BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH
Đinh Thị Huê
LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ
Thành phố Hồ Chí Minh - 2009
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH
Đinh Thị Huê
Chuyên ngành: Lịch sử thế giới
Mã số: 60 22 50
LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS - TS. NGUYỄN CẢNH HUỆ
Thành phố Hồ Chí Minh - 2009
Lời cảm ơn
Luận văn này được hoàn thành tại khoa Lịch sử - Trường Đại học Sư
phạm Thành phố Hồ Chí Minh.
Tôi x
122 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1882 | Lượt tải: 3
Tóm tắt tài liệu Quá trình tranh giành ảnh hưởng giữa Nga và Mỹ ở các nước thuộc SNG thời kỳ sau chiến tranh lạnh, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
in bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới PGS – TS Nguyễn Cảnh Huệ đã
tận tình giúp đỡ, hướng dẫn tôi trong suốt quá trình xây dựng và hoàn thành
luận văn.
Tôi cũng xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới các thầy giáo, cô giáo
trong khoa Lịch sử, Phòng Khoa học Công nghệ - Sau Đại học thuộc trường
Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh đã nhiệt tình giảng dạy, đóng góp
những ý kiến quý báu trong suốt quá trình tôi hoàn thiện luận văn.
Cuối cùng, tôi xin gửi lời cảm ơn tới Ban giám hiệu, các thầy cô và bạn
bè đồng nghiệp trường Cao đẳng Sư phạm Đồng Nai cùng gia đình đã tạo
điều kiện và giúp đỡ tôi trong suốt quá trình học và hoàn thành luận văn này.
Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 5 tháng 10 năm 2009
Đinh Thị Huê
MỤC LỤC
Trang phụ bìa
Lời cảm ơn
Mục lục
Danh mục các chữ viết tắt
MỞ ĐẦU ................................................................................................................ 1
Chương 1:CÁC NƯỚC THUỘC SNG TRONG CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI
CỦA NGA VÀ MỸ ............................................................................... 9
1.1. Khái quát về các nước thuộc SNG .............................................................. 9
1.1.1. Vị trí địa – chính trị............................................................................. 9
1.1.2. Tiềm năng kinh tế ............................................................................. 12
1.2.Các nước thuộc SNG trong chính sách đối ngoại của Nga và Mỹ............. 14
1.2.1.Các nước thuộc SNG trong chính sách đối ngoại của Nga................. 14
1.2.2.Các nước thuộc SNG trong chính sách đối ngoại của Mỹ.................. 22
Chương 2: QUÁ TRÌNH TRANH GIÀNH ẢNH HƯỞNG GIỮA NGA
VÀ MỸ Ở CÁC NƯỚC THUỘC SNG SAU CHIẾN TRANH
LẠNH .................................................................................................. 28
2.1. Vấn đề dầu mỏ, khí đốt ............................................................................ 28
2.2. Cách mạng màu sắc................................................................................... 39
2.3. Vấn đề mở rộng NATO sang phía Đông................................................... 53
2.4. Vấn đề Chesnhia........................................................................................ 61
2.5. Vấn đề Nam Osettia .................................................................................. 68
Chương 3: NHẬN XÉT VỀ QUÁ TRÌNH TRANH GIÀNH ẢNH
HƯỞNG GIỮA NGA VÀ MỸ Ở CÁC NƯỚC THUỘC SNG
VÀ TRIỂN VỌNG CỦA VẤN ĐỀ.............................................. 79
3.1. Nhận xét về quá trình tranh giành ảnh hưởng giữa Nga và Mỹ ở các nước
thuộc SNG...................................................................................................... 79
3.2. Triển vọng của vấn đề ............................................................................... 86
KẾT LUẬN.......................................................................................................... 95
PHỤ LỤC............................................................................................................. 99
TÀI LIỆU THAM KHẢO................................................................................ 111
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
EPP (Easternt Partnership Program): Chương trình đối tác phương Đông
EU (Europe Union): Liên minh châu Âu
G8 (Group 8): Tổ chức các nước phát triển
IAEA (International Atomic Energy Agency): Cơ quan năng lượng
nguyên tử quốc tế
NATO (North Atlantic Treaty Organization): Hiệp ước quân sự Bắc Đại
Tây Dương
NGOs (Non – Government Organization): Tổ chức phi chính phủ
OPEC (Organization Petrol Export Country): Tổ chức các nước xuất
khẩu dầu mỏ
OSCE (Organization Security Cooperation Europe): Tổ chức an ninh và
hợp tác châu Âu
PACE (Europen Parliament Subcommitee): Uỷ ban Nghị viện châu Âu
SCO (Shanghai Convention Organization): Tổ chức Hiệp ước Thượng Hải
SNG/CIS (Commonwealth of Independent States): Cộng đồng các quốc
gia độc lập
TBCN: Tư bản chủ nghĩa
XHCN: Xã hội chủ nghĩa
1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong lịch sử quan hệ quốc tế từ cổ đại đến hiện đại, mối quan hệ giữa
các nước lớn luôn là mối quan hệ chi phối cục diện thế giới, ảnh hưởng đến
tình hình chính trị quốc tế. Trong thời kỳ Chiến tranh lạnh (1947-1991), trật
tự thế giới hai cực Xô-Mỹ luôn đặt thế giới trong tình trạng chiến tranh. Cuối
thập niên 80 của thế kỷ XX, Chiến tranh lạnh kết thúc, tiếp theo đó là sự tan
vỡ của Liên Xô – thành trì của Chủ nghĩa xã hội trên thế giới – đã đưa đến sự
thay đổi lớn lao trong cục diện thế giới. Trật tự thế giới theo thể chế hai cực
Yalta không còn tồn tại nữa, nhường chỗ cho một trật tự thế giới mới đang
dần được hình thành. Trật tự thế giới trong tương lai được dự đoán sẽ phát
triển theo xu hướng đa cực hóa, cùng tồn tại và phát triển, song cũng có
những mâu thuẫn hết sức gay gắt, quyết liệt giữa các nước, các khu vực với
nhau. Mỗi dân tộc đều vì lợi ích của dân tộc mình cạnh tranh gay gắt với nhau
để đạt được một địa vị thích hợp trong cục diện thế giới tương lai. Là hai
nước lớn trên thế giới, Nga và Mỹ cũng không nằm ngoài xu thế phát triển đó.
Mỹ – siêu cường số một thế giới, ngày càng tìm cách mở rộng phạm vi
ảnh hưởng của mình tới mọi khu vực trên thế giới nhằm khẳng định hơn nữa
vai trò của mình đối với thế giới. Trong những khu vực Mỹ hướng tới, vùng
lãnh thổ thuộc Cộng đồng các Quốc gia độc lập (SNG) là nơi Mỹ đặt ưu tiên
khá lớn nhằm tranh giành ảnh hưởng với Nga.
Nước Nga – tuy nằm trong hoàn cảnh bất ổn về kinh tế và chính trị từ
sau sự sụp đổ của Liên Xô, song vẫn là một cường quốc về quân sự và có
tiềm lực mạnh về kinh tế. Với tham vọng khôi phục lại địa vị trên trường quốc
tế của Liên Xô trước đây, Nga cũng tăng cường mở rộng phạm vi ảnh hưởng
ra các khu vực trên thế giới, thiết lập các mối quan hệ rộng rãi, có lợi cho
mình trong quan hệ quốc tế.
2
Trong suốt thời kỳ Chiến tranh lạnh, quan hệ giữa hai cường quốc Liên
Xô và Mỹ là quan hệ đối đầu căng thẳng với liên tiếp những cuộc chạy đua vũ
trang. Cũng trong thời kỳ này, vùng ảnh hưởng của mỗi nước được phân chia
rõ ràng và là vùng “bất khả xâm phạm” của đối phương. Liên Xô tạo ảnh
hưởng mạnh mẽ đối với Đông Âu, các nước XHCN và đặc biệt ở các nước
Cộng hòa thuộc Liên bang Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Xô viết. Ngược lại,
Mỹ có ảnh hưởng tại Tây Âu và các nước TBCN khác.
Sau khi Liên Xô tan rã, các nước Cộng hòa trong Liên bang Cộng hòa
Xã hội chủ nghĩa Xô viết lần lượt tách ra khỏi Liên Xô và tuyên bố độc lập.
Mười hai trong số mười lăm nước tập hợp lại trong Cộng đồng các quốc gia
độc lập (SNG), trừ ba nước Baltic. Mặc dù tuyên bố độc lập nhưng tình hình
ở các nước này luôn bất ổn về chính trị, yếu kém về kinh tế. Trong hoàn cảnh
nước Nga chưa thoát khỏi khủng hoảng, vùng này trở thành một “khoảng
trống quyền lực”. Mỹ muốn tạo ảnh hưởng của mình lên khu vực này để kiềm
chế Nga, tiến sát biên giới Nga. Do đó, Mỹ muốn giữ được địa vị cũ cần có sự
điều chỉnh đường lối đối ngoại, tăng cường chính sách ngoại giao với các
nước, tăng cường ảnh hưởng của mình đối với các khu vực trên thế giới.
Nước Nga không từ bỏ tham vọng trở thành một trong những cực quan trọng
của cục diện thế giới tương lai, điều này càng được biểu hiện rõ rệt dưới thời
Tổng thống V.Putin.
Khu vực thuộc lãnh thổ các nước SNG (bao gồm mười hai nước Cộng
hòa thuộc Liên Xô cũ) hiện nay đang phải đối mặt với nhiều vấn đề như xung
đột sắc tộc, bất ổn về chính trị, sự lạc hậu về kinh tế, đặc biệt là thiếu nguồn
vốn để khai thác có hiệu quả các nguồn tài nguyên vô cùng giàu có. Để giải
quyết được những vấn đề trên, bên cạnh nội lực bản thân, các nước này cần
dựa vào sự giúp đỡ từ bên ngoài. Lợi dụng tình hình đó, các nước lớn không
ngừng can thiệp để tìm kiếm lợi ích trên tất cả các mặt.
3
Tranh giành ảnh hưởng Nga - Mỹ ở khu vực thuộc lãnh thổ các nước
SNG thời kỳ sau Chiến tranh lạnh là một vấn đề mang tính thời sự, có tính
thực tiễn cao. Đây là một nội dung mới trong lịch sử quan hệ quốc tế hiện đại,
chưa được đề cập nhiều trong các giáo trình, tài liệu chuyên khảo.
Tìm hiểu quá trình tranh giành ảnh hưởng Nga – Mỹ ở vùng lãnh thổ
thuộc các nước SNG thời kỳ sau Chiến tranh lạnh góp phần bổ sung nguồn
kiến thức về quan hệ quốc tế nói chung và quan hệ quốc tế hiện đại nói riêng,
phục vụ cho công tác nghiên cứu khoa học và công tác giảng dạy.
Với những lý do trên, chúng tôi chọn đề tài “Quá trình tranh giành ảnh
hưởng giữa Nga và Mỹ ở các nước thuộc SNG thời kỳ sau Chiến tranh lạnh”
làm đề tài luận văn tốt nghiệp cao học. Trong khuôn khổ có hạn của luận văn
và giới hạn nhận thức chủ quan, chúng tôi chỉ mong muốn bước đầu tìm hiểu
một cách có hệ thống cuộc tranh chấp giữa hai nước lớn Nga và Mỹ ở vùng
lãnh thổ thuộc các nước SNG thời kỳ từ sau Chiến tranh lạnh đến nay.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
“Quá trình tranh giành ảnh hưởng giữa Nga và Mỹ ở các nước thuộc
SNG thời kỳ sau Chiến tranh lạnh” là vấn đề mang tính thời sự, chưa có công
trình nghiên cứu nào đề cập một cách trọn vẹn vấn đề này. Trong các bài viết
trên các tạp chí chuyên ngành và trong các cuốn sách về chính sách đối ngoại,
quan hệ quốc tế của Nga và Mỹ có phân tích về quá trình tranh chấp ảnh
hưởng giữa hai nước ở khu vực này. Hầu hết những tác phẩm và bài viết chủ
yếu tìm hiểu từng mảng thời gian hoặc không gian cụ thể, hay phân tích chính
sách của Nga và Mỹ đối với tùng khu vực hoặc trong một khoảng thời gian
nhất định.
Một nhóm tác giả thuộc Viện nghiên cứu Châu Âu trong cuốn “Cộng
đồng các Quốc gia độc lập – quá trình hình thành và phát triển” do Nhà xuất
bản Khoa học Xã hội ấn hành năm 2007 (Nguyễn Quang Thuấn chủ biên) đã
4
phân tích bối cảnh ra đời, quá trình phát triển và triển vọng của các nước
SNG. Có thể nói, đây là công trình nghiên cứu mang tính toàn diện về sự phát
triển của Cộng đồng các Quốc gia độc lập. Các tác giả nhấn mạnh vai trò của
Nga đối với tổ chức này. Ngược lại, các nước SNG cũng là ưu tiên số một
trong chính sách đối ngoại của Nga bởi vị trí địa – chính trị và nguồn tài
nguyên thiên nhiên phong phú ở một số nước thuộc Cộng đồng. Trong cuốn
sách có đề cập cuộc tranh giành ảnh hưởng Nga – Mỹ ở các nước này tuy
chưa tập trung. Tuy nhiên, vấn đề này mới được đề cập rải rác trong từng
chương, từng mục của cuốn sách.
“Bàn cờ lớn” là công trình nổi tiếng của học giả, chính trị gia Zbigniew
Brzezinski. Cuốn sách tập trung phân tích, đánh giá tình hình thế giới sau khi
Liên Xô sụp đổ, về sự phân bố địa bàn chính trị thế giới, đặc biệt là “bàn cờ
Âu – Á”, đồng thời đề cao vai trò lãnh đạo thế giới của Mỹ ở hiện tại và cả
trong tương lai. Tác giả khẳng định: “Sự sụp đổ của đế quốc Nga đã tạo ra
một khoảng trống về quyền lực ngay ở trung tâm lục địa Âu – Á”, “lục địa Âu
– Á là một bàn cờ lớn, ở đấy ván cờ đấu tranh giành vị thế đứng đầu toàn cầu
vẫn tiếp tục được chơi”. Tuy nhiên, là một người có tư tưởng chống cộng khét
tiếng, Z.Brzezinski không thể tránh khỏi cái nhìn phiến diện khi nhìn nhận
nhiều vấn đề. Chính trị gia nổi tiếng này cố tình không nhìn thấy xu thế phát
triển của thế giới là đa cực hóa. Mọi cuộc tranh chấp ảnh hưởng của các nước
lớn ở các khu vực, trong đó có tranh giành ảnh hưởng Nga – Mỹ ở vùng lãnh
thổ thuộc các nước SNG đều chịu tác động của nhiều yếu tố khách quan và
chủ quan, do đó Mỹ không dễ dàng đạt được mục đích.
Tác giả Đỗ Thanh Hải trên tạp chí Châu Mỹ ngày nay số 7-8/2005 có
bài viết “Cạnh tranh ảnh hưởng Nga – Mỹ ở Trung Á và Cápcadơ sau sự kiện
11/9”. Bài viết tập trung phân tích những điều chỉnh chính sách của Nga và
Mỹ đối với Trung Á và Cápcadơ sau sự kiện 11/9, trên cơ sở đó đánh giá và
5
dự báo về quá trình cạnh tranh ảnh hưởng giữa hai nước ở khu vực này. Do
khuôn khổ hạn hẹp của một bài báo nên các sự kiện trước 11/9 và những khu
vực khác thuộc không gian hậu Xô viết (Baltic) chưa được phân tích sâu sắc.
