢO Tiếng Việt 1. Z.Brzezinski (1999), Bàn cờ lớn, Nxb Chính trị quốc gia, HN. 2. Mai Hoàng Anh (2001), “Những nét cơ bản trong chính sách đối ngoại của Tổng thống G.Bush”, Châu Mỹ ngày nay, (4), tr.56-59. 3. Hồ Châu (1999), “Chiến lược toàn cầu hướng tới thế kỷ XXI của Mỹ”, Châu Mỹ ngày nay, (2), tr.32. 4. Hồ Châu (2002), “Tam giác Mỹ – Nga – Trung đầu thế kỷ XXI”, Châu Mỹ ngày nay, (2), tr.48-52. 5. Hồ Châu (2001), “Chiến lược đối ngoại của Nga dưới thời Tổng thống Putin”, Nghiên cứu châu Âu, (23), tr.17-23. 6. Hồ Châu (1996), “Con đường sang phía Đông của NATO”, Nghiên cứu châu Âu,(12), tr.9. 7. Hồ Châu (2005), “Chiến lược Á-Âu của Mỹ từ sau Chiến tranh lạnh-nhìn từ góc độ địa-chính trị”, Nghiên cứu châu Âu, (1), tr.19-26. 8. Trần Mai Chi (1998), “Mỹ và cuộc chiến dầu lửa ở Kaspien”, Châu Mỹ ngày nay, (4), tr.55. 9. “Chiến lược vũ khí hạt nhân mới trong chính sách ngoại giao đơn phương của Hoa Kỳ” (2002), Châu Mỹ ngày nay, (4), tr.65-67. 10. Lý Thực Cốc (1996), Mỹ thay đổi lớn chiến lược toàn cầu, Nxb Chính trị quốc gia, HN. 11. David G Victor và Nadejda M,Victor (2003), “Trục dầu mỏ?”, Châu Mỹ ngày nay, (5), tr.44-50. 12. Liễu Xuân Đài (2006), “Triển vọng kinh tế và ngân sách Mỹ trong thời gian 2006-2016”, Châu Mỹ ngày nay, (7), tr.14-16. 112 13. Nguyễn An Hà (2001), “Quá trình tái liên kết kinh tế của các nước SNG- triển vọng của một khu vực thương mại tự do”, Nghiên cứu châu Âu, (1), tr.29-35. 14. Đỗ Thanh Hải (2005), “Cạnh tranh ảnh hưởng Mỹ – Nga ở Trung Á và Kavkaz sau sự kiện 11/9”, Châu Mỹ ngày nay, (7), tr.29-36. 15. Học viện Quan hệ quốc tế (2003), Quan hệ của Mỹ với các nước lớn trong khu vực châu Á - Thái Bình Dương, Nxb Chính trị quốc gia, HN. 16. Lê Phụng Hoàng (2005), Lịch sử quan hệ quốc tế ở châu Âu trong Chiến tranh lạnh (1949-1991), ĐHSP.TPHCM, Tài liệu lưu hành nội bộ. 17. Lê Phụng Hoàng (2007), Lịch sử quan hệ quốc tế sau Chiến tranh thế giới thứ hai, tập II, ĐHSP. TPHCM, Tài liệu lưu hành nội bộ. 18. Hà Mỹ Hương (2003), Quan hệ Nga – Mỹ sau Chiến tranh lạnh, Nxb Chính trị quốc gia, HN. 19. Hà Mỹ Hương (1996), “Nhìn lại quá trình liên kết giữa Liên bang Nga với các nước trong khối SNG”, Nghiên cứu châu Âu, (8), tr.34. 20. Hà Mỹ Hương (2001), “Nước Nga trong cuộc tìm kiếm đối tác tin cậy sau Chiến tranh lạnh”, Nghiên cứu châu Âu, (6), tr.51-59. 21. Hà Mỹ Hương, Nước Nga hậu Xô viết. Tạp chí Cộng sản điện tử, http//www.tapchicongsan.org.vn. (cập nhật: 8.00 ngày 22/8/2009). 22. Hungtington Samuel, Nguyễn Phương Sửu dịch (2003), Sự va chạm của các nền văn minh, NXB Lao động, HN. 23. James C.Hsiung (2004), “Tam giác chiến lược: những động thái giữa Trung Quốc, Nga và Mỹ”, Châu Mỹ ngày nay, (8), tr.41-45. 24. Joseph S.Nye Jr (1999), “Chính sách an ninh của Hoa Kỳ: các thách thức đối với thế kỷ XXI”, Châu Mỹ ngày nay, (4), tr.38. 113 25. Lương Văn Kế, (2007), Thế giới đa chiều, Lý thuyết và kinh nghiệm nghiên cứu khu vực, chuyên khảo, NXB Thế giới, HN. 26. Trần Bá Khoa (1999), “NATO và chiến lược mới”,Châu Mỹ ngày nay, (3), tr.34. 