Tài liệu Quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn tỉnh Bắc Ninh từ năm 1986 đến nay: Thực trạng, Kinh nghiệm và Giải pháp: ... Ebook Quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn tỉnh Bắc Ninh từ năm 1986 đến nay: Thực trạng, Kinh nghiệm và Giải pháp
199 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 2113 | Lượt tải: 1
Tóm tắt tài liệu Quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn tỉnh Bắc Ninh từ năm 1986 đến nay: Thực trạng, Kinh nghiệm và Giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Bé gi¸o dôc vµ ®µo t¹o
Trêng ®¹i häc kinh tÕ quèc d©n
-----------²²²------------
NguyÔn sü
Qu¸ tr×nh c«ng nghiÖp ho¸, hiÖn ®¹i ho¸
n«ng nghiÖp, n«ng th«n tØnh b¾c ninh
tõ n¨m 1986 ®Õn nay:
Thùc tr¹ng, kinh nghiÖm vµ gi¶I ph¸p
LuËn ¸n tiÕn sÜ kinh tÕ
Hµ Néi - 2007
Bé gi¸o dôc vµ ®µo t¹o
Trêng ®¹i häc kinh tÕ quèc d©n
-----------²²²------------
NguyÔn sü
Qu¸ tr×nh c«ng nghiÖp ho¸, hiÖn ®¹i ho¸
n«ng nghiÖp, n«ng th«n tØnh b¾c ninh
tõ n¨m 1986 ®Õn nay:
Thùc tr¹ng, kinh nghiÖm vµ gi¶I ph¸p
Chuyªn ngµnh: LÞch sö kinh tÕ
M· sè : 5.02.04
LuËn ¸n tiÕn sÜ kinh tÕ
Ng¦êi h¦íng dÉn khoa häc
1- GS-TS NguyÔn TrÝ DÜnh
2- PGS-TS Lª C«ng Hoa
Hµ Néi - 2007
LỜI CAM ĐOAN
Tôi cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu nêu trong luận án là trung thực. Những kết luận khoa học của luận án chưa từng được ai công bố.
TÁC GIẢ LUẬN ÁN
Nguyễn Sỹ
MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN
MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CHỮ VIẾT TẮT
DANH MỤC CÁC BẢNG, BIỂU ĐỒ, ĐỒ THỊ, MÔ HÌNH
MỞ ĐẦU
1
Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CNH, HĐH NÔNG NGHIỆP, NÔNG THÔN VÀ KINH NGHIỆM TRONG VÀ NGOÀI NƯỚC ……………..
6
1.1.
Một số vấn đề lý luận về CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn ………...
6
1.2.
Mô hình và bài học kinh nghiệm trong và ngoài nước………………….
45
Chương 2: THỰC TRẠNG CNH, HĐH NÔNG NGHIỆP, NÔNG THÔN TỈNH BẮC NINH TỪ NĂM 1986 ĐẾN NAY …………………………………..
66
2.1
Điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội của tỉnh Bắc Ninh tác động đến quá trình CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn ……………………………..
66
2.2.
Chủ trương chính sách của trung ương và của tỉnh Bắc Ninh về CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn ……………………………………………
70
2.3.
Kết quả thực hiện chủ trương chính sách về CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn ở tỉnh Bắc Ninh ……………………………………………..
77
2.4.
Một số kinh nghiệm rút ra từ quá trình CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn tỉnh Bắc Ninh ……………………………………………………..
126
Chương 3: PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP ĐẨY NHANH CNH, HĐH NÔNG NGHIỆP, NÔNG THÔN TỈNH BẮC NINH ĐẾN NĂM 2015 ………….
132
3.1
Những thuận lợi, khó khăn và thách thức đối với quá trình CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn tỉnh Bắc Ninh …………………………………
132
3.2.
Những quan điểm đẩy nhanh quá trình CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn tỉnh Bắc Ninh trong giai đoạn tới …………………………………
136
3.3.
Phương hướng đẩy nhanh CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn Bắc Ninh đến năm 2015 ……………………………………………………..
139
3.4.
Những giải pháp chủ yếu nhằm đẩy nhanh quá trình CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn tỉnh Bắc Ninh đến năm 2015 .....................................
148
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ ..................................................................................
184
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU CỦA TÁC GIẢ . .................
186
DANH MỤC TÀI LIỆU KHAM KHẢO .................................................................
187
DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CHỮ VIẾT TẮT
ASEAN
Association of Southeast Asian Nations
Hiệp hội các nước Đông Nam Á
EU
European Union
Liên minh Châu Âu
FDI
Foreign Direct Investment
Đầu tư trực tiếp nước ngoài
GDP
Gross Domestic Product
Tổng sản phẩm quốc nội
GNP
Gross National Product
Tổng thu nhập quốc dân
ICOR
Incremental Capital Output Ratio
Hệ số gia tăng vốn đầu ra
KCN
Khu Công nghiệp
NGO
Non-Governmental Organizations
Tổ chức phi chính phủ
NICs
New Industrial Counties
Các nước mới công nghiệp hoá
ODA
Official Development Assistance
Hỗ trợ phát triển chính thức
SMEs
Small and Medium Enterprises
Doanh nghiệp vừa và nhỏ
UNIDO
United Nations Industrial Development Organization
Tổ chức phát triển công nghiệp của Liên hợp quốc
USD
United States dollar
Đô la Mỹ
VAC
Vườn ao chuồng
WB
World Bank
Ngân hàng thế giới
WTO
World Trade Organization
Tổ chức thương mại thế giới
DANH MỤC CÁC BẢNG, BIỂU ĐỒ, ĐỒ THỊ VÀ MÔ HÌNH
Bảng 2.1: Hiện trạng đất đai của tỉnh Bắc Ninh
67
Bảng 2.2: Tổng sản phẩm và nhịp độ tăng trưởng khu vực Bắc Ninh với Hà Bắc thời kỳ 1990 – 1997
78
Bảng 2.3: Cơ cấu kinh tế khu vực Bắc Ninh so với cả nước 1990-1996
79
Bảng 2.4: So sánh tăng trưởng kinh tế khu vực Bắc Ninh, đồng bằng Bắc Bộ và cả nước (1991 - 1995)
83
Bảng 2.5: Kết quả thực hiện một số chỉ tiêu kinh tế (1997- 2005)
85
Bảng 2.6: Giá trị sản xuất, cơ cấu và tốc độ phát triển nông nghiệp
86
Bảng 2.7: Hiệu quả sản xuất nông nghiệp năm 2005
88
Bảng 2.8: Một số chỉ tiêu cây trồng chủ yếu giai đoạn 1996 - 2005
88
Bảng 2.9: Số làng nghề và lao động trong các làng nghề
97
Bảng: 2.10: Tổng hợp hoạt động trong các làng nghề (năm 2005)
99
Bảng 2.11: Các loại máy móc chủ yếu, năm 2003 (bình quân 100 hộ)
103
Bảng 2.12: Mức độ cơ giới hóa các khâu sản xuất ở Bắc Ninh
104
Bảng 2.13: Cơ cấu hộ nông thôn Bắc Ninh so sánh với các tỉnh đồng bằng sông Hồng và cả nước
108
Bảng 2.14: Một số chỉ tiêu của Bắc Ninh so sánh với vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ và cả nước năm 2005
115
Bảng 3.1: Dự báo một số chỉ tiêu đến năm 2020
141
Biểu đồ 1: Cơ cấu kinh tế tỉnh Bắc Ninh năm 2000 và năm 2005
84
Biểu đồ 2: Cơ cấu nội bộ ngành nông nghiệp
87
Biểu đồ 3: Cơ cấu lao động qua các giai đoạn
95
Đồ thị 2.1: Chỉ số phát triển tổng sản phẩm giai đoạn 1997-2005
84
Mô hình 1: Tổng quát về các yếu tố tác động đến công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn.
