a. Phần mở đầu
Thị trường chứng khoán mặc dù đã được phát triển từ lâu trên thế giới nhưng mới được biết đến ở Việt Nam, vì vậy, cần phải được nghiên cứu một cách đầy đủ, có tính hệ thống, kết hợp với kinh nghiệm hoạt động của các nước để áp dụng trong điều kiện của Việt Nam. Thị trường chứng khoán hoạt động có hiệu quả sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho kinh tế phát triển năng động và hiệu quả hơn, các doanh nghiệp có vốn để đầu tư mở rộng sản xuất, các nhà đầu tư thu được cổ tức. Từ đó phát huy
52 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1489 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Quá trình hình thành và định hướng phát triển cho thị trường chứng khoán ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
tối đa nguồn lực trong nước của các tổ chức và cá nhân... và huy động vốn đầu tư nước ngoài cho công cuộc công nghiệp hoá nền kinh tế đất nước, là cầu nối cho Việt Nam hội nhập với nền kinh tế thế giới.
Sau một thời gian dài chuẩn bị, ngày 20/07/2000 Trung tâm giao dịch chứng khoán TP. Hồ Chí Minh chính thức được đưa vào họat động đã đánh dấu một bước ngoặt to lớn trong sự phát triển thị trường tài chính ở Việt Nam. Mặc dù quy mô hoạt động của thị trường còn hạn chế, nhưng cũng đã gây được nhiều sự chú ý của các công ty, công chúng trong và ngoài nước.
Trải qua một thời gian hoạt động, thị trường chứng khoán Việt Nam đã bước đầu trở thành một kênh huy động vốn đầu tư quan trọng cho nền kinh tế quốc dân. Tuy nhiên, nó cũng bộc lộ một số mặt hạn chế nhất định như: số lượng hàng hoá trên thị trường còn đơn điệu, nghèo nàn; chất lượng hàng hàng hoá chưa cao...
Trong vài năm qua, các cơ quan có thẩm quyền (Chính phủ, Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước...) đã ban hành các văn bản pháp quy nhằm quản lý tốt hơn hoạt động của thị trường chứng khoán còn đang mới mẻ này.
Nhận thấy đây là một vấn đề có nhiều điều đáng phải nghiên cứu, xem xét, em đã thực hiện đề án kinh tế chính trị của mình với đề tài:
Quá trình hình thành thị trường chứng khoán ở Việt Nam.
Ngoài Lời mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của báo cáo tổng hợp được trình bày gồm ba phần:
Chương 1: Lý luận chung về thị trường chứng khoán.
Chương 2: Quá trình hình thành thị trường chứng khoán ở Việt Nam.
Chương 3: Định hướng phát triển cho thị trường chứng khoán Việt Nam.
Trong quá trình thực hiện đề tài của mình, em đã nhận được sự hướng dẫn tận tình của thầy giáo Vũ Văn Hân để em hoàn thành bài viết. Nhưng với khả năng có hạn, thời gian nghiên cứu lại chưa nhiều, do đó, bài viết chắc chắn không tránh khỏi những thiếu sót. Em rất mong nhận được những ý kiến đóng góp của thầy cô để bài viết hoàn chỉnh hơn.
Em xin chân thành cảm ơn!
B. Nội dung
Chương I
Lý luận chung về thị trường chứng khoán
I. Một số hiểu biết về chứng khoán.
1. Khái niệm chứng khoán
Chứng khoán là thuật ngữ dùng để chỉ các chứng chỉ về đầu tư hoặc cho vay vốn nhằm thu được trong tương lai một khoản lợi tức từ việc đầu tư hoặc cho vay vốn đó.
Sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế làm nảy sinh nhu cầu vốn ngày càng lớn, nhất là nhu cầu vốn dài hạn. Để đáp ứng nhu cầu vốn các doanh nghiệp và Nhà nước đã phát hành loại giấy ghi nợ để vay vốn công chúng, loại giấy này được gọi là trái phiếu. Mặt khác, với sự ra đời của công ty cổ phần đã nảy sinh một phương tiện huy động vốn vào công ty là cổ phiếu. Đây là chứng chỉ xác nhận phần sở hữu công ty tương ứng với phần vốn góp vào công ty.
Trái phiếu và cổ phiếu đều là bằng chứng xác nhận người ta đã bỏ tiền ra đầu tư dưới hình thức cho vay trực tiếp hay góp vốn vào công ty cổ phần và cũng là băng chứng đưa lại cho người ra những quyền nhất định, trong đó quyền cơ bản là được hưởng những khoản thu nhập. Do vậy, trái phiếu và cổ phiếu đều được gọi là chứng khoán. Ngày nay, ngoài cổ phiếu và trái phiếu là hai loại chứng khoán chủ yếu, cùng với sự phát triển của nền kinh tế thị trường đã làm nảy sinh nhiều loại chứng khoán mới rất đa dạng. Mặt khác, với sự phát triển của khoa học và công nghệ, thay vì việc phát hành các loại chứng chỉ huy động dưới dạng giấy tờ, người ta còn có thể bút toán ghi sổ hay ghi lại trên hệ thống thiết bị điện tử, đây được coi là sự phi vật chất hoá chứng khoán.
