Trường đại học kinh tế quốc dân
khoa ngân hàng - tài chính
đề án
lý thuyết tài chính tiền tệ
Đề tài:
quá trình tiến tới
tự do hoá lãi suất ở Việt Nam
Giáo viên hướng dẫn : đàm văn huệ
Sinh viên thực hiện : phạm thu hiền
Lớp : ngân hàng 41A
Hà Nội - 2001
Lời nói đầu
Trong bất kì nền kinh tế thị trường nào, việc huy động vốn từ bản thân nền kinh tế đó vào hệ thống ngân hàng luôn có tầm quan trọng đặc biệt. Vị trí của vấn đề này ở các nước đang phát triển như Việt Nam lại cần phải
34 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1361 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Quá trình tiến tới tự do hoá lãi suất ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
quan tâm hơn bởi chúng ta đang thực hiện chiến lược Công Nghiệp Hoá-Hiện Đại Hoá đất nước đưa Việt Nam trở thành một nước công nghiệp trong giai đoạn 2000-2010.
Từ khi chuyển sanh kinh doanh, các ngân hàng thương mại đã thực hiện huy động một khối lượng đáng kể vốn trong nước và nước ngoài; thúc đẩy đầu tư cho sản xuất của các thành phần kinh tế, coi trọng đầu tư tín dụng ưu đãi để phục vụ xoá đói giảm nghèo và thực hiện một số chính sách xã hội .
Chủ trương của Đảng, nhà nước ta hiện nay trong chiến lược huy động vốn là phải đánh thức mọi tiềm năng vốn còn trôi nổi ngoài ngân hàng hoặc còn “ngủ yên” trong các phương thức tích trữ phi ngân hàng của nhân dân. Song việc tổ chức huy động vốn, đặc biệt là vốn trung và dài hạn là một vấn đề khó đối với chính bản thân ngân hàng . Có rất nhiều giải pháp được đưa ra nhằm giải quyết vấn đề này. Nhiệm vụ của chúng ta là phải tìm ra được giải pháp có hiệu quả nhất.
Chính vì vậy, là một sinh viên ngành Ngân hàng-Tài chính, em chọn đề tài “ Ngân hàng Việt Nam với chiến lược huy động vốn phục vụ Công nghiệp hoá-Hiện đại hoá đất nước ’’ để có cơ hội tìm hiểu thêm về các giải pháp huy động vốn hiệu quả trong ngành của mình, và để trau dồi thêm kiến thức phục vụ tốt hơn cho công việc sau này.
Đề tài tập trung vào hai vấn đề chính sau :
1. Hoạt động huy động vốn của hệ thống ngân hàng Việt Nam hiện nay- những vấn đề cần giải quyết.
2. Các giải pháp huy động vốn hiệu quả nhất đối với hệ thống ngân hàng.
Phạm vi nghiên cứu rất rộng nhưng em chỉ xin được phép tập trung trong giới hạn vốn huy động trong nước qua hệ thống ngân hàng . Do tài liệu có hạn nên bài viết không tránh khỏi thiếu sót, em mong thầy giáo hướng dẫn chỉ bảo thêm để em hoàn thành tốt đề án này.
Em xin chân thành cảm ơn!
Phần một: Những lý luận chung
I- Những quan điểm cơ bản về vốn và hoạt động huy động vốn .
1. Vốn và chính sách về vốn:
Điều đầu tiên chúng ta cần phải hiểu nguồn vốn là gì? Hiện nay có rất nhiều quan niệm về vốn khác nhau, song tựu chung lại mọi người đều cho rằng vốn là toàn bộ các nguồn lực như tài nguyên thiên nhiên, các giấy tờ có giá, các tài sản có giá , bất động sản, các nguồn nhân lực, các phát minh khoa học kĩ thuật v.v.. được sử dụng phục vụ hoạt động sản xuất kinh doanh của con người. Và nguồn vốn được hiểu theo nghĩa rộng là tổng hợp các nguồn lực phát triển kinh tế đất nước. Khái niệm này ngày càng mở rộng và tổng hợp, bao quát trong nó không chỉ các nguồn vốn tài chính, tài sản vật chất, công nghệ và tài sản vô hình cũng như các yếu tố đất đai, vị trí địa lý, tài nguyên thiên nhiên, các nhân tố con người (số lượng, chất lượng, kiến thức về lao động và quản lý, truyền thống văn hoá) và thị trường có trong bản thân nước đó ; mà còn cả các nguồn vốn công nghệ, những cơ hội đầu tư và thị trường bên ngoài v.v… nghĩa là tất cả những nhân tố cấu thành, chi phối hoặc liên quan trực tiếp hoặc gián tiếp đến quá trình sản xuất của toàn bộ nền kinh tế thế giới, với tư cách một chỉnh thể thống nhất và quan hệ biện chứng hữu cơ với nhau.
