- 35 -
Chương II.
QUÁ TRÌNH ĐÁNH GIÁ TRẺ KHUYẾT TẬT
TRONG GIÁO DỤC ĐẶC BIỆT
Mục tiêu dạy học: Sau khi học xong chương này, sinh viên phải:
- Nắm vững các khái niệm: Khám sàng lọc, chẩn đoán.
- Nắm vững về các phương pháp và công cụ khám sàng lọc và chẩn
đoán
- Hiểu rõ về các loại đánh giá để lập kế hoạch can thiệp, đánh giá tiến
bộ, đánh giá cuối kỳ.
- Có kỹ năng sử dụng các phương pháp đánh giá trẻ khuyết tật.
- Có thái độ nghiêm túc, cẩn thận khi đánh giá để đạt được kết q
26 trang |
Chia sẻ: huongnhu95 | Lượt xem: 644 | Lượt tải: 1
Tóm tắt tài liệu Quá trình đánh giá trẻ khuyết tật trong giáo dục đặc biệt, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
quả đánh
giá chính xác, khách quan.
Hướng dẫn tự học:
Nghiên cứu, nắm vững những giai đoạn và các phương pháp đánh giá
trẻ khuyết tật. Xác định được các thời điểm và các công cụ đánh giá phù
hợp.
- Khám sàng lọc là gì? Mục đích của việc khám sàng lọc?
- Các phương pháp và công cụ khám sàng lọc?
- Chẩn đoán? Các nguyên tắc cần đảm bảo khi chẩn đoán.
- Các phương pháp và công cụ chẩn đoán?
- Nghiên cứu các test chuẩn.
- Tập thiết kế các bài tập đánh giá.
- Rèn luyện kĩ năng đánh giá thông qua các bài tập thực hành.
- 36 -
1. KHÁM SÀNG LỌC.
1.1. Khái niệm khám sàng lọc
Các trắc nghiệm khám sàng lọc là công cụ đo rất đơn giản và nhanh
gọn. Mục đích chính của công việc khám sàng lọc là để thu thập những
thông tin ban đầu nhằm phát hiện xem trẻ có những đặc điểm khác biệt so
với những trẻ khác không và liệu có đòi hỏi các nhà chuyên môn phải tiến
hành đánh giá kỹ lưỡng hơn không.
Việc khám sàng lọc không nhằm mục đích thu thập thông tin để đưa
ra những quyết định giáo dục cụ thể hay để giải thích vì sao trẻ có những
biểu hiện chậm phát triển như được quan sát thấy. Việc khám sàng lọc sẽ
giúp quyết định liệu một học sinh có cần được đánh giá kỹ lưỡng hơn từ
những nhà chuyên môn khác như vật lý trị liệu, trị liệu về nghe, chỉnh trị về
âm để lựa chọn môi trường giáo dục đặc biệt phù hợp hay không.
Thường thì trong khi khám sàng lọc, các bác sĩ và nhà tâm lý sử dụng
các công cụ khám sàng lọc đối với trẻ rất nhỏ có những biểu hiện chậm
trong sự phát triển. Tuy nhiên, nhiều trẻ CPTTT mức độ nặng và rất nặng
không cần phải trải qua những cuộc kiểm tra như thế này vì chúng đã có
những biểu hiện khuyết tật thể hiện ra bên ngoài rất rõ. Đối với những trẻ
như thế đánh giá được bắt đầu bằng quá trình chẩn đoán.
Các công cụ khám sàng lọc phải bao gồm việc kiểm tra của nhiều lĩnh
vực khác nhau như thị lực, thính lực, các mốc của sự phát triển tâm lí. Các
công cụ này thường không có hiệu lực đối với những trẻ lớn tuổi hơn vì
chúng chỉ kiểm tra được các mốc phát triển trong độ tuổi nhỏ và không giúp
gì cho việc xây dựng chương trình giáo dục.
Khám sàng lọc là một công việc quan trọng và hết sức có ý nghĩa, đặc
biệt là ý nghĩa cho triển vọng phát triển đối với những em được sàng lọc,
phát hiện sớm. Có thể nói, phát hiện sớm, can thiệp sớm là hoạt động tiên
phong, có giá trị cốt lõi đối với sự phát triển trong tương lai của những trẻ
khuyết tật. Vai trò của người giáo viên chính là việc phát hiện những học
sinh có nguy cơ từ độ tuổi rất bé thông qua các quan sát và so sánh về sự
phát triển giữa các em cùng tuổi trong lớp để từ đó giúp cha mẹ tìm đến dịch
vụ khám sàng lọc, chẩn đoán phù hợp. Một số công cụ khám sàng lọc được
giới thiệu ở đây giáo viên cũng có thể thực hiện được, điều đó càng làm tăng
thêm vai trò quan trọng và chủ động của người giáo viên.