Từ những điều trình bày trên, ta có thể rút ra khái niệm về chứng khoán: Chứng khoán là chứng từ dưới dạng giấy tờ hoặc được bút toán ghi sổ xác nhận các quyền và lợi ích hợp pháp của người sở hữu các chứng từ đó đối với người phát hành.
Xem xét chứng khoán có thể thấy rằng chứng khoán đại biểu cho một số tiền nhất định mà người đầu tư đã ứng ra và điều cơ bản là nó đưa lại cho người sở hữu chứng khoán quyền được hưởng những khoản thu nhập nhất định trong tương lai. Vì thế, chứng khoán có thể được mua bán và được lưu thông với tư cách là hàng hoá.
2. Đặc trưng của chứng khoán.
Chứng khoán luôn gắn với những khả năng thu lợi:
Khi mua chứng khoán, người đầu tư đã bỏ ra một khoản vốn của mình vào đầu tư, vì vậy, họ chỉ đầu tư khi có thể thu được những khoản lợi tức nhất định. Mỗi loại chứng khoán đưa lại một khả năng thu lời khác nhau: các trái phiếu thường có mức lợi tức cố định và tương đối chắc chắn trong khi đó các cổ phiếu có độ an toàn thấp hơn, mang lại khả năng được hưởng cổ tức và đặc biệt là khả năng thu lãi lớn hơn khi cổ phiếu tăng giá.
Chứng khoán luôn gắn với rủi ro:
Đầu tư luôn gắn với rủi ro, và đầu tư vào chứng khoán cũng có những rủi ro nhất định. Có những rủi ro chung cho tất cả chứng khoán và cũng có những rủi ro riêng liền với liền với từng loại chứng khoán nhất định. Các chứng khoán khác nhau có mức độ rủi ro khác khau.
Chứng khoán có khả năng thanh toán:
Sau khi phát hành, chứng khoán có thể được mua đi bán lại nhiều lần trên thị trường chứng khoán. Các nhà đầu tư năm giữ chứng khoán có thể chuyển các chứng khoán của họ thành tiền bất cứ lúc nào họ muốn. Mặc dù mỗi chứng khoán có khả năng thanh toán khác nhau, nhưng nhìn chung tất cả các loại chứng khoán đều có khả năng thanh toán nhất định. Trong những thời điểm nhất định, cũng có những chứng khoán bị mất khả năng thanh toán nhưng các chứng khoán này sẽ nhanh chóng bị loại bỏ khỏi thị trường.
Mỗi loại chứng khoán có đặc trưng khác nhau về khả năng đưa lại thu nhập hay nói khác đi là mức lợi tức, mức độ rủi ro và mức độ thanh khoản. Đối với người phát hành, điều quan trọng là cần phải lựa chọn phát hành loại chứng khoán thích hợp để thu hút được người đầu tư đảm bảo cho việc phát hành thành công, thực hiện mục tiêu huy động vốn. Đối với người đầu tư, cần nắm được đặc trưng của từng loại chứng khoán để cân nhắc lựa chọn đi đến quyết định đầu tư đúng vào loại chứng khoán thích ứng đáp ứng các yêu cầu mong muốn đề ra về thu nhập và mức độ mạo hiểm.
3. Phân loại chứng khoán.
Dựa trên các tiêu chí khác nhau, ta có các cách phân loại chứng khoán khác nhau. Sau đây là một số cách phân loại thường được sử dụng.
* Căn cứ vào chủ thể phát hành, có thể phân thành:
Chứng khoán Chính phủ và chứng khoán chính quyền địa phương: là loại chứng khoán do Chính phủ và chính quyền địa phương phát hành, được Chính phủ hoặc chính quyền địa phương đảm bảo thanh toán tiền gốc và lãi.
Chứng khoán doanh nghiệp: Do doanh nghiệp phát hành, bao gồm cổ phiếu và trái phiếu doanh nghiêp.
Chứng khoán của các ngân hàng và tổ chức tài chính tín dụng: Do ngân hàng và các tổ chức tài chính tín dụng phát hành nhằm phục vụ cho hoạt động nghiệp vụ của mình
* Căn cứ vào tính chất huy động vốn có thể phân thành:
Cổ phiếu: là chứng khoán xác nhận quyền sở hữu một công ty cổ phần. Cổ phiếu còn được gọi là chứng khoán vốn vì người sở hữu cổ phiếu không phải là chủ nợ của công ty mà là chủ sở hữu của công ty và có quyền hưởng các thu nhập từ lợi nhuận của công ty.
Trái phiếu: là chứng khoán xác nhận một khoản nợ của người phát hành đối với người nắm chứng khoán. Do đó, trái phiếu được coi là loại chứng khoán nợ. Trái phiếu thể hiện sự cam kết của người phát hành thanh toán những khoản tiền lãi và gốc vào những thời điểm nhất định.