Vốn là điều kiện tiên quyết để duy trì và phát triển sản xuất, đồng thời là cơ sở để phân phối lợi nhuận và đánh giá hiệu quả các hoạt động kinh tế. Nó bao gồm các nguồn vật tư và tài sản trong doanh nghiệp; nguồn tiền mặt hoặc các tài sản khác dự trữ trong dân . Vì vậy chính sách tạo vốn cơ bản phải tuân thủ các nguyên tắc của người có vốn, việc sử dụng vốn nhất thiết phải tuân thủ các nguyên tắc hiệu quả kinh tế. Nói cách khác, chính sách tạo vốn và sử dụng vốn phải được xây dựng và thực hiện theo những quy luật tất yếu cuả nền kinh tế thị trường và góp phần đắc lực vào việc hình thành thị trường vốn, thị trường tiền tệ.
Mục tiêu của chính sách tạo vốn trước hết và chủ yếu là tạo ra môi trường kinh tế và tiền đề pháp lý để biến mọi nguồn tiền tệ thành tư bản sinh lời và tăng trưởng trong quá trình tái sản xuất xã hội. Các nguồn vốn chủ yếu bao gồm : vốn đầu tư kinh tế của Nhà nước, vốn tự có của các doanh nghiệp, vốn bằng tiền và tiền nhàn rỗi của dân cư và vốn của các doanh nghiệp, tổ chức tài chính quốc tế. Việc huy động vốn thông qua các kênh như hệ thống ngân hàng, ngân sách Nhà nước, các doanh nghiệp, các tổ chức tín dụng phi ngân hàng …
Song ở đây, do khuôn khổ của đề án, em chỉ xin được phép được đề cập tới vấn đề này trong phạm vi các nguồn vốn trong nước được huy động qua hệ thống ngân hàng .
2. Các điều kiện cho hoạt động huy động vốn :
Đối với các kênh huy động vốn nói chung, để hoạt động huy động vốn đạt hiệu quả cần phải có những điệu kiện cơ bản về môi trường hoạt động như sau:
Thứ nhất, Nhà nước phải có chính sách phát triển kinh tế nhiều thành phần nhất quán và được thể chế hoá, nhằm giải phóng mọi tiềm năng về vốn của các thành phần kinh tế và dân cư, tiết kiệm tiêu dùng xa xỉ, tập trung hướng vào đầu tư phát triển sản xuất, kinh doanh, dịch vụ.
Thứ hai, Nhà nước phải tạo ra một môi trường pháp lý thuận lợi, từng bước cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước, tạo một thị trường vốn đầy tiềm năng, thu hút mọi nguồn vốn trong và ngoài nước.
Thứ ba, đối với các doanh nghiệp cần khắc phục tình trạng cấp phát vốn tràn lan, buộc các doanh nghiệp phải tự tích tụ vốn hoặc đi tìm các nguồn vốn, các phương thức huy động vốn thích hợp với hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, ngoài ra họ còn có quyền quyết định cách sử dụng vốn của mình.
Còn đối với hệ thống ngân hàng nói riêng, để huy động vốn có hiệu quả, trước hết phải xác định tốc độ huy động, khối lượng huy động, quy mô huy động vốn phải phù hợp với hoạt động cho vay trong điều kiện sinh lời. Bảo tồn và sử dụng vốn có hiệu quả là mục tiêu cuối cùng của chính sách đầu tư và là nhiệm vụ chủ yếu của quản trị kinh doanh.
Ngân hàng là một thành phần rất quan trọng trong việc tạo lập một thị trường vốn. Chính vì vậy Nhà nước phải cho phép các ngân hàng thương mại và toàn dân mua bán chuyển nhượng các chứng khoán , tạo nên sự tin tưởng trong các hoạt động kinh doanh tiền tệ, từng bước hình thành thị trường chứng khoán nhằm đáp ứng nhanh, nhạy với khối lượng lớn vốn đầu tư cho các doanh nghiệp.
II- Vai trò của nguồn vốn trong công cuộc Công nghiệp hoá-Hiện đại hoá đất nước và lý do nghiên cứu vấn đề huy động vốn qua hệ thống ngân hàng :
1. Vai trò :
Vốn là một trong ba yếu tố đầu vào cơ bản (K,L,T) của quá trình sản xuất không thể thiếu đối với bất kỳ nền kinh tế nào. Nhất là hiện nay, trình độ sản xuất đã phát triển, trình độ chuyên môn hoá, phân công lao động cao, vốn được coi là điều kiện tiên quyết trong quá trình sản xuất, và có vai trò quyết định đối với các yếu tố khác.
Trong nền kinh tế Việt Nam hiện nay nói chung vốn là nhân tố quyết định đến sự thành bại của quá trình Công nghiệp hoá-Hiện đại hoá đất nước, cho nên hoạt động huy động vốn như một công cụ thiết yếu của Nhà nước ta trong quá trình đó. Qua công tác huy động Nhà nước có thể đánh giá tương đối chính xác tiềm lực tài chính hiện có của nền kinh tế đất nước, từ đó có cơ sở đề ra các chính sách kinh tế phù hợp. Chỗ dựa cơ bản của chính sách tài chính là giải phóng triệt để mọi nguồn vốn trong nước, của các thành phần kinh tế và của toàn dân để phát triển kinh doanh, hình thành thị trường vốn trong nước để đảm bảo huy động nhanh, sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn, đồng thời mở rộng hoạt động kinh tế tài chính đối ngoại để thu hút mạnh các nguồn vốn nước ngoài, vừa tranh thủ kĩ thuật tiên tiến vừa gắn thị trường vốn trong nước với thị trường vốn quốc tế. Trên cơ sở đó kinh tế Việt Nam có cơ hội tham gia ngày càng sâu vào phân công lao động quốc tế.