42
BẢN ĐỒ HÀNH CHÍNH TỈNH BẮC NINH
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Công nghiệp hoá nói chung và công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn nói riêng là một quá trình tất yếu để chuyển một nền nông nghiệp lạc hậu thành một nền công nghiệp hiện đại. Ở nhiều quốc gia trên thế giới quá trình này diễn ra và một số nước thành công. Mấy thập kỷ gần đây, công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn ở những nước công nghiệp mới (NICs) đã tiến hành cũng được luận bàn, khái quát thành kinh nghiệm và mô hình công nghiệp hoá khác nhau.
Ở Việt Nam, vấn đề công nghiệp hoá, trong đó có việc đưa nông nghiệp lên sản xuất lớn đã được Đảng và Nhà nước ta đề ra từ những năm 60 của thế kỷ trước, tuy đã đạt một số thành tựu đáng kể nhất là những năm đổi mới vừa qua, nhưng đến nay nông nghiệp, nông thôn vẫn là khu vực còn nhiều khó khăn, trở ngại.
Bước vào thời kỳ đổi mới, công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn là một trong những nhiệm vụ hàng đầu, giữ vị trí quan trọng trong toàn bộ tiến trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, phấn đấu đạt mục tiêu đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Vì vậy, nhiệm vụ đặt ra là cần phải phân tích sâu sắc thực trạng kinh tế nông nghiệp, nông thôn và từ đó đề ra các giải pháp để đẩy nhanh quá trình này trong giai đoạn tới.
Bắc Ninh là tỉnh thuộc vùng đồng bằng sông Hồng, liền kề với thủ đô Hà Nội, là một trong tám tỉnh nằm trong vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ. Những năm đổi mới vừa qua, cùng với những chính sách của Đảng và Nhà nước về nông nghiệp và nông thôn, tỉnh Bắc Ninh đã có những chủ trương, chính sách và biện pháp tác động thúc đẩy công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn và mang lại những thành tựu quan trọng về kinh tế, chính trị, xã hội. Tuy nhiên, xét động thái công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp và nông thôn tỉnh Bắc Ninh vẫn bộc lộ không ít những hạn chế và bất cập về cơ chế chính sách và những giải pháp hữu hiệu cần phải được quan tâm giải quyết.
Để góp phần làm sáng tỏ cơ sở lý luận và thực tiễn cho việc đề ra chủ trương, chính sách và những giải pháp cho quá trình đẩy nhanh công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn, nghiên cứu sinh chọn đề tài luận án tiến sĩ: “Quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn tỉnh Bắc Ninh từ năm 1986 đến nay: thực trạng, kinh nghiệm và giải pháp” làm nội dung nghiên cứu của luận án.
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu
Những năm qua vấn đề nông nghiệp, nông thôn đã được nhiều nhà khoa học, tập thể quan tâm nghiên cứu. Đã có khá nhiều công trình thuộc nhiều chuyên ngành, nhiều lĩnh vực khác nhau đề xuất phương hướng và đưa ra những giải pháp tích cực nhằm đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn như:
- Nghị quyết Hội nghị lần thứ năm Ban chấp hành Trung ương khoá IX tháng 3 năm 2002 về: “Đẩy nhanh công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn, thời kỳ 2001 - 2010”.
- Ban Tư tưởng Văn hoá Trung ương, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn: “Con đường công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn Việt Nam”. Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội năm 2002.
- Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam: “Một số vấn đề về công nghiệp hoá, hiện đại hoá trong phát triển nông nghiệp và kinh tế nông thôn thời kỳ 2001 – 2020”. Nhà xuất bản Nông nghiệp, Hà Nội năm 2001.
- GS.TS Đỗ Hoài Nam: “Một số vấn đề công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Việt Nam”. Nhà xuất bản Khoa học xã hội, Hà Nội năm 2004.
- GS.TS Nguyễn Kế Tuấn: “Công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn ở Việt Nam, con đường và bước đi”. Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội năm 2006.
- TS Mai Thị Thanh Xuân: “Công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn ở Bắc Trung Bộ”. Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Hội năm 2004.
- GS.TS Nguyễn Đình Phan: “Những biện pháp chủ yếu thúc đẩy công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn vùng đồng bằng sông Hồng”. Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội năm 2002
- TS Đặng Kim Sơn: “Công nghiệp hoá từ nông nghiệp, lý luận thực tiễn và triển vọng áp dụng ở Việt Nam”. Nhà xuất bản Nông nghiệp, Hà Nội năm 2001.
Nhìn chung, các công trình nghiên cứu đều tập trung vào phân tích các khía cạnh từ những vấn đề về lý luận cơ bản, vai trò, yếu tố tác động, sự cần thiết và nội dung của công nghiệp hoá nói chung và công nghiệp hoá nông nghiệp, nông thôn nói riêng. Một số công trình đề cập định hướng chiến lược phát triển công nghiệp nông thôn; có công trình khoa học đi sâu nghiên cứu cơ sở khoa học để xây dựng tiêu chí bước đi, cơ chế chính sách của công nghiệp hoá nông nghiệp, nông thôn. Có công trình nghiêu cứu và đặt vấn đề khá cụ thể về phương hướng, nội dung và giải pháp thực hiện chuyển đổi cơ cấu nông nghiệp và kinh tế nông thôn hoặc vấn đề phát triển công nghiệp phục vụ nông nghiệp, nông thôn. Các công trình đã nghiên cứu và được công bố chủ yếu là phân tích, đánh giá tình hình hiện nay trên phạm vi cả nước hoặc một vùng kinh tế của đất nước và đề xuất các giải pháp cho những năm tới. Song có lẽ cho tới nay chưa có một luận án, công trình nào nghiên cứu, đánh giá về công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn ở tỉnh Bắc Ninh theo một quá trình lịch sử từ năm 1986 đến nay một cách tương đối đầy đủ và có hệ thống. Trong quá trình nghiên cứu và qua thực tiễn công tác của mình, tác giả luận án mong muốn được góp phần làm sáng tỏ một số vấn đề về lý luận, đề xuất các quan điểm, phương hướng và giải pháp để thúc đẩy nhanh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh đến năm 2015.
3. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của luận án là trên cơ sở hệ thống hoá và làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn. Luận án phân tích thực trạng và đề ra phương hướng, mục tiêu và những giải pháp chủ yếu để đẩy nhanh quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn Bắc Ninh trong giai đoạn tới: Phấn đấu đến năm 2010 Bắc Ninh là một tỉnh phát triển khá trong cả nước, đến năm 2015 cơ bản trở thành tỉnh công nghiệp theo hướng hiện đại.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Luận án lấy quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn tỉnh Bắc Ninh làm đối tượng nghiên cứu.
- Công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn là vấn đề rất rộng lớn và phức tạp, phạm vi nghiên cứu của luận án tập trung vào những nội dung cơ bản về chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp và nông thôn; phát triển các làng nghề truyền thống, làng nghề mới, phát triển các khu, cụm công nghiệp làng nghề; xây dựng kết cấu hạ tầng nông nghiệp, nông thôn; phát triển nguồn nhân lực…thời gian từ năm 1986, mà chủ yếu từ năm 1997 đến nay (sau khi tỉnh Bắc Ninh được tái lập).
5. Phương pháp nghiên cứu
Luận án sử dụng các phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử; phương pháp lịch sử và lôgíc; phương pháp phân tích, tổng hợp; phương pháp thống kê, mô hình hoá và tiếp cận hệ thống; phương pháp khảo sát, điều tra thực tế.
6. Những đóng góp khoa học của luận án
- Hệ thống hoá một số vấn đề lý luận cơ bản về công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn và kinh nghiệm một số nước, một số tỉnh .
- Phân tích, đánh giá thực trạng công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn và tác động của nó đến quá trình phát triển kinh tế - xã hội ở tỉnh Bắc Ninh từ năm 1986, mà chủ yếu từ khi tái lập tỉnh (1997) đến nay, trên cơ sở đó rút ra những bài học kinh nghiệm từ thực tiễn địa phương.
- Xây dựng được quan điểm phát triển nông nghiệp, nông thôn tỉnh Bắc Ninh, đồng thời đưa ra phương hướng, mục tiêu, đề xuất các giải pháp mang tính khoa học phù hợp với tình hình, đặc điểm của địa phương và sự phát triển chung của cả nước nhằm đẩy nhanh quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn của tỉnh đến năm 2015.
- Những kết quả nghiên cứu của luận án có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo trong quá trình hoạch định và thực hiện chính sách phát triển nông nghiệp, nông thôn ở tỉnh Bắc Ninh
7. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận án kết cấu gồm 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn và kinh nghiệm trong và ngoài nước.
Chương 2: Thực trạng công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn tỉnh Bắc Ninh từ năm 1986 đến nay.
Chương 3: Phương hướng và giải pháp đẩy nhanh công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn tỉnh Bắc Ninh đến năm 2015.
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN
VỀ CÔNG NGHIỆP HOÁ, HIỆN ĐẠI HOÁ NÔNG NGHIỆP,
NÔNG THÔN VÀ KINH NGHIỆM TRONG VÀ NGOÀI NƯỚC
1.1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CÔNG NGHIỆP HOÁ, HIỆN ĐẠI HOÁ NÔNG NGHIỆP, NÔNG THÔN
1.1.1. Thực chất và sự cần thiết công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn
1.1.1.1. Quan niệm về công nghiệp hoá
- Các quan niệm về công nghiệp hoá
Mỗi phương thức sản xuất đều có cơ sở vật chất - kỹ thuật thích ứng với nó. Cơ sở vật chất kỹ thuật là hệ thống các yếu tố vật chất của lực lượng sản xuất để sản xuất ra của vật chất, nhằm đáp ứng các nhu cầu ngày càng đa dạng của xã hội.
Sự biến đổi và phát triển mạnh mẽ của lực lượng sản xuất, của tiến bộ khoa học - kỹ thuật, năng lực và quy mô tích luỹ, sự tác động của quy luật nhân khẩu, quan hệ kinh tế đối ngoại... là những nhân tố cơ bản ảnh hưởng rất lớn đến trình độ của cơ sở vật chất - kỹ thuật. Ngoài ra, tính chất và trình độ của các quan hệ sản xuất, có ảnh hưởng không nhỏ và có mối quan hệ hữu cơ đối với cơ sở vật chất - kỹ thuật.
Nói đến cơ sở vật chất - kỹ thuật của một phương thức sản xuất nào đó là nói đến trình độ, sự vận động và biến đổi của nó theo xu hướng nào.
Đặc trưng của cơ sở vật chất - kỹ thuật của phương thức sản xuất trước chủ nghĩa tư bản là kỹ thuật thủ công, lạc hậu.
Chủ nghĩa tư bản xuất hiện, với những bước chuyển biến có tính quy luật của nó, tất yếu đưa sản xuất dựa trên kỹ thuật thủ công lên hiện đại, công nghiệp đại cơ khí. Vì vậy, đặc trưng cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa tư bản là nền đại công nghiệp cơ khí hoá với trình độ khoa học - kỹ thuật cao.
Đối với những nước xã hội chủ nghĩa, việc xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật cho nền sản xuất lớn hiện đại là một trong những nhiệm vụ kinh tế to lớn và là một yêu cầu khách quan. Bởi vì, cơ sở vật chất - kỹ thuật của nền sản xuất lớn hiện đại đòi hỏi phải dựa trên trình độ kỹ thuật, công nghệ ngày càng cao hơn, hiện đại hơn. Điều đó không chỉ dừng lại ở chỗ, những yếu tố của tư liệu sản xuất được cơ khí hoá và ngày càng hiện đại hoá, mà còn ở trình độ công nghệ tiên tiến và thường xuyên đổi mới.
Vậy có thể khái quát: “Cơ sở vật chất của nền sản xuất hiện đại, chỉ có thể là nền đại công nghiệp cơ khí hoá cân đối và hiện đại dựa trên trình độ khoa học – công nghệ ngày càng phát triển cao...”[20]. Để có được cốt vật chất kỹ thuật như vậy, tất cả các nước phải tiến hành xây dựng nó. Nói cách khác, xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của nền sản xuất lớn, hiện đại là quy luật chung, phổ biến đối với tất cả các nước trong quá trình phát triển. Công nghiệp hoá chính là con đường và bước đi tất yếu để tạo ra cơ sở vật chất - kỹ thuật cho nền sản xuất lớn hiện đại.
Trong lịch sử, nhiều nước đã tiến hành công nghiệp hoá, ở mỗi nước, quá trình công nghiệp hoá đang diễn ra khác nhau về bước đi, tốc độ và nội dung cụ thể. Nước Anh đã tiến hành công nghiệp hoá trong những điều kiện hoàn toàn khác với hiện nay. Đó là nước tiến hành công nghiệp hoá đầu tiên. Nước Anh chỉ có thể bắt đầu công nghiệp hoá từ nông nghiệp, tích luỹ vốn, mở rộng thị trường, tìm kiếm nguồn lao động... và phải bằng những biện pháp cưỡng chế tàn bạo.