Trong các công trình nghiên cứu về mối quan hệ Nga – Mỹ từ sau
Chiến tranh lạnh đến nay phải kể đến công trình “Quan hệ Nga – Mỹ sau
Chiến tranh lạnh” của tác giả Hà Mỹ Hương. Sau khi khái quát lại quan hệ Xô
– Mỹ trong Chiến tranh lạnh và những tiền đề của quan hệ hợp tác Nga – Mỹ
sau Chiến tranh lạnh, tác giả phân tích sự điều chỉnh chính sách đối ngoại của
mỗi nước sau khi Chiến tranh lạnh kết thúc. Đường lối đối ngoại của nước
Nga dưới thời Tổng thống B.Yeltsin lấy “định hướng Đại Tây Dương” và sau
đó là “định hướng Á – Âu” làm trọng tâm. Bước sang thời kỳ V.Putin, lợi ích
dân tộc được đặt lên hàng đầu, các nước thuộc Liên Xô cũ là ưu tiên số một
trong chính sách đối ngoại. Nước Mỹ trong gian đoạn đầu sau Chiến tranh
lạnh, Tổng thống B.Clinton thực hiện chính sách “Cam kết và mở rộng”
(Engagement and Enlargement) nhằm mở rộng mô hình Mỹ ra toàn thế giới.
Bước sang giai đoạn G. Bush, trước những thay đổi mau lẹ của tình hình thế
giới và trong lòng nước Mỹ sau sự kiện 11/9, vị Tổng thống của phái Diều
hâu đưa ra chiến lược “đánh đòn phủ đầu”, tấn công vào những nơi mà Mỹ
cho là có thể tấn công hoặc đe dọa nước Mỹ.
Trên cơ sở phân tích sự điều chỉnh đường lối đối ngoại của hai nước
sau Chiến tranh lạnh, tác giả tìm hiểu quan hệ Nga – Mỹ trên các lĩnh vực
chính trị - an ninh, kinh tế - thương mại, khoa học – công nghệ. Trong lĩnh
vực chính trị - an ninh, hai nước đã có sự hợp tác để giải quyết nhiều vấn đề
quốc tế: vấn đề hạt nhân trên bán đảo Triều Tiên, vấn đề hòa giải ở Trung
Đông…. Bên cạnh sự hợp tác kể trên, Nga và Mỹ vẫn có những bất đồng
chưa thể giải quyết được, trong số đó có khu vực thuộc các nước Liên Xô cũ.
Ở đây, hai nước không thể dung hòa lợi ích của nhau. Mỹ lo sợ Nga sẽ nắm
6
lấy khu vực này làm đối trọng với mình; trong khi Nga coi đây là vùng ảnh
hưởng truyền thống của Nga. Mặc dù có đề cập đến vấn đề các nước SNG và
Baltic trong quan hệ Nga – Mỹ, cuốn sách chưa dẫn ra nhiều sự kiện chứng
minh một cách thuyết phục cho sự tranh chấp của Nga và Mỹ ở khu vực này.
Dù vậy, công trình này là sự gợi ý cho chúng tôi trong khi tìm hiểu vấn đề và
là một tài liệu tham khảo quan trọng.
Năm 2001, sự kiện nước Mỹ bị tấn công làm bàng hoàng nhân dân Mỹ
và thế giới. Tổng thống V.Putin là nguyên thủ quốc gia nước ngoài đầu tiên
gọi điện chia sẻ với Tổng thống và nhân dân Mỹ. Hàng loạt các báo lớn trên
thế giới không bỏ lỡ cơ hội, nhanh chóng có những bài viết phân tích mối
quan hệ Nga – Mỹ trong hoàn cảnh mới. Tác giả Nguyễn Đình Lập đã tổng
hợp những bài viết đó trong cuốn “Quan hệ Nga – Mỹ: vừa là đối tác, vừa là
đối thủ”. Cuốn sách phân tích mối quan hệ Nga – Mỹ trên cơ sở lợi ích và
toan tính chiến lược riêng của mỗi quốc gia. Trong cuốn sách có dành một
phần nói về tranh giành ảnh hưởng Nga – Mỹ ở Trung Á và Cápcadơ. Do tập
trung vào những biến cố từ sự kiện 11/9 trở về sau nên thập kỷ 90 của thế kỷ
XX chưa được tác giả đề cập tới và các khu vực khác của không gian hậu Xô
viết cũng bị bỏ ngõ.
3. Giới hạn đề tài
Chúng tôi không có tham vọng tìm hiểu tất cả mọi cuộc tranh chấp ảnh
hưởng Nga – Mỹ ở tất cả các khu vực trên thế giới. Tên gọi của đề tài chứa
đựng giới hạn của vấn đề chúng tôi cần giải quyết.
Về thời gian, đề tài chỉ giới hạn trong những sự kiện xảy ra từ khi
Chiến tranh lạnh kết thúc đến nay. Những sự kiện trước thập niên 90 của thế
kỷ XX được xem là dẫn nhập của vấn đề.
Về không gian, đề tài giới hạn trong “vùng lãnh thổ thuộc các nước
SNG” – những nước thuộc Liên bang Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Xô viết.
7
Liên bang Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Xô viết bao gồm mười lăm nước, trong
số đó, mười hai quốc gia đã tập hợp lại trong Cộng đồng các Quốc gia độc lập
(SNG), còn lại ba nước Baltic (Latvia, Litva, Estonia). Nga cũng là một thành
phần trong SNG. Tuy nhiên, trong luận văn chúng tôi coi Nga là một chủ thể
của cuộc tranh giành ảnh hưởng, do đó SNG chỉ giới hạn trong mười một
nước còn lại.
4. Phương pháp nghiên cứu
Về mặt phương pháp luận, trong suốt quá trình nghiên cứu, chúng tôi
đứng trên quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh để
phân tích, nhìn nhận và đánh giá vấn đề.
Phương pháp lịch sử và phương pháp logic là hai phương pháp được
chúng tôi sử dụng chủ yếu trong suốt quá trình thực hiện luận văn. Phương
pháp lịch sử được sử dụng nhằm tái hiện lại bức tranh sinh động của quá trình
tranh giành ảnh hưởng giữa Nga và Mỹ ở khu vực thuộc các nước Liên Xô cũ
sau Chiến tranh lạnh. Tranh chấp giữa hai nước diễn ra trên các lĩnh vực kinh
tế, an ninh – chính trị, quân sự.
Trên cở sở bức tranh sinh động ấy, chúng tôi sử dụng phương pháp
logic để rút ra bản chất của vấn đề. Thực chất của tranh chấp Nga – Mỹ ở khu
vực này là tranh giành bá quyền ở “khoảng trống quyền lực”, là muốn tìm
kiếm lợi ích của mỗi nước, quyền lợi của mười một nước còn lại hầu như
không được tôn trọng.
Chúng tôi cũng sử dụng phương pháp nghiên cứu quan hệ quốc tế
nhằm làm rõ những nhân tố quốc tế chi phối đến quá trình tranh giành ảnh
hưởng của Nga và Mỹ trên địa bàn SNG.
5. Đóng góp của luận văn
Luận văn góp phần dựng lại quá trình tranh giành ảnh hưởng giữa Nga
và Mỹ ở vùng lãnh thổ thuộc các nước SNG thời kỳ sau Chiến tranh lạnh.
8
Trên cơ sở đó, chúng tôi rút ra một số nhận xét về quá trình này và những vấn
đề có tính chất lý luận.
Không dừng lại ở đó, chúng tôi cũng dự báo triển vọng của vấn đề,
những kịch bản có thể xảy ra trong quá trình tranh giành ảnh hưởng giữa Nga
và Mỹ ở vùng lãnh thổ thuộc các nước SNG.
Bên cạnh những đóng góp trên, tư liệu và kết quả nghiên cứu của luận
văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho phần lịch sử quan hệ quốc tế trong
giảng dạy và nghiên cứu.
6. Bố cục của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục, tài liệu tham khảo, luận văn gồm
3 chương:
Chương I: Các nước thuộc SNG trong chính sách đối ngoại của Nga và
Mỹ.
Chương II: Quá trình tranh giành ảnh hưởng giữa Nga và Mỹ ở các
nước thuộc SNG thời kỳ sau Chiến tranh lạnh.
Chương III: Nhận xét về quá trình tranh giành ảnh hưởng giữa Nga và
Mỹ ở các nước thuộc SNG và triển vọng của vấn đề.
9
Chương 1. CÁC NƯỚC THUỘC SNG TRONG CHÍNH SÁCH ĐỐI
NGOẠI CỦA NGA VÀ MỸ
1.1 Khái quát về các nước thuộc SNG
1.1.1 Vị trí địa – chính trị
Cộng đồng các quốc gia độc lập (SNG/CIS) là sản phẩm trực tiếp từ sự
sụp đổ của Liên Xô. Đây là tổ chức hợp tác của 12 trong số 15 nước Cộng hoà
thuộc Liên bang Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Xô viết.
Cộng đồng các quốc gia độc lập ra đời trong bối cảnh quốc tế hết sức
đặc biệt, đó là sự sụp đổ của các nước XHCN ở Liên Xô, Đông Âu. Vào
những năm cuối thập niên 80, đầu thập niên 90 của thế kỷ XX, nhân loại
chứng kiến một sự kiện “làm rung chuyển thế giới” - sự sụp đổ của hệ thống
XHCN. Vào thời gian này, do sự khủng hoảng kinh tế, chính trị sâu sắc, Liên
Xô tiến hành công cuộc cải tổ nhằm đưa đất nước thoát khỏi khủng hoảng
nhưng trên thực tế tình hình không được giải quyết, ngược lại khủng hoảng
còn trầm trọng hơn. Năm 1991, những mâu thuẫn kinh tế và chính trị lên đến
đỉnh cao và cuối cùng chế độ Xô viết hoàn toàn sụp đổ sau cuộc đảo chính
ngày 19 – 8 – 1991.
Ngày 8 – 12 – 1991, Tổng thống ba nước Nga, Ucraina, Belarus ra
tuyên bố chung, trong đó nêu rõ Liên bang Xô viết không còn tồn tại nữa và
quyết định thành lập một hình thức liên minh mới gọi là Cộng đồng các quốc
gia độc lập (SNG). Hiệp ước đã xác nhận: “Liên bang Xô viết như một chủ
thể pháp lý và địa chính trị quốc tế đã hoàn toàn kết thúc sự tồn tại của mình”
[10, tr12]. Tám nước còn lại tuyên bố tham gia SNG. Ngày 21 – 12 – 1991,
tại thủ đô Alma Ata (Kazakhstan), 11 nước Cộng hoà ký kết Hiệp định về giải
tán Liên bang Xô viết, chính thức thành lập Cộng đồng các quốc gia độc lập.
Toàn bộ lãnh thổ của các quốc gia thuộc SNG nằm gọn trong diện tích
Liên bang Xô viết trước kia. Về vị trí địa lý, hầu hết các nước này đều nằm ở
10
phía Tây và có đường biên giới chung với nước Nga, tạo thành một hành lang
bảo vệ biên giới phía Tây cho nước Nga. Diện tích của 11 nước trong SNG
(không bao gồm Nga) khoảng 5.025.500 km2 với dân số khoảng 300 triệu
người. Các nước SNG có vị trí ở phía đông châu Âu và phía Tây Nam châu
Á. Có thể chia các nước SNG thành các tiểu khu vực: Trung Á (bao gồm các
nước Uzbekistan, Cazakhstan, Kyrgyzstan, Turmenistan, Tagikistan), ngoại
Kavkaz (gồm Grudia, Azecbaizan, Armenia) và các nước phía Tây (Ucraina,
Belarus, Moldova). Địa hình của khu vực thuộc các nước SNG nhìn chung rất
đa dạng, nhưng kiểu địa hình chủ yếu là đồi núi.
Do vị trí tiếp giáp với cả hai châu lục nên đây là khu vực gây được sự
chú ý của các nước lớn.
SNG là con đường thông ra phía Tây của nước Nga để sang châu Âu.
Các nước SNG còn là hành lang bảo vệ an ninh cho Nga khi NATO đang
bành trướng về phía Đông. Từ các nước SNG, Nga có thể kiểm soát được con
đường tiến xuống Nam Á, xuống vùng Ấn Độ Dương, ngăn chặn các thế lực
tôn giáo cực đoan tiến vào nước Nga. Do từ thời Liên Xô, đặc biệt là dưới
thời Stalin đã thực hiện chiến lược di dân, đưa người Nga đến các khu vực
này định cư, do đó hiện nay ở các nước này vẫn còn rất nhiều người gốc Nga
sinh sống nên chính quyền Nga cần bảo vệ quyền lợi của người Nga. SNG là
khu vực ảnh hưởng truyền thống của Nga, do đó bảo vệ ảnh hưởng ở khu vực
cũng chính là bảo vệ uy tín, chủ quyền và thể diện nước Nga trên trường quốc
tế. Tổng thống Nga V.Putin từng tuyên bố ưu tiên số một trong chính sách đối
ngoại của Nga là bảo vệ người Nga và quyền lợi nước Nga.
Trong số các nước SNG, Ucraina là nước lớn thứ hai sau Nga về địa vị
chiến lược và tiềm năng kinh tế, có tầm quan trọng bậc nhất đối với Nga. Vào
giữa thế kỷ XVII, Ucraina tự nguyện gia nhập vào nước Nga Sa hoàng, nhờ
đó thế lực của nước Nga lớn mạnh lên đáng kể. Sự kiện Ucraina tuyên bố tách
11
khỏi Liên bang Xô viết là một đòn giáng nặng nề đối với Liên Xô và là sự
kiện góp phần quan trọng vào sự sụp đổ của thể chế XHCN. Hiện nay, trên
lãnh thổ Ucraina còn lại rất nhiều vũ khí hạt nhân từ thời Liên Xô. Phần lớn
chúng đều đã hết hạn bảo quản và Ucraina không có kinh phí để duy trì. Nếu
những kho vũ khí này rơi vào tay bọn khủng bố thì an ninh của thế giới nói
chung, của Ucraina và các nước SNG bị đe dọa nghiêm trọng. Bên cạnh đó,
về mặt chính trị, Ucraina không muốn duy trì tổ chức SNG trong khi Nga thì
ngược lại. Ucraina coi SNG là công cụ để Nga áp đặt ảnh hưởng đối với các
nước Cộng hòa thuộc Liên Xô trước đây.
Với những ý nghĩa trên, SNG là khu vực “bất khả xâm phạm” của Nga.
Đối với Mỹ, mục tiêu lâu dài và xuyên suốt của các nhiệm kỳ Tổng
thống Mỹ kể từ sau Chiến tranh thế giới đến nay là thiết lập trật tự thế giới do
Mỹ lãnh đạo, kiềm chế sự nổi lên của các cường quốc khác đe dọa vị thế của
Mỹ. Xét về địa – chiến lược, châu Âu án ngữ vị trí trọng yếu trên thế giới.
