lời mở đầu
Thực hiện hạch toán kinh tế và kinh doanh XHCN trong điều kiện của cơ chế thị trường và xu thế hội nhập quốc tế, công tác kế toán có một vị trí đặc biệt quan trọng. Hạch toán kế toán là một bộ phận cấu thành của công cụ quản lý kinh tế, tài chính, có vai trò tích cực trong việc quản lý, điều hành và kiểm soát các hoạt động kinh tế.
Trong những năm vừa qua, để phục vụ yêu cầu của công việc đổi mới cơ chế quản lý kinh tế, Nhà nước ta đã thực hiện nhiều biện pháp quan trọng để cải cá
28 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1495 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Quá trình hoàn thiện và phát triển của chế độ kế toán Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ch và hoàn thiện hệ thống kế toán của Việt Nam. Hệ thống kế toán của Việt Nam đã có những đổi mới, tiến bộ, góp phần tích cực vào sự nghiệp phát triển kinh tế.
Trên nền hệ thống kế toán phục vụ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung, từ năm 1988 hệ thống kế toán Việt Nam đã được thiết lập, xây dựng mới, thoả mãn yêu cầu kinh tế thị trường của Việt Nam trên cơ sở vận dụng có chọn lọc các nguyên tắc, chuẩn mực và thông lệ kế toán quốc tế. Nhà nước ta chủ trương thiết lập nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN với bước đi phù hợp có tính đến vai trò chủ đạo của kinh tế Nhà nước.
Yêu cầu đặt ra là phải thúc đẩy kinh tế tăng trưởng nhanh, ổn định, thực hiện điều tiết hợp lý, phân phối và phân phối lại thu nhập quốc dân gắn liền với chính sách xã hội, đảm bảo công bằng xã hội. Quá trình cải cách, phát triển kế toán Việt Nam cũng cần phải có bước đi phù hợp với tiến trình cải cách và đổi mới kinh tế. Yêu cầu của cơ chế quản lý kinh tế mới, yêu cầu của nền kinh tế thị trường đòi hỏi phải cải cách triệt để toàn diện hệ thống kế toán của Việt Nam, trong đó sự hoàn thiện và phát triển của chế độ kế toán Việt Nam giữ một vai trò hết sức quan trọng.
Với mong muốn được nâng cao sự hiểu biết của mình về chế độ kế toán Việt Nam, em đã mạnh dạn đi sâu nghiên cứu tìm hiểu vấn đề này. nhưng do thời gian nghiên cứu và sự hiểu biết còn hạn chế nên bài viết không tránh khỏi những thiếu sót. Vì vậy em rất mong được Thầy góp ý để kiến thức của em ngày càng hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo đã cung cấp cho em những kiến thức về chuyên nghành kế toán, đặc biệt là Thầy giáo Nguyễn Hữu Đồng là người đã hướng dẫn và giúp đỡ em hoàn thành bản đề án này.
I> Vai trò của kế toán trong hệ thống quản lý của doanh nghiệp :
1) Tính tất yếu khách quan của hạch toán kế toán :
Sự cần thiết phải giám đốc và quản lý quá trình hoạt động kinh tế không phải chỉ là nhu cầu mới được phát sinh gần đây, mà thực ra đã phát sinh rất sớm trong lịch sử nhân loại và tồn tại trong các hình thái kinh tế xã hội khác nhau. Xã hội loài người càng phát triển, thì mức độ quan tâm của con người đến hoạt động sản xuất càng tăng, nghĩa là càng cần thiết phải tăng cường quản lý sản xuất. Để quản lý được các hoạt động kinh tế cần có số liệu,để có được các số liệu phục vụ cho hoạt động quản lý, giám sát đòi hỏi phải thực hiện việc quan sát, đo lường, tính toán và ghi chép các hoạt động đó.
Hạch toán kế toán là một hệ thống điều tra, quan sát tính toán, đo lường và ghi chép các quá trình kinh tế, nhằm quản lý các quá trình đó ngày một chặt chẽ hơn.
Cùng với sự phát triển của sản xuất xã hội, hạch toán cũng không ngừng đươc phát triển và hoàn thiện về phương pháp cũng như hình thức tổ chức. Điều này có thể dễ dàng nhận thức được thông qua việc nghiên cứu quá trình nảy sinh và phát triển của hạch toán kế toán.
Trong thời kỳ nguyên thủy, sản xuất chưa phát triển, nhu cầu và khả năng thu nhận thông tin chưa nhiều,hạch toán được tiến hành bằng các phương thức hết sức đơn giản : Đánh dấu lên thân cây … để ghi nhớ các thông tin cần thiết. Cũng do sản xuất còn lạc hậu nên ở giai đoạn này chưa có của cải dư thừa, chưa hình thành các giai cấp khác nhau. Vì vậy, trong thời kỳ này hạch toán đuợc sử dụng phục vụ lợ ích của toàn xã hội.