Trong bộ Tư bản, C.Mác có đề cập “...những người nông dân bị tước đoạt bằng vũ lực, bị xua đuổi và bị biến thành những kẻ lang thang lại bị người ta dùng những đạo luật kỳ quái đánh đập, đóng dấu bằng sắt nung đỏ, tra tấn để ghép vào một kỷ luật cần thiết cho chế độ làm thuê...”[12]
Hơn nữa, nước Anh vì là nước đầu tiên tiến hành công nghiệp hoá, nên phải bắt đầu tự nghiên cứu, tự sáng tạo, tự áp dụng vào sản xuất và công nghiệp hoá là một con đường vừa dài, vừa gian nan. Nước Anh đã mất khoảng 100 năm với sự bóc lột, tước đoạt tàn bạo hàng triệu người lao động mới đạt được nền công nghiệp dẫn đầu thế giới vào cuối thế kỷ XVIII, đầu thế kỷ XIX.
Nước Mỹ đi sau đã học tập kinh nghiệm công nghiệp hoá của nước Anh, đã nhập khẩu được kỹ thuật, đã thu hút được vốn, lao động, kỹ thuật công nghệ từ Châu Âu chuyển sang và có thị trường Châu Âu, Châu Á, Châu Mỹ. Đó là những lý do chính làm rút ngắn thời gian công nghiệp hoá ở Mỹ xuống còn khoảng 80 năm.
Nước Nhật tiến hành công nghiệp hoá khoảng 60 năm với những đặc điểm nổi bật là: Nhật đã kế thừa kỹ thuật, công nghệ và vốn thị trường của Châu Âu và Châu Mỹ. Đồng thời, người Nhật đã sử dụng những ưu thế vốn có của nền văn hoá và xã hội Nhật vào quá trình công nghiệp hoá.
Ở Liên Xô (cũ), quan niệm cho rằng: công nghiệp hoá là quá trình xây dựng nền đại công nghiệp cơ khí có khả năng cải tạo cả nông nghiệp. Đó là phát triển các ngành công nghiệp nặng mà cốt lõi là ngành cơ khí, do đó tỷ trọng công nghiệp trong tổng sản phẩm xã hội ngày càng lớn.
STa-Lin viết: “Quan trọng hơn, vì nếu không phát triển công nghiệp nặng, thì chúng ta không thể xây dựng được ngành công nghiệp nào cả, chúng ta không thể thực hiện được một công cuộc công nghiệp hoá nào cả”.[41]
Theo V.I.Lê Nin: “Chỉ có đại công nghiệp cơ khí mới có thể làm cho công nghiệp và nông nghiệp hoàn toàn tách rời nhau... chính nền sản xuất bằng máy móc, đã cắt đứt hẳn mối quan hệ giữa công nhân với ruộng đất” [54]. Như vậy, công nghiệp hoá ở Liên Xô (cũ) trong giai đoạn đó là phù hợp với bối cảnh lịch sử của thế giới và tình hình trong nước. Mô hình công nghiệp hoá này đã đem lại những kết quả đáng kể, song bên cạnh đó cũng còn nhiều hạn chế mà đến thập kỷ 80, 90 của thế kỷ XX đã có sự điều chỉnh cho hợp lý.
Các nước và lãnh thổ (NICs) Đông Á đi sau, rút ngắn quá trình công nghiệp hoá hơn nữa, chỉ còn khoảng 40 năm. Do họ đã tiếp thu được kinh nghiệm của cả Châu Âu, Châu Mỹ và Nhật Bản. Ngày nay, một số nước ASEAN còn có thể rút ngắn quá trình công nghiệp hoá này xuống còn khoảng 30 năm, trong đó Đài Loan là vùng lãnh thổ tiến hành công nghiệp hoá thành công.
Từ thực tiễn về công nghiệp hoá của đất nước, có thể khái quát một số quan niệm về công nghiệp hoá:
+ Quan niệm đơn giản nhất cho rằng: công nghiệp hoá là đưa tính đặc thù công nghiệp cho một hoạt động (của một vùng, một nước) với các nhà máy, các loại hình công nghiệp. Theo quan điểm này, có những điểm chưa hợp lý, vì thứ nhất là nội dung quan niệm này gần như đồng nhất quá trình công nghiệp hoá với quá trình phát triển công nghiệp. Thứ hai là không thể hiện được tính lịch sử của qúa trình công nghiệp hoá. Thứ ba là không thể hiện được mục tiêu của quá trình công nghiệp hoá. Quan niệm về công nghiệp hoá nêu trên được hình thành trên cơ sở khái quát quá trình lịch sử công nghiệp hoá của các nước Tây Âu và Bắc Mỹ và do có những điểm chưa hợp lý, nên quan niệm này ít được vận dụng trong thực tiễn.
+ Quan niệm Liên Xô (cũ) và các nước xã hội chủ nghĩa trước đây thì khi tiến hành công nghiệp hoá nhấn mạnh là phát triển công nghiệp nặng. Cho rằng: công nghiệp hoá là quá trình xây dựng nền đại công nghiệp cơ khí có khả năng cải tạo cả nông nghiệp. Đó là sự phát triển công nghiệp nặng với trung tâm là chế tạo máy. Với đường lối công nghiệp hoá như vậy, công nghiệp nặng có vai trò đặc biệt quan trọng và trong một chừng mực nhất định nó phù hợp với hoàn cảnh Liên Xô khi bước vào thời kỳ công nghiệp hoá: chủ nghĩa đế quốc bao vây, chống đối, không có sự trợ giúp từ bên ngoài, trong khi yêu cầu phải xây dựng một nền sản xuất lớn, hiện đại và bảo vệ chủ nghĩa xã hội.
Liên Xô cần thực hiện công nghiệp hoá với tốc độ nhanh, phải tập trung vào phát triển công nghiệp nặng, nhằm đảm bảo các nhu cầu trong nước. Do vậy, chủ trương về công nghiệp hoá này chỉ đúng với giai đoạn lịch sử Liên Xô lúc đó. Sẽ sai lầm nếu hiểu công nghiệp hoá như vậy trong mọi hoàn cảnh, mọi phương diện. Bởi vì, công nghiệp hoá không chỉ đơn thuần là phát triển đại công nghiệp.
+ Quan niệm mới về công nghiệp hoá: năm 1963, tổ chức phát triển công nghiệp của Liên hợp quốc (UNIDO) đã đưa ra quan niệm:
Công nghiệp hoá là quá trình phát triển kinh tế. Trong quá trình này, một bộ phận nguồn của cải quốc dân được động viên để phát triển cơ cấu kinh tế nhiều ngành ở trong nước với kỹ thuật hiện đại. Đặc điểm của cơ cấu kinh tế này, có một bộ phận công nghiệp chế biến luôn thay đổi để sản xuất ra những tư liệu sản xuất và hàng tiêu dùng, có khả năng đảm bảo cho nền kinh tế phát triển với nhịp độ cao, đảm bảo đạt tới sự tiến bộ về kinh tế -xã hội [23].