1.2. Phương pháp và công cụ khám sàng lọc
1.2.1. Các công cụ khám sàng lọc trước khi sinh:
Khám sàng lọc có thể được bắt đầu từ rất sớm ngay từ giai đoạn mang
thai. Các biện pháp để khám sàng lọc trong giai đoạn này có thể là thử
nghiệm Alpha Fetoprotein (tuần thứ 15 hoặc 18 trong thai kỳ) việc phân tích
nước ối (tuần thứ 14 –18 hay trễ hơn) hay tế bào nhau thai (6 –8 tuần) để
phát hiện sớm những rối loạn gen hay nhiễm sắc thể, cũng có thể là hoạt
- 37 -
động khám thai định kì của các bà mẹ, thông qua biện pháp siêu âm, rất
nhiều bệnh hay hội chứng liên quan tới tật CPTTT có thể được phát hiện
sớm từ khi trẻ còn trong bụng mẹ: tật nứt đốt sống cổ, hội chứng đao
(Down) Đây là công việc chủ yếu thuộc về vai trò của bác sĩ.
1.2.2. Các công cụ khám sàng lọc ngay sau khi sinh:
Khám sàng lọc cũng cần thiết ngay sau khi đứa trẻ sinh ra để phát hiện
sớm những vấn đề về nội tiết, trao đổi chất, các khuyết tật bẩm sinh dễ quan
sát thấy và những rối nhiễu về di truyền khác. Một trong những công cụ mà
bác sỹ hay sử dụng là cách tính điểm APGAR và thang đánh giá hành vi ở
trẻ sơ sinh của Brazelton (Brazelton neonatal behavioral scale – BNBS)
Hệ thống thang điểm của APGAR cho phép đánh giá nhanh chóng
tình trạng sức khẻo của trẻ sơ sinh ngay sau thời điểm nó được sinh ra. Nó
đánh giá các biểu hiện sau ở trẻ: nhịp tim, phản xạ hô hấp, trương lực cơ và
các biểu hiện chung sau 1 phút, 5 phút, 10 phút đầu tiên sau khi chào đời.
BNBS bao gồm 27 phép đo đạc hành vi ở trẻ sơ sinh. Công cụ này đo
các biểu hiện: mức độ tỉnh táo, hoạt bát, các hoạt động tự trở nên bình tĩnh
(nín khóc), mỉm cười, các đặc điểm của giấc ngủ và những hành vi điển hình
khác của trẻ sơ sinh (ví dụ cách trẻ sơ sinh phản ứng với các yếu tố kích
thích khác nhau của môi trường xung quanh như ánh sáng, âm thanh, bị cù
vào gan bàn chân)
Với kết quả thu được từ cả hai công cụ này, các bác sỹ sẽ có cơ sở để
nghi ngờ về sự bất bình thường trong trạng thái tâm lí của trẻ sơ sinh (nhất là
những trẻ có quá trình mang thai không thuận lợi, nhiều nghi vấn hay khi
sinh gặp khó khăn (ví dụ như sinh chậm, không khóc ngay) hay bị tổn
thương hệ thần kinh).Tuy nhiên những kết quả thu đựơc từ việc khám sàng
lọc không thể được sử dụng cho việc tiên lượng sự phát triển của trẻ trong
những giai đoạn ở tương lai xa.
1.2.3. Các công cụ khám sàng lọc sau khi sinh.
Những công cụ để khám sàng lọc trẻ em ở độ tuổi lớn hơn hiện đang
sử dụng ở Vịêt Nam và trên thế giới là trắc nghiệm khám sàng lọc Denver
(Denver Developmental Screening test – DDST), First STEP và một số công
cụ khác. Những công cụ này thường đánh giá các lĩnh vực khác nhau của sự
phát triển như lĩnh vực cá nhân – xã hội, vận động thô và tinh xảo, ngôn
ngữ, kỹ năng tự phục vụ. Tương tự như những công cụ đã được đề cập
đến ở trên, các công cụ này chỉ nhằm phát hiện xem có cần phải tiến hành
đánh giá kỹ lưỡng cho trẻ hay không. Để có thể xây dựng được các mục tiêu
giáo dục hay nội dung chương trình, cần các công cụ đánh giá khác trong
những bước tiếp theo.
Sau đây là một số các công cụ khám sàng lọc đơn giản nhất, dễ thực
hiện, đồng thời khi tổng hợp các công cụ này chúng ta sẽ có được một hệ
thống các công cụ khám sàng lọc có phạm vi lứa tuổi trải dài từ 0 đến 6 tuổi
đặc biệt phù hợp để sàng lọc, phát hiện những trẻ có nguy cơ bị chậm phát
- 38 -
triển trí tuệ, từ đó có các can thiệp sâu hơn như tiếp tục chẩn đoán để xác
định xem các em có bị chậm phát triển trí tuệ hay không, mức độ chậm phát
triển trí tuệ như thế nào, và tiến hành can thiệp sớm với các trẻ có nhu cầu.
Thang khám sàng lọc bước đầu (FirstSTEP – Screening Test for
Evaluating Preschoolerrs).
Thang khám sàng lọc bước đầu được dành cho hai nhóm tuổi, nhóm
thứ nhất từ 2 tuổi 9 tháng (33 tháng) đến 3 tuổi 2 tháng (38 tháng); nhóm thứ
hai từ 3 tuổi 3 tháng (39 tháng) đến 3 tuổi 8 tháng (44 tháng). Thang khám
sàng lọc này kiểm tra trẻ ở 5 lĩnh vực: nhận thức, ngôn ngữ, vận động, tình
cảm xã hội, hành vi thích ứng; ngoài ra còn có thang đo dành cho cha mẹ
hoặc giáo viên đánh giá.