Các chứng khoán phái sinh: Là các chứng khoán thể hiện quyền được mua cổ phiếu, trái phiếu theo các điều kiện nhất định đã được thoả thuận trước.
Chứng khoán phái sinh có các loại như chứng quyền (xác nhận quyền ưu tiên mụa cổ phiếu mới phát hành thấp hơn giá thị trường), chứng khế (xác nhận quyền được mua cổ phiếu trong những điều kiện nhất đinh), hợp đồng tương lai (thoả thuận cam kết mua hoặc bán chứng khoán trong tương lai tại giá thoả thuận trước), hợp đồng lựa chọn (quyền được mua hoặc bán một số chứng khoán nhất định trong một khoản thời gian xác định, tại mức giá thoả thuận trước).
* Căn cứ vào lợi tức của chứng khoán có thể phân thành:
Chứng khoán có thu nhập cố định: là chứng khoán có thu nhập xác định trước không phục thuộc vào bất kỳ một yếu tố nào khác. Ví dụ như các trái phiếu có lãi suất cố định...
Chứng khoán có thu nhập biến đổi: là các chứng khoán có thu nhập thay đổi tuỳ theo các yếu tố nhất định. Chứng khoán có thu nhập biến đổi thường thấy là cổ phiếu, các loại chứng chỉ quỹ đầu tư...
* Căn cứ theo hình thức chứng khoán có thể phân thành:
Chứng khoán ghi danh: Là loại chứng khoán trên đó có ghi tên người sở hữu. Loại chứng khoán này thường bị hạn chế bởi khả năng chuyển nhượng. Chứng khoán ghi danh có thể là cổ phiếu hoặc trái phiếu.
Chứng khoán không ghi danh: Là các chứng khoán không ghi tên người sở hữu, các chứng khoán này được tự do chuyển nhượng.
* Căn cứ theo thị trường nơi chứng khoán được giao dịch có thể phân thành:
Chứng khoán được niêm yết: là các chứng khoán được chấp nhận đủ tiêu chuẩn và được giao dịch tại sở giao dịch chứng khoán.
Chứng khoán không được niêm yết: là các chứng khoán không được niêm yết tại sở giao dịch và được giao dịch trên thị trường phi tâp trung.
II. Thị trường chứng khoán.
1. Khái niệm
Thị trường chứng khoán là nơi các chứng khoán được phát hành và trao đổi. Thị trường chứng khoán là một bộ phận của thị trường vốn do đặc tính của chứng khoán trong việc huy động vốn dài hạn.
Hàng hoá giao dịch trên thị trường chứng khoán là các cổ phiếu, trái phiếu và một số công cụ tài chính khác có thời hạn trên 1 năm. Các trái phiếu có thời hạn dưới 1 năm là hàng hoá trên thị trường tiền tệ.
Vị trí của thị trường chứng khoán trong hệ thống thị trường tài chính có thể được biểu thị khái quát qua sơ đồ sau:
Thị trường tài chính
Thị trường chứng khoán
Thị trường vay nợ dài hạn
Thị trường tài chính dài hạn (Thị trường vốn)
Thị trường tài chính ngắn hạn (thị trường tiền tệ)
- Thị trường chứng khoán có những đặc điểm chủ yếu sau đây:
+ Thị trường chứng khoán đặc trưng bởi hình thức tài chính trực tiếp, người cần vốn và người có khả năng cung ứng vốn đến trực tiếp tham gia vào thị trường. Giữa họ không có các trung gian tài chính
+ Thị trường chứng khoán là thị trường gắn với thị trường cạnh tranh hoàn hảo. Tất cả mọi người đều tự do tham gia vào thị trường. Không có sự áp đặt giá cả trên thị trường chứng khoán mà giá cả ở đây được xác định dựa vào quan hệ cung cầu của thị trường và phản ánh các thông tin có liên quan đến chứng khoán.
+ Thị trường chứng khoán về cơ bản là một thị trường liên tục, sau khi các chứng khoán được phát hành trên thị trường sơ cấp nó có thể mua bán nhiều lần trên thị trường thứ cấp. Thị trường chứng khoán đảm bảo cho những người đầu tư có thể chuyển các chứng khoán của họ năm giữ thành tiền bất cứ lúc nào họ muốn.
2. Cơ cấu thị trường chứng khoán.
Căn cứ vào tính chất các chứng khoán được giao dịch thị trường chứng khoán có thể phân thành:
+ Thị trường cổ phiếu: là thị trường nơi các cổ phiếu được phát hành và giao dịch, bao gồm thị trường cổ phiếu sơ cấp và thị trường cổ phiếu thứ cấp.
+ Thị trường trái phiếu: là thị trường nơi các trái phiếu được phát hành và giao dịch, cũng bao gồm thị trương trái phiếu sơ cấp và thị trường trái phiếu thứ cấp.
+ Thị trường các sản phẩm phái sinh bao gồm thị trường các hợp đồng tương lai, các hợp đồng lựa chọn...