Đối với ngành của chúng ta nói riêng, thì huy động vốn vào ngân hàng như quá trình thụ động nhạy bén của chính ngành ngân hàng để biến nhu cầu khách quan muốn gửi tiền của dân chúng thành sự thực. Khi đó sẽ hình thành một thị trường vốn năng động nhạy bén, góp phần tích cực cho sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước. Hoạt động huy động vốn thực chất chính là nghiệp vụ nợ – một trong các chức năng cơ bản của ngân hàng, và vốn chính là lực lượng sản xuất trong hệ thống đó. Chính vì thế ngành ngân hàng phải luôn tìm tòi đổi mới các phương thức huy động cũng như cho vay, ngày càng hoàn thiện hệ thống hoạt động tín dụng, nâng cao vai trò tích cực của vốn đối với quá trình phát triển đất nước.
2. Vị trí của vốn huy động trong nước đối với vốn huy động từ nước ngoài:
Nguồn vốn huy động trong nước có một số ưu thế so với huy động vốn nước ngoài đó là : ổn định, bền vững, chi phí thấp, giảm thiểu được những hiệu quả xấu đối với nền kinh tế do tác động của thị trường tài chính tiền tệ và kinh tế của các nước trên thế giới. Chi phí cho nguồn vốn nước ngoài không những phải trả các loại phí như phí bảo hiểm, phí cam kết, phí quản lý… nên cũng không phải là rẻ hơn giá thành khai thác vốn trong nước. Nguồn vốn trong nước còn có ưu điểm là lãi phải trả cho nguồn vốn này sẽ tiếp tục được sử dụng, tích luỹ trong nội bộ nền kinh tế, không phải chuyển sang nước ngoài. Trong trường hợp có tác động xấu từ môi trường kinh tế, tiền tệ thế giới, yếu tố tâm lý của các nhà đầu tư hoặc một số yếu tố khác, nguồn vốn trong nước sẽ không tạo ra dòng chảy vốn ra khỏi đất nước, đảm bảo cho hệ thống tài chính tiền tệ quốc gia được ổn định, hệ thống tài chính- ngân hàng không bị sụp đổ. Tăng cường nguồn vốn đầu tư trong nước cũng làm giảm áp lực về các điều kiện về cả kinh tế, chính trị mà bên nước ngoài đã áp đặt cho ta, nâng cao tính tự chủ của bên Việt Nam đối với đối tác nước ngoài. Nó cũng làm giảm áp lực về cán cân thanh toán ngoại tệ của nền kinh tế, triệt để tiết kiệm trong toàn bộ xã hội ngăn chặn xu hướng xem nhẹ tích luỹ nạn tiêu dùng.
Chúng ta không được xem nhẹ bất cứ hình thức huy động nào đặc biệt là việc huy động vốn trong nước vì vai trò rất quan trọng của nó trong nền kinh tế được phân tích như ở trên. Đây cũng là lý do nghiên cứu của đề tài này.
3. Lý do nghiên cứu đề tài:
Chúng ta đã biết vai trò vô cùng quan trọng của nguồn vốn như phần trên đã phân tích. Chính vì vậy việc huy động vốn cần có sự quan tâm nghiêm túc và đầu tư nghiên cứu để tìm ra những giải pháp huy động hiệu quả. Trong bối cảnh hiện nay, tình cảnh kinh tế – chính trị – xã hội thế giới diễn biến rất phức tạp, nền kinh tế nước ta đứng trước rất nhiều rủi ro; điều đó ảnh hưởng trực tiếp đến công tác huy động vốn. Chính vì vậy nghiên cứu vấn đề này, chúng ta sẽ có cái nhìn chính xác, có cơ sở để dự đoán và khắc phục những rủi ro có thể gặp phải trong tương lai.
Mặt khác Việt Nam vẫn còn rất nhiều tiềm lực vốn trôi nổi trên thị trường tự do, đây chính là mảnh đất mầu mỡ cần phải khai thác. Thế nhưng hiện nay chúng ta vẫn chưa thu hút được thực sự các nguồn lực này, đặc biệt là các nguồn vốn trong dân cư. Vấn đề đặt ra là phải làm thế nào để tận dụng tối đa các nguồn lực sẵn có của nước mình để phục vụ chính nước mình, dần tiến tới sự độc lập trong sản xuất và sử dụng công nghệ. Đó là vấn đề cần phải giải quyết lâu dài không thể một sớm một chiều. Chính vì vậy nghiên cứu vấn đề này không bao giờ là muộn cả.
Phần hai : Tình hình thực tiễn.