Bảng khám sàng lọc sớm – Bản điều chỉnh (Early Screening Inventory
– Revised: gọi tắt là ESI-R)
Bảng khám sàng lọc ESI-R là bảng sàng lọc dành cho độ tuổi từ 3 đến
6 tuổi, do đặc trưng và sự khác biệt giữa các nhóm trẻ trong dải tuổi này,
ESI-R được chia làm 2 bảng sàng lọc sớm nhỏ hơn, bao gồm bảng sàng lọc
sớm dành cho trẻ em từ 3 đến 4 tuổi rưỡi (Early Screening Inventory-
Preschool, gọi tắt là ESI-P) và bảng sàng lọc sớm dành cho trẻ em từ 4 tuổi
rưỡi tới 6 tuổi (Early Screening Inventory- Kindergarten, gọi tắt là ESI-K)
Cả ESI-P và ESI-K đều kiểm tra trẻ trên 3 lĩnh vực cơ bản: Thị giác –
Vận động; Ngôn ngữ và nhận thức; Vận động thô. Ngoài ra khi thực hiện,
trắc nghiệm viên còn cần thu thập một số thông tin liên quan tới khả năng
ngôn ngữ và ấn tượng của người kiểm tra về trẻ nhưng không tính điểm
phần này.
1.2.4. Một số công cụ sàng lọc.
1.2.4.1.Bộ công cụ sàng lọc ASQ
Đánh giá sàng lọc
Thủ tục đánh giá ngắn gọn được thiết kế để xác định những trẻ nên
được chẩn đoán sâu hơn hoặc được các cơ sở giáo dục hoà nhập hoặc giáo
dục chuyên biệt sớm tại địa phương đánh giá.
Lợi ích của việc sàng lọc
- Xác định trẻ có nguy cơ chậm phát triển
- Phát hiện điểm mạnh và nhu cầu của trẻ
- Tạo cơ hội để: Gia đình nêu lên những băn khoăn về trẻ; Giáo dục cha
mẹ về sự phát triển của trẻ; Trao quyền cho cha mẹ
- Xây dựng mối quan hệ và niềm tin với gia đình: giao tiếp được tăng
lên, tạo niềm vui cho cha mẹ và nhân viên
- Tăng cường kết quả về sức khoẻ và phát triển thông qua dịch vụ can
thiệp sớm.
- Xây dựng sự hợp tác trong cộng đồng và sự ủng hộ cho nhân viên.
Các hoạt động trước khi sàng lọc:
- Được đồng ý.
- 39 -
- Giải thích mục đích của sàng lọc và xem nội dung câu hỏi
- Lên chương trình sàng lọc
- Gửi ASQ trước khi đi thám 2 tuần và yêu cầu cha mẹ trẻ xem trước.
- Sắp xếp tài liệu nếu thấy (cần thiết)
Mô tả ASQ
- Bảng câu hỏi về độ tuổi và giai đoạn ASQ là công cụ có thể sử dụng
để kiểm tra sự phát triển của trẻ.
- Trẻ có thể thực hiện được một số mục chứ không phải là tất cả các
mục được yêu cầu.
- Có thể giúp trẻ luyện tập các kĩ năng.
- Các câu hỏi có thể giúp chỉ ra điểm mạnh và bất kì lĩnh vực nào mà
trẻ có thể cần hỗ trợ và luyện tập them.
Giải thích hệ thống chấm điểm.
- “Có” thể hiện trẻ có thể thực hiện được kĩ năng đó.
- “Thỉnh thoảng” thể hiện trẻ chỉ mới bắt đầu thực hiện được hành vi đó
- “Chưa” thể hiện trẻ chưa thực hiện được hành vi đó.
Tính điếm bộ câu hỏi ASQ
- Bước 1: Tính tổng số điểm của mỗi lĩnh vực “có” =10; “thỉnh thoảng”
= 5; “chưa” = 0.
- Bước 2: Chuyển tổng điểm của từng lĩnh vực sang trang tóm tắt thông
tin. Bôi đen vào vòng tròn tương ứng.
- Bước 3: Trả lời các câu hỏi ở phần tổng cộng cẩn thận và trả lời thích
hợp.
- Bước 4: Bất kể điểm nào nằm trong phạm vi hoặc gần phạm vi bôi
đen cần phải được chú ý hơn hoặc đánh giá thêm
Chú ý:
Cố gắng lấy được các câu trả lời từ gia đình.
Mỗi mục có thể bỏ 2 câu không trả lời vẫn được chấp nhận. Cách tính:
Bước 1: Chia tổng điểm của từng phần cho số câu hỏi được trả lời
trong phần đó. (tính điểm trung bình của từng phần)
Vd: Trong mỗi phần có 6 câu hỏi. Có 1 câu không trả lời
Tổng điểm của phần này là 45
45: 5 = 9
Bước 2: Cộng số điểm trung bình cho mỗi câu vào điểm tổng của
phần đó để được tổng điểm mới.
9 +45 = 54 (tổng điểm mới)
Phần tổng thể
- Không tính điểm nhưng mô tả những lo lắng của cha mẹ
- Có tính dự đoán cao
- Chú trọng vào chất lượng của các kĩ năng (lời nói, cử chỉ)
- Bất cứ câu trả lời nào còn có vấn đề cũng phải được theo dõi.
Trang tổng hợp
- 40 -
Mỗi trang tổng kết được dành riêng cho từng giai đoạn.