Nằm cạnh dòng hải lưu Bắc Đại Tây Dương, châu Âu có lợi thế trong việc sử
dụng và kiểm soát các tuyến giao thông huyết mạch trên Đại Tây Dương để
sang Bắc và Nam Mỹ. Sau đó, qua kênh đào Sue, các nước châu Âu có thể
đến được vùng vịnh Persique, Nam Á và Đông Nam Á trên những tuyến
đường biển ngắn nhất. Đồng thời, từ châu Âu cũng có thể đến vùng Kavkaz,
Trung Á, Viễn Đông bằng đường bộ. Do mối quan hệ chặt chẽ giữa châu Âu
với Mỹ nên mọi biến cố quan trọng ở châu Âu trên tất cả các lĩnh vực luôn có
ảnh hưởng nhất định đối với Hoa Kỳ. Đối với nước Nga, các chính quyền kế
tiếp nhau của Mỹ nhận thấy đây là một “thế lực” có nhiều khả năng đe dọa
thế lực của Mỹ trong tương lai. Để kiềm chế Nga, một trong những biện pháp
có tính khả quan là thu hẹp ảnh hưởng của nước này ở những khu vực truyền
thống, SNG là một khu vực như vậy. Nếu SNG có ý nghĩa sống còn với Nga
thì với Mỹ, khu vực này cũng có tầm quan trọng đáng phải quan tâm.
12
Z.Brzezinski – nguyên trợ lý an ninh quốc gia của Tổng thống Mỹ đã gọi khu
vực “hậu Xô viết” này là “Balkan Âu – Á”, là bàn cờ lớn trong ván cờ địa –
chính trị của Mỹ ở đại lục địa Á – Âu. Nếu kiểm soát được khu vực này, Mỹ
không những sẽ có điều kiện để khống chế hai lục địa Á – Âu, kiềm chế Nga
ở phía tây và phía bắc, mà còn kiểm soát được Ấn Độ ở phía nam, kiểm soát
được Trung Quốc ở phía đông và kiểm soát được châu Âu ở phía tây. Bên
cạnh đó, nếu tiếp cận được khu vực này, Mỹ coi như đã đặt chân được vào
“sân sau” của Nga, từ đó có những can thiệp vào Nga khi cần thiết.
1.1.2 Tiềm năng kinh tế
SNG là một trong những khu vực giàu tài nguyên vào loại bậc nhất của
thế giới. Không chỉ có tài nguyên trên mặt đất, trong lòng đất của các nước
thuộc khu vực này cũng rất phong phú tài nguyên. Có thể kể đến một số loại
tài nguyên như than đá, vàng, đồng, kẽm, nhôm…, trong đó dầu mỏ, khí đốt
là nguồn tài nguyên chiếm vị trí số một. Tuy nhiên, do những bất ổn về chính
trị và sự yếu kém về kinh tế nên những loại tài nguyên này chưa được khai
thác đúng tiềm năng. Các nước lớn rất muốn tham gia vào quá trình thăm dò,
khai thác các nguồn tài nguyên của khu vực này.
Không chỉ giàu có về tài nguyên, các nước SNG còn là thị trường nhiều
tiềm năng. Hầu hết các nước này đều mới tuyên bố giành độc lập, đang trong
thời kỳ chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường, vì vậy họ rất cần những nguồn
vốn đầu tư từ bên ngoài để một mặt tạo đà cho phát triển kinh tế, mặt khác
ngày càng bớt phụ thuộc vào Nga hơn. Hiện nay, trong nội bộ các nước SNG
đang diễn ra quá trình tái liên kết kinh tế giữa các nước thành viên nhằm khôi
phục những quan hệ kinh tế và thương mại, củng cố quan hệ hữu nghị anh em
giữa các nước thành viên. Tuy nhiên, quá trình này diễn ra không dễ dàng như
mong đợi của các nước SNG. Có thể kể đến một số nguyên nhân của nó như
chưa có cơ cấu liên kết mang tính chính trị hiệu quả, chất lượng của các sản
13
phẩm xuất khẩu rất thấp dẫn đến khả năng cạnh tranh kém do công nghiệp lạc
hậu và thiết bị máy móc cũ kỹ…..Vì vậy, bên cạnh sự giúp đỡ lẫn nhau của
các nước trong khu vực, SNG rất cần có sự hỗ trợ từ bên ngoài, đặc biệt là từ
các nền kinh tế mạnh. Đây là một cơ hội lớn cho Mỹ đặt chân vào khu vực
SNG trong lĩnh vực kinh tế.
Đối với Nga, mậu dịch giữa Nga và SNG luôn chiếm tỉ trọng cao trong
cán cân ngoại thương giữa hai bên. Trong kim ngạch ngoại thương của Nga,
các nước SNG chiếm 23%. Nga chiếm tới 70% xuất nhập khẩu của SNG.
Trong năm 1998, tổng giá trị trao đổi thương mại của các nước SNG xuất
khẩu vào Nga là 51,7% còn nhập khẩu từ Nga là 38,8%. Mặt khác, đối với
một số nước SNG, thị trường Liên bang Nga không chỉ hấp dẫn mà đôi khi là
duy nhất cho việc xuất nhập khẩu các sản phảm công nông nghiệp, nguyên
liệu thô và vật liệu. Số liệu ngoại thương của các nước cho thấy, tỉ trọng của
Nga đối với xuất khẩu của Belarus năm 1998 là 64,9%, còn đối với tổng xuất
khẩu của các nước SNG là 89,2%, những chỉ số này của Moldova tương ứng
là 53,3% và 78,5%, Kazakhstan là 28,9% và 73,5%, với Ucraina là 23,1% và
69,2% (13, tr34).
Một tài nguyên mà thiên nhiên ban tặng cho khu vực này là “vàng
đen”. Khu vực Trung Á được đánh giá có trữ lượng dầu khí lớn hơn cả
Cowet, vùng vịnh Mehico và Biển Bắc. Nước Nga cũng là nước có trữ lượng
dầu mỏ và khí đốt lớn vào loại bậc nhất trên thế giới. Tuy nhiên, để khí đốt
Nga đến được với thị trường thế giới, các hệ thống đường ống dẫn dầu của
Nga đều phải đi qua các nước SNG để tới cảng Novorosik trên biển Đen trước
khi xuất khẩu trên thị trường châu Âu và thế giới là con đường ngắn nhất.
Mỹ hiện nay chiếm 1/4 nhu cầu tiêu thụ dầu thô trên thế giới, do đó Mỹ
không thể bỏ qua khu vực giàu tài nguyên dầu mỏ này. Nền kinh tế Mỹ phát
triển nhanh nhưng phụ thuộc quá nhiều vào nguồn năng lượng từ bên ngoài.
14
Trong tương lai gần, khi các nguồn năng lượng thay thế dầu mỏ chưa được
đưa vào sử dụng rộng rãi, chưa đóng vai trò chủ đạo đối với nền kinh tế Mỹ
thì khu vực SNG vẫn còn là một trong những mục tiêu chủ đạo mà chính sách
đối ngoại của Mỹ không thể không chú ý tới.
1.2. Các nước thuộc SNG trong chính sách đối ngoại của Nga và Mỹ
1.2.1 Các nước thuộc SNG trong chính sách đối ngoại của Nga
Liên bang Xô viết tan rã, nước Nga được quốc tế công nhận kế tục vai
trò của Liên Xô trên trường quốc tế, được thừa hưởng một thực lực quân sự to
lớn. Tuy nhiên điều này cũng không giúp Nga thoát khỏi khủng hoảng toàn
diện về kinh tế, chính trị, xã hội… Trong khi đó, nước Nga phải “thừa kế”
một khoản nợ lớn do Liên Xô trước đây để lại (khoảng 103 tỉ USD). Nền kinh
tế trong nước suy sụp, nợ nước ngoài thúc ép, Nga không còn cách nào khác
là trông chờ vào sự giúp đỡ to lớn về kinh tế ở bên ngoài với hi vọng đưa đất
nước thoát khỏi tình trạng trên. Mỹ và các nước phương Tây được Nga coi là
chỗ dựa của mình trong việc đưa nền kinh tế Nga thoát khỏi khủng hoảng. Do
đó, trên lĩnh vực tư tưởng, nước Nga tuyên bố hoàn toàn đoạn tuyệt với Liên
Xô, lựa chọn bạn đồng minh trên cơ sở cùng có lợi. Giới lãnh đạo Nga cho
rằng các nước dân chủ phương Tây có nền kinh tế thị trường là những “đồng
minh” của Nga. Một đường lối đối ngoại do Bộ trưởng Ngoại giao Nga lúc đó
là Kozyrev vạch ra và được Tổng thống Yeltsin chấp nhận “tự nguyện ngả
theo phương Tây”. Mục tiêu hàng đầu của đường lối đối ngoại mới là Nga
phải được tham gia khu vực thịnh vượng chung Tây Âu, chuyển từ nền chính
trị XHCN sang nền chính trị dân chủ theo kiểu Tây Âu và khôi phục lại nền
kinh tế. Hai mục tiêu trên chi phối toàn bộ chính sách đối ngoại của Nga trong
những năm 1991 – 1993. Trong chính sách đối ngoại mới, nước Nga tự coi
mình là một thành viên của Tây Âu và mong muốn hoàn toàn đứng vào thế
giới của các nước phương Tây. Do đó những chính sách của Nga hoàn toàn lệ
15
thuộc vào Mỹ với hi vọng điều này sẽ giúp Nga gia nhập vào xã hội phương
Tây và các cơ cấu kinh tế thế giới.
Nga đặt toàn bộ hi vọng và._.o liên minh chiến lược với Mỹ (sau này
được thay đổi bằng sự hợp tác chiến lược). Nga tự nguyện phụ thuộc vào Mỹ
và các nước phương Tây để đổi lấy sự trợ giúp kinh tế, đầu tư và hiện đại hóa
công nghệ cho Nga. Chính sách đối ngoại của Nga ở thời kỳ này nêu ra rằng,
Nga cần phải đi theo con đường Đức, Nhật – tạm thời phụ thuộc vào Mỹ và
các nước phương Tây để khôi phục lại nền kinh tế, tạm thời từ bỏ chính sách
đối ngoại độc lập để hòa nhập với Mỹ và thế giới phương Tây. Do vậy, Nga
cho rằng việc Nga gia nhập NATO và khối thị trường chung châu Âu là hoàn
toàn phù hợp. Ngày 20 – 12 – 1992, Tổng thống Nga B.Yeltsin đã đưa ra vấn
đề Nga muốn gia nhập NATO như là một “mục tiêu chính trị lâu dài”. Nhằm
thúc đẩy Nga có thể nhanh chóng hòa nhập vào thế giới Tư bản chủ nghĩa, Bộ
trưởng bộ Ngoại giao Nga kêu gọi cần phải thay đổi thái độ với thế giới này,
cần phải công nhận Mỹ đóng một vai trò tích cực trong thế giới hiện tại và
việc duy trì sự có mặt quân sự của Mỹ ở các nước thuộc thế giới thứ ba có thể
là một nhân tố cân bằng.
Để nhận được sự giúp đỡ về kinh tế của Mỹ và phương Tây, Nga đã
phải đơn phương thực hiện nhiều đòi hỏi, yêu cầu của các nước này, trong đó
có nhiều yêu cầu không phù hợp với tình hình nước Nga. Nga phải chấp nhận
từ bỏ quyền lợi của mình ở các nước thuộc Liên Xô cũ, Đông Âu. Trong khi
đó, Nga không đòi hỏi một sự cam kết nào từ Mỹ và phương Tây. Điều này
có nghĩa là Nga chấp nhận một sự nhượng bộ vô điều kiện chỉ để đổi lấy sự
ủng hộ của những nước này. Đối với các nước thuộc Liên Xô cũ, Nga thực
hiện chính sách “thoát li”, nghĩa là không can dự trước mọi vấn đề xảy ra ở
các nước này, thả nổi quyền lợi chính trị ở đây cho Mỹ và các nước Tây Âu.
Điều này đúng với mong muốn của Mỹ đang tìm cách lôi kéo các nước này
16
hội nhập với thế giới phương Tây để cô lập và uy hiếp Nga, ngăn chặn sự
thành lập liên minh giữa Nga và các nước này.
Liên Xô tan rã, Nga xuất hiện với tư cách một quốc gia độc lập song
sức mạnh kinh tế, chính trị, quân sự đã yếu đi nhiều so với Liên Xô trước đây.
Vì thế Nga buộc phải từ bỏ hoặc tham gia rất hạn chế vào nền chính trị thế
giới. Mặt khác, thời kỳ này do các nhà lãnh đạo Nga quá chú trọng vào quan
hệ với phương Tây nên chưa có những chính sách tích cực với những khu vực
khác trên thế giới như châu Á, châu Phi và khu vực Mỹ Latinh, đặc biệt là
lãnh thổ thuộc các nước SNG.
Sự thay đổi định hướng tư tưởng – chính trị của Nga được Mỹ và các
nước phương Tây ủng hộ. Tuy nhiên những quan điểm trên đây hoàn toàn
không phù hợp với Nga – một dân tộc luôn tự hào mình là cường quốc cho dù
tạm thời suy yếu. Trước hết, việc các nhà lãnh đạo hướng nước Nga đi theo
con đường Đức – Nhật là hoàn toàn không phù hợp bởi sự thua trận của Đức,
Nhật trong cuộc chiến tranh thế giới thứ hai và sự thua trận của Nga trong
chiến tranh Lạnh không giống nhau. Nga hoàn toàn không bị tước đi chính
sách đối ngoại của riêng mình, mà chính Nga tự nguyện từ bỏ quyền ngoại
giao độc lập để phụ thuộc vào Mỹ và phương Tây để hi vọng nhận được một
sự trợ giúp to lớn về kinh tế.
Mặt khác, để sớm cải thiện quan hệ với Mỹ và đồng minh của Mỹ, Nga
phải tiến hành cải cách nóng vội, thiếu các tiền đề vất chất cũng như tư tưởng
cần thiết. Điều này ngày càng đẩy Nga vào cuộc khủng hoảng trầm trọng hơn
như nạn thất nghiệp, lạm phát tăng nhanh, cuộc đấu tranh giành quyền lực
giữa các phe phái chính trị…khiến cho người dân Nga bất bình. Một làn sóng
phản đối chính sách thân phương Tây dấy lên. Hoa Kỳ sau một thời gian chờ
đợi sự ổn định và phục hồi của nền kinh tế Nga cũng dần dần mất hi vọng bởi
sự khủng hoảng ngày càng tăng trong lĩnh vực kinh tế, xã hội. Các yếu tố đó
17
đã khiến cho sự “thân mật” ban đầu giữa Mỹ với Nga giảm dần. Bên cạnh đó,
đường lối đối ngoại của giới lãnh đạo Nga cũng không tạo được sự đồng tình
trong nước. Nhà nước Nga đang dần được phục hồi, giới chính trị Nga muốn
nhìn thấy Nga là một cường quốc, được tôn trọng trong các vấn đề quốc tế
chứ không phải là một nước Nga chỉ biết gật đầu theo Mỹ và phương Tây.