Do đó, công nghiệp hoá không chỉ hiểu là quá trình phát triển nền kinh tế dựa trên trình độ kỹ thuật, công nghệ hiện đại mà còn là quá trình phát triển, đảm bảo tạo ra cơ cấu sản phẩm vật chất, bao gồm các điều kiện sản xuất và điều kiện sinh hoạt, đảm bảo các mục tiêu phát triển kinh tế và sự tiến bộ xã hội.
- Quan niệm về công nghiệp hoá, hiện đại hoá
Kinh nghiệm về công nghiệp hoá của các nước đi trước và qua thực tế kiểm nghiệm, kết hợp với sự phát triển mạnh của khoa học công nghệ và quan hệ kinh tế quốc tế ngày càng được mở rộng, quan niệm về công nghiệp hoá, hiện đại hoá được hiểu như sau: Công nghiệp hoá chính là một cuộc cách mạng về lực lượng sản xuất, làm thay đổi căn bản kỹ thuật, công nghệ sản xuất, tăng năng suất lao động. Hiện đại hoá là quá trình thường xuyên cập nhật và nâng cấp những công nghệ hiện đại nhất, mới nhất trong quá trình công nghiệp hoá. Trong thời đại ngày nay, công nghiệp hoá luôn gắn liền với hiện đại hoá.
Công nghiệp hoá, hiện đại hoá là quá trình trang bị kỹ thuật và công nghệ hiện đại cho nền kinh tế quốc dân, trước hết là các ngành giữ vị trí quan trọng, biến một nước có nền kinh tế kém phát triển thành một nước có nền kinh tế phát triển, có công nghiệp hiện đại.
Hiện nay, ở Việt Nam công nghiệp hoá, hiện đại hoá theo quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam là:
Quá trình chuyển đổi căn bản, toàn diện các hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế - xã hội, từ sử dụng lao động thủ công là chính sang sử dụng phổ biến sức lao động cùng với công nghệ, phương tiện và phương pháp tiên tiến, hiện đại, dựa trên sự phát triển của công nghiệp và tiến bộ khoa học- công nghệ, tạo ra năng suất lao động xã hội cao [22].
Quan niệm này nói lên phạm vi và vai trò đặc biệt quan trọng của công nghiệp hoá, hiện đại hoá trong phát triển kinh tế - xã hội, gắn liền được hai phạm trù, không thể tách rời là công nghiệp hoá và hiện đại hoá. Xác định vai trò không thể thiếu được của khoa học-công nghệ trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hóa.Công nghiệp hoá và hiện đại hoá có mối quan hệ mật thiết với nhau, quá trình tiến hành công nghiệp hoá là cái đích để đạt tới hiện đại hoá. Việc tiến hành công nghiệp hoá phụ thuộc nhiều vào điều kiện và hoàn cảnh của mỗi nước và tình hình chung của khu vực và thế giới. Xu hướng hiện nay ở các nước đang phát triển là vừa tiến hành công nghiệp hoá theo những kinh nghiệm truyền thống, nhưng đồng thời cũng thường xuyên cập nhật, hội nhập những thành tựu khoa học- kỹ thuật mới nhất, để vừa đảm bảo phát triển tuần tự, vừa phát triển nhảy vọt ở những thời điểm, những ngành nghề có điều kiện và khả năng.
1.1.1.2. Thực chất công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn
- Công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp
Công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp là quá trình chuyển nền nông nghiệp truyền thống phát triển thành nông nghiệp hiện đại, về thực chất là hiện đại hoá các biện pháp sản xuất nông nghiệp, hiện đại hoá công nghệ sản xuất, hiện đại hoá quản lý sản xuất kinh doanh và hiện đại hoá lực lượng lao động ngành nông nghiệp; làm thay đổi căn bản tính chất, phương thức sản xuất, cơ cấu sản xuất, hình thức tổ chức quản lý sản xuất của một nền nông nghiệp sản xuất tự cung, tự cấp, dựa chủ yếu vào điều kiện tự nhiên với kỹ thuật thủ công sang một nền nông nghiệp sản xuất hàng hoá với kỹ thuật công nghệ tiên tiến, trong điều kiện thương mại hoá toàn cầu và phải đảm bảo cho sự phát triển bền vững về tự nhiên, kinh tế- xã hội.
Công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp là một bộ phận của công nghiệp hoá nông thôn. Nội dung chủ yếu của nó là đưa máy móc thiết bị và phương pháp sản xuất công nghiệp cùng với các hình thức tổ chức sản xuất kiểu công nghiệp vào lĩnh vực sản xuất nông nghiệp, nhằm khai thác triệt để lợi thế của mỗi ngành, trên cơ sở đó nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm tiêu dùng và xuất khẩu. Nội dung này được cụ thể hoá trên các mặt cơ giới hoá, điện khí hoá, thuỷ lợi hoá, sinh học hoá trong các ngành sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp, thúc đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp. Đồng thời làm tan rã dần nền nông nghiệp chậm phát triển và nông nghiệp truyền thống.
Lịch sử phát triển nông nghiệp thế giới và các nước trong khu vực đều chứng minh rằng, muốn có một nền nông nghiệp bền vững, năng suất lao động cao không thể dựa vào nông cụ thô sơ và sức kéo trâu bò là chủ yếu. Chỉ có cơ giới hoá, điện khí hoá, thuỷ lợi hoá, hoá học hoá mới tạo ra nền nông nghiệp hàng hoá, có chất lượng sản phẩm cao, có quy mô lớn gắn với công nghiệp chế biến và xuất khẩu. Mặt khác, nông nghiệp không thể tự cải tạo kỹ thuật, không thể tự mình giải quyết vấn đề phát triển. Sự phát triển của nông nghiệp được quyết định bởi bản thân quá trình nền sản xuất xã hội thực hiện được, quá trình phát triển với hai tiến trình thị trường hoá và công nghiệp hoá. Đó là quá trình chuyển từ làn sóng nông nghiệp sang làn sóng công nghiệp. Sự phát triển này khiến cho nông nghiệp mất vị trí nền tảng của nền kinh tế. Quy luật chung của quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá là làm giảm tỷ lệ GDP của nông nghiệp trong cơ cấu chung nền kinh tế, lao động ngành nông nghiệp có tỷ lệ nhỏ trong cơ cấu lao động chung của các ngành kinh tế.
Công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp diễn ra đồng thời với công nghiệp hoá, hiện đại hoá các ngành kinh tế của đất nước. Không thể tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp bó hẹp trong quan niệm phát triển trong phạm vi ngành nông nghiệp, mà nó phải gắn với sự phát triển và sự chuyển đổi cơ cấu của toàn bộ nền kinh tế. Chính sự phát triển công nghiệp, du lịch, dịch vụ, cơ sở hạ tầng trong điều kiện hiện đại hoá làm thay đổi phương thức sản xuất, cơ cấu của nền sản xuất xã hội và là sự thay đổi bản chất kinh tế của nông nghiệp. Chuyển từ lĩnh vực tất yếu thành lĩnh vực kinh doanh, thành cực tăng trưởng và bắt buộc phải tồn tại phát triển trong cơ chế thị trường.
Quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp phải đảm bảo vai trò duy trì và phát triển cảnh quan thiên nhiên, xã hội cho phù hợp với yêu cầu của cuộc sống ở trình độ văn minh cao, trình độ văn hoá cao. Tái sản xuất hệ sinh thái, duy trì phát triển môi trường sống bền vững. Giữ gìn và phát triển truyền thống lâu đời của cộng đồng các dân tộc. Tham gia đắc lực trong việc hình thành sự kết hợp hài hoà giữa cuộc sống công nghiệp, đô thị và thiên nhiên, giữa lao động thư giãn và giải trí cho các tầng lớp dân cư và cộng đồng các dân tộc.
- Công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông thôn
Công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông thôn là quá trình thay đổi căn bản phương thức hoạt động, cơ cấu kinh tế của nông thôn và thay đổi căn bản tầng lớp gắn liền với sản xuất nông nghiệp là nông dân.
Công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông thôn làm thay đổi căn bản khái niệm về nông thôn truyền thống: Nông thôn là một xã hội được tổ chức trên nền tảng sản xuất nông nghiệp và dân cư của nó là những người làm ruộng. Quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá diễn ra cùng với quá trình đô thị hoá, đã làm thay đổi hệ thống xã hội ở các phương diện: tập trung hoá sản xuất, do đó tập trung hoá dân cư, tăng một cách căn bản các quá trình trao đổi, giao dịch dịch vụ, sự phát triển của xã hội tiêu dùng, phát triển mạnh hạ tầng kinh tế - xã hội. Sự thay đổi này đã dẫn tới sự thay đổi căn bản trong phương thức sản xuất và phương thức sinh hoạt xã hội, văn hoá.
Cùng với tiến trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đã cải tổ toàn bộ xã hội theo diện mạo công nghiệp-thương mại hoà nhập vào xu thế toàn cầu hoá và sự biến chuyển của xã hội nông thôn cũng không thể nằm ngoài xu hướng chung này. Cơ cấu nghề nghiệp thay đổi, xu hướng cơ bản là chuyển từ hoạt động nông nghiệp sang cơ cấu dân cư nghiêng về phi nông nghiệp, tỷ lệ hộ ở nông thôn làm nông nghiệp giảm, tỷ lệ hộ phi nông nghiệp tăng lên. Tuy nhiên, ở các nước phát triển, dân cư chuyển vào sống trong các đô thị ngày càng tăng cùng với dân cư nông thôn giảm đi đáng kể (tỷ lệ dân nông thôn ở các nước công nghiệp phát triển chỉ còn 10 – 25%).
Công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn gắn liền với yêu cầu chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn theo hướng tiến bộ: tăng tỷ trọng công nghiệp và dich vụ, giảm tỷ trọng nông nghiệp. Vì vậy, công nghiệp hoá không thể thiếu phát triển nông nghiệp, các ngành nghề phi nông nghiệp trên địa bàn nông thôn, áp dụng phương pháp công nghiệp vào sản xuất nông nghiệp, chuyển đổi cơ cấu ngành nghề lao động nông thôn, tạo thêm việc làm để tăng thu nhập cho dân cư nông thôn.
Qua quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá, tiến trình phát triển xã._. hội đã có sự thay đổi căn bản, đó là quá trình phát triển đô thị hoá kèm theo thu hẹp xã hội nông thôn, về mặt cơ sở hạ tầng cho sản xuất, cơ sở hạ tầng văn hoá, đời sống (hạ tầng về kinh tế và xã hội) là sự thay đổi về chất của xã hội nông thôn. Sự chênh lệch thu nhập, đời sống vật chất, văn hoá xã hội của dân cư ở nông thôn và dân cư thành thị được thu hẹp.
Như vậy, công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông thôn là xây dựng nông thôn mới có nông nghiệp hiện đại, công nghệ kỹ thuật cao, dịch vụ phát triển theo hướng văn minh, hiệu quả. Quan hệ sản xuất tiên tiến phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất, cơ sở hạ tầng nông thôn hoàn thiện, đời sống vật chất tinh thần của nông dân không ngừng được cải thiện, xã hội ổn định và công bằng.
1.1.1.3. Sự cần thiết của công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn
Trong khi coi công nghiệp hoá, hiện đại hoá là nhiệm vụ trung tâm trong suốt thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta, Đảng ta vẫn xác định nội dung của công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước trong những năm trước mắt là: “coi trọng công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp và nông thôn”[20]. Điều đó bắt nguồn từ vai trò của nông nghiệp, nông thôn trong quá trình phát triển kinh tế-xã hội và những lợi thế phát triển của Việt Nam hiện nay. Cụ thể, việc tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn ở nước ta xuất phát từ những cơ sở chủ yếu sau:
Thứ nhất, xuất phát từ yêu cầu đảm bảo an ninh lương thực quốc gia
Lương thực là sản phẩm tiêu dùng thiết yếu đối với cuộc sống con người, nhất là đối với một nước có truyền thống tiêu dùng lúa gạo như Việt Nam. Vì vậy, vấn đề đảm bảo an ninh lương thực quốc gia là nhân tố quan trọng hàng đầu để ổn định kinh tế, chính trị, xã hội, nhờ đó thúc đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn, thực hiện phân công lại lao động xã hội hợp lý hơn. Không chỉ ở Việt Nam, mà ngay cả các nước Đông Á, sự phát triển nông nghiệp vẫn được coi là một trong các nhân tố quan trọng tạo nên sự thần kỳ của họ trong nửa cuối thế kỷ trước.
Quy mô dân số Việt Nam ngày càng tăng nên nhu cầu về lương thực, thực phẩm cũng tăng lên rất nhanh, trong khi đó quỹ đất nông nghiệp của nước ta lại ít. Do đó, để đáp ứng đầy đủ nhu cầu lương thực cho hơn 80 triệu dân đòi hỏi nông nghiệp phải được công nghiệp hoá, hiện đại hoá để tạo sự phát triển vượt bậc về năng suất, cây trồng, vật nuôi. Vả lại, nếu nông nghiệp không sản xuất đủ lương thực thì việc dùng ngoại tệ để nhập khẩu lương thực sẽ đè nặng lên chi tiêu của Chính phủ, do đó sẽ ngăn cản việc nhập khẩu máy móc, công nghệ, nguyên nhiên vật liệu phục vụ công nghiệp hoá đất nước. Thực tế nói lên rằng, nếu trong cơ cấu kinh tế quốc dân mà không có một nền nông nghiệp phát triển để đảm bảo đầy đủ lương thực cho con người thì toàn bộ nền kinh tế sẽ gặp không ít khó khăn trong việc tạo ra tốc độ tăng trưởng cao. Do đó, vấn đề an ninh lương thực là nhiệm vụ thường xuyên của quốc gia cũng như từng địa phương.