I- Thực trạng hoạt động huy động vốn của hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam hiện nay:
1. Tình hình chung:
Huy động vốn là một trong những nhiệm vụ tạo vốn quan trọng hàng đầu của các ngân hàng thương mại thông qua các nghiệp vụ chủ yếu như: huy động tiền gửi, nghiệp vụ ngoại bảng của ngân hàng thương mại và các nghiệp vụ trung gian khác. Khi chuyển sang hoạt động theo cơ chế thị trường định hướng XHCN, ngân hàng thương mại còn nhiều bỡ ngỡ, hiệu quả kinh doanh nhiều mặt bị hạn chế kể cả mảng huy động vốn. Nhưng cùng với nỗ lực của bản thân các ngân hàng thương mại sự ủng hộ từ nhiều phía, tạo môi trường kinh doanh thuận lợi hơn, các ngân hàng thương mại đã quen dần với cơ chế mới, đã đạt được những thành quả nhất định trong kinh doanh. Đến nay, chỉ xét riêng mảng huy động vôn của các ngân hàng thương mại, cả quy mô và chất lượng đều được phát triển. Theo báo cáo của ngân hàng nhà nước qua mấy năm gần đây, các tổ chức tín dụng trong nước cũng như chi nhánh ngân hàng nước ngoài, ngân hàng liên doanh đều có tốc độ liên tục tăng. Năm 1995, các ngân hàng thương mại quốc doanh huy động được 31,7 ngàn tỷ VND (kể cả ngoại tệ quy đổi) thì năm 1999 đã huy động được 115,508 ngàn tỷ VND (tăng 3,64 lần). Đối với các chi nhánh ngân hàng nước ngoài và ngân hàng liên doanh, năm 1995 huy động 2,085 ngàn tỷ VND (quy đổi): năm 1999 là 14,413 ngàn tỷ VND quy đổi ( tăng gần 7 lần). Riêng trong năm 2000, quán triệt nhiệm vụ ngay từ đầu năm, toàn hệ thống đã tích cực nắm bắt thị trường, tình hình biến động trong nước và thế giới, có nhiều giải pháp phù hợp để đẩy mạnh huy động vôn đáp ứng nhu cầu vốn cho nền kinh tế. Đơn cử như giải pháp lãi suất huy động linh hoạt nội và ngoại tệ của các ngân hàng thương mại; phát hành trái phiếu ngân hàng để nâng cao tỷ trọng vốn trung và dài hạn; huy động vôn bằng vàng... Nhìn chung số vốn huy động được từ nền kinh tế - xã hội tăng đều đặn trong các năm gần đây, rất có ý nghĩa đối với sự phát triển trong bối cảnh vốn đầu tư trực tiếp từ nước ngoài vào nước ta bị giảm sút.
So với đầu năm, tính sơ bộ đến hết tháng 6/2001, tổng số vốn của các tổ chức tín dụng trong cả nước tăng khoảng 7%, trong đó nguồn vốn huy động từ dân cư tăng xấp xỉ 8%.Tổng nguồn vốn huy động của toàn ngành là 190.700 tỷ đồng, tăng 31,9% so với cùng kì. Mức tăng huy động vôn có xu thế chậm lại, do lãi suất trên thị trường quốc tế giảm mạnh và ngân hàng nhà nước nâng tỷ lệ dự trữ bắt buộc bằng ngoại tệ đối với các tổ chức tín dụng.Bảng so sánh phân tích sau đây về huy động vốn 6 tháng đầu năm của các tổ chức tín dụng giúp ta nhìn nhận rõ hơn tình hình hiện nay.
Nhóm các TCTD
Tỷ trọng trong tổng nguồnvốn của các TCTD(%)
Tăng so với đầu năm 2001(%)
Tỷ trọng trong tổng nguồn vốn của các TCTD
Huy động vốn từ dân cư
Các TCTD nhà nước
75,7
8
10
Các chi nhánh NH nước ngoài và NH liên doanh
13
1
1
Các TCTD cổ phần
10
5
9
Các TCTD phi NH
0.3
6
7
Các TCTD hợp tác
1
10
(Theo Tạp chí Ngân hàng số 8/2001 trang 19)
Riêng trong tháng 7/2001, vốn huy động của các ngân hàng thương mại tăng 0,5% đối với VND, trong khi lãi suất huy động VND được tăng 0,05% đến 0,1%/tháng tuỳ từng ngân hàng thương mại so với tháng trước; vốn huy động bằng USD tăng 1,2% mặc dù lãi suất huy động ngoại tệ tiếp tục giảm. Nhu cầu vay vốn bằng VND 6 tháng đầu năm 2001 tăng gần 10% và vay bằng ngoại tệ giảm gần 7%. Hầu hết các doanh nghiệp đều tránh vay vốn bằng ngoại tệ mà chuyển sang đề nghị vay bằng VND. Các ngân hàng trong nước từ đầu tháng 8/2001 thừa ra tới 708 triệu USD phải chuyển sang gửi ở nước ngoài (tăng 127 triệu USD so với đầu năm 2001) do không cho vay ra được. Mặc dù cả huy động và cho vay vốn của các tổ chức tín dụng nói chung và ngân hàng thương mại nói riêng đều tăng, nhưng mức thấp hơn so với cùng kì năm trước. Tình hình hoạt động kinh doanh của các tổ chức tín dụng nói chung hiện nay gặp không ít khó khăn. Các ngân hàng thương mại tiếp tục điều chỉnh lãi suất huy động vốn VND cũng như ngoại tệ. Bên cạnh đó, ngân hàng nhà nước cũng điều chỉnh mức dự trữ bắt buộc, giảm đối với VND và tăng đối với USD, nhằm tạo sức hấp dẫn hơn cho huy động vốn bằng VND. Tuy nhiên các biện pháp này vẫn chưa có tác động tích cực như mong muốn đến việc huy động vốn cũng như cho vay.