Bắt đầu từ năm 1994, chính sách đối ngoại của Nga không chỉ tập trung
vào phương Tây và có những biện pháp tích cực nhằm khôi phục lại ảnh
hưởng của Liên Xô trước đây, đặc biệt ở các nước SNG. Nga tăng cường
quan hệ với các nước này để khôi phục lại ảnh hưởng của mình ở đó. Đồng
thời, quan hệ này giúp Nga khắc phục được sự lệ thuộc quá lớn vào phương
Tây, giúp Nga đảm bảo an ninh quốc gia và vị trí trên trường quốc tế. Chính
sách này được thể hiện trong tuyên bố của Tổng thống Nga: “đã đến lúc sửa
đổi sự thái quá trong quan hệ với phương Tây, cần nghĩ về đối tác chiến lược
trong tương lai” (64, tr 15). Lúc này, sự thống nhất của Nhà nước Liên bang
Nga được giữ vững nên Nga nhận thấy lợi ích của các nước thuộc Cộng đồng
các Quốc gia Độc lập (SNG) không thể tách rời khỏi lợi ích của Nga. Việc
Mỹ tranh thủ sự xa rời của Nga đối với các nước này trong thời kỳ đầu để tìm
cách lôi kéo họ đi theo Mỹ hòng cô lập Nga đã uy hiếp nghiêm trọng đến an
ninh quốc gia của Nga. Do vậy, Nga nhận thấy cần phải xác lập lại vị trí của
mình trong phạm vi những biên giới mới, thiết lập quan hệ với các nước trước
đây hầu như là bộ phận cấu thành và xác định những lợi ích quốc gia mới của
mình. Trong đường lối đối ngoại, Nga đã thay đổi thái độ thoát li khỏi các
nước SNG trong thời kỳ đầu sau khi Liên Xô tan rã bằng tuyên bố: “Nga có
trách nhiệm đặc biệt đối với khu vực thuộc Liên Xô trước đây và có lợi ích
đặc biệt ở Đông Âu. Lực lượng vũ trang của Nga có thể lập căn cứ quân sự ở
khu vực thuộc Liên Xô cũ, chịu trách nhiệm bảo vệ an ninh toàn khu vực”(84,
tr3). Như vậy, sau một thời kỳ tạm rút lui, Nga đã bắt đầu lên tiếng khẳng
18
định vị trí của mình. Tháng 2 – 1995, Tổng thống B.Yeltsin đã nêu lên một
cách toàn diện các mục tiêu chiến lược đối ngoại của Nga và chỉ rõ mục tiêu
hàng đầu là tăng cường nhất thể hóa về kinh tế, chính trị, quân sự với các
nước SNG; còn với Mỹ và các nước phương Tây chỉ còn là quan hệ bạn bè
bình đẳng. Tổng thống Yeltsin cũng yêu cầu Mỹ công nhận vị trí đặc biệt của
Nga trong khu vực Liên Xô trước đây, phản đối Mỹ đơn phương can thiệp
vào việc duy trì hòa bình trên phần lãnh thổ Liên Xô cũ.
Từ chính sách thân và tuyệt đối nghe theo phương Tây, chính sách đối
ngoại của Nga chuyển sang mục tiêu “đặt lợi ích dân tộc lên hàng đầu”, đặc
biệt từ khi E.Primacov lên làm Ngoại trưởng, đường lối đối ngoại của Nga
ngày càng cứng rắn hơn. Primacov đã nói về một số nhiệm vụ ưu tiên trong
chính sách đối ngoại của nước Nga (3, tr 46): thứ nhất, tạo những điều kiện
đối ngoại tốt nhất, thuận lợi nhất cho việc củng cố toàn vẹn lãnh thổ Nga; thứ
hai, củng cố các xu thế hướng tâm, liên kết trên lãnh thổ Liên Xô cũ, loại trừ
khả năng để bất cứ thế lực bên ngoài nào chia rẽ Nga và các nước SNG vì
mục đích trên; thứ ba, phát triển các mối quan hệ có hiệu quả giữa các quốc
gia, ngăn chặn sự hình thành các lò lửa căng thẳng mới. Primacov gọi đó là
chính sách “ngoại giao đa phương”, “ngoại giao tích cực”.
Chính sách đối ngoại của Nga tiếp tục được thể hiện trong “Học thuyết
an ninh quốc gia của Liên bang Nga” tháng 12 – 1997. Học thuyết nêu rõ, để
bảo vệ quyền lợi dân tộc trên trường quốc tế, Nga sẽ tiến hành đường lối đối
ngoại tích cực, củng cố vị trí cường quốc của mình, tăng cường liên kết với
các nước SNG…
Trong chính sách đối ngoại của Nga, các nước SNG luôn ở vị trí ưu
tiên hàng đầu. Đối với Nga, quan trọng trước hết là những gì đang diễn ra
trong SNG sát biên giới Nga. Một trong những nguyên nhân chính mà Bộ
trưởng Ngoại giao đầu tiên của Liên bang Nga A.Kozyrev bị cách chức là do
19
ông ta không chú ý đúng mức đến việc giữ gìn và củng cố quan hệ với các
nước láng giềng của Nga, trước hết là SNG. Khi E.Primacov lên làm Bộ
trưởng Ngoại giao (1995), công việc đó được đẩy lên nhưng sự chuyển biến
về chất không đáng kể. Có nhiều lý do, song một trong những lý do quan
trọng là Tổng thống B.Yeltsin ít thực hiện các chuyến viếng thăm lẫn nhau
giữa nguyên thủ quốc gia Nga và các nước lân cận để bàn bạc, tìm cách giải
quyết kịp thời những vấn đề lớn trong quan hệ song phương giữa Nga với
từng quốc gia SNG cũng như quan hệ đa phương trong khuôn khổ SNG.
Sau khi lên làm Tổng thống, V.Putin đã xác định lại đường lối đối
ngoại của Nga. Đó là đường lối đối ngoại thực dụng, đặt quyền lợi nước Nga
và dân tộc Nga lên vị trí hàng đầu, mọi chính sách đối ngoại đều phục vụ cho
mục tiêu này. Phương hướng địa – chính trị trong chính sách đối ngoại của
Nga là không gian SNG. Quan hệ với các nước SNG vẫn là hướng ưu tiên
chính của Nga bởi đây là khu vực “cận ngoại biên” có tầm quan trọng chiến
lược đối với Nga. Nga quan tâm tới mục tiêu quanh đường biên giới của mình
là các quốc gia hữu nghị, ổn định, dân chủ và phồn thịnh. Nga cho rằng các
nước SNG tự mình quyết định tiến trình chuyển đổi mô hình phát triển dân
chủ thị trường. Dựa trên những kinh nghiệm tích lũy được, Nga quan niệm
tăng cường hợp tác kinh tế - thương mại với các nước SNG là điều kiện tiên
quyết cho ổn định và phát triển trong khu vực, và vai trò của Nga là không thể
thay thế được. Mục tiêu mà Nga đặt ra là xây dựng một hệ thống kinh tế đảm
bảo cho sự phát triển hiệu quả của các nước thành viên, Nga hướng tới không
gian tự do hóa kinh tế cũng như đầu tư trong khu vực.
Sau khi lên cầm quyền, khác với người tiền nhiệm, V.Putin đã thực
hiện hàng loạt chuyến viếng thăm: Thăm Belarus ngày 14 – 4 – 2000, chỉ ba
tuần sau khi trúng cử Tổng thống (26 – 3 – 2000); trong vòng một năm đã
thăm Ucraina hai lần; thăm một loạt nước như Uzbekistan, Turmenistan,
20
Azerbaijan; gặp gỡ các nguyên thủ quốc gia SNG nhiều lần tại các hội nghị
trong khuôn khổ tổ chức SNG.
Lên làm chủ điện Kremli với một thuận lợi tuyệt vời là có sự hậu thuẫn
toàn diện của người tiền nhiệm Putin, Tổng thống D. Medvedev chắc chắn sẽ
tiếp tục đưa nước Nga đi theo con đường mà ông Putin đã kiên trì thực hiện
trong suốt hai nhiệm kỳ. Ngày 31 – 8 – 2008, Tổng thống Medvedev đã vạch
ra 5 nguyên tắc mà chính sách ngoại giao tương lai của Moskva sẽ lấy đó làm
căn cứ và cho biết nếu cần thiết, nó có thể mở đầu cho các biện pháp trừng
phạt của Nga đối với các nước khác. Thứ nhất, tôn trọng những nguyên tắc cơ
bản của pháp luật quốc tế. Thứ hai, thế giới phải đa cực. Nước Nga không
công nhận một thế giới mà ở đó, tất cả các quyết định được ban hành bởi một
phía, thậm chí đó là một quốc gia hùng mạnh như Mỹ. Điều đó cũng giống
như một thế giới đầy bất ổn và luôn bị đe dọa bởi xung đột. Thứ ba, Nga
không muốn đối đầu với bất kỳ nước nào và không có ý định để mình bị cô
lập. Thứ tư, Nga sẽ bảo vệ tính mạng của công dân nước mình, cho dù họ ở
bất cứ nơi đâu. Thứ năm, Nga cũng như những nước khác trên thế giới đều có
những khu vực được ưu tiên và Nga sẽ phát triển quan hệ ở những khu vực
thân thiện.
Trong số các nước SNG, quan hệ Nga – Belarus được xem là mối quan
hệ mẫu mực do sự gắn kết về kịch sử, truyền thống gắn kết về dân tộc, tôn
giáo. Trước hết, mối quan hệ này được thể hiện trong việc xây dựng một nhà
nước Liên minh với đồng Rup Nga dự kiến đưa vào sử dụng vào cuối năm
2006, nhưng trên thực tế chưa thực hiện được. Hiện nay Nga là bạn hàng lớn
nhất của Belarus, đồng thời Belarus cũng là bạn hàng lớn nhất của Nga trong
số các nước SNG. Thương mại có một vị trí quan trọng trong quan hệ kinh tế
giữa hai quốc gia. Tuy nhiên, vấn đề không phải chỉ ở lĩnh vực thương mại,
mà là sự liên kết chặt chẽ thông qua việc thành lập nhiều xí nghiệp liên doanh
21
giữa Nga và Belarus, loại bỏ những hạn chế về thuế quan, thông qua những
biện pháp nhằm thống nhất các quy định điều tiết. Ngày 3 – 2 – 2009, Nga và
Belarus đã ký kết hiệp định hợp tác bảo vệ biên giới đường không và thành
lập hệ thống phòng không chung giữa hai nước. Hệ thống phòng không chung
gồm năm đơn vị không quân, 10 đơn vị tên lửa đất đối không, năm đơn vị kỹ
thuật vô tuyến và một đơn vị chống nhiễu.
Như vậy, nếu xét về tình trạng kinh tế thì các nước SNG khó có gì để
hỗ trợ cho Nga; ngược lại đa số họ còn khó khăn nhiều hơn, nhất là trong lĩnh
vực năng lượng, khí đốt (Belarus, Ucraina, Moldova hầu như nhập hoàn toàn
năng lượng từ Nga). Tuy vậy, Nga rất cần đến các nước này và đặt họ vào ưu
tiên số một bởi nhiều lý do về lịch sử, văn hóa gắn bó trước đây cũng như
ngôn ngữ, phong tục tập quán, lối sống giống nhau do 70 năm sống chung
dưới thời Xô viết, và quan trọng nhất là ý nghĩa về vị trí địa – chiến lược của
những nước này đối với Nga. Nó biểu hiện ở chỗ mọi diễn biến lớn của những
nước láng giềng này đều tác động tức thời đến tình hình nước Nga. Nếu để
cho những nước này (đặc biệt là Ucraina) rơi vào vòng ảnh hưởng của Mỹ thì
vị trí và an ninh của Nga ở khu vực chắc chắn sẽ bị tổn thương.
Tóm lại, nếu xem xét tất cả các mặt, nhất là từ góc độ lợi ích an ninh
của Nga thì việc Nga tuyên bố rằng các nước SNG thuộc hàng ưu tiên số một
trong chính sách đối ngoại của mình là hoàn toàn chính xác, bởi nếu Nga
củng cố tốt mối quan hệ với những nước này thì họ chính là vành đai an ninh
và khu đệm an toàn giữa Nga và Mỹ. Tuy nhiên, dù Liên bang Nga coi hợp
tác với các nước SNG là ưu tiên số một trong chính sách đối ngoại của mình,
nhưng trên thực tế Nga chưa làm được như vậy. Trong khi đó, các nước SNG
khác lại luôn lo sợ Nga muốn gây áp lực chính trị, quân sự nhằm giữ lấy vai
trò lãnh đạo trong SNG, vì vậy họ muốn tìm kiếm các đối tác khác ngoài khu
vực để tránh sự phụ thuộc vào Nga. Những mâu thuẫn giữa các nước trong
22
SNG, đặc biệt là giữa Nga – Grudia, Nga – Belarus, Nga – Ucraina cho thấy
triển vọng phát triển Nga – các nước SNG còn lại còn hết sức phức tạp và
nhiều khó khăn.
1.2.2 Các nước thuộc SNG trong chính sách đối ngoại của Mỹ
Mục tiêu lâu dài và xuyên suốt của các đời Tổng thống Mỹ kế tiếp nhau
kể từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai đến nay là thiết lập trật tự do Mỹ lãnh
đạo, kiềm chế sự nổi lên của các cường quốc khác đe dọa vị thế và lợi ích của
Mỹ.
Vị Tổng thống đầu tiên của Mỹ đắc cử sau khi Liên Xô tan rã là
B.Clinton. Việc xây dựng một đường lối đối ngoại mới phù hợp hơn là điều
cấp thiết. Ngay khi bước vào Nhà Trắng, trong diễn văn nhậm chức ngày 20 –
1 – 1993, Tổng thống mới đã phác họa những nét lớn trong chính sách ngoại
giao mới của Hoa Kỳ. Ông nêu rõ: “Rõ ràng nước Mỹ phải tiếp tục lãnh đạo
thế giới, đây là công việc mà trong quá khứ chúng ta đã nỗ lực rất nhiều mới
làm được”. Nói đến cơ hội và thách thức mới, B.Clinton nhấn mạnh: “để đổi
mới được nước Mỹ, chúng ta phải đương đầu với những thách thức ở ngoài
cũng như ở trong nước. Không còn phân chia đâu là thách thức từ bên ngoài
và đâu là từ bên trong” (32, tr 177-178). Trong nhiệm kỳ đầu làm chủ Nhà
Trắng, B.Clinton đã công bố “Chiến lược an ninh quốc gia cam kết và mở
rộng” (Chiến lược hai chữ E: Engagement and Enlargament). Yêu cầu bao
trùm của nó là mở rộng và tăng cường cộng đồng các nền dân chủ theo kinh
tế thị trường của thế giới. Điều này có nghĩa Hoa Kỳ tìm cách củng cố và mở
rộng quỹ đạo của chủ nghĩa tư bản trên thế giới, từ đó thiết lập một trật tự
quốc tế tư bản chủ nghĩa do Mỹ chỉ huy. “Chiến lược an ninh quốc gia cam
kết và mở rộng” (hay còn gọi là Học thuyết Clinton) vừa kế thừa những chính
sách đối ngoại của những người tiền nhiệm, vừa có những điều chỉnh cho phù
hợp với thực tế Mỹ và tình hình thế giới “hậu Xô viết” (4, tr 135).
23
Sau khi trở thành vị Tổng thống thứ 43 trong lịch sử Hoa Kỳ, G.Bush
ngay lập tức thể hiện sự cứng rắn, hiếu chiến vốn là thuộc tính cố hữu của
Đảng Cộng hòa. Cũng với mục tiêu đối ngoại xuyên suốt, không thay đổi là
củng cố vị thế siêu cường thế giới duy nhất và vai trò lãnh đạo thế giới theo
trật tự đơn cực, chính quyền của Tổng thống Bush còn bộc lộ rõ hơn xu
hướng đơn phương, cường quyền strong chính sách đối ngoại so với thời
Clinton. Người ta từng hi vọng rằng sự kiện 11 – 9 với hậu quả khủng khiếp
về nhiều mặt của nó có thể làm cho giới “diều hâu” trong chính quyền Mỹ
vốn tự tin vào sức mạnh vô song của Mỹ bớt hung hãn, khi cả nước Mỹ bất
ngờ hứng chịu một đòn tấn công vừa gây nhiều thiệt hại vừa mang tính cảnh
báo đó. Nhưng vẫn như trước đây, dựa vào ưu thế vượt trội của siêu cường
thế giới, chính quyền Bush bắt thế giới phải tuân theo quy tắc hành xử, chuẩn
mực giá trị Mỹ. Ngân sách quốc phòng Mỹ trong những năm gần đây liên tục
tăng cao, bằng khoảng 50% chi phí quốc phòng của cả thế giới cộng lại và
trong những năm tới có thể lên đến 500 tỉ USD. Đây là một con số cao kỷ lục
và chưa từng có trong lịch sử nước Mỹ, gây lo ngại cho nhiều nước. Và trên
thực tế, bằng cách đó, Mỹ đã phát động một cuộc chạy đua vũ trang cực kỳ
nguy hiểm.