Khi xã hội chuyển sang xã hội nô lệ thì ý nghĩa, nhiệm vụ của hạch toán cũng thay đổi. Hạch toán trước hết được sử dụng trong các trang trại để theo dõi kết quả sử dụng nô lệ và chiếm dụng lao động của nô lệ, để vơ vét được nhiều sản phẩm thặng dư. Ngoài ra hạch toán còn được sử dụng trong các phòng đổi tiền, các nhà thờ và trong lĩnh vực tài chính nhà nước… để theo dõi các nghiệp vụ về giao dịch, thanh toán và buôn bán. Sổ kế toán đã xuất hiện thay cho cách ghi và đánh dấu của thời nguyên thủy.
Đến thời kỳ phong kiến,sự phát triển mạnh mẽ của nông nghiệp với quy mô lớn gắn liền với sự ra đời của địa chủ và nông dân, với sự ra đời của địa tô phong kiến …Những quan hệ kinh tế mới này đã nảy sinh và tác động đến sự phát triển tiếp theo của hạch toán kế toán với hệ thống sổ sách phong phú và chi tiết hơn.
Đáng chú ý là thời kỳ tư bản chủ nghiã với sự phát triển nhanh chóng của thương nghiệp và sau đó cả nông nghiệp. Lúc này các quan hệ trao đổi, buôn bán được mở rộng đặt ra nhu cầu phải hạch toán các mối quan hệ nảy sinh trong quá trình vận động của các tư bản cá biệt. Sự xuất hiện của các đối tượng mới này của kế toán lại là nguồn gốc cho sự ra đời của phương pháp đối ứng tài khoản trong kế toán. Cũng từ đó phương pháp hạch toán kế toán đã được hình thành và ứng dụng rộng rãi gồm một hệ thống hoàn chỉnh : chứng từ, đối ứng tài khoản, tính giá, tổng hợp cân đối kế toán. Tuy nhiên chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất cùng với các quy luật kinh tế tương ứng lại hạn chế sự phát triển và tính khoa học của hạch toán kế toán. Trong điều kiện của chủ nghĩa xã hội, với sự xuất hiện của chế độ công hữu về tư liệu sản xuất và với trình độ xã hội hoá cao của nền sản xuất, hạch toán kế toán mới trở thành môn khoa học chân chính và phát huy đầy đủ vị trí của mình.Về vị trí của hạch toán dưới CNXH V.I.Lênin đã khẳng định : '' CNXH trước hết là hạch toán ''. Thật vậy, một nền sản xuất với quy mô ngày càng lớn, với trình độ xã hội hoá và sức phát triển sản xuất ngày càng cao, với yêu cầu quy luật kinh tế mới phát sinh … không thể không tăng cuờng hạch toán kế toán về mọi mặt. Đồng thời chế độ XHCN cũng tạo ra những tiền đề cho sự phát triển nhanh chóng và toàn diện của hạch toán kế toán.
2)Vai trò, vị trí của thông tin kế toán trong hoạt động quản lý :
Trong hoạt động sản xuất kinh doanh, các doanh nghiệp đều tìm mọi biện pháp để sản xuất ra sản phẩm với số lượng nhiều nhất, chất lượng cao nhất, chi phí thấp nhất và lãi thu được nhiều nhất. Để đạt được mục tiêu này bất kỳ một người quản lý kinh doanh nào cũng phải nhận thức được vai trò của thông tin kế toán. Hệ thống các thông tin sử dụng để ra các quyết định quản lý được thu từ nhiều nguồn khác nhau, nhưng thông tin kế toán đóng vai trò hết sức quan trọng và không thể thiếu được.
Thông tin hạch toán kế toán có những đặc điểm nổi bật sau :
Thông tin hạch toán kế toán là những thông tin động về tuần hoàn của những tài sản. Trong doanh nghiệp, toàn bộ bức tranh về hoạt động sản xuất kinh doanh từ khâu đầu tiên là cung cấp vật tư cho sản xuất, qua khâu sản xuất đến khâu cuối cùng là tiêu thụ đều được phản ánh thật đầy đủ và sinh động qua thông tin kế toán.
Thông tin hạch toán kế toán luôn là những thông tin về hai mặt cuả mỗi hiện tượng mỗi quá trình : vốn và nguồn vốn, chi phí và kết quả … Những thông tin như thế có ý nghĩa rất lớn đối với việc ứng dụng hạch toán kinh doanh; với nội dung cơ bản là độc lập về tài chính, lấy thu bù chi.
Mỗi thông tin thu được là kết quả của quá trình có tính hai mặt : thông tin và kiểm tra. Vì vậy khi nói đến hạch toán kế toán cũng như thông tin thu được từ phân hệ này đều không thể tách rời hai đặc trưng cơ bản nhất là thông tin và kiểm tra.
Bản chất của thông tin kế toán là như vậy và bằng các thông tin đặc biệt của mình kế toán phục vụ cho các nhu cầu khác nhau của xã hội.