Trang tổng kết có 4 phần:
- Thông tin về gia đình trẻ
- Phần tổng quát
- Biểu đồ về cột điểm của 5 lĩnh vực.
- Ô trống để chuyển các câu trả lời.
Trao đổi về kết quả sàng lọc
- Đảm bảo với gia đình rằng trao đổi này là bí mật
- Rà soát lại mục đích của khám sàng lọc.
- Tránh những từ như “kiểm tra”, “đạt”, “không đạt”
- Rà soát lại ASQ và giải thích các điểm theo lĩnh vực
- Nhấn mạnh thế mạnh của trẻ và gia đình.
- Cung cấp các ví dụ cụ thể về những mối băn khoăn lo lắng.
- Mời cha mẹ tham gia quan sát và chia sẻ băn khoăn.
- Chuẩn bị cho buổi gặp gỡ thật cẩn thận.
+ Ghi chép lại các hành vi.
+ Ghi thông tin mà bạn cần thu thập (tiểu sử sức khoẻ) từ gia đình.
+ Tập đóng vai hội thoại với một người khác.
+ Chọn địa điểm riêng tư và thoải mái.
+ Lưu ý đến các vấn đề văn hoá và ngôn ngữ
+ Biết được các nguồn dịch vụ cộng đồng
+ Hãy bình tĩnh.
- Nếu điểm của trẻ thấp hơn điểm chuẩn trong bất cứ lĩnh vực nào: hãy
giải thích với gia đình rằng đây là lĩnh vực cầm phải lấy them thong
tin về trẻ. Hãy an ủi họ rằng đây chỉ là một phần nhỏ đánh giá kĩ năng
của con em họ, và có thể lĩnh vực c phát triển ở trẻ cần thiết phải có
chuyên gia xem xét kĩ hơn.
- Nếu điểm của trẻ gần với điểm chuẩn: Hãy thảo luận các cách bố mẹ
có thể hỗ trợ và tạo điều kiện rèn luyện kinh nghiệm cho lĩnh vực cần
cải thiện này. Hãy thảo luận bất cứ thắc mắc nào của gia đình trong
phần tổng thể. Hãy đưa ra các gợi ý về các hoạt động, nguồn lực hoặc
mạng lưới chuyển tiếp nếu phù hợp.
- Nếu điểm của trẻ cao hơn điểm chuẩn: Hãy đưa ra các hoạt động tiếp
theo và tiếp tục giám sát 4 - 6 tháng một lần. (Hãy nhớ rằng điền tất cả
các câu trong ASQ chỉ ra rằng con bạn đang phát triển một cách phù
hợp, không vượt ra khỏi lứa tuổi của trẻ).
Giới thiệu từng lĩnh vực đánh giá:
- Giao tiếp: Xem xét khả năng ngôn ngữ của trẻ, cả phần trẻ hiểu lời nói và
trẻ có thể nói
- Vận động thô: xem xét sự chuyển động và điều phối các cơ lớn của trẻ.
- Vận động tinh: Xem xét sự chuyển động và điều phối của tay và ngón tay
của trẻ.
- 41 -
- Giải quyết vấn đề (nhận thức): xem xét việc trẻ chơi đồ chơi và giải quyết
vấn đề thế nào.
- Cá nhân – xã hộị: Xem xét khả năng tự hỗ trợ và tương tác với những
người khác.
- Phần tổng hợp: Tổng quát các câu hỏi quan trọng về sự phát triển chung
của trẻ, những điều lo lắng có thể có của cha mẹ trẻ.
1.2.4.2.Thang đo BRUNET- LEZINE.
Thang đo này được thiết lập bởi Odette Brunet và Irene Lezin, vào
năm 1951.
Thang đo này dùng để đánh giá mức độ phát triển tâm vận động của
trẻ nhỏ, đánh dấu sự chênh lệch có thể có so với trẻ cùng tuổi.
Thang này đánh giá được 4 lĩnh vực của 1 trẻ: vận động, phối hợp mắt
và tay, ngôn ngữ và xã hội hóa.
Thang này đo chỉ số phát triển tổng quát, đánh giá mức độ trưởng
thành, kết hợp với quan sát lâm sàng để đưa ra điểm mốc của sự phát triển,
giúp nhà điều trị so sánh sự phát triển của trẻ với trẻ cùng lứa, phát hiện sớm
một số bất thường trong sự phát triển, giúp cha mẹ hiểu những nhu cầu và
khó khăn trong vấn đề phát triển của trẻ.
1.2.4.3. Thang CAPUTE
Tác giả của thang đo này là: Pasquale J.Accardo và Arnold J.Capute.
Thang đo này bao gồm 2 phần:
- CAT: là test nhận thức thích nghi; bao gồm 57 mục, tập trung vào
chức năng thị giác - vận động.
- CLAMS: là thang đo ngôn ngữ lâm sàng và cột mốc thính giác; gồm
43 mục, tập trung vào sự phát triển diễn đạt và cảm nhận.
Thời gian thực hiện từ 6 - 20 phút.
Thang đo này dùng để phát hiện chậm phát triển ở trẻ từ 1-36 tháng
tuổi.
Ứng dụng trong phát hiện rối loạn phát triển của trẻ.