Kể từ sau sự kiện 11 – 9, Mỹ đã chuyển hướng chính sách ngoại giao
sang “ngoại giao thời chiến”, theo đó Mỹ chú trọng lợi ích hợp tác trong cuộc
chiến chống khủng bố toàn cầu. Phương châm ngoại giao của Mỹ là lấy chống
khủng bố làm tiền đề, trong đó Mỹ sẽ căn cứ vào mục tiêu chống khủng bố cụ
thể để tìm đồng minh có giá trị. Với chính sách “ngoại giao thời chiến”,
G.Bush đã thay đổi phương châm “tránh thương vong” của B.Clinton trước
đây. Tư duy ngoại giao của Mỹ hiện nay xuất phát từ giả thuyết: Tấn công là
biện pháp tốt để phòng ngự. Với thực lực quân sự mạnh nhất thế giới hiện
nay, Mỹ từ chối bất kỳ một hiệp định quốc tế nào hạn chế hoạt động của Mỹ.
24
Washington cho rằng cộng đồng quốc tế không nên gây khó khăn cho chính
sách ngoại giao của Mỹ.
Hiện nay, Mỹ cho rằng mối đe dọa toàn cầu mà Mỹ đang phải đối mặt
là chủ nghĩa khủng bố và các thế lực Hồi giáo cực đoan. Thách thức đặt ra
trước nước Mỹ là tiến công chủ nghĩa cực đoan, đồng thời tránh xung đột
giữa các nền văn minh (71, tr 18). Học thuyết này chủ trương “đánh trước để
phòng ngừa trong những trường hợp cần thiết phải tự vệ”. Mỹ không ngần
ngại tấn công trước dù ra quân một mình. Quân đội Mỹ lúc nào cũng phải
hùng mạnh để ứng phó với những nước nào có thể “đe dọa” Hoa Kỳ.
Đối với Nga, ngay từ khi nước này mới ra đời, Clinton đã tuyên bố
“Mỹ sẽ tìm cách hợp tác với Nga để làm cho thế giới an toàn hơn, ủng hộ nền
dân chủ và kinh tế thị trường”. Vị Tổng thống này cho rằng Mỹ có ba lợi ích
trong việc hợp tác với Nga: Một là làm cho thế giới an toàn hơn, tiếp tục giảm
nguy cơ chiến tranh hạt nhân và không phổ biến vũ khí hạt nhân; hai là ủng
hộ sự phát triển dân chủ và tự do cho nhân dân Nga; ba là ủng hộ một nền
kinh tế tự do (83, tr 35). Trong thời kỳ đầu sau khi Liên Xô tan rã, Nga được
đặt lên tầm quan trọng hàng đầu trong chính sách đối ngoại của Mỹ không chỉ
vì những lợi ích trên. Nga từ “kẻ thù trực tiếp” trở thành “kẻ thù tiềm ẩn” của
Mỹ. Do đó Mỹ thực hiện chính sách vừa giúp đỡ vừa kiềm chế Nga. Tuy thực
lực giảm sút song Nga vẫn là một cường quốc hạt nhân, là mối đe dọa lớn đối
với an ninh Mỹ. Vì vậy Mỹ một mặt ra sức giúp đỡ Nga về kinh tế và vận
động các nước phương Tây, các đồng minh của mình giúp đỡ để Nga có thể
cải cách kinh tế, đưa đất nước đi theo con đường dân chủ, kinh tế thị trường
tự do và chính trị đa đảng. Mỹ làm như vậy nhằm ràng buộc Nga phải lệ
thuộc vào Mỹ. Mặt khác, Mỹ lại tìm cách cô lập, ngăn sự phục hồi của Nga
bằng viện trợ, đầu tư “nhỏ giọt” và đi kèm những điều kiện bất lợi cho Nga.
Đồng thời Mỹ tìm cách mở rộng khối liên minh quân sự NATO sang phía
25
Đông để Nga rơi vào thế bị cô lập, bao vây lôi kéo các nước SNG nhằm thu
hẹp ảnh hưởng của Nga đối với các nước này để dần tiến tới gạt bỏ ảnh hưởng
của Nga.
Mục tiêu của Mỹ ở khu vực SNG là “ngăn cản không cho nước nào
kiểm soát không gian địa – chính trị này, đảm bảo tiếp cận tự do với khu vực
về mặt tài chính và kinh tế” (14, tr 3). Sau khi Liên Xô tan rã, Ngoại trưởng
Mỹ J.Baker đã đến thăm vùng này và Chính phủ Mỹ nhanh chóng công nhận
nền độc lập của các nước trong khu vực. Ngoại trưởng J.Baker đưa ra bốn tiêu
chuẩn tiếp nhận các nước SNG vào cộng đồng các quốc gia dân chủ:
- Thừa nhận các giá trị dân chủ
- Đảm bảo nhân quyền và quyền của các dân tộc ít người
- Tôn trọng đường biên giới và các nguyên tắc thay đổi hòa bình
- Thực hiện các nghĩa vụ quốc tế. (58, tr 9).
Tuy nhiên, trong suốt thập niên 90 của thế kỷ trước, chính quyền Mỹ
hầu như chưa có một chiến lược tổng thể đối với khu vực. Điều này xuất phát
từ hai nguyên nhân: thứ nhất, suốt thập kỷ 1990, Mỹ có nhiều ưu tiên khác
cấp thiết hơn như Chiến tranh vùng Vịnh lần thứ nhất, khủng hoảng hạt nhân
trên bán đảo Triều Tiên (1994), khủng hoảng eo biển Đài Loan (1995), chiến
dịch Con Cáo sa mạc ở Iraq (1996), chiến tranh Kosovo (1998); thứ hai, Mỹ
chưa có cớ để trực tiếp can thiệp vào khu vực. Do đó, hoạt động triển khai đối
ngoại của Mỹ liên quan đến khu vực chỉ là hệ quả của chính sách đối với Nga
hoặc là phản ứng tình thế để đối phó với những chuyển biến của tình hình khu
vực. Quan hệ giữa Mỹ và các nước này chủ yếu tập trung vào việc hỗ trợ các
nước xây dựng nền kinh tế độc lập nhằm giảm bớt sự lệ thuộc vào Nga, dỡ bỏ
các kho vũ khí hạt nhân và ngăn chặn việc phổ biến vũ khí hạt nhân ở khu
vực (14, tr 7).
Sau sự kiện 11 – 9, Mỹ có cả điều kiện cần và đủ để gia tăng ảnh hưởng
26
ở khu vực. Điều kiện cần là sự kiện 11 – 9 cung cấp cho Mỹ một lý do để can
thiệp vào Afganistan, nơi được coi là lãnh địa của chủ nghĩa khủng bố. Để hỗ
trợ cho các hoạt động quân sự và nhân đạo ở Afganistan, Mỹ đã đóng quân ở
Uzbekistan và Kyrgystan, sử dụng một số sân bay quân sự và cơ sở hạ tầng ở
khu vực. Điều kiện đủ là: thứ nhất, mười năm sau khi Chiến tranh Lạnh kết
thúc, Mỹ vẫn duy trì được sức mạnh vượt trội so với các cường quốc khác;
thứ hai, các nước trong khu vực muốn thắt chặt quan hệ với Mỹ để phát triển
kinh tế, hạn chế ảnh hưởng của Nga. Bước sang thế kỷ XXI, Mỹ không ngừng
tìm cách “thẩm thấu” vào các quốc gia SNG bằng cách đẩy mạnh hợp tác, liên
kết trên nhiều lĩnh vực, đặc biệt là trên lĩnh vực kinh tế, quân sự, tăng cường
ảnh hưởng về tự do dân chủ của Mỹ. Các nước thuộc Liên Xô cũ mất ổn định
sẽ làm cho Mỹ lo lắng bởi nó sẽ ảnh hưởng tới an ninh của toàn bộ lục địa Á
– Âu. Mục tiêu của Mỹ là phải xây dựng khu vực này ngày càng “dân chủ, ổn
định và không bị chia cắt”. Mỹ tiến hành trợ giúp, khuyến khích các nước
Đông Âu cùng các nước SNG gia nhập NATO nhằm củng cố thêm sức mạnh
quân sự, đồng thời cô lập và uy hiếp Nga. Với mục tiêu “biến kẻ thù thành
đồng minh”, Mỹ chủ trương hòa nhập các nước Cộng hòa thuộc Liên Xô cũ
bằng cách cổ vũ các nước này hoàn toàn đoạn tuyệt với quá khứ, ra sức biến
các nước này thành những quốc gia dân chủ, ổn định và có nền kinh tế thị
trường. Mỹ luôn nhấn mạnh phải đề phòng khả năng khôi phục đế quốc Nga.
Bất cứ lúc nào Mỹ cũng không chấp nhận những quyền lợi và ảnh hưởng của
Nga đối với các nước láng giềng. Mỹ cổ vũ cho xu hướng đa nguyên, xu
hướng li tâm của các nước SNG đối với Nga; giúp đỡ các lực lượng thân
phương Tây lật đổ chính quyền một cách bất hợp pháp thông qua các cuộc
“cách mạng màu sắc” như Nam Tư (2000), Grudia (2003), Ucraina (2004).
Tuy nhiên, ở đây Mỹ cũng thực hiện chính sách hai mặt: Một mặt, Mỹ
khuyến khích, tìm cách giúp đỡ các cuộc cải cách chính trị thành công, xây
27
dựng một xã hội dân chủ. Mặt khác, Mỹ thực hiện chính sách kìm hãm để
không cho bất kỳ một nước Cộng hòa nào trở nên quá mạnh có thể đe dọa tới
vị trí siêu cường của Mỹ.
Sau sự kiện 11 – 9 – 2001, Mỹ lấy cớ chống khủng bố đã không ngừng
tăng cường sức mạnh quân sự tại khu vực này, đặc biệt là các nước Cộng hòa
ở Trung Á. Tính đến đầu năm 2002, Mỹ đã xây dựng 13 căn cứ quân sự tại 9
nước xung quanh Afganistan làm tăng nhanh đáng kể sức mạnh quân sự của
Mỹ ở khu vực.
Như vậy, việc Mỹ đặt chân được vào khu vực Trung Á và thành công
của một số cuộc cách mạng màu sắc ở các nước SNG đã làm thay đổi cục
diện chiến lược do Nga làm chủ trước đây, đồng thời thu hẹp không gian
chiến lược và ảnh hưởng quốc tế của Nga tại khu vực này.
Tiểu kết:
Cộng đồng các Quốc gia độc lập (SNG) ra đời là một yếu tố đặc biệt cả
về mặt lịch sử cũng như địa lý. Trong giai đoạn hiện nay, nhất là sau khi
Grudia tuyên bố rút khỏi SNG (8 – 2008), sự phát triển của khối này đã có
những thay đổi đáng kể. Tuy nhiên, dù tiếp tục tồn tại hay giải tán thì những
yếu tố địa – chính trị và địa – kinh tế của khu vực này vẫn có sức hút rất lớn
đối với các cường quốc trên thế giới.
Nga và Mỹ là những cường quốc trên thế giới trong quá khứ cũng như
hiện tại. Để có được một cực trong xu thế đa cực của thế giới hiện nay, một
trong những biện pháp của mỗi nước là giữ ưu thế của mình tại các khu vực
ảnh hưởng truyền thống và không ngừng gia tăng ảnh hưởng tại các “sân sau”
của đối phương. Các nước SNG trước đây là khu vực ảnh hưởng truyền thống
của Nga. Tuy nhiên, nếu Nga không có những chính sách cụ thể thì rất có thể
các nước này sẽ rơi vào vòng ảnh hưởng không chỉ của Mỹ, mà còn nhiều
nước khác như Trung Quốc, các nước trong Liên minh châu Âu.
28
Chương 2. QUÁ TRÌNH TRANH GIÀNH ẢNH HƯỞNG GIỮA NGA
VÀ MỸ Ở CÁC NƯỚC THUỘC SNG SAU CHIẾN TRANH LẠNH.
2.1. Vấn đề dầu mỏ, khí đốt
Kể từ sau cuộc khủng hoảng năng lượng 1973 đến nay, loài người ngày
càng nhận thấy tầm quan trọng của nguồn tài nguyên “vàng đen” đối với kinh
tế thế giới nói chung và đối với những nền kinh tế lớn nói riêng. Hiện nay,
trong hoàn cảnh nền sản xuất thế giới ngày càng phát triển, một số nguồn
nguyên liệu đang dần cạn kiệt thì dầu mỏ vẫn là một nguồn năng lượng sống
còn đối với các quốc gia trên thế giới. Việc quan tâm tiếp cận và bảo vệ các
nguồn cung cấp dầu mỏ, khí đốt luôn được ưu tiên hàng đầu trong chiến lược
an ninh của các quốc gia. Khí đốt được đánh giá là năng lượng hóa thạch
trong tương lai bởi lợi ích của nó không thể coi thường. Về giá cả, khí đốt cho
phép tiết kiệm rất lớn. Một nhà máy điện chạy bằng khí sản sinh ra 1kw chỉ
với giá 457 euro, trong khi nhà máy chạy bằng sức gió sẽ tiêu hao 1067 euro,
còn với nhà máy năng lượng nguyên tử giá sẽ từ 1067 đến 1524 euro. Theo
IAEA, vào năm 2030 điện sản xuất bằng vàng xanh trên thế giới sẽ chiếm
35% tổng sản lượng điện, so với hiện nay là 15%. Tất cả những tập đoàn điện
lớn châu Âu như EDF và Suez của Pháp, E.ON-Ruhrgas và RWE của Đức,
Enel của Ý và Endesa của Tây Ban Nha đều đầu tư mạnh vào các nhà máy
điện chạy bằng khí. Lợi điểm của loại nhà máy này là xây dựng nhanh và ít
tốn kém hơn các loại nhà máy điện khác. Xây nhà máy điện chạy bằng khí
còn có ưu điểm lớn nhất là không bị dư luận phản đối dữ dội như xây nhà
máy điện chạy bằng năng lượng hạt nhân
Trong lòng đất của nhiều nước thuộc SNG có trữ lượng dầu mỏ và khí
đốt rất lớn. Theo đánh giá của Bộ Năng lượng Mỹ, trữ lượng của một số nước
như sau: Azerbaijan có trữ lượng dầu khí vào khoảng 6 đến 10 tỉ tấn;
Kazakhstan: trữ lượng dầu đã được phát hiện là 2,9 tỉ tấn, dự đoán con số này
29
có thể lên đến 6-12 tỉ tấn, trữ lượng khí đã được phát hiện là 3000 tỉ m3;
Turmenistan đứng thứ tư thế giới về khai thác khí đốt (sau Mỹ, Canada và
Nga) và đứng thứ hai về xuất khẩu khí đốt với trữ lượng khí đốt từ 3 đến
21000 tỉ m3, trữ lượng dầu lửa gần 6 tỉ tấn – bằng 20% tiềm năng của các
nước A rập, gấp hai lần trữ lượng dầu khí của biển Bắc và gấp 5 lần trữ lượng
dầu khí của vịnh Mehico. Azerbaijan giữ vị trí địa – chính trị quan trọng, đó
là chiếc nút chai khổng lồ vùng lưu vực biển Caspien và Trung Á. Hệ thống
dẫn dầu và khí đốt Bacu qua Daghestan, Chesnhia tới cảng Novorosik của
Nga trên biển Đen để đến châu Âu và thị trường thế giới. Đây là huyết mạch
quan trọng, giảm tối đa chi phí vận tải dầu khí và thuận tiện nhất mà các nước
đều mong muốn làm chủ. Daghestan với hơn 70% đường bờ biển của Nga với
Caspien và với cảng biển Makhachkala – một cảng biển lý tưởng trong mọi
thời tiết sẽ là con đường độc đạo vận chuyển tài nguyên thiên nhiên, dầu khí
từ các nước SNG ra thế giới (29, tr 18).