Trước hết kế toán phục vụ cho các nhà quản lý kinh tế. Bởi vì căn cứ vào thông tin kế toán các nhà quản lý định ra các kế hoạch, dự án và kiểm tra việc thực hiện các kế hoạch, các dự án đặt ra; Qua việc phân tích các thông tin kế toán ban giám đốc sẽ quyết định nên sản xuất mặt hàng nào, với nguyên liệu gì và mua từ đâu, nên đầu tư mới hay duy trì thiết bị cũ …
Nhờ có thông tin kế toán người ta có thể xác định được hiệu quả của một thời kỳ kinh doanh và tình hình tài chính của doanh nghiệp, do đó các nhà đầu tư mới có được các quyết định nên đầu tư hay không và cũng biết được doanh nghiệp đã sử dụng số vốn đầu tư đó như thế nào.
Cung cấp thông tin cho các đối tượng cho vay: Ngân hàng, công ty tài chính biết được tình hình thanh toán của doanh nghiệp như thế nào để đưa ra quyết định cho vay.
Kế toán cũng giúp cho Nhà nước trong việc hoạch định chính sách, soạn thảo luật lệ; qua kiểm tra tổng hợp các số liệu kế toán Nhà nước nắm được tình hình chi phí, lợi nhuận của các đơn vị từ đó đề ra các chính sách về đầu tư, thuế vụ thích hợp.
Cung cấp thông tin cho các cán bộ công nhân viên của đơn vị biết được tình hình phân phối thu nhập và tương lai của doanh nghiệp như thế nào …
3) Chuyên nghành kế toán, chìa khoá của sự ổn định và duy trì kinh tế ở các nước đang phát triển :
Nghề kế toán là yếu tố quan trọng trong hệ thống kiểm soát cần thiết cho hoạt động có hiệu quả của chính phủ, các tổ chức của chính phủ, các nghành công nghiệp và thương mại. Đặc biệt nghành kế toán được cải thiện là yếu tố thiết yếu nhằm khuyến khích các khoản vay và trợ giúp phát triển và nhằm thu hút thêm đầu tư nước ngoài trong khu vực tư nhân. Điều rõ ràng có thể nhận thấy rằng hiện tại đang khan hiếm các kế toán viên và thiếu cách thức hạch toán hoàn chỉnh, cả trong khu vực tư hữu và khu vực quốc hữu. Nhận thức này cần phải được xem như một vấn đề cấp bách. Các chính phủ cần phải thừa nhận sự cần thiết này để có một hạ tầng tài chính vững chắc và phải công nhận tầm quan trọng về vai trò của các kế toán viên trong hạ tầng tài chính này về mặt tư vấn, báo cáo, đảm bảo độ tin cậy của các thông tin tài chính, thiết lập cơ chế và hệ thống kiểm soát.
Có một nhận thức chung rằng một cơ cấu kế toán vững mạnh là chìa khoá để thúc đẩy phát triển kinh tế. Nhưng đồng thời cũng có một nhận định rõ ràng rằng những nguồn lực để tạo ra sự vững mạnh này là hoàn toàn chưa đủ.Để có được nhận thức này sẽ phải tốn thời gian và tiền của.Đáng tiếc là cơ cấu kế toán vững mạnh không được xem xét theo tính cấp bách và nguồn lực để tạo ra sự vững mạnh này thì luôn khan hiếm do phải so sánh các mức đọ ưu tiên. Hơn nữa ở một số nước, các chính sách Chính phủ ở những khu vực không có ảnh hưởng đến những giải pháp trong tương lai, như là những hạn chế về việc cấp giấy phép hoạt động cho người nước ngoài theo bối cảnh mức thất nghiệp trong nước cao. Không kể thực tế rằng nhân viên có tay nghề trong nước là hầu như không có. Thêm vào đó, nhận thức này có liên quan đến khu vực quốc hữu: các mức độ thanh toán trả chậm thường xuyên xảy ra thậm chí dẫn đến việc những nhân viên có ít kinh nghiệm cũng phải chuyển sang khu vực của tư nhân.
Do đó vấn đề trợ giúp ngắn hạn và trung hạn trong việc triển khai hay thúc đẩy nhận thức về hạ tầng cơ sở địa phương là nhu cầu cần thiết. Tuy nhiên để có được giá trị lâu dài thì sự trợ giúp này cũng phải đảm bảo được tính ổn định. Hình thức trợ giúp hiệu quả nhất có thể thông qua việc chuyển giao kiến thức chuyên môn từ nuớc ngoài.Rất có thể cũng cần phải tiếp tục có sự hỗ trợ tư vấn và kiểm soát trong một vài năm tiếp sau.
Các Chính phủ sẽ cần phải ủng hộ phương pháp này, họ có thể yêu cầu sự giúp đỡ từ các tổ chức trợ giúp và phát triển nhằm để có kinh phí cho các chương trình trợ giúp này.
4) Tầm cao kế toán Việt Nam trong thiên niên kỷ mới:
Mục tiêu của tài chính Việt Nam là tạo lập một nền tài chính có tiềm lực mạnh,một hệ thống tài chính hoàn thiện và năng động - Thiết lập và duy trì một hệ thống chính sách tài chính đồng bộ, chủ động, tích cực góp phần thúc đẩy kinh tế phát triển bền vững, động viên hợp lý, điều phối và phân phối lại thu nhập quốc dân một cách công bằng, đảm bảo mọi nguồn lực tài chính được kiểm kê, kiểm soát, được quản lý, phân phối và sử dụng có hiệu quả cho yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội. Chủ động hội nhập và củng cố vị thế Việt Nam trên trường quốc tế.