Thứ hai, xuất phát từ yêu cầu của sự phát triển công nghiệp và dịch vụ
Nông nghiệp và nông thôn không chỉ sản xuất ra sản phẩm tiêu dùng trực tiếp cho con người, mà còn là nơi cung cấp nguồn nguyên liệu cho công nghiệp, trước hết là cho công nghiệp chế biến lương thực, thực phẩm, công nghiệp hàng tiêu dùng và hàng suất khẩu. Vì vậy, sự lạc hậu hay tiến bộ của nông nghiệp, nông thôn có ảnh hưởng rất lớn đến phát triển công nghiệp và dịch vụ.
Thực tế nhiều nước đã chỉ ra rằng, sự lạc hậu của lực lượng sản xuất tại nông thôn đã hạn chế đến sự tăng trưởng của công nghiệp thành thị, vì nguồn tích luỹ thấp, mức đầu tư bị giảm xuống. Trong trường hợp đó, khu vực công nghiệp ở thành thị không đủ sức để cải tạo khu vực nông nghiệp cổ truyền ở nông thôn như vai trò vốn có của nó, mà ngược lại cả công nghiệp và nông nghiệp đều rơi vào tình trạng kém phát triển. Chỉ công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn, làm cho năng suất lao động nông nghiệp tăng lên, khối lượng nguyên liệu cung cấp cho công nghiệp nhiều hơn, khi đó công nghiệp mới có cơ hội phát triển, và đến lượt nó công nghiệp sẽ thúc đẩy trở lại đối với sự phát triển nông nghiệp và các ngành khác. Như vậy, công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn đã tạo ra quy mô và tốc độ tăng trưởng của các nguồn nguyên liệu nông nghiệp, là nhân tố có tác động quan trọng đến quy mô và tốc độ tăng trưởng của công nghiệp, dịch vụ và các ngành kinh tế khác.
Mặt khác, nông nghiệp, nông thôn là địa bàn rộng lớn tiêu thụ các sản phẩm của công nghiệp, từ tư liệu sản xuất, vật tư thiết bị đến các sản phẩm hàng hoá và dịch vụ tiêu dùng. Nhiều nhà kinh tế đã khẳng định rằng, với vai trò là thị trường tiêu thụ hàng hoá cho lĩnh vực công nghiệp và dịch vụ, nông nghiệp, nông thôn đã trở thành động lực thúc đẩy công nghiệp, dịch vụ phát triển, và như vậy nó còn quan trọng hơn cả vai trò nguồn cung cấp “đầu vào” cho công nghiệp. Tốc độ tăng trưởng thu nhập và quy mô dân số trong lĩnh vực nông nghiệp sẽ tác động đến dung lượng của thị trường nội địa đối với hàng hoá của khu vực công nghiệp. Nói cách khác, tăng trưởng của lĩnh vực công nghiệp phụ thuộc vào tăng trưởng của khu vực nông nghiệp và kinh tế nông thôn. Do đó, “bóc lột” lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn vượt quá mức đầu tư trở lại cho nó thì sẽ làm cho khu vực này rơi vào tình trạng trì trệ, dẫn tới giảm sút tốc độ tăng trưởng của khu vực công nghiệp. Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng đã từng xác đinh: “Muốn phát triển công nghiệp, phát triển kinh tế nói chung phải lấy việc phát triển nông nghiệp làm gốc, làm chính”[26].
Ngoài ra, nông nghiệp, nông thôn còn là nơi cung cấp nguồn nhân lực dồi dào cho các ngành kinh tế khác. Dưới tác động của khoa học và công nghệ, quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá sẽ giải phòng một bộ phận lao động ra khỏi nông nghiệp để chuyển nhanh sang lĩnh vực công nghiệp và dịch vụ, do đó công nghiệp và dịch vụ sẽ có cơ hội phát triển nhanh.
Học thuyết kinh tế và kinh nghiệm các nước đã qua công nghiệp hoá đều chỉ ra rằng, quá trình phát triển kinh tế theo hướng hiện đại đều gắn liền với việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế và lao động từ nông thôn ra thành thị, từ nông nghiệp sang phi nông nghiệp. Trong vòng 30 năm từ 1965-1995, tại nhiều nước châu Á thực hiện công nghiệp hoá, tỷ lệ lao động nông nghiệp giảm đi khá nhanh và số lao động đó được chuyển vào các ngành công nghiệp và dịch vụ có năng suất cao hơn. Ở những nước có tốc độ công nghiệp hoá nhanh, tốc độ tăng trưởng kinh tế cao thì tốc độ chuyển dịch lao động nông nghiệp ngày càng lớn.
Công nghiệp hoá gắn liền với đô thị hoá và thu hút phần lớn lao động từ nông nghiệp chuyển sang các ngành nghề phi nông nghiệp, chủ yếu từ dịch vụ. Quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá tuy không đòi hỏi tăng nhanh số lượng lao động vào các hoạt động thuần tuý công nghiệp, nhưng nó đòi hỏi nhiều lao động dịch vụ hỗ trợ như: vận chuyển hàng hoá, đóng gói, phân loại sản phẩm, thông tin thị trường, tiếp thị, y tế, văn hoá, giáo dục…khi các hoạt động này tăng nhanh cả về số lượng và năng lực thì nó đòi hỏi nguồn lao động bổ sung rất lớn từ nông nghiệp.
Thứ ba, xuất phát từ yêu cầu tích luỹ vốn cho nền kinh tế-điều kiện tiên quyết để công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn
Là một nước nông nghiệp với đa phần dân số sinh sống ở nông thôn, thế mạnh của nước ta là thế mạnh về nông nghiệp và các ngành nghề phi nông nghiệp ở nông thôn. Đây là tiềm năng to lớn cần khai thác để tạo nguồn vốn tích luỹ và cũng là mục tiêu của chủ trương dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn sẽ cho phép khai thác triệt để và có hiệu quả tiềm năng đa dạng của nông, lâm, ngư nghiệp ở nước ta nhằm tạo giá trị thu nhập cao. Việc phát triển công nghệ sinh học, một thành tựu của tiến trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá sẽ tạo ra nhiều giống cây, con mới phù hợp với điều kiện sinh thái, rút ngắn thời gian canh tác, do đó sẽ tăng vụ, tăng sản lượng và giá trị trên một đơn vị diện tích. Việc áp dụng thành tựu khoa học - kỹ thuật hiện đại trong đánh bắt và chế biến hải sản sẽ làm tăng sản lượng và giá trị của nguồn lợi từ biển, từ đó sẽ tạo nguồn thu nhập cao cho ngư dân.