Căn cứ vào sự luân chuyển các nguồn vốn, thị trường chứng khoán được chia thành:
+ Thị trường sơ cấp: là thị trường mua bán chứng khoán lần đầu được phát hành.
+ Thị trường thứ cấp: là nơi giao dịch các chứng khoán đã được phát hành trên thị trường sơ cấp.
3. Chức năng của thị trường chứng khoán.
3.1. Chức năng huy động vốn đầu tư cho nền kinh tế.
Sự hoạt động của thị trường chứng khoán tạo ra một cơ chế chuyển các nguồn vốn từ nơi thừa đến nơi thiếu. Thị trường cung cấp các phương tiện huy động vốn nhàn rỗi trong dân cư cho các doanh nghiệp sử dụng vào nhiều mục đích khác nhau như đầu tư phát triển sản xuất, xây dựng cơ sở vật chất mới... Chức năng này được thực hiện khi công ty phát hành chứng khoán và công chúng mua chứng khoán. Nhờ vào sự hoạt động của thị trường mà doanh nghiệp có thể huy động một số lượng lớn vốn đầu tư dài hạn. Khi mua chứng khoán do các công ty phát hành, số tiền nhàn rỗi của các nhà đầu tư được đưa vào hoạt động sản xuất kinh doanh và qua đó góp phần mở rộng sản xuất xã hội. Trong quá trình này, thị trường chứng khoán đã có những tác động rất quan trọng trong việc đẩy mạnh việc phát triển nền kinh tế quốc dân bằng cách hỗ trợ các hoạt động đầu tư dài hạn của các doanh nghiệp.
Thông qua thị trường chứng khoán, Chính phủ và chính quyền ở các địa phương cũng huy động được các nguồn vốn cho mục đích sử dụng và đầu tư phát triển cơ sở hạ tấng kinh tế, phục vụ các nhu cầu chung của xã hội.
3.2 Chức năng cung cấp khả năng thanh khoản cho các chứng khoán.
Thị trường chứng khoán là nơi các chứng khoán được mua bán, trao đổi, bởi vậy nhờ thị trường chứng khoán các nhà đầu tư có thể dễ dàng chuyển đổi các loại chứng khoán họ sở hữu thành tiền hoặc các loại chứng khoán khác khi họ muốn. Khả năng thanh khoản (khả năng chuyển đổi thành tiền) là một trong những yếu tố quyết định tính hấp dẫn của chứng khoán đối với người đầu tư. Đây chính là yếu tố cho thấy tính linh hoạt của chứng khoán. Chức năng cung cấp khả năng thanh khoản cho các loại chứng khoán là chứng năng quan trọng đảm bảo cho thị trường chứng khoán hoạt động một cách năng động có hiệu quả.
3.3 Chức năng đánh giá giá trị của doanh nghiệp và tình hình của nền kinh tế.
Thị trường chứng khoán là nơi đánh giá giá trị của doanh nghiệp và tình hình của nền kinh tế một cách tổng hợp và chính xác thông qua chỉ số giá chứng khoán trên thị trường. Từ đó tạo ra một mỗi trường cạnh tranh lành mạnh nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, kích thích áp dụng công nghệ mới, cải tiến sản phẩm.
3.4 Chức năng giúp Chính phủ thực hiện các chính sách kinh tế vĩ mô.
Thị trường chứng khoán là thị trường cung và cầu vốn dài hạn gặp nhau. Trên thị trường chứng khoán, giá cả chứng khoán phản ánh sự phát triển của các doanh nghiệp nói riêng và các ngành kinh tế nói chung, giá chứng khoán tăng lên cho thấy đầu tư đang mở rộng, nền kinh tế tăng trưởng và ngược lại khi chứng khoán giảm giá sẽ cho thấy các dấu hiệu tiêu cực của nền kinh tê. Chính vì vậy, thị trường chứng khoán được coi là phong vũ biểu của nền kinh tế và là một công cụ quan trọng giúp chính phủ thực hiện các chính sách kinh tế vĩ mô. Thông qua thị trường chứng khoán, Chính phủ có thể mua và bán trái phiếu Chính phủ để tạo nguồn thu, bù đắp thâm hụt ngân sách và quản lý lạm phát. Ngoài ra, Chính phủ cũng có thể sử dụng một số chính sách, biện pháp tác động vào thị trường chứng khoán nhằm định hướng đầu tư, đảm bảo cho sự phát triển cân đối của nền kinh tế.
4. Các nguyên tắc hoạt động của thị trương chứng khoán.
4.1 Nguyên tắc cạnh tranh tự do.
Thị trường chứng khoán phải hoạt động trên cơ sở cạnh tranh tự do, các nhà phát hành, nhà đầu tư được tự do tham gia và rút khỏi thị trường. Giá cả trên thị trường phản ánh quan hệ cung cầu về chứng khoán và thể hiện tương quan cạnh tranh giữa các công ty. Trên thị trường sơ cấp, các nhà phát hành cạnh tranh với nhau để bán chứng khoán của mình cho các nhà đầu tư, các nhà đầu tư được tự do lựa chọn các chứng khoán mà mình muốn đầu tư vào. Trên thị trường thứ cấp, các nhà đầu tư cũng cạnh tranh tự do để tìm kiếm cho mình một lợi nhuận cao nhât.