Kế toán và kiểm toán với tư cách là công cụ quản lý kinh tế, tài chính, có vị trí vô cùng quan trọng trong Hệ thống tài chính Quốc gia. Để thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình, góp phần cùng Hệ thống tài chính hoàn thành thắng lợi mục tiêu chiến lược tài chính trong thập niên đầu tiên của thế kỷ XXI, Kế toán và kiểm toán Việt Nam cần vươn lên trong tầm cao mới. Tập trung sức lực và trí tuệ hoàn thiện khuôn khổ pháp lý về kế toán, kiểm toán.Sớm trình, ban hành Luật kế toán làm căn cứ điều chỉnh và chế tài các hành vi, công việc kế toán, giữ vững kỷ cương, pháp luật trong chấp hành quy chế tài chính, trình bày và cung cấp thông tin. Sớm hoàn chỉnh và công bố hệ thống chuẩn mực kế toán, chuẩn mực kiểm toán Quốc gia của Việt Nam trên cơ sở vận dụng có chọn lọc thông lệ và chuẩn mực quốc tế về kế toán, kiểm toán, phù hợp với tiến trình phát triển kinh tế, với năng lực quản lý kinh tế tài chính của Việt Nam. Đảm bảo thông tin do kế toán xử lý và cung cấp có độ tin cậy cao, phản ánh trung thực, khách quan và công khai, minh bạch tình hình tài chính Nhà nước, tài chính doanh nghiệp. Phát triển mạnh mẽ các hình thức hoạt động dịch vụ kế toán, kiểm toán, sẵn sàng mở cửa hội nhập với các nước trên thế giới và trong khu vực. Và cuối cùng, cần khẩn trương xây dựng đội ngũ chuyên gia kế toán, kiểm toán giỏi về nghiệp vụ, vững vàng trong xử thế và có đạo đức nghề nghiệp. Phẩm chất đạo đức nghề kế toán, kiểm toán thể hiện qua tính độc lập, khách quan, trung thực trong xử lý công việc, trong tạo dựng và đối xử với con số, và là điều kiện mang tính quyết định của lòng tin và chất lượng nghề nghiệp. Các tổ chức nghề nghiệp (Hội kế toán Việt Nam, Câu lạc bộ kế toán trưởng, Hội đồng Quốc gia về kế toán) cần vươn lên làm tốt chức năng tổ chức huấn luyện nghiệp vụ, quản lý và kiểm soát đạo đức hành nghề của kế toán viên, kiểm toán viên. Tin tưởng và hy vọng các chuyên gia kế toán, kiểm toán Việt Nam, các tổ chức nghề nghiệp kế toán, kiểm toán xứng đáng với nghề nghiệp đáng được đề cao và tôn trọng trong kinh tế thị trường có sự quản lý Nhà nước theo định hướng XHCN. Kế toán và kiểm toán Việt Nam hãy vươn lên và vững vàng trong tầm cao mới của thế kỷ XXI.
II> Sự phát triển và hoàn thiện của chế độ kế toán Việt Nam:
1) Sự chuyển đổi cơ chế kinh tế dẫn đến sự thay đổi chế độ kế toán Việt Nam:
Năm 2000, năm chuyển giao của hai thế kỷ đã đi qua, đánh dấu bước phát triển đáng khích lệ của nền kinh tế và những bước đổi mới quan trọng trong việc điều hành chính sách kinh tế, tài chính. Sau 15 năm đổi mới, tiềm lực kinh tế và tài chính của đất nước đã được tăng cường, chính trị, xã hội ổn định. Nhờ đổi mới, đất nước thoát khỏi khủng hoảng kinh tế, cải thiện đáng kể đời sống vật chất và văn hoá của nhân dân, giữ vững định hướng XHCN : Nền tài chính quốc gia, hệ thống tài chính của nền kinh tế thị trường đã được tạo lập và phát triển. Tài chính đã từng bước làm tốt vai trò động viên, phân phối nguồn lực, quản lý, kiểm soát và giám sát vĩ mô nền kinh tế quốc dân.
Hạch toán kế toán với tư cách là bộ phận cấu thành quan trọng của hệ công cụ quản lý kinh tế tài chính, đã góp phần tích cực vào sự thành công của công cuộc đổi mới kinh tế. Với chức năng tổ chức, trình bày và cung cấp thông tin kinh tế, tài chính tin cậy cho các quyết định kinh tế, kế toán cũng cần và thực sự đã và đang đổi mới và cải cách. Qua 15 năm, hệ thống kế toán đã có sự phát triển đáng khích lệ. Kế toán Việt Nam đã và đang tiếp cận và hình thành những nguyên tắc kế toán hiện đại của kinh tế thị trường, từng bước tạo dựng khuôn khổ pháp lý cho kế toán, kiểm toán trong môi trường chung của thông lệ quốc tế. Chuẩn mực quốc tế về kế toán, kiểm toán đã được nghiên cứu và vận dụng. Hệ thống chuẩn mực kế toán quốc gia đã bắt đầu được thiết lập, tạo môi trường tin cậy cho đầu tư và thương mại.Kế toán không chỉ cung cấp thông tin, cung cấp thước đo hiệu quả đầu tư, hiệu quả hoạt động kinh doanh mà còn là công cụ hữu hiệu kiểm kê, kiểm soát mọi nguồn lực của quốc gia, của từng lĩnh vực kinh tế xã hội.