+ Chậm phát triển tâm thần: Cả CAT và CLAMS đều chậm
+ Rối loạn giao tiếp: chậm ngôn ngữ diễn đạt CLAMS diễn đạt chậm.
+ Rối loạn ngôn ngữ: Chậm ngôn ngữ diễn đạt và cảm nhận
+ Rối loạn tự kỉ:- Chậm ngôn ngữ diễn đạt
- Từ 18 - 36 tháng tuổi có 1 trong 3 kiểu ngôn ngữ: Câm
nín, chậm nói, ngôn ngữ diễn đạt có vẻ bình thường.
+ Bại não: Chậm vận động, ngôn ngữ thay đổi, lẫn lộn giữa 2 dạng ngôn ngữ
tiếp nhận và ngôn ngữ diễn đạt, nói lung tung mà không hiểu mình nói gì.
+ Tổn thương thị giác: chậm giải quyết vấn đề không lời và vận động.
+ Tổn thương thính giác: chậm ngôn ngữ và xã hội.
- 42 -
2. CHẨN ĐOÁN
2.1.Khái niệm chẩn đoán
Vào những năm đầu tiên của thế kỉ 20, T.Simon và A.Binet là những
người đầu tiên sử dụng thuật ngữ “chẩn đoán tâm lý” và cũng là những
người đầu tiên đã xây dựng công cụ trắc nghiệm trí tuệ để phân loại học sinh
trong trường học. Trắc nghiệm kiểm tra trí thông minh của các ông được xây
dựng theo kiểu hiện đại. Công dụng của những trắc nghiệm này là nhằm
phân biệt giữa các trẻ có trí thông minh bình thường và các trẻ cần được
giúp đỡ đặc biệt để cho mọi trẻ đều có thể được dạy dỗ phù hợp với khả
năng và nhu cầu của chúng.
Sở dĩ những trắc nghiệm của hai ông được xem là mang tính chất
“chẩn đoán” trước hết là vì nhiệm vụ của nó không chỉ đơn giản là đo mức
độ phát triển trí tuệ của những học sinh học kém mà còn để phân biệt những
học sinh này theo các kiểu tâm lý – giáo dục nhất định như: những trẻ học
kém có sự phát triển trí tuệ bình thường được tách khỏi những học sinh học
kém do sự không bình thường về tâm lý gây nên. Nhóm sau lại được chia
thành những trẻ chậm phát triển trí tuệ và những trẻ có các dạng rối nhiễu
khác.
Khi xác định đối tượng của khoa học chẩn đoán tâm lý người ta đã
xuất phát từ quan điểm là: Khoa chẩn đoán tâm lý đòi hỏi phải tổ chức việc
chẩn đoán tâm lý, và việc chẩn đoán tâm lý dù được đặt ở đâu – trong y tế,
trong kỹ thuật, trong quản lí, trong tâm lý học ứng dụng, trong giáo dục thì
nó luôn luôn phải là sự tìm kiếm, sự vạch ra những nguyên nhân sâu kín
của vấn đề đã được phát hiện, luôn nằm trong những điều kiện của một tập
hợp các mối quan hệ nhân quả. Nếu trong việc khảo sát một cá thể nào đó
mà không tiến hành tìm kiếm và không đặt ra các vấn đề khắc phục nguồn
gốc của vấn đề đã bị phát hiện thì tự bản thân việc sử dụng trắc nghiệm và
các thủ tục đo lường tâm lý khác dù là nó đa dạng, mạnh mẽ đến đâu cũng
vẫn không có ý nghĩa là việc tiến hành chẩn đoán tâm lý.
Như vậy, khái niệm “chẩn đoán tâm lý” sẽ có một số các dấu hiệu đặc
trưng sau:
- Việc nghiên cứu có tính chất chẩn đoán tâm lý bao giờ cũng có đối
tượng là một nhân cách riêng lẻ.
- Chẩn đoán tâm lý không diễn ra một cách đơn giản với một cá nhân
riêng lẻ, mà chỉ chỉ phục vụ những người mà về hành vi, hoạt động trạng
thái tâm lý của họ, người ta đã biết từ trước rằng chúng có những lệch lạc,
những thiếu sót nhất định. Trong trường hợp này chúng ta muốn nói đến
không chỉ những lệch lạc so với chỉ tiêu (tức là chỉ số trung bình về mặt
thống kê) mà cả những lệch lạc so với chuẩn mực (tức là chỉ số được dùng
với tư cách là cái mong muốn và thực tế đạt được) của hành chính, của hoạt
động học tập Những lệch lạc so với chuẩn mực, cũng như việc chấn chỉnh
những lệch lạc đó, là những quá trình bình thường trong việc dạy học, giáo
- 43 -
dục và phát triển của đứa trẻ. Nhưng dù khái niệm “lệch lạc” được giải thích
rộng như thế nào, thì việc tìm kiếm những nguyên nhân của vấn đề được
phát hiện nhằm mục đích khắc phục chúng là điều bắt buộc đối với việc
“chẩn đoán tâm lý”
- Việc chẩn đoán tâm lý bao giờ cũng nhằm giúp đỡ cho người được
nghiên cứu khắc phục những thiếu sót nhất định, giúp họ phát triển mạnh
hơn và hài hòa hơn các năng lực và kỹ năng, nâng cao thành tích của họ. Ở
đây, cá thể được nghiên cứu đóng vai trò như một bệnh nhân. Điều này làm
cho chẩn đoán tâm lý khác với nghiên cứu giám định, đo lường tâm lý có
tính chất xác định, xác nhận (được sử dụng trong tâm lý học lứa tuổi, trong
tuyển chọn nghề nghiệp, trong hướng nghiệp). Những nghiên cứu dạng
này không nhằm mục đích thực hiện những tác động tâm lý giáo dục nào đó
đối với những người được nghiên cứu.