4.2 Nguyên tăc giao dịch công bằng.
Có rất nhiều người tham gia thị trường chứng khoán với những mục đích khác nhau. Để đảm bảo lợi ích cho tất cả những người này, thị trường chứng khoán phải hoạt động dựa trên nguyên tắc giao dịch công băng. Tất cả mọi giao dịch phải được thực hiện trên cơ sở những quy định chung, những người tham gia thị trường đều bình đẳng trong việc thực hiện những quy định này. Các trường hợp giao dịch bất bình đẳng như giao dịch tay trong, đầu cơ lũng đoạn gia... đều bị nghiêm cấm.
4.3 Nguyên tắc công khai.
Một yếu tố hết sức quan trọng đối với người đầu tư chứng khoán là thông tin. Để thị trường chứng khoán hoạt động có hiệu quả và công bằng thì các thông tin có tác động đến sự thay đổi giá cả của chứng khoán cần phải công khai cung cấp cho các nhà đầu tư nhằm tạo ra cho họ những cơ hội đầu tư như nhau đồng thời cũng là biện pháp quan trọng để ngăn chặn các hành vi gian lận trong kinh doanh chứng khoán, lũng đoạn thị trường. Các thông tin được công khai thông qua các phương tiện thông tin đại chúng của sở giao dịch, các công ty chứng khoán và các tổ chức có liên quan khác.
4.4 Nguyên tắc trung gian mua bán.
Trên thị trường chứng khoán, các giao dịch được thực hiện thông qua tổ chức môi giới để đảm bảo các loại chứng khoán được giao dịch là chứng khoán thực tế và hợp pháp, tránh dự giả mạo, lừa đảo trong giao dịch. Các công ty chứng khoán, bằng việc thực hiện các nghiệp vụ của mình đảm nhận vai trò trung gian cho cung và cầu chứng khoán gặp nhau. Trên thị trường sơ cấp, các nhà đầu tư thương không mua trực tiếp từ các nhà phát hành mà mua từ các nhà bảo lãnh phát hành. Trên thị trường thứ cấp, thông qua các nghiệp vụ môi giới, kinh doanh, các công ty chứng khoán mua chứng khoán giúp các nhà đầu tư hoặc mua chứng khoán của nhà đầu tư này để mua và bán cho các nhà đầu tư khác.
5. Các tổ chức và cá nhân tham gia vào thị trường chứng khoán
5.1 Nhà phát hành.
Nhà phát hành là các tổ chức cần vốn và thực hiện huy động vốn thông qua thị trường chứng khoán. Nhà phát hành là người cung cấp các loại chứng khoán – hàng hoá của thị trường chứng khoán. Thông thường, nhà phát hành bao gồm:
Chính phủ và chính quyền địa phương: phát hành các trái phiếu Chính phủ và trái phiếu địa phương.
Doanh nghiệp là nhà phát hành các cổ phiếu và trái phiếu doanh nghiệp.
Các tổ chức tài chính là nhà phát hành các công cụ tài chính như trái phiếu... phục vụ cho hoạt động của họ.
5.2 Nhà đầu tư.
Nhà đầu tư là những người bỏ tiều đầu tư vào chứng khoán nhằm mục đích thu lời. Nhà đầu tư có thể được chia thành 2 loại:
Nhà đầu tư cá nhân: là những cá nhân có vốn nhàn rỗi tạm thời muốn đầu tư để kiếm lợi nhuận.
Nhà đầu tư chuyên nghiệp: (hay còn gọi là các tổ chức đầu tư) là các tổ chức thường xuyên mua bán chứng khoán với số lượng lớn trên thị trường. Các tổ chức này thường có các bộ phận chức năng khác nhau bao gồm nhiều chuyên gia có kinh nghiệm để nghiên cứu thị trường và đưa ra các quyết định đầu tư. Trên thị trường chứng khoán có một số nhà đầu tư chuyên nghiệp như: Các quỹ tín thác đầu tư, các công ty bảo hiểm, công ty tài chính, các quỹ hưu trí và các quỹ bảo hiểm xã hội khác.
5.3 Các tổ chức kinh doanh trên thị trường chứng khoán.
5.3.1 Công ty chứng khoán.
Là các công ty hoạt động trong ngành công nghiệp chứng khoán với các nghiệp vụ chính là bảo lãnh phát hành, môi giới chứng khoán và tự doanh chứng khoán v.v...Tuy nhiên, không phải công ty chứng khoán nào cũng được thực hiện tất cả nghiệp vụ như trên mà các công ty phải đảm bảm được một số vốn nhất định và được phép của cơ quan có thẩm quyền.