Sự tan rã của Liên Xô vào thập kỷ 90 của thế kỷ XX đã dẫn tới việc
thành lập của một số nhà nước cộng hòa độc lập ở các nước Cộng hòa thuộc
Liên Xô cũ, một khu vực giàu năng lượng mà các nước phương Tây chưa thể
tiếp cận. Việc mở cửa thị trường cho những công ty năng lượng thế giới ở
những nước giàu tài nguyên trong khu vực như Azerbaijan và Kazakhstan là
ưu tiên hàng đầu của chính quyền Mỹ dưới thời Tổng thống Bill Clinton. Mỹ
cũng nhận thấy rằng việc đưa các nước này vào quỹ đạo của phương Tây sẽ
đem lại hai lợi ích chiến lược, gồm: đa dạng hoá các nguồn cung cấp năng
lượng và hạn chế tầm ảnh hưởng của Nga ở đây. Bộ Ngoại giao Mỹ đã coi
khu vực này là một “Kuwait mới”. Do đó Mỹ đã phớt lờ phản đối của Nga,
tiếp tục theo đuổi chính sách ngoại giao tài nguyên ở những nước giàu tài
nguyên vàng đen tại SNG và bắt đầu đi tìm các tuyến đường dẫn dầu mới nối
khu vực này và các nước phương Tây không đi qua Nga. Mục tiêu của chính
30
sách này nhằm đảm bảo Nga không phải là con đường duy nhất để các nước
vùng Caspien xuất khẩu dầu khí ra thế giới bên ngoài.
Nga là một trong số ít nước có trữ lượng tài nguyên phong phú nhất thế
giới. Dân số nước này chỉ chiếm 2,5% tổng dân số thế giới, nhưng Nga lại
chiếm khoảng 45% trữ lượng khí đốt, 23% dầu mỏ, 14% urani, nghĩa là chiếm
30% trữ lượng năng lượng thiên nhiên của thế giới, tổng số năng lượng đã
khai thác và gia công giai đoạn đầu khoảng 10% (73, tr 26). Đặc biệt trong vài
năm gần đây, sau khi giá các loại năng lượng chủ yếu như dầu mỏ và khí đốt
tăng lên vùn vụt, Nga – siêu cường về năng lượng có nguồn lực dồi dào đã
kiếm được không ít lợi nhuận cả về kinh tế lẫn chính trị. Năm 2004, Nga sản
xuất được 459 triệu tấn dầu, xuất khẩu 230 triệu tấn; khai thác hơn 632 tỉ m3
khí đốt, xuất khẩu hơn 180 tỉ m3. Năm 2005, sản ._. 27 nước
Liên minh châu Âu (EU) và 6 nước thuộc Cộng đồng các quốc gia độc lập
(SNG) là Azerbaijan, Armenia, Belarus, Gruzia, Moldova và Ucraina. Mặc dù
92
EU khẳng định EAP không phải là “tiền đề” mở ra triển vọng cho các nước
trên gia nhập khối mà chỉ là sự hợp tác qua những dự án cụ thể để giúp 6
nước SNG này từng bước hội nhập kinh tế, luật pháp và chính trị của EU,
song, không khó để nhận ra mục tiêu dài hạn của EU là mở ra con đường tiến
về phía Đông của khối này. Dù EU quả quyết EAP không phải là một liên
minh chống Nga, nhưng tất nhiên là Moskva không thể an tâm khi EU phình
to dần và từng bước lấn vào khu vực “sân sau” của mình. Ngoại trưởng Nga
Sergey Lavrov đã cáo buộc EU tìm cách tạo tầm ảnh hưởng mới ở “vùng
đệm” chiến lược nhạy cảm này. Những diễn biến này cho thấy SNG vẫn là
một trọng điểm chiến lược mà các cường quốc hướng tới.
Mặc dù có những lo ngại về sự tồn tại của SNG từ các nước bên ngoài,
nhưng các thành viên SNG vẫn cố gắng để liên minh này tiếp tục phát triển.
Thủ đô Kishinev của Moldova vào ngày 14 – 11 – 2008 là nơi đăng cai cho
Hội nghị Thượng đỉnh của nguyên thủ các nước nằm trong Cộng đồng các
quốc gia độc lập (SNG), một cuộc gặp quan trọng được đánh giá là có thể trở
thành một bước ngoặt trong lịch sử liên quan đến sự tồn tại của khối này. Các
đối tác tham gia hội nghị đã cùng nhau phê chuẩn một chiến lược phát triển
kinh tế dài hạn chung cho cả cộng đồng (đến năm 2020). Một mục tiêu quan
trọng khác của hội nghị chính là những nỗ lực nhằm hàn gắn và củng cố sự
gắn kết của SNG. Theo chiến lược mới này, tất cả các thành viên SNG sẽ có
một thời hạn 12 năm để thực thi tất cả những gì đã được thỏa thuận từ 17 năm
trở về trước, tức là kể từ thời điểm hình thành SNG. Văn kiện về chiến lược
phát triển mới này cũng xác định thành lập một khu vực thương mại tự do,
xây dựng một không gian kinh tế thống nhất và các thị trường chung dành cho
những sản phẩm nông nghiệp cũng như liên kết chặt chẽ hơn giữa các nước
thành viên nhờ một mạng lưới các hành lang vận tải tầm quốc tế.
93
Trên cơ sở phân tích điều kiện chủ quan và khách quan của mỗi bên,
chúng ta thấy rằng trong cuộc tranh giành ảnh hưởng này có thể diễn ra theo
hai phương án. Tìm kiếm sự bảo trợ của các cường quốc nằm ngoài khu vực
hay ký kết hiệp định với Nga để có thể nhận được sự bảo đảm an ninh đó từ
Nga.
Trong phương án đầu, NATO sẽ là đồng minh phù hợp nhất. Tuy
nhiên, tình hình trong thời gian qua cho thấy thậm chí áp lực tối đa của
Washington cũng không làm giảm sự lo ngại của các đồng minh châu Âu.
Các nước lớn ở châu Âu bằng mọi giá tìm cách tránh để bị lôi kéo vào bất cứ
cuộc xung đột nào vì họ sợ sự xích lại gần với Gruzia hay Ukraine sẽ là trái
với ý muốn của Moskva. Sau cuộc chiến ở Nam Ossetia, tâm trạng đó sẽ chỉ
tăng lên. Vì thế, Mỹ là nước duy nhất có khả năng bảo đảm an ninh (cho các
nước láng giềng của Nga).
Về lý thuyết, các liên minh khu vực với sự tham gia của Mỹ, các nước
châu Âu nào đó và các nước hữu quan trong số các nước Cộng hòa thuộc Liên
Xô cũ, có thể là sự thay thế cho NATO. Tuy nhiên, Mỹ hiện đã bị oằn lưng vì
những nghĩa vụ quân sự, nhưng việc phải chứng minh mình là đồng minh của
"các nền dân chủ non trẻ" cũng như vai trò cường quốc có thể buộc Mỹ hành
động. Nghĩa là kịch bản đối đầu giữa Mỹ và Nga là hoàn toàn có thể xảy ra.
Các nước Trung và Đông Âu, có thể cả Ucraina, bắt đầu yêu cầu điều đó.
Ngoài Ucraina rõ ràng ủng hộ Gruzia, các nước SNG khác tỏ ra im hơi
lặng tiếng trong những diễn biến trên. Việc họ không muốn bày tỏ quan điểm
là dễ hiểu. Một mặt, tất cả các nước láng giềng đều ướm thử hành động của
Nga vào mình. Mặt khác, tuyên bố chống lại Moskva có thể làm tổn hại quan
hệ, điều giờ đây được nhận thức theo kiểu đặc biệt.
94
Việc nhận thức tình hình mới ở khoảng không hậu Xô viết đòi hỏi thời
gian nhất định. Nhiều điều phụ thuộc vào Nga. Rõ ràng là Moskva sẽ được
tôn trọng hơn nhiều, điều không thể không ảnh hưởng đến việc các nước SNG
soạn thảo chính sách an ninh, đến việc ra các quyết định chiến lược trong lĩnh
vực năng lượng và đường lối chính trị. Trong tình huống đó, Nga phải tỏ ra
đặc biệt tế nhị. Việc ép buộc đoàn kết chắc gì là phương pháp hiệu quả nhất.
Lời khuyên nổi tiếng của Tổng thống Mỹ Roosevelt "hãy nói nhỏ hơn khi bạn
có chiếc gậy to trong tay" đã trở nên thời sự. Nếu Nga tạo nên cảm giác rằng
giờ đây Nga dự định tiến hành chính sách áp đặt đối với các nước láng giềng,
sự căng thẳng ở các nước đó tiếp tục tăng và họ sẽ tìm kiếm sự lựa chọn thay
thế.
Phương án thứ hai có thể đồng nghĩa với việc củng cố và mở rộng Tổ
chức Hiệp ước an ninh tập thể (Armenia, Belarus, Kazakhstan, Kyrgyzstan,
Nga, Tajikistan và Uzbekistan) và có thể biến tổ chức này thành một liên
minh quân sự - chính trị thực sự. Mong muốn mở rộng ảnh hưởng của Nga ở
đây có thể vấp phải sự chống đối không chỉ của Mỹ mà cả Trung Quốc, bởi
Bắc Kinh có lợi ích của mình ở Trung Á. Nhân tố đột phá mà chiến dịch
Grudia tạo ra cho chính sách của Nga nên được phát triển bằng các biện pháp
như các dự án liên kết có lợi.
95
KẾT LUẬN
SNG là một khu vực địa lý đặc biệt bởi lịch sử hình thành của nó. Đây
là tổ chức ra đời sau một cuộc chiến tranh mà bên thua không bị tổn thất về
quân sự, kinh tế. Trong quá khứ, tất cả các nước này đều thuộc Liên bang Xô
viết.
Từ khi ra đời (1991) đến nay, SNG đã trải qua rất nhiều thăng trầm. Có
những thời điểm người ta đã đặt ra câu hỏi liệu SNG có còn phù hợp để tồn
tại nữa hay không. Tuy nhiên, nếu bản thân các nước SNG nghĩ rằng không
cần thiết để khối này tồn tại nữa, thì đối với Nga, điều đó không hoàn toàn
đúng. Nga không thể để SNG chấm dứt sự tồn tại bởi đây là khu vực ảnh
hưởng truyền thống của Nga. Nếu để mất vùng này, biên giới của Nga bị bao
vây từ mọi phía, an ninh Nga bị đe dọa. Tóm lại, dù tiếp tục tồn tại hay giải
thể thì những yếu tố địa – chính trị và địa – kinh tế của khu vực này vẫn có
sức hút rất lớn đối với các cường quốc trên thế giới. Nga và Mỹ là những
cường quốc trên thế giới trong quá khứ cũng như trong hiện tại. Để có được
một cực trong xu thế đa cực của thế giới hiện nay, một trong những biện pháp
của mỗi nước là giữ ưu thế của mình tại các khu vực ảnh hưởng truyền thống
và không ngừng gia tăng ảnh hưởng tại các sân sau của đối phương.
Tranh giành ảnh hưởng Nga – Mỹ ở khu vực thuộc các nước SNG diễn
ra khi gay gắt, khi âm ỉ kể từ sau khi Liên Xô sụp đổ. Cả Nga và Mỹ luôn có
những hành động, bước đi để giành được ưu thế trong cuôc chiến này. Trong
cuộc tranh giành này, có những thời điểm ảnh hưởng của Mỹ tại khu vực này
rất mạnh mẽ qua những cuộc cách mạng màu sắc thành công, thành lập được
một số chính quyền thân Mỹ. Trong ván bài địa – chính trị cả Nga và Mỹ
đang chơi tại khu vực SNG, những năm gần đây còn có thêm sự tham gia của
các nước và các khu vực khác như Trung Quốc và Liên minh châu Âu. Ưu thế
96
thuộc về Nga, Mỹ hay nước khác không chỉ được quyết định qua những chính
sách của mỗi nước, mà là sự phối hợp về chính sách cũng như hành động của
tất cả các thành viên. Đồng thời, quá trình cạnh tranh ảnh hưởng giữa Nga và
Mỹ không thể không tính đến quyền lợi của bản thân các nước SNG. Xu thế
thời đại đã thay đổi. Mọi xung đột giữa các cường quốc và các vấn đề quốc tế
đều phải được giải quyết thông qua thương lượng, đàm phán hòa bình trên cơ
sở tôn trọng độc lập, chủ quyền của các bên.
Quá trình tranh giành ảnh hưởng giữa Nga và Mỹ trên địa bàn SNG kể
từ sau Chiến tranh lạnh đến nay được biểu hiện trên các vấn đề: dầu mỏ, khí
đốt; cách mạng màu sắc; chính sách hướng Đông của NATO; các cuộc xung
đột sắc tộc, phong trào ly khai tại các khu vực như Chesnhia, Nam Osettia. Có
thể nhận thấy rằng, trong các vấn đề trên đan xen cả lợi ích kinh tế lẫn lợi ích
chính trị, văn hoá; có những thời điểm thăng trầm khác nhau. Có những lúc
dường như Nga đã đánh mất khu vực ảnh hưởng truyền thống này của mình;
nhưng trong những năm gần đây Nga sau một thời gian dài bỏ quên SNG đã
quay trở lại và giành lại ưu thế đối với Mỹ.
Tóm lại, những diễn biến tại không gian SNG trong gần hai thập kỷ qua
của hai cường quốc Nga, Mỹ cho chúng ta một cái nhìn chung nhất về xu thế
thời đại đang diễn ra. Mỹ muốn tạo ảnh hưởng của mình lên khu vực này để
kiềm chế Nga, tiến sát biên giới Nga. Trong khi đó, nước Nga không thể để
mất khu vực ảnh hưởng truyền thống của mình. Trong tương lai, Nga và Mỹ
sẽ tiếp tục quan hệ vừa hợp tác vừa đấu tranh, nhưng xu thế chủ đạo của mối
quan hệ này sẽ là đối thoại, tìm cách giải quyết các vấn đề quốc tế bằng con
đường hoà bình bởi đó là xu thế của thời đại. Do vậy, các vấn đề liên quan
đến quá trình tranh giành ảnh hưởng giữa Nga và Mỹ tại các nước thuộc SNG
cũng không nằm ngoài xu thế này.
97
Việt Nam trong những năm qua đã đạt được nhiều thành tựu to lớn
nhờ những đường lối, chính sách đúng đắn từ công cuộc Đổi mới từ năm
1986 đến nay. Điều này đem lại cho đất nước một vị thế đáng kể trên trường
quốc tế, tiếng nói của Việt Nam ngày càng được bạn bè quốc tế công nhận.