Như vậy có thể nói:
Chẩn đoán tâm lý là sự xác định những nguyên nhân nhiều mức độ
của sự lệch lạc hoặc thiếu sót đã phát hiện được trong hành vi của cá thể với
mục đích khắc phục chúng bằng những tác động điều trị tương ứng, mang
tính chất tâm lý giáo dục. Việc chẩn đoán tâm lý cần phải khách quan, đáng
tin cậy, phải đưa ra được những tiền đề khoa học cho việc dự đoán những
biến đổi trong tương lai của các thông số tâm lý và tâm sinh lý của người
được nghiên cứu.
Việc chẩn đoán tâm lý phải được dựa trên các nguyên tắc sau đây:
1 Nguyên tắc về khả năng nhận thức được của các hiện tượng trong đời
sống tâm lý và những mối quan hệ nhân quả của chúng. Việc chẩn đoán tâm
lý phải dựa trên cơ sở lý luận nhận thức của chủ nghĩa duy vật biện chứng:
Các hiện tượng của hoạt động tinh thần mặc dù mang tính độc đáo và tính
chủ thể, cũng đều liên quan trực tiếp với thế giới vật chất, và do đó đều có
thể nhận thức được. Muốn nhận thức được chúng đòi hỏi có phương pháp
riêng.
2 Nguyên tắc về sự phân loại nhất quán các trạng thái và thuộc tính tâm lý.
Muốn vận dụng được nguyên tắc này cần phải sử dụng việc đo lường tâm lý.
Một bộ phận của công tác chẩn đoán tâm lý. Đo lường là một bộ môn hỗ trợ
của tâm lý học sai biệt và chẩn đoán tâm lý và nó dựa trên việc sử dụng các
biện pháp toán thống kê
3 Nguyên tắc về sự phát triển của tâm lý. Tất cả mọi thuộc tính của nhân
cách đang tồn tại đều phát triển không ngừng, nhưng những thuộc tính đó có
sự ổn định tương đối của chúng, vì vậy mới có thể đo lường được chúng.
Điều này cần phải tính đến để phân biệt hai khái niệm “chẩn đoán” và “dự
đoán”.
4 Chẩn đoán tâm lý chủ yếu phải dựa vào các hiện tượng và dấu hiệu của
hành vi. Nghiên cứu hành vi, đó là cái chủ yếu mà toàn bộ công việc chẩn
đoán được tập trung xung quanh nó. Trong chẩn đoán bắt buộc phải quyết
- 44 -
định xem hình thức hành vi nào được xem là khởi phát. Đối với tất cả các
thực nghiệm trắc nghiệm đều có một đặc trưng là, các phản ứng ổn định
khác nhau trong hành vi của con người có thể được gây nên bởi những kích
thích bên ngoài giống nhau.
5 Nguyên tắc về quan điểm chẩn đoán đối với việc ghi nhận các sự kiện khi
vận dụng các phương pháp chẩn đoán tâm lý. Nói cách khác, các phương
pháp chẩn đoán chỉ là một trong những công cụ của nhà tâm lý học mà thôi.
Phải đối chiếu với các nguồn tài liệu khác.
2.2. Phương pháp chẩn đoán.
Có ít nhất 3 phương pháp thu thập thông tin về trẻ
1 Kiểm tra trực tiếp: là việc sử dụng các thủ tục hay kỹ thuật nhằm
lượng hóa một cấu trúc, một thuộc tính hay phẩm chất. Trong kiểm tra trực
tiếp người ta thường sử dụng các trắc nghiệm tâm lý (test), các thang đo, các
bảng liệt kê, các bảng hỏi.
2 Quan sát tự nhiên là quá trình ghi lại một cách có hệ thống và có kế
hoạch các hành vi khi nó xuất hiện trong các hoàn cảnh tự nhiên khác nhau.
3 Phỏng vấn / đặt câu hỏi là quá trình thu thập thông tin thông qua
việc đưa ra các câu hỏi cho cha mẹ và các thành viên khác.
Quy trình chẩn đoán
Sự quan tâm của cha mẹ, các thầy cô giáo trong việc chăm sóc dạy dỗ
hàng ngày cho chúng ta nhiều thông tin về đứa trẻ. Tuy nhiên, hầu hết các
trường hợp khi được giới thiệu đến hệ thống giáo dục đặc biệt cho trẻ khuyết
tật (chậm phát triển trí tuệ) thì đã có rất nhiều triệu chứng được biểu hiện ở
trẻ.
Cha mẹ hay các bác sĩ nhận thấy trẻ không đạt được các mốc phát
triển phù hợp với độ tuổi.
Giáo viên ở lớp mẫu giáo phát hiện thấy trẻ không tiếp thu được bằng
các bạn cùng lứa, gặp khó khăn trong việc ghi nhớ và khái quát kĩ năng đã
học và có nhiều hạn chế về hành vi thích ứng.