Đó là những hành trang quan trọng và quý giá của kế toán Việt Nam khi bước vào thiên niên kỷ mới. Thế kỷ XXI đã tới với dự báo đầy những vận hội và thách thức. Thế kỷ của kinh tế tri thức, của khoa học thông tin, của kinh tế mở cửa và hội nhập. Nhiệm vụ chiến lược của nền tài chính Việt Nam rất nặng nề, nhưng cũng rất vẻ vang.
Từ năm 1988, đặc biệt giai đoạn 1994 đến nay, để đáp ứng những yêu cầu đổi mới cơ chế quản lý kinh tế từ kế hoạch hoá tập trung bao cấp sang nền kinh tế thị trường, theo định hướng XHCN, có sự quản lý của nhà nước, Bộ tài chính đã thực hiện các bước cải cách hệ thống kế toán Việt Nam và đã đạt được những kết quả đáng kể. Trong giai đoạn từ năm 1986 đến năm 1993, hệ thống kế toán Việt Nam đã được sửa đổi, bổ sung cho phù hợp. Từ năm 1994 đến nay, ở Việt Nam đã và đang diễn ra quá trình cải cách một cách toàn diện căn bản hệ thống kế toán nhằm mục tiêu đáp ứng những yêu cầu mới. Công cuộc cải cách kế toán được bắt đầu từ việc nghiên cứu, xây dựng, ban hành những chế độ kế toán cụ thể gắn liền với việc cải tiến từ ghi chép, thu nhập, xử lý, đến tổng hợp thông tin kinh tế, tài chính cho công tác quản lý. Bộ tài chính đã ban hành hệ thống chế độ kế toán doanh nghiệp, hệ thống chế độ kế toán hành chính sự nghiệp và một loạt các văn bản kế toán cho các nghành kinh tế. Công tác kế toán vận hành trong nền kinh tế có hiệu quả hơn, đảm bảo tính thống nhất chế độ kế toán trong các lĩnh vực, các thành phần kinh tế tạo điều kiện từng bước lập lại trật tự kỷ cương trong công tác kế toán; trình độ cán bộ kế toán được nâng cao tiếp cận được chuẩn mực và thông lệ kế toán quốc tế.
Hiện nay và trong những năm tới, Bộ tài chính sẽ tiến hành những công việc có tính chất nền tảng, chiến lược hơn. Đó là phải tạo ra một mô hình có tính hệ thống tổng thể về tổ chức bộ máy các cơ quan chức năng, các tổ chức nghề nghiệp, hệ thống khuôn khổ pháp lý, các chế độ thể lệ, phương pháp chuyên môn nghiệp vụ trong lĩnh vực kế toán, kiểm toán và đội ngũ những người làm kế toán, kiểm toán thích ứng với đòi hỏi mới của nền kinh tế Việt Nam trong giai đoạn hiện nay và trong tương lai. Theo kế hoạch, từ năm 2000 đến năm 2003 sẽ nghiên cứu, soạn thảo Luật kế toán thay thế Pháp lệnh Kế toán và Thống kê. Sau 10 năm thực hiện, pháp lệnh kế toán và thống kê đã không còn phù hợp. Việc hoà nhập hai loại hạch toán kế toán và hạch toán thống kê trong pháp lệnh là không hợp lý, kém hiệu lực kinh tế thị trường. Phạm vi và đối tượng điều chỉnh của pháp lệnh chưa bao quát, chưa đầy đủ và không phù hợp với tình hình phát triển của đất nước sau 10 năm đổi mới theo đường lối của Đảng; Hệ thống chuẩn mực kế toán, kiểm toán Việt Nam đang được nghiên cứu, soạn thảo và sẽ ban hành áp dụng từng bước đáp ứng yêu cầu phản ánh và quản lý hoạt động kinh tế, tài chính các doanh nghiệp trong giai đoạn hiện nay và phải đảm bảo yêu cầu:
Thông tin do kế toán cung cấp là cơ sở tin cậy để nhà nước điều hành nền kinh tế vi mô, kiểm tra, kiểm soát hoạt động của các doanh nghiệp, của các nghành, các khu vực, thành phần kinh tế và các tổ chức sử dụng kinh phí ngân sách nhà nước.
Đáp ứng được những nhu cầu sử dụng thông tin kinh tế tài chính của các đối tượng khác nhau, đa dạng trong nền kinh tế;
Bao quát được các hoạt động kinh tế vốn có trong nền kinh tế thị trường và phải tuân theo những nguyên tắc, chuẩn mực kế toán chung được thừa nhận của nền kinh tế thị trường, làm cho kế toán trở thành "ngôn ngữ" thống nhất không chỉ đối với một quốc gia, mà còn mang tính chất khu vực và toàn cầu.