Việt Nam tham gia tích cực vào các vấn đề thời sự quốc tế. Công cuộc Đổi
mới cũng giúp cho Việt Nam có được nhiều bài học kinh nghiệm khi phát
triển mối quan hệ với các nước lớn. Bên cạnh Việt Nam là đất nước Trung
Quốc với một tiềm lực kinh tế, quân sự khổng lồ. Trong lịch sử, người Trung
Hoa luôn muốn Việt Nam là “sân sau” của mình. Hiện nay, mặc dù hai nước
có quan hệ tốt đẹp nhưng Việt Nam vẫn phải không ngừng tạo dựng vị thế
của mình thật vững chắc. SNG trong quan hệ giữa Nga và Mỹ để lại cho Việt
Nam nhiều kinh nghiệm quý báu trong quan hệ quốc tế. Bài học kinh nghiệm
thứ nhất là mối quan hệ với các nước lớn. Trong mối quan hệ với các nước
lớn, nguyên tắc đầu tiên để đàm phán và tăng cường quan hệ là tôn trọng độc
lập chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam. Bên cạnh đó, chúng ta cũng
phải mềm dẻo, linh hoạt trong các mối quan hệ quốc tế. Bài học kinh nghiệm
thứ hai là không ngừng phát huy nội lực bản thân, đề cao cảnh giác trước các
âm mưu và thủ đoạn từ các thế lực bên ngoài, tăng cường khả năng phòng thủ
đất nước vì hoà bình không phải là vĩnh viễn. Bài học thứ ba là Việt Nam phải
có đường lối đối ngoại đúng đắn, độc lập, luôn xem xét đến mọi biến động
của tình hình thế giới để hoạch định những chính sách phù hợp, tận dụng cơ
hội để phát triển đất nước.
Như vậy, những diễn biến trong quan hệ Nga – Mỹ về các vấn đề liên
quan đến các nước thuộc SNG cho chúng ta một cái nhìn chung nhất về sự
vận động của quan hệ quốc tế từ sau Chiến tranh Lạnh đến nay. Trong tương
lai gần, quá trình tranh giành ảnh hưởng giữa hai cường quốc này ở các nước
98
thuộc SNG nói riêng và các khu vực khác nói chung sẽ còn thu hút sự chú ý
của các quốc gia khác cũng như giới nghiên cứu.
99
PHỤ LỤC
PHỤ LỤC I: Thương mại hai chiều giữa Nga với các nước thành
viên SNG
(Đơn vị: tỉ USD)
Năm 1991 1992 1993 1994 1995 1996
Khối lượng thương
mại của Nga với
các nước SNG
114.616 37.824 27.234 24.178 27.770 29.700
Tổng khối lượng
ngoại thương của
Nga
210.000 117.184 98.388 105.523 126.591 142.900
Tỉ trọng (%) 54.6 32.3 27.7 22.9 21.9 21.0
(Nguồn: Tài liệu 40, tr. 31)
PHỤ LỤC II: NHỮNG THÔNG TIN CƠ BẢN VỀ CÁC NƯỚC SNG:
1. Cộng hòa Armenia:
- Tên nước: Cộng hòa Armenia
- Thủ đô: Yerevan
- Ngày quốc khánh: 21 – 9 – 1991
- Diện tích: 29.800 km2
- Vị trí địa lý: Nằm ở Tây Á, thuộc khu vực ngoại Kavkaz, có đường biên
giới chung với Ajerbaijan, Grudias, Thổ Nhĩ Kỳ, Iran
- Khí hậu: lục địa, nóng về mùa hè, lạnh về mùa đông
- Địa hình: nhiều đồi núi, không có biển
- Các dân tộc chính: người Armania, người Cuốc, Nga
- Tài nguyên thiên nhiên: vàng, đồng, molip đen, kẽm, nhôm
100
- Mặt hàng xuất khẩu chủ yếu: kim cương, máy móc, sản phẩm kim loại,
năng lượng, thực phẩm
- Mặt hàng nhập khẩu chủ yếu: khí gas, dầu mỏ
- Dân số: 2.976.272 người (2006)
- Thể chế chính trị: Cộng hòa Tổng thống
2. Cộng hòa Azerbaijan:
- Tên nước: Cộng hòa Azerbaijan (The Republic of Azerbaijan)
- Thủ đô: Baku
- Ngày quốc khánh: 28 – 5 – 1918 (ngày thành lập cộng hòa dân chủ
Azerbaijan)
- Diện tích:86.600 km2
- Vị trí địa lý: Nằm ở Tây Nam châu Á, giữa nga và Iran, giáp với khu vực
Kavkaz, biên giới giữa Armenia và Ajerbaijan, giữa Armenia với khu tự trị
Narcivan thuộc Ajerbaijan, biên giới với Grudia, Iran và Ajerbaijan, Iran và
khu tự trị Narcivan, Nga và Ajerbaijan, Ajerbaijan và Thổ Nhĩ Kì.
- Khí hậu: khô ráo
- Địa hình: rộng lớn, có đồng bằng giáp biển với 800 km bờ biển Kaspien,
dãy núi Kavkaz ở phía Bắc, vùng đất cao Karabakh ở phía Tây
- Các dân tộc chính: người Ajerbaijan, Nga, Daghestan, Armenia
- Tài nguyên thiên nhiên: dầu mỏ, khí đốt, sắt, nhôm
- Mặt hàng xuất khẩu chủ yếu: dầu mỏ, khí đốt, máy móc, bông, thực
phẩm
- Mặt hàng nhập khẩu chủ yếu: kim loại, hóa chất, các sản phẩm dầu
- Dân số: 7.961.619 người (2006)
- Thể chế chính trị: Cộng hòa Tổng thống
101
3. Cộng hòa Belarus
- Tên nước: Cộng hòa Belarus
- Thủ đô: Minsk
- Ngày quốc khánh: 3 – 7 – 1944 (ngày thủ đô Minsk được giải phóng
trong Chiến tranh thế giới thứ hai
- Diện tích: 207.600 km2
- Vị trí địa lý: nằm ở phần phía Đông châu Âu, có đường biên giới chung
với các nước Nga, Ucraina, Ba Lan, Latvia, Litva; tuy không có biển nhưng
Belarus có vị trí địa chính trị quan trọng bởi đây là một trong những tuyến
chính nối Nga với Tây Âu
- Khí hậu: ôn đới, thuộc vùng chuyển tiếp giữa khí hậu lục địa và khí hậu
biển nên mùa đông lạnh, mùa hè mát và ẩm ướt
- Các dân tộc chính: người Belarus, Nga, Ba La, Ucraina
- Tài nguyên thiên nhiên: rừng, than bùn, một số lượng ít dầu và khí thiên
nhiên
- Mặt hàng xuất khẩu chủ yếu: máy móc, thiết bị, khoáng sản, hóa chất,
kim loại, dệt may
- Mặt hàng nhập khẩu chủ yếu: thực phẩm, dầu mỏ, khí thiên nhiên
- Dân số: 9.771.300 người (2006)
- Thể chế chính trị: Cộng hòa
4. Cộng hòa Grudia
- Tên nước: Cộng hòa Grudia (Georgia)
- Thủ đô: Tbilisi
- Ngày quốc khánh: 26 – 5 - 1919
- Diện tích: 69.700 km2
102
- Vị trí địa lý: Tây Nam Á, bên bờ biển Kaspien, nằm giữa Nga và Thổ
Nhĩ Kỳ, có chung biên giới với Armenia, Ajerbaijan, Nga, Thổ Nhĩ Kỳ
- Khí hậu: cận nhiệt đới
- Địa hình: chủ yếu là đồi núi, rừng chiếm 39% diện tích
- Các dân tộc chính: người Grudia, Azeri, Armenai, Nga
- Tài nguyên thiên nhiên: rừng, thủy điện, mangan, đồng, sắt
- Mặt hàng xuất khẩu chủ yếu: máy móc, hóa chất, nhiên liệu tái xuất khẩu
- Mặt hàng nhập khẩu chủ yếu: nhiên liệu, máy móc và các bộ phận, thiết
bị giao thông, lúa mì
- Dân số: 4.661.473 người (2006)
- Thể chế chính trị:Cộng hòa Tổng thống
5. Kazakhstan
- Tên nước: Cộng hòa Kazakhstan (The Republic of Kazakhstan)
- Thủ đô: Astana
- Ngày quốc khánh: 25 – 10 - 1990
- Diện tích: 2.717.300 km2
- Vị trí địa lý: thuộc Trung Á, nằm giữa Nga và Uzbekistan, có đường biên
giới giáp với Trung Quốc, Kyrgystan, Nga, Turmenistan, Uzbekistan, giáp
với biển Chết và biển Kaspien.
- Khí hậu: lục địa, mùa hè nóng, mùa đông lạnh và khô.
- Địa hình: trải dài từ sông Vonga đến núi Antai, từ đồng cỏ phía Tây
Siberia đến các ốc đảo và sa mạc Trung Á
- Các dân tộc chính: người Kazakh, Nga,Ucraina, Đức, Tây tạng Trung
Quốc
- Tài nguyên thiên nhiên: dầu mỏ, khí đốt tự nhiên, than đá, sắt, mangan,
kẽm, boxit, vàng, uranium
103
- Mặt hàng xuất khẩu chủ yếu: dầu mỏ và các sản phẩm từ dầu mỏ, kim
loại màu, hóa chất
- Mặt hàng nhập khẩu chủ yếu: máy móc thiết bị, sản phẩm kim loại, thực
phẩm
- Dân số: 15.233.300 người
- Thể chế chính trị: Chế độ Cộng hòa
6. Kyrgystan
- Tên nước: Cộng hòa Kyrgystan
- Thủ đô: Biskkek
- Ngày quốc khánh: 31 – 8 - 1991
- Diện tích: 198.500 km2
- Vị trí địa lý: thuộc Trung Á, không có biển, chung đường biên giới với
Trung Quốc, Kazakhstan, Tajikistan, Uzbekistan.
- Địa hình: có nhiều thung lũng và lòng chảo, thảo nguyên, rừng, sông và
hồ
- Khí hậu: lục địa khô, cận nhiệt đới
- Các dân tộc chính: người Kyrgyz, Nga, Uzbech, Ucraina
- Tài nguyên thiên nhiên: thủy điện, vàng, than, dầu, khí đốt, thủy ngân
- Mặt hàng xuất khẩu chủ yếu: vải bông, len, thịt, vàng, thủy ngân, khí ga
tự nhsiên
- Mặt hàng nhập khẩu chủ yếu: máy móc và thiết bị, hóa chất, thực phẩm
- Dân số: 5.213.898 người (2006)
- Thể chế chính trị: Cộng hòa Tổng thống
104
7. Moldova
- Tên nước: Cộng hòa Moldova
- Thủ đô: Chisinev
- Ngày quốc khánh: 27 – 8 - 1991
- Diện tích: 33.700 km2
- Vị trí địa lý: thuộc Đông Nam châu Âu, giữa hai con sông Dnhiev và
Pơrus, có biên giới chung với Ucraina và Rumania
- Địa hình: thảo nguyên nhấp nhô, thấp dần về phía nam ra biển Đen
- Khí hậu:mùa đông ôn hòa, mùa hè ấm áp
- Các dân tộc chính: người Moldova, Ucraina, Nga, Bungari
- Tài nguyên thiên nhiên: than nâu, photpho, thạch cao, đá vôi
- Mặt hàng xuất khẩu chủ yếu: thực phẩm, dệt may, máy móc
- Mặt hàng nhập khẩu chủ yếu: khoáng sản và nhiên liệu, hóa chất
- Dân số: 4.466.706 người
- Thể chế chính trị: Cộng hòa Tổng thống
8. Tajikistan
- Tên nước: Cộng hòa Tajikistan
- Thủ đô: Dusanbe
- Ngày quốc khánh: 9 – 9 - 1991
- Diện tích: 143.100 km2
- Vị trí địa lý: thuộc Trung Á, phía Tây của Trung Quốc, không có biển,
chung đường biên giới với Trung Quốc, Afganistan, Kyrgystan, Uzbekistan
- Khí hậu: lục địa, nóng về mùa hè, ấm áp về mùa đông
- Các dân tộc chính: người Tajis, Uzbech, Nga
- Tài nguyên thiên nhiên: thủy điện, dầu lửa, uranium, thủy ngân, than nâu,
chì, kẽm, vonfram
105
- Mặt hàng xuất khẩu chủ yếu: nhôm, điện, bông, hoa quả, dầu thực vật,
hàng dệt may
- Mặt hàng nhập khẩu chủ yếu: các sản phẩm dầu mỏ, máy móc thiết bị,
thực phẩm
- Dân số: 7.320.815 người (2006)
- Thể chế chính trị: Cộng hòa Tổng thống
9. Turkmenistan
- Tên nước: Turkmenistan
- Thủ đô: Ashgabad
- Ngày quốc khánh: 27 – 10 - 1991
- Diện tích: 488.100 km2
- Vị trí địa lý: phía Bắc giáp Kazakhstan và Uzbekistan, phía Đông Nam
giáp Afganistan, phía Nam giáp Iran, phía Tây giáp biển Kaspien
- Các dân tộc chính: người Turmeni, Nga, Uzbech
- Tài nguyên thiên nhiên: khí đốt, dầu lửa, than đá, muối mỏ
- Mặt hàng xuất khẩu chủ yếu: khí ga, dầu thô, hóa chất dầu, sợi bông
- Mặt hàng nhập khẩu chủ yếu: máy móc và thiết bị, hóa chất, thực phẩm
- Dân số: 5.042.920 người (2006)
- Thể chế chính trị: Cộng hòa Tổng thống
10. Ucraina
- Tên nước: Ucraina
- Thủ đô: Kiev
- Ngày quốc khánh: 24 – 8 - 1991
- Diện tích: 603.700 km2
106
- Vị trí địa lý: Đông Nam châu Âu, chung đường biên giới với Belarus,
Hungaria, Moldova, Ba Lan, Rumania, Nga, Slovakia
- Các dân tộc chính: người Ucraina, Nga, Belarus, Moldova, Tarta,
Bugaria, hungaria, Rumania, Ba Lan, Do Thái
- Tài nguyên thiên nhiên: quặng sắt, than đá, mangan, khí ga tự nhiên, dầu,
muối, đường, lưu huỳnh, thủy ngân
- Mặt hàng xuất khẩu chủ yếu: kim loại đen và kim loại màu, máy móc và
thiết bị vận tải, các sản phẩm lương thực
- Mặt hàng nhập khẩu chủ yếu: năng lượng, máy móc và thiết bị
- Dân số: 49.465000 người (2004)
- Thể chế chính trị: Cộng hòa Nghị viện – Tổng thống
11. Uzbekistan
- Tên nước: Cộng hòa Uzbekistan
- Thủ đô: Tashtken
- Ngày quốc khánh: 1 – 9 - 1991
- Diện tích: 447.400 km2
- Vị trí địa lý: trung tâm Trung Á, đường biên giới giáp với Afganistan,
Kazakhstan, Kyrgystan, Tajikistan, Turmenistan, Uzbekistan, không có biển.