Giáo viên tiểu học nhận thấy trẻ gặp khó khăn trong quá trình học tập
như đọc kém, viết kém, làm toán chậm và sai nhiều, khi ở trên lớp thường
hay có những hành vi bất thường.
Cũng có khi trẻ được giới thiệu đến hệ thống giáo dục đặc biệt cho trẻ
chậm phát triển trí tuệ bằng những kết quả đánh giá và chẩn đoán chính xác.
Trong trường hợp này chỉ cần kiểm tra lại các thông tin để đưa ra những
quyết định về việc lựa chọn các dịch vụ giáo dục đặc biệt hay môi trường
đánh giá hòa nhập. Tuy nhiên cũng có thể gặp tình huống là các thông tin rõ
ràng và cụ thể mà mình cần lại không có, vì vậy nhà trường lại là nơi phải
đưa ra quyết định chẩn đoán thích hợp.
Qui trình chẩn đoán toàn diện bao gồm các bước sau:
c- Mô tả lý do và mục đích đánh giá.
- 45 -
Khi nhà trường tiến hành chẩn đoán, cần phải xác định rõ xem vì lý do
gì và vì mục đích gì? Đánh giá là để trả lời những câu hỏi nào?
- Vấn đề đầu tiên cần trả lời là trẻ có thể được chẩn đoán là chậm phát
triển trí tuệ hay không, nguyên nhân là gì? Những điểm mạnh và nhu cầu
đặc biệt của trẻ.
- Vấn đề thứ 2 là khi trẻ đã đến tuổi đi học, thì được chấp nhận vào
trong trường chuyên biệt, lớp hội nhập hay môi trường giáo dục hòa nhập thì
cần thêm thông tin để hướng dẫn về việc xếp nhóm học tập và nội dung kế
hoạch giáo dục cá nhân.
Lý do và mục đích đánh giá sẽ quyết định tới việc lựa chọn các công
cụ đánh giá, khuynh hướng tìm kiếm và xử lý thông tin. Nếu được yêucầu
chẩn đoán xem trẻ có bị chậm phát triển hay không và chậm phát triển trí tuệ
đến mức độ nào thì nhà tâm lý sẽ lựa chọn trắc nghiệm trí tuệ và thang đo
hành vi thích ứng (theo tiêu chí chẩn đoán do DSM – IV đưa ra), nếu được
yêu cầu chẩn đoán xem trẻ có bị tự kỉ hay không và tự kỉ đến mức độ nào
nhà tâm lý phải sử dụng bảng chẩn đoán tự kỉ và thang đánh giá mức độ tự
kỉ (CARS).
d- Mô tả tiền sử phát triển của đứa trẻ.
Tiền sử phát triển của trẻ cho ta biết những thông tin liên quan đến
điều gì đã xảy ra đối với trẻ từ trước đến nay. Cùng với thông tin thu thập
được trong hồ sơ cá nhân, bảng đánh giá về tiền sử phát triển cho ta biết nên
thu thập thông tin nào và thu thập vào lúc nào? Tất cả các thông tin phải
được thể hiện một cách đầy đủ, toàn diện và có hệ thống về đứa trẻ được
chẩn đoán.
e- Nghiên cứu chẩn đoán tâm lý: Sử dụng các trắc nghiệm về chỉ số
thông minh, thang đo hành vi thích ứng, bảng kiểm tra hành vi, các bảng
kiểm tra hội chứng liên quan và nhiều công cụ khác để có được những thông
tin đầy đủ, thông qua đó có được kết luận đúng đắn về trẻ.
Mục đích của việc sử dụng trắc nghiệm, thang đó và bảng kiểm tra
tâm lý là để xác định xem có thể chẩn đoán là trẻ chậm phát triển trí tuệ hay
không; xác định mức độ chậm phát triển trí tuệ; lý giải về những vấn đề học
tập, hành vi hoặc tình cảm – xã hội; Hướng dẫn xây dựng môi trường giáo
dục nhằm đáp ứng nhu cầu đặc biệt của trẻ.
f- Kết luận và đưa ra lời khuyên.
Mỗi quá trình chẩn đoán đều kết thúc bằng việc kết luận và đưa ra lời
khuyên. Phần kết tóm lược lại những kết quả của từng khâu đánh giá, cung
cấp những phần diễn giải cần thiết, giải thích khi có thể và đặt đúng theo trật
tự, liên hệ giữa các đánh giá với nhau khi có thể. Phần kết là khung tham
chiếu để đưa ra những lời khuyên. Lời khuyên là câu trả lời đối với những
câu hỏi được nêu ở phần đầu – Lí do và mục đích đánh giá.
- 46 -
2.3. Công cụ chẩn đoán
* Trắc nghiệm trí tuệ hay còn gọi là trắc nghiệm chỉ số thông minh IQ
sẽ giúp chúng ta một phần nào xác định xem liệu một đứa trẻ có bị chậm
phát triển trí tuệ hay không? Để có thể khẳng định chắc chắn rằng một trẻ là
chậm phát triển trí tuệ thì chỉ sử dụng trắc nghiệm trí tuệ là chưa đủ mà cần
phải dựa trên kết quả chẩn đoán sử dụng thang đo hành vi thích ứng nữa
(dựa theo các tiêu chí chẩn đoán của AAMR và DSM-IV)
Trắc nghiệm trí tuệ dùng để đo lường khả năng lĩnh hội hay một mức
độ trí tuệ của một người nào đó. Chỉ số thông minh IQ là số đo trí thông
minh của một con người, căn cứ vào các kết quả so sánh các thành tích làm
một trắc nghiệm đo IQ với kết quả của những người khác cùng tuổi cũng
làm trắc nghiệm đó.