27. Nguyễn Văn Lập (2002), Quan hệ Nga – Mỹ: vừa là đối tác, vừa là đối thủ, Nxb Thông tấn, HN. 28. Thái Văn Long (2002), “Những động thái mới trong chính sách đối ngoại của Liên bang Nga với Mỹ và NATO thời gian gần đây”, Nghiên cứu châu Âu, (2), tr.49-53. 29. Nguyễn Thị Luyến (2004), “Một số vấn đề liên quan đến cuộc chiến ở Chesnhia”, Nghiên cứu châu Âu, (3), tr.37-47. 30. Bùi Hà Nam (2003), “Tìm hiểu chính sách đối ngoại của Mỹ đối với tiến trình mở rộng NATO trong những năm 1990”, Châu Mỹ ngày nay, (6), tr.34-42. 31. Nguyễn Thị Hoài Phương (2000), “Chính sách của Nga đối với Mỹ từ khi độc lập đến nay”, Nghiên cứu châu Âu, (4), tr.51-56. 32. E.Primacov (2001), Những tháng năm trong nền chính trị lớn, Nxb Công an nhân dân, HN. 33. Đỗ Trọng Quang (2007), “Chiến lược của Nga ở khu vực Trung Á”, Nghiên cứu châu Âu, (11), tr.14-24. 34. Nguyễn Thị Quế (2005), “Tầm quan trọng của châu Âu đối với Mỹ sau Chiến tranh lạnh”, Nghiên cứu châu Âu, (6), tr.16-21. 35. Randall B.Ripley và James M.Lindsay (2002), Chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ sau Chiến tranh lạnh, Nxb Chính trị quốc gia, HN. 36. Nguyễn Thị Huyền Sâm (2001), “Vài nét về chính sách đối ngoại của Nga trước sự mở rộng sang phía Đông của NATO”, Nghiên cứu châu Âu, (3), tr.14-16. 114 37. Nguyễn Cơ Thạch, (1998), Thế giới trong 50 năm qua (1945 – 1995) và thế giới 25 năm tới (1996 – 2020), NXB Chính trị Quốc gia, HN. 38. Nguyễn Anh Thái (2003), Lịch sử thế giới hiện đại, Nxb Giáo dục, HN. 39. Nguyễn Đức Thắng (2007), “Âm mưu, thủ đoạn của Mỹ và phương Tây tiến hành “cách mạng màu sắc” ở các nước Trung Á và Đông Âu”, Nghiên cứu châu Âu, (5), tr.14-20. 40. Thomas J.Mc Cormick (2004), Nước Mỹ nửa thế kỷ: chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ trong và sau Chiến tranh lạnh, Nxb Chính trị quốc gia, HN. 41. Nguyễn Quang Thuấn (chủ biên) (2007), Cộng đồng các Quốc gia độc lập-quá trình hình thành và phát triển, Nxb Khoa học xã hội, HN. 42. Nguyễn Quang Thuấn (1995), “Kinh tế đối ngoại Nga - những vấn đề tái liên kết kinh tế các nước SNG”, Nghiên cứu châu Âu, (1), tr.49. 43. Lê Bá Thuyên (1997), Hoa Kỳ cam kết và mở rộng, Nxb Khoa học xã hội, HN. 44. Lê Bá Thuyên (1998), “Hoa Kỳ và chiến lược quân sự đến 2015”, Châu Mỹ ngày nay, (5), tr.48. 45. Lê Bá Thuyên (1997), “Châu Âu trong chiến lược toàn cầu cam kết và mở rộng của Mỹ”, Nghiên cứu châu Âu, (2), tr.8. 46. Đinh Công Tuấn (2003), “Quan điểm của Mỹ – Nga về vấn đề Chechnya”, Nghiên cứu châu Âu, (2), tr.3-7. 47. Nguyễn Vũ Tung, (2008), Chiến lược toàn cầu của Mỹ sau Chiến tranh lạnh, Châu Mỹ ngày nay, (4), tr 40 – 48. 48. B.Yeltsin (1995), Những ghi chép của Tổng thống, Nxb Chính trị quốc gia, HN. 115 49. Phạm Ngọc Uyển (1996), “Nga với sự mở rộng NATO về phía Đông”, Nghiên cứu châu Âu, (8), tr.29. 50. Phạm Ngọc Uyển (1997), “Đánh giá quan hệ Mỹ – Nga từ 1991 đến nay”, Nghiên cứu châu Âu, (13), tr.57. 