5.3.2 Các Ngân hành thương mại
Hoạt động của các ngân hàng thương mại trong lĩnh vực kinh doanh chứng khoán là tuỳ điều kiện và pháp luật của mỗi nước quy định. Có hai kiểu mẫu về vấn đề này:
Kiểu mẫu thứ nhất là “ngân hàng vạn năng”. Theo kiểu mẫu này không có sự tách biệt giữa công nghiệp ngân hàng và công nghiệp chứng khoán. Trong một hệ thống ngân hàn vạn năng, các ngân hành thương mại hoạt động cung cấp đầy đủ các dịch vụ ngân hàng, bảo hiểm và chứng khoán.
Kiểu mẫu thứ hai có sự tách biệt pháp lý giữa công nghiệp ngân hàng và công nghiệp chứng khoán. Các ngân hàng thương mại được phép hoạt động kinh doanh chứng khoán thông qua việc thành lập các công ty con chuyên hoạt động trong lĩnh vực này với tài sản riêng, hạch toán riêng và các công ty chứng khoán cũng được hoạt động kinh doanh ngân hàng theo cách trên.
5.3.3 Công ty tư vấn đầu tư chứng khoán.
Là công ty có chức năng tư vấn, giúp đỡ các nhà đầu tư trong việc ra quyết định đầu tư và thực hiện các quyết định đầu tư đó. Công ty tư vấn đầu tư cũng có thể đưa ra các lời khuyên về hoạt động nghiệp vụ đối với các công ty chứng khoán và các tổ chức tài chính khác.
5.3.4 Công ty quản lỹ quỹ đầu tư chứng khoán.
Là công ty đứng ra quản lý tài sản của các quỹ tín thác đầu tư, công ty này dựa trên đội ngũ chuyên gia có kinh nghiệm và trình độ tiến hành phân tích về thị trường chứng khoán đê đưa ra các quyết định đầu tư hợp lý nhằm làm sinh lời tài sản của quỹ đầu tư.
5.4 Các tổ chức có liên quan trên thị trường chứng khoán
5.4.1 Cơ quan quản lý Nhà nước đối với thị trường chứng khoán.
Sự quản lý của Nhà nước đối với thị trường chứng khoán là nhân tố rất quan trọng để đảm bảo cho thị trường chứng khoán hoạt động trật tự, công bằng, đúng phát luật. Tuy nhiên, mô hình về cơ quan quản lý Nhà nước đối với thị trường chứng khoán ở các nước khác nhau có những điểm khác nhau. Một số nước giao trách nhiệm quản lý nhà nước về thị trường chứng khoán cho một Bộ của Chính phủ như ở Nhật Bản, Hàn Quốc...trách nhiệm này giao cho Bộ Tài chính; một số nước thành lập cơ quan Uỷ ban chứng khoán độc lập trực thuộc chính phủ.
5.4.2 Sở giao dịch chứng khoán
Là trung tâm giao dịch có tổ chức để giao dịch các chứng khoán được niêm yết. Sở giao dịch thực hiện vận hành thị trường thông qua bộ máy tổ chức bao gồm nhiều bộ phận khác nhau phục vụ các hoạt động trên thị trường sở giao dịch. Ngoài ra, sở giao dịch cũng ban hành nhữgn quy định điều chỉnh các hoạt động giao dịch chứng khoán ở sỏ, phù hợp với các quy định luật pháp về chứng khoán và giao dịch chứng khoán.
5.4.3 Hiệp hội các nhà kinh doanh chứng khoán
Là tổ chức của các công ty chứng khoán và một số thành viên khác hoạt động trong ngành công nghiệp chứng khoán được thành lập với mục đích bảo vệ lợi ích cho các công ty thành viên nói riêng và cho toàn ngành chứng khoán nói chung.
5.4.4 Tổ chức lưu ký chứng khoán và thanh toán.
Là tổ chức nhận lưu giữ bảo quản các chứng khoán của khách hàng và tiên hành các nghiệp vụ thanh toán bù trừ cho các giao dịch chứng khoán.
5.4.5 Các tổ chức tài trợ chứng khoán.
Là các tổ chức được thành lập với mục đích khuyến khích mở rộng và tăng trưởng của thị trường chứng khoán thông qua các hoạt động cho vay bảo lánh, cho vay để mua cổ phiếu, cho vay chứng khoán cho các giao dịch chênh lệch...
5.4.6 Công ty đánh giá hệ số tín nhiệm.
Là công ty chuyên thực hiện việc đánh giá về tình hình và triển vọng hoạt động của các doanh nghiệp dưới dạng hệ số tín nhiệm. Các nhà đầu tư cóthể dựa vào hệ số tín nhiệm do các công ty này đánh giá để cân nhắc đưa ra các quyết định đầu tư của mình.