- Khí hậu: sa mạc, mùa hè nóng, mùa đông lạnh
- Các dân tộc chính: Uzbech, Nga, Tajis, Cazakh, Tarta
- Tài nguyên thiên nhiên: khí ga tự nhiên, dầu mỏ, than đá, vàng, uranium
- Mặt hàng xuất khẩu chủ yếu: vàng, các sản phẩm năng lượng, kim loại
đen
- Mặt hàng nhập khẩu chủ yếu: máy móc và thiết bị, thực phẩm, hóa chất,
kim loại
- Dân số: 27.307.134 người (2006)
107
- Thể chế chính trị: Chế độ Cộng hòa
12. Liên bang Nga:
- Tên nước: Liên bang Nga (Russia Federation)
- Thủ đô: Moscow
- Ngày quốc khánh: 12 – 6 – 1990
- Diện tích: 17.075.400 km2
- Vị trí địa lý: Trải dài trên hai lục địa Âu – Á, biên giới chung với Trung
Quốc, Ajerbaijan, Belarus, Estonia, Phần Lan, Grudia, Kazakhstan, Bắc Triều
Tiên, Latvia, Litva, Mông Cổ, Ba Lan, Na Uy, Ucraina
- Các dân tộc chính: Nga, Tarta, Ucraina
- Tài nguyên thiên nhiên: dầu mỏ, khí gas, than đá, gỗ và nhiều khoáng sản
khác
- Mặt hành xuất khẩu chủ yếu: dầu mỏ và các sản phẩm từ dầu mỏ, khí gas
tự nhiên, gỗ và các sản phẩm gỗ, kim loại, hóa chất
- Mặt hành nhập khẩu chủ yếu: máy móc và thiết bị, hàng tiêu dùng, các
sản phẩm kim loại tinh chế
- Dân số: 142.400 000 người (2006)
- Thể chế chính trị: Liên bang
108
Bản đồ chi tiết Nam Osettia
Nguồn : www.http:// wikipedia.com
Bản đồ khu vực Chesnhia và Kavkaz
Nguồn : www.http:// wikipedia.com
109
110
111
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tiếng Việt
1. Z.Brzezinski (1999), Bàn cờ lớn, Nxb Chính trị quốc gia, HN.
2. Mai Hoàng Anh (2001), “Những nét cơ bản trong chính sách đối ngoại của
Tổng thống G.Bush”, Châu Mỹ ngày nay, (4), tr.56-59.
3. Hồ Châu (1999), “Chiến lược toàn cầu hướng tới thế kỷ XXI của Mỹ”,
Châu Mỹ ngày nay, (2), tr.32.
4. Hồ Châu (2002), “Tam giác Mỹ – Nga – Trung đầu thế kỷ XXI”, Châu Mỹ
ngày nay, (2), tr.48-52.
5. Hồ Châu (2001), “Chiến lược đối ngoại của Nga dưới thời Tổng thống
Putin”, Nghiên cứu châu Âu, (23), tr.17-23.
6. Hồ Châu (1996), “Con đường sang phía Đông của NATO”, Nghiên cứu
châu Âu,(12), tr.9.
7. Hồ Châu (2005), “Chiến lược Á-Âu của Mỹ từ sau Chiến tranh lạnh-nhìn
từ góc độ địa-chính trị”, Nghiên cứu châu Âu, (1), tr.19-26.
8. Trần Mai Chi (1998), “Mỹ và cuộc chiến dầu lửa ở Kaspien”, Châu Mỹ
ngày nay, (4), tr.55.
9. “Chiến lược vũ khí hạt nhân mới trong chính sách ngoại giao đơn phương
của Hoa Kỳ” (2002), Châu Mỹ ngày nay, (4), tr.65-67.
10. Lý Thực Cốc (1996), Mỹ thay đổi lớn chiến lược toàn cầu, Nxb Chính trị
quốc gia, HN.
11. David G Victor và Nadejda M,Victor (2003), “Trục dầu mỏ?”, Châu Mỹ
ngày nay, (5), tr.44-50.
12. Liễu Xuân Đài (2006), “Triển vọng kinh tế và ngân sách Mỹ trong thời
gian 2006-2016”, Châu Mỹ ngày nay, (7), tr.14-16.
112
13. Nguyễn An Hà (2001), “Quá trình tái liên kết kinh tế của các nước SNG-
triển vọng của một khu vực thương mại tự do”, Nghiên cứu châu Âu,
(1), tr.29-35.
14. Đỗ Thanh Hải (2005), “Cạnh tranh ảnh hưởng Mỹ – Nga ở Trung Á và
Kavkaz sau sự kiện 11/9”, Châu Mỹ ngày nay, (7), tr.29-36.
15. Học viện Quan hệ quốc tế (2003), Quan hệ của Mỹ với các nước lớn
trong khu vực châu Á - Thái Bình Dương, Nxb Chính trị quốc gia,
HN.
16. Lê Phụng Hoàng (2005), Lịch sử quan hệ quốc tế ở châu Âu trong Chiến
tranh lạnh (1949-1991), ĐHSP.TPHCM, Tài liệu lưu hành nội bộ.
17. Lê Phụng Hoàng (2007), Lịch sử quan hệ quốc tế sau Chiến tranh thế giới
thứ hai, tập II, ĐHSP. TPHCM, Tài liệu lưu hành nội bộ.
18. Hà Mỹ Hương (2003), Quan hệ Nga – Mỹ sau Chiến tranh lạnh, Nxb
Chính trị quốc gia, HN.
19. Hà Mỹ Hương (1996), “Nhìn lại quá trình liên kết giữa Liên bang Nga
với các nước trong khối SNG”, Nghiên cứu châu Âu, (8), tr.34.
20. Hà Mỹ Hương (2001), “Nước Nga trong cuộc tìm kiếm đối tác tin cậy sau
Chiến tranh lạnh”, Nghiên cứu châu Âu, (6), tr.51-59.
21. Hà Mỹ Hương, Nước Nga hậu Xô viết. Tạp chí Cộng sản điện tử,
http//www.tapchicongsan.org.vn. (cập nhật: 8.00 ngày 22/8/2009).
22. Hungtington Samuel, Nguyễn Phương Sửu dịch (2003), Sự va chạm của
các nền văn minh, NXB Lao động, HN.
23. James C.Hsiung (2004), “Tam giác chiến lược: những động thái giữa
Trung Quốc, Nga và Mỹ”, Châu Mỹ ngày nay, (8), tr.41-45.
24. Joseph S.Nye Jr (1999), “Chính sách an ninh của Hoa Kỳ: các thách thức
đối với thế kỷ XXI”, Châu Mỹ ngày nay, (4), tr.38.
113
25. Lương Văn Kế, (2007), Thế giới đa chiều, Lý thuyết và kinh nghiệm
nghiên cứu khu vực, chuyên khảo, NXB Thế giới, HN.
26. Trần Bá Khoa (1999), “NATO và chiến lược mới”,Châu Mỹ ngày nay,
(3), tr.34.
27. Nguyễn Văn Lập (2002), Quan hệ Nga – Mỹ: vừa là đối tác, vừa là đối
thủ, Nxb Thông tấn, HN.
28. Thái Văn Long (2002), “Những động thái mới trong chính sách đối ngoại
của Liên bang Nga với Mỹ và NATO thời gian gần đây”, Nghiên cứu
châu Âu, (2), tr.49-53.
29. Nguyễn Thị Luyến (2004), “Một số vấn đề liên quan đến cuộc chiến ở
Chesnhia”, Nghiên cứu châu Âu, (3), tr.37-47.
30. Bùi Hà Nam (2003), “Tìm hiểu chính sách đối ngoại của Mỹ đối với tiến
trình mở rộng NATO trong những năm 1990”, Châu Mỹ ngày nay,
(6), tr.34-42.
31. Nguyễn Thị Hoài Phương (2000), “Chính sách của Nga đối với Mỹ từ khi
độc lập đến nay”, Nghiên cứu châu Âu, (4), tr.51-56.
32. E.Primacov (2001), Những tháng năm trong nền chính trị lớn, Nxb Công
an nhân dân, HN.
33. Đỗ Trọng Quang (2007), “Chiến lược của Nga ở khu vực Trung Á”,
Nghiên cứu châu Âu, (11), tr.14-24.
34. Nguyễn Thị Quế (2005), “Tầm quan trọng của châu Âu đối với Mỹ sau
Chiến tranh lạnh”, Nghiên cứu châu Âu, (6), tr.16-21.
35. Randall B.Ripley và James M.Lindsay (2002), Chính sách đối ngoại của
Hoa Kỳ sau Chiến tranh lạnh, Nxb Chính trị quốc gia, HN.
36. Nguyễn Thị Huyền Sâm (2001), “Vài nét về chính sách đối ngoại của Nga
trước sự mở rộng sang phía Đông của NATO”, Nghiên cứu châu Âu,
(3), tr.14-16.
114
37. Nguyễn Cơ Thạch, (1998), Thế giới trong 50 năm qua (1945 – 1995) và
thế giới 25 năm tới (1996 – 2020), NXB Chính trị Quốc gia, HN.
38. Nguyễn Anh Thái (2003), Lịch sử thế giới hiện đại, Nxb Giáo dục, HN.
39. Nguyễn Đức Thắng (2007), “Âm mưu, thủ đoạn của Mỹ và phương Tây
tiến hành “cách mạng màu sắc” ở các nước Trung Á và Đông Âu”,
Nghiên cứu châu Âu, (5), tr.14-20.
40. Thomas J.Mc Cormick (2004), Nước Mỹ nửa thế kỷ: chính sách đối ngoại
của Hoa Kỳ trong và sau Chiến tranh lạnh, Nxb Chính trị quốc gia,
HN.
41. Nguyễn Quang Thuấn (chủ biên) (2007), Cộng đồng các Quốc gia độc
lập-quá trình hình thành và phát triển, Nxb Khoa học xã hội, HN.
42. Nguyễn Quang Thuấn (1995), “Kinh tế đối ngoại Nga - những vấn đề tái
liên kết kinh tế các nước SNG”, Nghiên cứu châu Âu, (1), tr.49.
43. Lê Bá Thuyên (1997), Hoa Kỳ cam kết và mở rộng, Nxb Khoa học xã hội,
HN.
44. Lê Bá Thuyên (1998), “Hoa Kỳ và chiến lược quân sự đến 2015”, Châu
Mỹ ngày nay, (5), tr.48.
45. Lê Bá Thuyên (1997), “Châu Âu trong chiến lược toàn cầu cam kết và mở
rộng của Mỹ”, Nghiên cứu châu Âu, (2), tr.8.
46. Đinh Công Tuấn (2003), “Quan điểm của Mỹ – Nga về vấn đề
Chechnya”, Nghiên cứu châu Âu, (2), tr.3-7.
47. Nguyễn Vũ Tung, (2008), Chiến lược toàn cầu của Mỹ sau Chiến tranh
lạnh, Châu Mỹ ngày nay, (4), tr 40 – 48.
48. B.Yeltsin (1995), Những ghi chép của Tổng thống, Nxb Chính trị quốc
gia, HN.
115
49. Phạm Ngọc Uyển (1996), “Nga với sự mở rộng NATO về phía Đông”,
Nghiên cứu châu Âu, (8), tr.29.
50. Phạm Ngọc Uyển (1997), “Đánh giá quan hệ Mỹ – Nga từ 1991 đến nay”,
Nghiên cứu châu Âu, (13), tr.57.
51. Lê Thanh Vạn (2001), “Chính sách đối ngoại của Tổng thống Putin sau 1
năm cầm quyền (26/3/2000-26/3/2001)”, Nghiên cứu châu Âu, (2),
tr32-38.
52. TTXVN, Ảnh hưởng của việc NATO mở rộng về phía Đông, TLTKĐB,
13 – 8 - 2004.
53. TTXVN, B.Clinton: Thông điệp Liên bang năm 1997, TTXVN,
TLTKĐB, 4 – 4 - 1997.
54. TTXVN, Ba nước Slavơ lập liên minh kinh tế, TLTKĐB, 19 – 7 - 1993.
55. TTXVN, Bảy công việc chủ yếu của chính phủ Nga, TTXVN, TLTKĐB,
7 – 11 - 1997.
56. TTXVN, Bốn đặc điểm lớn tình hình thế giới sau Liên Xô, TLTKĐB, 8 –
2 - 1992.
57. TTXVN, Bước ngoặt mới trong chính sách của Mỹ, TLTKĐB, 6 – 12 -
1995.
58. TTXVN, Các nước Cộng hòa thuộc Liên Xô cũ xếp hàng xin viện trợ Mỹ,
TLTKĐB, 15 – 3 - 1994.
59. TTXVN, Cảnh báo sự tái tập trung quyền lực của SNG, TLTKĐB, 25 – 3
- 1992.
60. TTXVN, Chiến lược an ninh quốc gia của Nga, TLTKĐB, 27 – 1 - 2000.
61. TTXVN, Chiến lược an ninh mới của Mỹ ở châu Âu, TLTKĐB, 20 – 4 -
1994.
62. TTXVN, Chính sách chống NATO của Nga: hậu quả và triển vọng,
TLTKĐB, 25 – 3 - 1998.
116
63. TTXVN, Chính sách của Mỹ sau sự kiện 11/9, TLTKĐB, 15 – 5 - 2002.
64. TTXVN, Chính sách đối ngoại của Liên bang Nga, TLTK, số 6, 2002.
65. TTXVN, Chính sách đối ngoại của Nga: thời kỳ tự nguyện phụ thuộc vào
phương tây đã chấm dứt, TLTKĐB, 6/12/1995.
66. TTXVN, Chính sách của nước Nga ở Trung Á, TLTKĐB, 24 – 3 - 1994.
67. TTXVN, Cuộc tìm kiếm thị trường mới ở các nước Cộng hòa Trung Á,
TLTKĐB, 30 – 1 - 1992.
68. TTXVN, Gruzia – khu vực lợi ích của Nga, TLTKĐB, 18 - 7 - 1994.
69. TTXVN, Hiệp ước về Liên hiệp Belarus – Nga, TLTKĐB, 8 – 4 - 1997.
70. TTXVN, Mỹ chuyển hướng chiến lược, TLTKĐB, 10 - 1 - 1992.
71. TTXVN, Mỹ đã vào sân sau của Liên bang Nga, TLTKĐB, 3 – 12 - 1993.
72. TTXVN, Mỹ điều chỉnh chính sách đối với châu Á – Thái Bình Dương,
TLTKĐB, 15/3/95).
73. TTXVN, Mỹ điều chỉnh chính sách đối với Nga, TLTKĐB, 25 - 3 - 1994.
74. TTXVN, Nga chơi trò dầu khí để giải quyết các vấn đề địa – chính trị,
TLTKĐB, 7-1-2006.
75. TTXVN, Ngoại giao năng lượng phương Đông của Nga, Tin tham khảo
chủ nhật, 22/10/06)
76. TTXVN, Nhặt những mảnh vỡ, TLTKĐB, 31 – 1 - 1992.
77. TTXVN, Những đồng minh tiềm tàng của Nga là ai?, TLTKĐB, 14 – 3 -
1996.
78. TTXVN, Quân sự Nga – Mỹ, TLTKĐB, 14 – 1 - 1997.
79. TTXVN, Thế giới mới, TLTKĐB, 8 - 2 - 1992.
80. TTXVN, Thông điệp Liên bang của các Tổng thống Nga và Mỹ hàng
năm.
81. TTXVN, Thông điệp Liên bang của Tổng thống Bush, TLTKĐB, 11, 12,
13 – 2 – 1992.
117
82. TTXVN,Triển vọng mở rộng NATO và lợi ích của nước Nga, TLTKĐB,
6 – 12 - 1993.
83. TTXVN, Về chính sách đối ngoại của Nga, TLTKĐB, 14 – 10 - 1992.
84. TTXVN, Xung quanh cuộc gặp thượng đỉnh Nga – NATO, TLTKĐB, 3-
6-2002.
85. TTXVN, TLTKĐB, 12-4-1993.
86.
Tiếng Anh
87.Agnew J. (1998), Geopolitics: Re – Visioning World Politics, Routledge,
New York
88.
89. The Nation Security Stratery of
the United States of America.
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LA7644.pdf