2. Nguyên nhân và một số tháo gỡ tình trạng huy động vốn tăng trưởng chậm trong hệ thống ngân hàng thương mại :
Theo nguyên tắc kinh doanh, có đầu ra cho vốn (có thể trước mắt hoặc dự kiến cho dài hạn) thì các tổ chức tín dụng mới đẩy mạnh được huy động vốn. Nhìn từ phía huy động vốn của các tổ chức tín dụng, mức tăng trưởng thấp so với cùng kì do một số nguyên nhân cơ bản sau:
Thời gian qua, nền kinh tế thế giới tăng trưởng chậm và lãi suất trên thị trường quốc tế giảm mạnh. Mặt bằng lãi suất trong nước cũng giảm theo đã tác động làm giảm lượng vốn huy động vào ngân hàng. Thị trường bất động sản nhộn nhịp trở lại đã thu hút một lượng vốn khá vào đấy. Bên cạnh đó tác động của Luật Doanh nghiệp mới đã hấp dẫn đáng kể vốn đầu tư vào các lĩnh vực kinh doanh, hy vọng hưởng thu nhập cao hơn thay vì gửi vào ngân hàng để hưởng lãi suất như trước đây.
Một số kênh huy động vốn khác ngoài ngân hàng như Quỹ tiết kiệm bưu điện, các công ty bảo hiểm, thị trường chứng khoán…cũng đã thu hút một lượng vốn đáng kể từ dân cư.
Về phương diện chủ quan từ phía ngân hàng, thời kì qua cũng có nhiều giai đoạn huy động vốn bị ứ đọng do không thể cho vay ra được trong khi vẫn phải trả chi phí đầu vào, nên một số đơn vị ngân hàng cũng phải tính toán cầm chừng để đảm bảo hợp lý mối quan hệ giữa đầu vào, đầu ra trong kinh doanh...
* Một số tháo gỡ:
Để tháo gỡ những vướng mắc, khơi thông dòng chảy của vốn nhằm giải bài toán hóc búa về huy động vốn của nền kinh tế nói chung và huy động vốn của ngân hàng thương mại nói riêng, cần phải có nhiều giải pháp đồng bộ.
Trước tiên là giải pháp để giải quyết được mâu thuẫn giữa nhu cầu vốn rất lớn với sức hấp thụ vốn lại quá thấp như hiện nay trong nền kinh tế. Cần có nhiều biện pháp khả thi hơn về tìm kiếm thị trường ổn định cho việc tiêu thụ sản phẩm; giảm bớt rủi ro trong kinh doanh để tăng niềm tin cho nhà đầu tư, triển khai tốt Luật Doanh nghiệp để mở ra các hướng kinh doanh mới nhằm có nhiều dự án khả thi hấp thụ vốn có hiệu quả; có cơ chế bảo lãnh phù hợp cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ để họ tiếp cận được vốn vay ngân hàng. Chính phủ và Uỷ ban nhân dân các cấp giải quyết kịp thời các vướng mắc về thế chấp quyền sử dụng đất và giá đất để tạo điều kiện cho vốn của ngân hàng đến được với người có nhu cầu vay; cán bộ, ngành liên quan sớm ban hành văn bản hướng dẫn thực hiện Nghị định 178 của Chính phủ.
Về phía Ngân hàng nhà nước, phát huy hơn nữa vai trò và thế mạnh của mình trong điều hành vĩ mô, điều hành hợp lý hơn chính sách tiền tệ tín dụng đóng góp vào sự ổn định và phát triển của nền kinh tế. Xúc tiến nhanh việc tiếp tục ban hành các văn bản còn thiếu liên quan đến việc thực thi hai bộ luật về Ngân hàng.
Đối với các ngân hàng thhưong mại, cần chủ động tìm kiếm khách hàng, cùng khách hàng tìm và lập các dự án khả thi trong các lĩnh vực sản xuất, kinh doanh, dịch vụ để có được đầu ra an toàn cho vốn tín dụng. Riêng trong hoạt động huy động vốn, cần có các biện pháp đồng bộ để thực hiện tốt hơn việc đa dạng hoá các dạng tiền gửi, nhằm thu hút các nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi vào ngân hàng. Cải tiến và tìm kiếm thêm các phương thức huy động phù hợp với từng thời kì như các loại trái phiếu, kì phiếu ngân hàng bằng nội tệ và ngoại tệ có lãi suất hợp lý và có khả năng chuyển nhượng…Chủ động khai thác các loại vốn tạm thời từ các doanh nghiệp và tổ chức kinh tế; tận dụng vốn trong quá trình thực hiện các dịch vụ vì lợi ích khách hàng, nhất là qua khâu thanh toán, giao dịch; cải tiến thủ tục, hướng dẫn khách hàng chu đáo, bố trí hợp lý giờ công tác để tăng giờ giao dịch của ngân hàng ngoài giờ hành chính trong khâu huy động vốn. Tìm nhiều biện pháp phù hợp để hoạt động ngân hàng được mở rộng và đến gần dân hơn qua các hình thức tiếp thị quảng cáo tuyên truyền… Tích cực tranh thủ tìm kiếm thu hút các vốn rẻ và dài hạn ngoài nước để đón đầu đáp ứng nhu cầu kinh tế trong nước thời gian tới.