Nhằm tạo sự thống nhất trong phản ánh thực trạng tài chính và kết quả hoạt động kinh doanh cũng như việc cung cấp các thông tin kinh tế, tài chính cần thiết khác, làm rõ thực trạng tài chính và kết quả kinh doanh ở doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp ngoài quốc doanh, hay doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài theo một chuẩn mực chung, trên cơ sở đó, đánh giá thực trạng tài chính và kết quả kinh doanh theo một thước đo chung có khả năng so sánh các thông tin kinh tế, tài chính cung cấp trong nền kinh tế giữa các doanh nghiệp.
Đồng thời cần tiếp tục cụ thể hoá chế độ kế toán một số nghành đặc thù như kế toán ngân hàng, các tổ chức tín dụng, kế toán thị truờng chứng khoán …, chế độ bảo quản lưu trữ hồ sơ tài liệu kế toán. Sớm đưa Hội đồng quốc gia về kế toán vào hoạt động, làm tham mưu và tư vấn cho Chính phủ về lĩnh vực kế toán.
2) Góp phần hoàn thiện pháp chế Xã hội chủ nghĩa:
Nội dung những vấn đề chủ yếu được thảo luận và quyết nghị tại kỳ họp thứ 5 Quốc hội khoá X, một lần nữa chứng minh Nhà nước ta tiếp tục tiến bước mạnh mẽ trên con đường xây dựng Nhà nước pháp quyền, hoàn thiện pháp chế XHCN. Đó là nền pháp chế tiên tiến, nhất quán mục tiêu mà Nghị quyết Đại hội VIII của Đảng đã chỉ rõ: Phát huy cao độ quyền làm chủ của nhân dân, bảo đảm mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật, đồng thời giữ vững định hướng XHCN trong nền kinh tế nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường.
Xét tổng thể, pháp chế gồm hai mặt:
Một là, hệ thống các văn bản pháp luật được ban hành và có hiệu lực thi hành, như các bộ luật, sắc luật, pháp lệnh,nghị định, thông tư, quyết định… của các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền.
Hai là, việc tổ chức thực hiện, đảm bảo hiệu lực thực tế của các văn bản pháp luật đó.
Hai mặt này là hai bộ phận hữu cơ trong một chỉnh thể, có quan hệ tương tác, thúc đẩy lẫn nhau và bổ sung cho nhau. Nếu hệ thống các văn bản pháp luật (còn thường được gọi là khung pháp lý) chưa thật hoàn hảo, mà công tác tổ chức thực hiện tốt thì vẫn có thể đạt hiệu quả khá trong đời sống kinh tế xã hội, đồng thời còn góp phần sớm điều chỉnh, bổ khuyết những bất cập về cơ chế chính sách, luật pháp. Nguợc lại, với một hệ thống khung pháp lý khi hoàn chỉnh, ưu việt mà việc tổ chức thực thi không nghiêm, kém tự giác và hiệu lực, thì tình trạng vi pham pháp luật, tham nhũng, tiêu cực vẫn có đất phát triển. Những thành tích vừa đạt được trong phong trào cả nước sôi nổi hưởng ứng thư của Tổng bí thư Lê Khả Phiêu kêu gọi thực hành tiết kiệm, chống tham nhũng, tiêu cực, cho thấy việc tăng cường pháp chế XHCN có vai trò then chốt trong công tác này.
Liên hệ vào lĩnh vực của chúng ta cũng thấy rõ hai khía cạnh. Phần lớn trong những mô hình quản lý, kinh doanh tốt và trong những cuộc đấu tranh chống tham nhũng, tiêu cực thành công đều có vai trò công tác kế toán và kiểm toán. Những cũng đáng tiếc là, trong không ít vụ việc sai phạm cũng đều hiện diện trách nhiệm kế toán trưởng, kế toán viên. Đau buồn hơn là có những trường hợp, khi vui vẻ tiêu xài, chi phí, ăn chia, kế toán trưởng chỉ là một thành viên nho nhỏ, nhưng khi vỡ lở thì phải gánh chịu hầu hết trách nhiệm với những hình phạt nặng nề. Kiểm nghiệm lại thực tế những vụ vi phạm pháp luật, có những trường hợp kế toán chủ động thực hiện hoặc tham gia, nhưng rất nhiều trường hợp là do bị động, ép buộc, bất khả kháng. Trong nhiều nguyên nhân của hiện tượng tiêu cực đó, có phần do pháp chế nói chung và khung pháp lý nói riêng chậm được đổi mới và thiếu đầy đủ, đồng bộ.
Giờ đây, cùng với cả nước, giới kế toán, kiểm toán chúng ta có thêm điều kiện tích cực tham gia tiến trình hoàn thiện pháp chế XHCN. Hoàn thiện khung pháp lý, tăng cường pháp chế XHCN là sự nghiệp hệ trọng và lâu dài, tích cực tham gia vào sự nghiệp này vừa là quyền lợi, trách nhiệm của mỗi công dân, vừa vì sự vẻ vang và lợi ích của chính những người gắn bó cuộc đời với nghề kế toán và kiểm toán.