chương II
quá trình hình thành thị trường
chứng khoán ở Việt Nam
I. Sự hình thành thị trường chứng khoán ở việt nam
1. Đặc điểm thị trường tài chính nước ta trước khi có thị trường chứng khoán
Kể từ đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI - đại hội tiến hành công cuộc đổi mới - Việt Nam đã đạt được những thành tựu lớn về chính trị, kinh tế, văn hoá. Kinh tế sau thời kỳ lạm phát cao đã bước sang thời kỳ tăng trưởng cao (1999- 2000). Tốc độ tăng trưởng (GDP) hàng năm thời kỳ 1991- 1997 đạt 8,2%. Sau khủng hoảng tài chính- tiền tệ Châu á, mức tăng trưởng kinh tế bị chững lại nhưng những dấu hiệu phục hồi đã thể hiện rõ nét trong năm 2000. Lạm phát giảm từ 12,7% trong năm 1995 xuống mức bình quân thời kỳ 1996 –1999 là 4,35% năm. Đầu tư toàn xã hội bằng nguồn vốn trong và ngoài nước so với GDP tăng từ mức 15,8% năm 1990 lên 29% năm 1997. Tỷ lệ tiết kiệm trong nước so với GDP tăng từ 17% năm 1992 lên 22% năm 1999.
Thị trường tài chính là thị trường trong đó nguồn vốn được chuyển từ người có nguồn vốn dư thừa (người cho vay ) sang người thiếu vốn (người đi vay ). Hay nói cách khác, thị trường tài chính là tổng hoà các mối quan hệ cung cầu về vốn trong nền kinh tế. Chức năng cơ bản của thị trường tài chính là dẫn vốn từ người có vốn tạm thời nhàn rỗi đến người cần vốn phục vụ cho sản xuất kinh doanhvà các nhu cầu khác của xã hội. Ngoài ra, thị trường tài chính còn thực hiện chức năng kiểm tra, giám sát nền kinh tế thông qua sự vận động của các nguồn tài chính.
Trong các chủ thể tham gia thị trường tài chính thì hệ thống ngân hàng là một nhân tố đóng vai trò quan trọng chủ chốt.
Từ năm 1986, Việt Nam đã thực hiện đổi mới hệ thống ngân hàng. Với nội dung cốt lõi là tách bạch chức năng quản lý Nhà nước và chức năng kinh doanh của các ngân hàng thương mại, hình thành nên hệ thống ngân hàng hai cấp: Hệ thống ngân hàng trung ương và hệ thống ngân hàng thương mại và đầu tư. Hệ thống ngân hàng cấp 1 - ngân hàng trung ương ( còn gọi là Ngân hàng Nhà nước ) không trực tiếp kinh doanh tiền tệ và tín dụng, nó chỉ giữ vai trò là ngân hàng hàng phát hành và quản lý, lưu thông tiền tệ, tín dụng thông qua các chính sách và biện pháp của Chính phủ.
Mọi việc kinh doanh tiền tệ và tín dụng, do đó, rơi vào tay hệ thống ngân hàng cấp hai. Trong hệ thống này của Việt Nam, ngân hàng thương mại chiếm đa số. Tính đến cuối năm 1995 , hệ thống các ngân hàng thương mại đã có 4 ngân hàng thương mại quốc doanh, 48 ngân hàng thương mại cổ phần, 2 công ty tài chính cổ phần, 20 chi nhánh ngân hàng nước ngoài, 4 ngân hàng liên doanh giữa các ngân hàng quốc doanh Việt Nam và các ngân hàng quốc tế, trên 600 quỹ tín dụng nhân dân hoạt động ở các vùng nông thôn.
Điều quan trọng là, đặc điểm trong cơ chế huy đông vốn của ngân hàng thương mại là tiên gửi không kỳ hạn và ngắn hạn rất lớn. Với nguồn vốn này, ngân hàng thương mại không thể đầu tư trung và dài hạn cho các doanh nghiệp được. Do vậy thị trường tài chính của nước ta có một lỗ hổng rất lớn của nguồn vốn trung và dài hạn.
Qua kháo sát kỳ hạn tín dụng của hệ thống ngân hàng Việt Nam từ năm 1992 đến năm 1995 cho thấy kỳ hạn tín dụng của ngân hàng thương mại, ngân hàng đầu tư ở nước ta chủ yếu là ngắn hạn.
Loại tín dụng
1992
1993
1994
1995
Ngắn hạn
69,0
75,3
72,1
69,0
Dài hạn
31,1
24,5
27,9
31,1
1993
1992
1995
1994
tỷ trọng tín dụng ngắn hạn và dài hạn ở Việt Nam
từ năm 1992 đến 1995
Trên cơ sở pháp lệnh về ngân hàng và xuất phát từ nhu cầu của nền kinh tế, sau một thời gian ngắn, số lượng ngân hàng dã tăng lên rất nhanh, thành phần sở hữu ngân hàng rất đa dạng : ngân hàng quốc doanh, ngân hàng cổ phần, ngân hàng liên doanh, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, công ty cổ phần. Về hoạt động, đang được từng bước mở rộng và đa năng hoá, đa dạng hoá nghiệp vụ : tín dụng , thanh toán, chiết khấu chứng từ có giá, đầu tư qua hùn vốn liên doanh, liên kết, hoặc mua cổ phiếu, trái phiếu, tín dụng thuê mua, tài trợ bán hàng trả góp ...Về cơ câu cho vay đã có sự thay đổi tích cực. Tỷ trong về vốn cho vay trung hạn , dài hạn có xu hướng tăng lên. Hiệu quả tín dụng được nâng cao rõ rệt, tình trạng nợ quá hạn đã giảm đáng kể.