3. Sự phân chia thị trường huy động vốn trong hệ thống ngân hàng thương mại :
Trong mỗi ngành sản xuất kinh doanh, một tỉ lệ lớn thị phần hoạt động được tập trung vào một hay một nhóm các hãng thì coi như hãng đó có lợi thế hơn trong cạnh tranh. Cho đến nay, hoạt động của ngành ngân hàng vẫn tập trung cao vào khối các ngân hàng thương mại quốc doanh (NHTMQD). Mặc dù mức độ tập trung cao, nhưng NHTMQD có tạo độc quyền nhóm trong hoạt động cho vay khách hàng cũng như huy động vốn không? Mức độ tập trung cao có giúp các NHTMQD tạo ra mức lợi nhuận cao hơn không? NHTM khác có thị phần thấp sử dụng lợi thế nào trong cạnh tranh? Đây là vấn đề đặt ra cho chúng ta nhằm xác định xu hướng của hoạt động huy động vốn trong tương lai.
Thị phần huy động vốn, cho vay khách hàng… là nhân tố đo lường mức độ tập trung trong hệ thống ngân hàng. Mạng lưới hoạt động lớn, trải rộng khắp cả nước, quan hệ với khách hàng lâu dài là những nhân tố ưu đãi giúp các NHTMQD huy động được phần lớn vốn từ nền kinh tế.
Huy động vốn bằng ngoại tệ và VND tập trung nhiều vào các NHTMQD do lợi thế nhờ quy mô. Đến hết năm 1999 huy động vốn của các NHTMQD chiếm tới 78,1% tổng vốn huy động từ nền kinh tế của hệ thống ngân hàng Việt Nam; trong đó ngoại tệ chiếm 24,9% và VND chiếm 53,2% tổng vốn huy động (NHNN). Thị phần huy động vốn được mở rộng trong năm 2000. Do lãi suất USD trên thị trường quốc tế tăng, các NHTMQD đã tăng cường huy động vốn ngoại tệ, kết quả, tốc độ tăng trưởng huy động vốn ngoại tệ cao hơn nhiều so với VND. Huy động vốn ngoại tệ của NHCT năm 2000 tăng 52,9% so với cuối năm 1999; trong khi VND chỉ tăng 24,4%. Tăng trưởng huy động vốn ngoại tệ của NHNT trong cùng thời gian là 58,5%; VND tăng 33% (Báo cáo Hội nghị Giám đốc năm 2000 của NHNT). Hơn nữa, do mạng lưới hoạt động rộng,mối quan hệ với khách hàng lâu dài, các ngân hàng này có nguồn tiền gửi không kỳ hạn rất lớn của các doanh nghiệp. Nguồn vốn này rẻ, có tính luân chuyển cao nhưng các ngân hàng thương mại (NHTM) vẫn có thể sử dụng một tỉ lệ % nhất định để cho vay trung, dài hạn (theo quy định tỉ lệ an toàn là được phép sử dụng tối đa 25%). Như vậy tiền gửi không kỳ hạn VND để đầu tư trung và dài hạn chỉ có mức giá vốn đầu vào rất thấp, khoảng 0,15%/tháng. Lợi thế này chỉ xuất hiện ở các NHTMQD.Tỉ trọng tiền gửi không kỳ hạn lớn sẽ làm thấp giá vốn đầu vào, do đó, tăng thêm sức cạnh tranh cho các ngân hàng này trong cho vay ngắn hạn.
Nhìn vào hai trung tâm tài chính lớn của cả nước Hà nội và TP. HCM cũng suy diễn được thị phần huy động vốn tập trung vào nhóm các NHTMQD. Bởi ngoài hai trung tâm này, tại các địa bàn khác chỉ có các NHTMQD và một số ít các ngân hàng thương mại cổ phần (NHTMCP), quỹ tín dụng hoạt động. Điều này được thấy rõ trong bảng sau:
Bảng thị phần huy động vốn năm 2000 tại hai trung tâm tài chính
Đơn vị: %
Nhóm ngân hàng
Hà Nội
Tp.HCM
1.NHTMQD
73,5
52,1
2.NHTM ngoài QD
Trong đó: -NHTMCP
- NHNg và NHLD
26,5
9,5
17,0
47,9
26,7
21,2
(Nguồn: Tạp chí Ngân hàng số1 năm 2001).
Theo số liệu ở bảng trên ta thấy huy động vốn tập trung khoảng 80% vào các NHTMQD, thì thị phần tín dụng cũng tập trung ở mức tương đương. So sánh tỉ trọng giữa cho vay so với vốn huy động qua các năm ở bảng sau đây:
Bảng tỉ trọng giữa cho vay so với vốn huy động qua các năm.