51. Lê Thanh Vạn (2001), “Chính sách đối ngoại của Tổng thống Putin sau 1 năm cầm quyền (26/3/2000-26/3/2001)”, Nghiên cứu châu Âu, (2), tr32-38. 52. TTXVN, Ảnh hưởng của việc NATO mở rộng về phía Đông, TLTKĐB, 13 – 8 - 2004. 53. TTXVN, B.Clinton: Thông điệp Liên bang năm 1997, TTXVN, TLTKĐB, 4 – 4 - 1997. 54. TTXVN, Ba nước Slavơ lập liên minh kinh tế, TLTKĐB, 19 – 7 - 1993. 55. TTXVN, Bảy công việc chủ yếu của chính phủ Nga, TTXVN, TLTKĐB, 7 – 11 - 1997. 56. TTXVN, Bốn đặc điểm lớn tình hình thế giới sau Liên Xô, TLTKĐB, 8 – 2 - 1992. 57. TTXVN, Bước ngoặt mới trong chính sách của Mỹ, TLTKĐB, 6 – 12 - 1995. 58. TTXVN, Các nước Cộng hòa thuộc Liên Xô cũ xếp hàng xin viện trợ Mỹ, TLTKĐB, 15 – 3 - 1994. 59. TTXVN, Cảnh báo sự tái tập trung quyền lực của SNG, TLTKĐB, 25 – 3 - 1992. 60. TTXVN, Chiến lược an ninh quốc gia của Nga, TLTKĐB, 27 – 1 - 2000. 61. TTXVN, Chiến lược an ninh mới của Mỹ ở châu Âu, TLTKĐB, 20 – 4 - 1994. 62. TTXVN, Chính sách chống NATO của Nga: hậu quả và triển vọng, TLTKĐB, 25 – 3 - 1998. 116 63. TTXVN, Chính sách của Mỹ sau sự kiện 11/9, TLTKĐB, 15 – 5 - 2002. 64. TTXVN, Chính sách đối ngoại của Liên bang Nga, TLTK, số 6, 2002. 65. TTXVN, Chính sách đối ngoại của Nga: thời kỳ tự nguyện phụ thuộc vào phương tây đã chấm dứt, TLTKĐB, 6/12/1995. 66. TTXVN, Chính sách của nước Nga ở Trung Á, TLTKĐB, 24 – 3 - 1994. 67. TTXVN, Cuộc tìm kiếm thị trường mới ở các nước Cộng hòa Trung Á, TLTKĐB, 30 – 1 - 1992. 68. TTXVN, Gruzia – khu vực lợi ích của Nga, TLTKĐB, 18 - 7 - 1994. 69. TTXVN, Hiệp ước về Liên hiệp Belarus – Nga, TLTKĐB, 8 – 4 - 1997. 70. TTXVN, Mỹ chuyển hướng chiến lược, TLTKĐB, 10 - 1 - 1992. 71. TTXVN, Mỹ đã vào sân sau của Liên bang Nga, TLTKĐB, 3 – 12 - 1993. 72. TTXVN, Mỹ điều chỉnh chính sách đối với châu Á – Thái Bình Dương, TLTKĐB, 15/3/95). 73. TTXVN, Mỹ điều chỉnh chính sách đối với Nga, TLTKĐB, 25 - 3 - 1994. 74. TTXVN, Nga chơi trò dầu khí để giải quyết các vấn đề địa – chính trị, TLTKĐB, 7-1-2006. 75. TTXVN, Ngoại giao năng lượng phương Đông của Nga, Tin tham khảo chủ nhật, 22/10/06) 76. TTXVN, Nhặt những mảnh vỡ, TLTKĐB, 31 – 1 - 1992. 77. TTXVN, Những đồng minh tiềm tàng của Nga là ai?, TLTKĐB, 14 – 3 - 1996. 78. TTXVN, Quân sự Nga – Mỹ, TLTKĐB, 14 – 1 - 1997. 79. TTXVN, Thế giới mới, TLTKĐB, 8 - 2 - 1992. 80. TTXVN, Thông điệp Liên bang của các Tổng thống Nga và Mỹ hàng năm. 81. TTXVN, Thông điệp Liên bang của Tổng thống Bush, TLTKĐB, 11, 12, 13 – 2 – 1992. 117 82. TTXVN,Triển vọng mở rộng NATO và lợi ích của nước Nga, TLTKĐB, 6 – 12 - 1993. 83. TTXVN, Về chính sách đối ngoại của Nga, TLTKĐB, 14 – 10 - 1992. 84. TTXVN, Xung quanh cuộc gặp thượng đỉnh Nga – NATO, TLTKĐB, 3- 6-2002. 85. TTXVN, TLTKĐB, 12-4-1993. 86. Tiếng Anh 87.Agnew J. (1998), Geopolitics: Re – Visioning World Politics, Routledge, New York 88. 89. The Nation Security Stratery of the United States of America. ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfLA7644.pdf