Tuy nhiên , xét trên bình diện chung, hoạt động của các ngân hàng và công ty tài chính Việt Nam hiện vẫn còn những tồn tại khá lớn, đã ảnh hưởng không nhỏ đến sự hình thành và phát triển của thị trường tài chính nói chung và thị trường chứng khoán nói riêng .Đó là vốn điều lệ của các ngân hàng còn quá nhỏ bé. Ngoài một số ngân hàng quốc doanh có vốn khá lớn(1000-3000tỷ đồng), một số ngân hàng cổ phần có vốn điều lệ trên 200 tỷ đồng, còn lại hầu hết các ngân hàng khác có vốn điều lệ khoảng 70-100tỷ đồng, thậm chí có ngân hàng chỉ có vốn điều lệ từ10-20 tỷ đồng. Với số vốn điều lệ quá nhỏ bé như vây thì các ngân hàng này không thể đa năng hoá nghiệp vụ, và cũng không thể thực hiện tín dụng đầu tư một cách an toàn .Tín dụng ngân hàng phần lớn được thực hiện bằng cho vay thế chấp. Giữa ngân hàng và doanh nghiệp chưa có sự gắn bó chứng khoán cần thiết để cùng kinh doanhvà phát triển. Các ngân hàng cổ phần chưa có được những nhà quản tri, kinh doanh giỏi, chưa có được sự hiểu biết thấu đáo về hoạt động ngân hàng trong cơ chế thị trường. Từ đó không tạo lập được lòng tin từ phía các doanh nghiệp, công chún và cả Ngân hàng Trung ương. Trên thực tế, khả năng tăng vốn điều lệ của các ngân hàng cổ phần cao hơn nhiều so với ngân hàng quốc doanh, nhưng về thiếu kiến thức về thị trường Vốn và chưa có một thị trường Vốn hiện hữu nên khả năng tăng vốn rất hạn chế.
Tuy chúng ta đã có thị trường chứng khoán sơ cấp song thị trường chứng khoán sơ cấp này vẫn chưa tạo được hiệu quả rõ rệt trong việc huy đọng vốn.Phần lớn chứng khoán phát hành chưa đáp ứngđược các chuẩn mực của phát hành ra công chúng. Trái phiếu dài hạn và trung hạn lại có lãi suất thấp hơn lãi suất tiết kiệm và trái phiếu ngắn hạn. Do đó nó không thể là sự lựa chọn của người tiết kiệm, nó không thể đi vào lòng công chúng, , người mua chưa xuất phát từ lợi ích kinh tế và chưa thật sự tự nguyện . Gần đây, một số ngân hàng có phát hành loại trái phiếu chiết khấu và lãi suất thả nổi, được công chúng chấp nhận, nhưng các loại trái phiếu này cũng khó có thể đưa ra mua bán trên thị trường thứ cấp. Ngoài ra, Việt Nam chưa thực hiên được chính sách tự do hoá lãi suất, chưa có sự biến đông lãi suất tín dụng trên thị trường theo quan hệ cung- cầu vốn nên việc mua bán các trái phiếu rất hạn chế. Trên thị trường đã có một số loại cổ phiếu đáp ứng được tiêu chuẩn phát hành ra công chúng, có khả năng lưu thông trên thị trường thứ cấp như cổ phiếu của một số doanh nghiệp cổ phần hoá, của ngân hàng thương mại cổ phần, nhưng nói chung, số chứng khoán này vẫn chưa thực sự đi vào công chúng, còn mang tính nội bộ, tập trung ở một số nhóm các nhà doanh nghiệp. Số cổ phiếu , trái phiếu này không đồng nhất và có mệnh giá rất cao, không phù hợp với các nhà đầu tư nhỏ.
Như vây, trong giai đoạn này, tuy Việt Nam đã có thị trường chứng khoán sơ cấp với hàng ngàn tỷ đồng giá trị các loại chứng khoán đã được phát hành, nhưng để có thị trường chứng khoán thứ cấp (Sở giao dịch chứng khoán ) - một yêu cầu cấp thiết trong huy động vốn thì chúng ta cần phải tạo lập được môi trường pháp lý, tâm lý, kỹ thuật ở mức tối thiểu cần thiết, đồng thời phải tạo lập được khối lượng hàng hoá chứng khoán đủ mạnh, bao gồm các loại cổ phiếu, trái phiếu có giá trị, có khả năng thu hút người mua.
2. Sự cần thiết của thị trường chứng khoán trong thị trường tài chính Việt Nam.
Việt Nam là một nước đang trên đà phát triển. Chúng ta đang thực hiện công cuộc đổi mới dựa trên nền tảng là quá trình Công nghiệp hoá - Hiện đại hoá. Chúng ta đã đạt một số kết quả ban đầu đáng khích._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 36983.doc