Đơn vị:%
Nhóm ngân hàng
1994
1995
1996
1997
1998
1999
2000
NHTMQD
148,1
136,6
125,5
108,6
97,0
78,4
74,5
NHTM ngoài QD
140,9
102,6
113,8
117,5
117,6
126,7
107,6
(Nguồn: Số liệu lấy từ Tạp chí Ngân hàng số 8 năm 2001)
Xét trên quy mô, số lượng, NHTMQD có ưu thế hơn NHTM ngoài quốc doanh. Đánh giá qua mức sử dụng vốn cho thấy rằng NHTMCP cho vay vượt quá số vốn huy động được, nghĩa là phải sử dụng đến cả vốn điều lệ và vốn vay từ thị trường liên ngân hàng. Tỉ trọng giữa dư nợ tín dụng so với vốn huy động của NHTMQD giảm dần nhỏ hơn 1 trong giai đoạn 1994-2000 thể hiện các ngân hàng này co cụm hoặc đầu tư thận trọng sau hàng loạt thất bại trong đầu tư tín dụng với con số nợ khó đòi lên tới hành nghìn tỷ đồng. NHTM ngoài quốc doanh thì trái ngược, lượng vốn huy động tăng chậm là do uy tín thấp và các NHNg ở khu vực này chưa được phép huy động tiết kiệm bằng VND, USD từ dân cư, do đó để có vốn cho vay bằng VND các NHNg phải sử dụng vốn trên thị trường liên ngân hàng nên tỷ trọng nợ tín dụng so với huy động vốn lớn hơn 1. Trong khi đó lượng khách hàng có nhu cầu vay vốn tăng cao bởi phần lớn các khách hàng này khó tiếp cận vốn của NHTMQD hoặc chính các ngân hàng này không muốn phát triển nghiệp vụ ngân hàng bán lẻ. Do đó, dư nợ cho vay của các NHTM ngoài quốc doanh vượt quá số vốn huy động từ khách hàng. Sự phát triển quy mô ngân hàng bán lẻ của các NHTMCP như cho vay tiêu dùng, cho vay xây dựng nhà ở, huy động vốn trả góp … sẽ là thách thức lớn đối với các NHTMQD khi muốn phát triển thành ngân hàng đa năng, mở rộng dịch vụ ngân hàng bán lẻ.
Mặc dù thị phần huy động, cho vay của các NHTMQD chiếm phần lớn, nhưng lại chịu sức ép cạnh tranh từ các chi nhánh ngân hàng nước ngoài (CNNHNg); không bị động trong thế cạnh tranh nhưng lại là người phản ứng chậm trong sử dụng mỗi công cụ, chiến thuật cạnh tranh, tính chủ động kém hơn các CN NHNg.
Xét về phương diện lãi suất thì sức cạnh tranh huy động vốn của các NHTMCP, CN NHNg lại rất thấp. NHTMCP bị yếu thế bởi mức độ tin cậy thấp, mặc dù các ngân hàng này luôn phải đặt mức lãi suất huy động cao hơn các NHTMQD. Tuy nhiên trong thời gian gần đây, lo sợ thị phần huy động vốn có thể bị suy giảm, các NHTMQD đôi lúc để mức lãi suất huy động ngang bằng các NHTMCP, CN NHNg không có khả năng cạnh tranh bởi vì họ bị ràng buộc quy định của ngân hàng Nhà nước (NHNN) chứ không phải là họ không đủ sức mạnh trong lĩnh vực huy động tiết kiệm từ dân cư. Trong tương lai, quy định của NHNN được nới lỏng, thị phần huy động vốn của các NHTMQD sẽ bị ảnh hưởng lớn. Trong cạnh tranh huy động, chỉ có NHNT là có sức mạnh ảnh hưởng đến lãi suất huy động ngoại tệ trên thị trường. Nghĩa là họ luôn coi lãi suất của NHNT làm cơ sở xác định mức lãi suất huy động vừa đảm bảo có lợi nhuận vừa đảm bảo ở mức cạnh tranh.
Rõ ràng các NHTMQD có nguồn vốn lớn, giá vốn thấp, mối quan hệ lâu dài với khách hàng nhưng chưa tạo thế chủ động hơn và lấn át hơn các CN NHNg. Trong môi trường cạnh tranh ngày càng gay gắt, mục tiêu của CN NHNg là mở rộng thị phần, thôn tính khách hàng để tạo sự ổn định và phát triển, các NHTMQD cần phải đánh giá lợi nhuận cho cả gói dịch vụ đối với từng khách hàng từ thanh toán quốc tế, giao dịch vốn, kinh doanh ngoại tệ, tín dụng… chứ không nhất thiết từng hoạt động riêng biệt phải sinh lời.
Xét về lợi nhuận hình thành từ vị thế trên thị trường vốn của các NHTM, ta thấy NHTMQD nhờ quy mô, nhân tố ưu đãi mang tính tự nhiên có lợi nhuận chiếm 55% lợi nhuận của toàn ngành ngân hàng. Tuy nhiên, nếu đem so sánh lợi nhuận với tổng tài sản và tổng dư nợ của từng khu vực thì thấy rằng khu vực ngoài quốc doanh hiệu quả hơn.
Về tổng thể, mức độ tập trung của các NHTMQD không tạo ra quyền lực cao trong cạnh tranh, nhưng trên phạm vi nhất định có ảnh hưởng đến thị trường. Các NHTM ngoài quốc doanh cũng có kế hoạch củng cố thị phần, khách hàng của mình, do đó mức độ cạnh tranh ngày càng gay gắt và thị phần của các NHTMQD luôn bị đe doạ. Đứng trước thực trạng như vậy cần có những biện pháp nào để hoạt động huy động vốn trong hệ thống các ngân hàng thương mại nước ta được điều hoà và thúc đẩy được sự phát triển kinh tế đất nước? Đây chính là nhiệm vụ đặt ra đối với các nhà hoạch định chính sách của ngành nói riêng và của chính phủ Việt Nam nói chung.