3) Kế toán Việt Nam trong tiến trình cải cách hội nhập:
3.1) Các việc đã làm và kết quả đạt được trong tiến trình đổi mới:
Ban hành Pháp lệnh kế toán và thống kê (1988), văn bản pháp lý đầu tiên và là văn bản có giá trị pháp lý cao nhất ở Việt Nam. Với Pháp lệnh này kế toán Việt Nam đã dần đi vào nề nếp, phục vụ tốt cho kiểm kê, kiểm soát các nguồn lực.
Xây dựng và ban hành hệ thống kế toán thống nhất áp dụng trong toàn bộ nền kinh tế (1995). Hệ thống kế toán mới đã thoả mãn và phục vụ tốt yêu cầu của giai đoạn đầu phát triển kinh tế thị trường ở Việt Nam. Đồng thời thoả mãn yêu cầu hội nhập, mở cửa từng bước với khu vực và quốc tế. Các nguyên tắc, thông lệ và chuẩn mực quốc tế về kế toán đã được nghiên cứu, chọn lọc, cân nhắc và vận dụng; khuôn mẫu các báo cáo tài chính, phương pháp trình bày các báo cáo tài chính về cơ bản đã phù hợp với các thông lệ quốc tế; Có thể nói, cho đến nay những khác biệt giữa kế toán Việt Nam với kế toán các nước không nhiều. Nếu có khác đó là do các khuôn khổ pháp lý và các quy định, quy chế tài chính của các quốc gia.
Từ năm 1987 đến nay,Việt Nam đã cho phép các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài ở Việt Nam được lựa chọn và áp dụng các hệ thống kế toán phổ biến của các nước, không bắt buộc phải áp dụng hệ thống kế toán Việt Nam. Và chỉ từ 1/1/2001, các doanh nghiệp hoạt động trên lãnh thổ Việt Nam mới buộc phải tuân thủ các quy định về kế toán Việt Nam. Trường hợp đặc biệt chưa áp dụng được phải được Bộ tài chính Việt Nam chấp thuận bằng văn bản.
Đã hình thành hoạt động kiểm toán độc lập (1991), kiểm toán Nhà nước (1994) và kiểm toán nội bộ (1998). Các hoạt động tư vấn và dịch vụ kế toán đã hình thành và được phép hành nghề trong các công ty Nhà nước và tư nhân.Nghề kiểm toán đã hình thành và phát triển mạnh ở Việt Nam, cả 6 công ty kiểm toán quốc tế lớn đã được phép hoạt động ở Việt Nam từ năm 1991 dưới hình thức 100% vốn nước ngoài hoặc liên doanh với công ty kiểm toán Việt Nam. Đến nay ở Việt Nam đã có 19 công ty dịch vụ kế toán và kiểm toán cùng nhiều chi nhánh và văn phòng đại diện hoạt động trong cả nước, cung cấp các dịch vụ tư vấn tài chính, tư vấn thuế, quản trị kinh doanh kiểm toán cho các công ty và các dự án.
Chức danh kiểm toán viên hành nghề độc lập (CA, CPA) đã được thừa nhận. Chính phủ Việt Nam đã thành lập Hội đồng thi tuyển kiểm toán viên quốc gia. Từ năm 1994, Hội đồng đã tổ chức thi tuyển cho hàng nghìn lượt người và đã cấp chứng chỉ trúng tuyển kiểm toán viên cấp Nhà nước cho gần 400 người (cả người Việt Nam và người nước ngoài).
Các tổ chức nghề nghiệp kế toán đã được thành lập và hoạt động khá hiêu quả.
_ Câu lạc bộ kế toán trưởng: Thành lập năm 1989, hiện có 700 hội viên là kế toán trưởng doanh nghiệp và các đơn vị hành chính sự nghiệp trong cả nước.
_ Hội kế toán Việt Nam (VAA): Được thành lập từ năm 1994 với sự tham gia của hàng nghìn hội viên là các kế toán viên, kiểm toán viên và nhà quản lý kinh tế, cán bộ giảng dạy các trường ĐH kinh tế. Nhiều Phân hội, Chi hội kế toán các nghành, lĩnh vực và địa phương đã hoạt động có hiệu quả.
Hội đồng quốc gia về kế toán (National Council For Accountancy) đã được thành lập vào năm 1999, làm nhiệm vụ tư vấn cho Bộ trưởng tài chính về kế toán, kiểm toán.
Đã công bố 10/33 chuẩn mực kiểm toán. Đang tích cực soạn thảo, hoàn thiện và chuẩn bị công bố tiếp các chuẩn mực kế toán quốc gia (VAS) và chuẩn mực kiểm toán quốc gia (VAS).
3.2) Những công việc đang và sẽ tiếp tục triển khai:
Xây dựng và ban hành Luật kế toán Việt Nam, tạo dựng khuôn khổ pháp lý cho hoạt động kế toán, kiểm toán của Việt Nam. Đây cũng là đòi hỏi hội nhập và tự do hoá tài chính.