* Thang đo hành vi thích ứng để chẩn đoán trẻ chậm phát triển trí tuệ
Ngoài các trắc nghiệm về chỉ số thông minh đã được chuẩn hóa, các
thang đo hành vi thích ứng được dùng để xác định liệu một trẻ có bị chậm
phát triển trí tuệ hay không?
Các thang đo hành vi thích ứng quan trọng nhất và có ích nhất là:
- Thang đo hành vi thích ứng của AM – trường học (ABS: S2)
- Thang đo hành vi thích ứng của Vineland: bản hiệu đính cho lớp học.
Ngoài việc giúp chẩn đoán chậm phát triển trí tuệ, ABS-S:2) và thang
đo hành vi thích ứng của Vineland cũng có các thông tin phù hợp để kịp lập
kế hoạch can thiệp cá nhân.
* Các công cụ chẩn đoán tâm lý khác thường được sử dụng đối với trẻ
chậm phát triển trí tuệ:
- Các bảng hỏi điều tra về hội chứng có liên quan:
* Đối với những trẻ có những dấu hiệu thể hiện nguy cơ bị điếc,
chúng ta cần chú ý đưa trẻ đi khám ở các bệnh viện tai-mũi-họng. Nếu cần
bác sĩ sẽ đề nghị trẻ được kiểm tra thính lực. Tùy theo độ tuổi của trẻ mà họ
có thể dùng các test đo sức nghe khác nhau như: Quan sát hành vi, đo phản
xạ định hướng có điều kiện, đo đơn âm kết hợp với trò chơi, đo đơn âm, đo
trở kháng, đo điện thính giác thân não.
3. ĐÁNH GIÁ ĐỂ LẬP KẾ HOẠCH CAN THIỆP.
3.1. Đặc điểm đánh giá để lập kế hoạch can thiệp.
Trong quá trình giáo dục trẻ khuyết tật cần tiến hành tốt hai cấp độ
của đánh giá.
Đánh giá sơ bộ được tiến hành ngay khi trẻ nhập học và thường xuyên
trong quá trình dạy học để xác định trình độ khả năng của trẻ, để giúp trẻ
học tốt hơn.
Đánh giá tổng kết sau một tháng, một học kỳ và cả năm nhằm xác
định kết quả học tập và sự tiến bộ của trẻ. Kết quả các loại đánh giá cả về
định lượng và định tính đều được ghi lại vào sổ theo dõi của học sinh.
- 47 -
Thực ra đánh giá tổng kết trong một giai đoạn ngắn và ta cũng tiếp tục
sử dụng những thông tin đó để lập kế hoạch giáo dục tiếp theo.
Khi tuyển chọn trẻ vào trường đặc biệt (trường hỗ trợ) cần phải dựa
trên cơ sở những dẫn liệu thật khách quan và chính xác về sự thiếu hụt của
trẻ trong quá trình phát triển đã gây trở ngại cho việc học tập của các em.
Việc tuyển chọn phải do một hội đồng y tế - giáo dục thực hiện. Hội đồng
này được tổ chức theo đơn vị giáo dục của thành phố, tỉnh hoặc các huyện
thị. Thành phần của hội đồng gồm có:
- Đại diện của sở giáo dục hay phòng giáo dục làm trưởng ban.
- Hiệu trưởng trường đặc biệt và các chuyên gia ngành chậm phát
triển làm uỷ viên
- Các cán bộ y tế như bác sĩ thần kinh và bác sĩ đa khoa làm uỷ viên.
- Khi khám học sinh nào nhất thiết phải có bố mẹ hay người đỡ đầu.
Trẻ được nhận vào trường có các hồ sơ sau đây: Đơn xin vào học, tiền
sử của trẻ (do cha mẹ hoặc người đỡ đầu ghi theo mẫu); nhận xét về quá
trình học tập của học sinh (do giáo viên phụ trách lớp ghi); kết luận về y học
do các bác sĩ chuyên ngành ghi; biên bản kiểm tra trí tuệ và trạng thái ngôn
ngữ do các bộ chuyên ngành sư phạm ghi; giấy khai sinh.
Căn cứ vào hồ sơ nói trên, hội đồng y tế - sư phạm xét duyệt, xếp loại
trẻ và lập danh sách gửi cho các trường chuyên biệt dành cho trẻ khuyết tật.
Đánh giá để lập kế hoạch can thiệp trong giáo dục đặc biệt có những
đặc điểm sau:
- Đánh giá là một quá trình liên tục. Việc đánh giá diễn ra khi học
sinh gặp khó khăn trong việc đáp ứng các yêu cầu của chương trình phổ
thông và cần đến các dịch vụ đặc biệt. Mỗi khi trẻ được xác định là đối
tượng của đánh giá đặc biệt, sự đánh giá tiếp tục diễn ra ở lớp giáo dục đặc
biệt và
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- qua_trinh_danh_gia_tre_khuyet_tat_trong_giao_duc_dac_biet.pdf