II- Thực tế tiềm năng huy động vốn ở nước ta hiện nay:
1. Xét về mặt định lượng:
Về mặt định lượng có 3 nguồn vốn chủ yếu có thể huy động cho đầu tư phát triển là: nguồn vốn nhà nước (bao gồm vốn ngân sách Nhà nước (NSNN), vốn trong các doanh nghiệp Nhà nước (DNNN) và vốn tài sản công và tài sản quốc gia), nguồn vốn trong dân cư và nguồn vốn nước ngoài.
Ta xét từng nguồn vốn cụ thể :
1.1. Nguồn vốn nhà nước:
Trong những năm gần đây, quy mô NSNN không ngừng tăng lên nhờ mở rộng nhiều nguồn thu khác nhau, nhưng chủ yếu qua huy động thuế và phí chiếm tới trên 90% các khoản thu ngân sách hàng năm.
Ngoài ra nguồn vốn nhà nước còn bao gồm các nguồn lực vật chất to lớn, đó chính là các nguồn tài sản công và tài sản quốc gia. Ta có thể liệt kê ra bao gồm:
Nguồn vốn do các DNNN quản lý ước tính khoảng hơn 60.000 tỷ đồng.
Nguồn tài sản công ước khoảng hơn 750.000 tỷ đồng ở dạng tiềm năng là tài sản nhà nước do các cơ quan hành chính sự nghiệp, đơn vị lực lượng vũ trang, cơ quan Đảng, đoàn thể quản lý.
Ngoài ra, những tài nguyên quốc gia ở trên mặt đất, mặt nước là không thể ước tính hết được do chưa được khảo sát tường tận và chưa cách định giá trị chính xác, đầy đủ.
1.2. Nguồn vốn dân cư:
Theo điều tra và ước tính của Bộ Kế hoạch- Đầu tư và Tổng cục Thống kê, nguồn vốn trong dân hiện nay có từ hơn 6 đến 8 tỷ USD, trong đó khoảng :
+ 44% để dành của dân là mua vàng, ngoại tệ.
+ 20% để dành của dân là mua nhà đất, cải thiện điều kiện sinh hoạt.
+ 17% để dành của dân là gửi tiết kiệm, chủ yếu là loại ngắn hạn.
+ 19% để dành của dân là dùng trực tiếp cho các dự án đầu tư, chủ yếu là ngắn hạn.
Như vậy, chỉ khoảng 36% vốn hiện có trong dân được huy động cho đầu tư phát triển. Nếu tính theo hàng năm, mức huy động vốn trong dân năm sau luôn cao hơn năm trước. Cụ thể được thể hiện trong bảng sau :
Năm
Mức huy động
(tỷ đồng)
Mức tăng so với năm trước
(%)
1991
1992
1993
1994
1995
1996
1997
6.430
10.864
13.000
17.000
20.000
24.000
28.000
181,4
170
120
130
117,7
120,6
116,7
(Nguồn:Tạp chí Nghiên cứu Kinh tế số 251-Tháng 4/1999)
Xét về mặt hình thức, kết quả nổi bật là số lượng các doanh nghiệp ngoài quốc doanh tăng nhanh chóng, khả năng thu hút vốn đầu tư, tăng mức nộp ngân sách và thu nhập lao động khá cao. Tuy nhiên, về quy mô các doanh nghiệp này còn nhỏ, công nghệ lạc hậu, hầu như không liên doanh, liên kết với nhau, 50% số doanh nghiệp không mở rộng đầu tư, chỉ 36% tăng vốn điều lệ một đến hai lần và 5% tăng trên hai lần. Ngoài ra cần kể đến khoảng 10 triệu hộ nông dân và 2 triệu hộ cá thể sản xuất tiểu thủ công nghiệp, kinh doanh thương mại và dịch vụ trên cả nước. Tất cả đều ở tình trạng vốn nhỏ, công nghệ lạc hậu hơn các doanh nghiệp nói trên. Còn các hợp tác xã thì vốn cố định trung bình chiếm tới 80% số vốn hiện có, trong đó, 60% là nhà xưởng, 20% là thiết bị, tất cả đều cũ nát, lạc hậu. Nhiều hợp tác xã nằm chờ chính sách, giữ nhà xưởng…
1.3. Nguồn vốn nước ngoài :
Nguồn vốn nước ngoài gồm 3 bộ phận cấu thành chủ yếu là nguốn ODA và vay thương mại, nguồn vốn FDI và nguồn kiều hối. Xét trên bình diện tổng thể, các nguồn vốn này đầu tư vào Việt Nam càng ngày càng tăng cả về số lượng và chất lượng. Tuy nhiên, mấy năm gần đây do khủng hoảng tài chính tiền tệ ở khu vực và các lý do chủ quan từ phía Việt Nam tốc độ tăng của các nguồn vốn này lại có xu hướng giảm. Hiện nay, nước ta đang._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 35134.doc