Soạn thảo và công bố các chuẩn mực kế toán và kiểm toán quốc gia. Vấn đề này đã và sẽ triển khai khẩn trương trong một lô trình chặt chẽ.
Thiết lập hệ thống kế toán Nhà nước (cũng có thể là hệ thống Tổng kế toán Quốc gia).
Nâng cao chất lượng hoạt động và năng lực của Hội kế toán Việt Nam và Hội đồng Quốc gia về kế toán, từng bước đảm nhiệm các chức năng huấn luyện, đào tạo, kiểm tra và giám sát hành nghề đạo đức nghề nghiệp của kế toán viên và kiểm toán viên; Hướng dẫn chuẩn mực kế toán và kiểm toán.
Tích cực chuẩn bị các điều kiện cho hội nhập quốc tế và tự do hoá tài chính.
Cho đến nay, đã có 5 công ty kiểm toán 100% vốn nước ngoài đang hoạt động trong thị trường kế toán, kiểm toán Việt Nam. Thị trường này sẽ được mở cửa hơn nữa, thể hiện qua các cam kết song phương và đa phương mà Việt Nam đã ký hoặc đang đàm phán:
_ Không hạn chế các công ty nước ngoài tham gia góp vốn liên doanh hoặc thành lập công ty 100% vốn nước ngoài hoạt động tại Việt Nam trong lĩnh vực dịch vụ kế toán và kiểm toán. Để được hoạt động, các công ty phải có ít nhất 5 thành viên (người Việt Nam hoặc người nước ngoài) có chứng chỉ kiểm toán viên độc lập do Bộ tài chính Việt Nam cấp hoặc các tổ chức nghề nghiệp nước ngoài cấp được Bộ tài chính thừa nhận và phải có kinh nghiệm làm việc ở Việt Nam trên 1 năm.
_ Trong vòng 3 năm đầu thực hiện cam kết, việc cấp thẻ hoạt động cho các công ty sẽ được xem xét từng trường hợp cụ thể. Bộ tài chính sẽ quyết định số lượng các nhà cung cấp dịch vụ được cấp phép căn cứ vào tình hình phát triển của Việt Nam. Nhưng từ năm thứ 4 trở đi, việc cấp phép dựa trên cơ sở đánh giá chủ quan theo nhu cầu thị trường. Sau đó sẽ được thay thế bằng hệ thống các tiêu chí cấp phép rõ ràng và minh bạch.
_ Về phạm vi hoạt động, trong vòng 2 năm đầu, các công ty kế toán có vốn đầu tư nước ngoài chỉ được cung cấp dịch vụ cho các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngòai và các dự án nước ngoài tài trợ cho Việt Nam. Nhưng từ năm thứ 3 trở đi, phạm vi hoạt động của các công ty sẽ được mở rộng.
Có thể nói rằng, hệ thống kế toán Việt Nam đã và đang được tiếp tục hoàn thiện phù hợp với thông lệ và chuẩn mực quốc tế. Việt Nam sẵn sàng mở cửa đón nhận các dịch vụ kế toán và kiểm toán từ nước ngoài.
3.3) 10 năm thực hiện pháp lệnh kế toán thống kê (1989-1999) :
3.3.1) Những việc đã làm:
Tổ chức quán triệt nội dung Pháp lệnh kế toán và thống kê cho cán bộ lãnh đạo, cán bộ quản lý các cấp, kế toán các nghành, các cấp và đơn vị cơ sở.
Giai đoạn 1 (Từ năm 1988 đến năm 1995) thực hiện đổi mới và hoàn thiện hệ thống chế độ kế toán thao cơ chế bao cấp sang cơ chế hạch toán kinh doanh, đảm bảo cho Pháp lệnh sớm đi vào thực tiễn cuộc sống nền kinh tế quốc dân đang bắt đầu đổi mới theo cơ chế thị trường.
Giai đoạn 2 cải cách căn bản hệ thống kế toán Việt Nam theo cơ chế hạch toán kinh doanh và chủ yếu cho doanh nghiệp Nhà nước, bước đầu chuyển sang kế toán theo cơ chế thị trường nhiều thành phần.
Thực tế các nghành, các cấp và các địa phương đã tổ chức chỉ đạo thực hiện và kiểm tra, kiểm soát quá trình thực hiện Pháp lệnh kế toán - thống kê và hướng dẫn thi hành.
Thực hiện từng bước mở cửa, hội nhập với quốc tế và khu vực về kế toán và kiểm toán.
_ Tổ chức nhiều cuộc hội thảo, tập huấn, khảo sát thực tế nước ngoài về công tác và tổ chức kế toán, kiểm toán, tiếp xúc sâu rộng với chuẩn mực kế toán, chuẩn mực kiểm toán quốc tế, cho phép hàng trăm doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài thực hiện kế toán theo chuẩn mực quốc tế.
_ Đã tổ chức thành công Hội nghị quốc tế về kế toán lần thứ ._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 35150.doc