Nông nghiệp, nông thôn nước ta đóng vai trò quan trọng trong quá trình tích luỹ tư bản cho công nghiệp hoá. Trong nhiều năm trước đây, nông nghiệp đã tạo ra trên 40% thu nhập quốc dân và hiện nay ngành này đã tạo ra gần 30% GDP và hơn 45% giá trị xuất khẩu của các nước, chưa kể các sản phẩm công nghiệp lấy nguyên liệu từ sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp là chủ yếu. Vì vậy, nông nghiệp phát triển mạnh, năng suất hàng hóa nhiều về số lượng, đa dạng về chủng loại và tốt về chất lượng, là tiền đề vật chất quan trọng của công nghiệp hoá nói chung và công nghiệp chế biến nói riêng. Mặt khác, những năm qua, cùng với sự phát triển của sản xuất, tỷ lệ để dành (tích luỹ) trong khu vực nông nghiệp và kinh tế nông thôn tăng dần từ 5,2% năm 1990 lên 10% năm 1995 và khoảng 14,15% năm 2000. Tích luỹ đó chủ yếu do kết quả của phát triển nông nghiệp và ngành nghề thủ công trong nông thôn.
Ở các nước đang phát triển, ngoài nguồn vốn từ viện trợ và đầu tư nước ngoài thì cần thiết phải có nguồn vốn từ tiết kiệm trong nước, trong đó nguồn thặng dư nông nghiệp là quan trọng. Đối với Việt Nam, trong giai đoạn đầu, nguồn vốn tất yếu phải dựa vào nông nghiệp và nông thôn, vì đây là khu vực rộng lớn, xét cả về khía cạnh lao động và tổng sản phẩm quốc dân. Nguồn vốn do nông nghiệp, nông thôn tạo ra sẽ được đầu tư trước hết và chủ yếu vào các hoạt động kinh doanh nông nghiệp và một số hoạt động phi nông nghiệp và kinh tế nông thôn. Sự phát triển mạnh mẽ của nông nghiệp và kinh tế nông thôn sẽ làm tăng đáng kể nguồn vốn tích luỹ cho nền kinh tế, tạo điều kiện thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Thứ tư, xuất phát từ yêu cầu của phát triển bền vững, nâng cao đời sống xã hội nông thôn
Sự phát triển mạnh mẽ của nông nghiệp và kinh tế nông thôn do công nghiệp hoá, hiện đại hoá tạo ra đảm bảo đời sống vật chất và tinh thần cho gần 80% dân số sinh sống tại nông thôn, do đó là điều kiện căn bản để tạo nên sự ổn định chính trị - xã hội của đất nước. Một chân lý rút ra từ thực tiễn: dân có giàu thì nước mới mạnh, 73% dân số sống ở nông thôn (năm 2005) mà chủ yếu là nông dân, nếu nông dân không giàu thì đất nước làm sao giàu mạnh được? Do vậy, phải làm cho nông dân giàu lên, tăng sức mua ở nông thôn chính là tạo ra thị trường thúc đẩy công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Đó cũng là bài học rút ra từ kinh nghiệm công nghiệp hoá ở các nước đi trước như Bắc Mỹ, Tây Âu, Singapo, Hàn Quốc. Nông thôn phát triển, đời sống nông dân no đủ, họ sẽ tin tưởng vào cuộc sống, vào chế độ xã hội. Do đó mà yên tâm làm giàu, xây dựng nông thôn giàu đẹp, ổn định. Sự ổn định của nông thôn sẽ có tác động rất lớn đến sự ổn định của cả nước. Hiện nay, Việt Nam vẫn là một nước nông nghiệp lạc hậu, lại trải qua nhiều năm bị chiến tranh tàn phá, do đó đang tồn tại sự chênh lệch khá xa về kinh tế và văn hoá giữa thành thị và nông thôn, giữa đồng bằng trung du và miền núi, do đó tiềm ẩn nguy cơ sự bất ổn định.
Hơn nữa, sự lạc hậu của nông nghiệp và nông thôn đã làm tăng thêm làn sóng di cư tự do từ nông thôn ra thành thị, tạo nên hiện tượng quá tải ở thành thị. Quá trình đô thị hoá ồ ạt đặt ra những thách thức về môi trường đối với thành phố, như vấn đề vệ sinh, ô nhiễm môi trường sống, nhu cầu nước sạch, giao thông vận tải, rác thải, trật tự trị an... Do vậy, tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước không thể không coi trọng đầu tư cho nông nghiệp và nông thôn, không thể không gắn công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp với công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông thôn để giảm dần sự cách biệt về trình độ phát triển giữa các vùng trong nước. Bài học rút ra từ các nước đi trước mà họ tiến hành công nghiệp hoá từ nông nghiệp cho thấy, nếu mức độ chênh lệch về thu nhập giữa thành thị và nông thôn càng thấp thì sức mua của xã hội càng tăng nhanh và ổn định, tốc độ tăng trưởng kinh tế càng cao, sự tụt hậu của nông nghiệp, nông thôn so với thành thị và công nghiệp càng giảm. Những nước để sự chênh lệch giàu nghèo tăng lên quá mức, nông thôn lạc hậu so với thành thị, thậm chí bần cùng hoá thì sức mua của nông thôn thấp, kéo theo nhiều vấn đề phức tạp như tỷ lệ đói nghèo cao, dân cư từ nông thôn ra thành thị ồ ạt, môi trường xuống cấp, thất nghiệp, lạm phát gia tăng và từ đó làm chậm quá trình công nghiệp hoá và tăng trưởng kinh tế nói chung.
Ngày nay, vai trò quan trọng của nông thôn đối với sự ổn định chính trị, xã hội đã được thừa nhận. Không riêng gì ở Việt Nam và các nước đang phát triển khác, mà ngay cả các nước công nghiệp phát triển và các nước mới công nghiệp hoá vẫn rất chú trọng đến khu vực nông nghiệp, nông thôn. Các học giả Đài Loan cho rằng: “Vấn đề nông nghiệp và nông thôn bao gồm các vấn đề chính trị, kinh tế, xã hội, văn hoá, giáo dục cho nên nó vô cùng quan trọng và phức tạp. Trong tương lai, tỷ trọng nông nghiệp trong nền kinh tế quốc dân sẽ ngày càng thu nhỏ, nhưng nó vẫn là lực lượng chủ yếu quyết định sự ổn định của nền kinh tế, xã hội và là yếu tố quan trọng để đảm bảo môi sinh, cân bằng sinh thái”[35].
Thứ năm, xuất phát từ yêu cầu đổi mới công nghệ của nông nghiệp và nông thôn
Nông nghiệp, nông thôn là khu vực kinh tế, xã hội có liên quan trực tiếp đến việc giải quyết những vấn đề cơ bản nhất của đời sống đại đa số dân cư. Nhưng nếu nông nghiệp và nông thôn lại nằm trong tình trạng phát triển thấp kém thì không thể đảm trách được vai trò quan trọng đó, trong khi chúng ta vẫn đang phải dựa vào nông nghiệp trong nhiều năm tới nữa. Điều đó nói nên rằng, vấn đề phát triển nông nghiệp và kinh tế nông thôn vẫn sẽ là mối quan tâm hàng đầu của Đảng và Nhà nước.
Nền nông nghiệp lạc hậu thì năng suất, sản lượng thấp, không đủ sức đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng về nông sản, thực phẩm của xã hội, thậm chí cho chính bản thân nông thôn. Điều đó đòi hỏi nông nghiệp phải trở thành một nền nông nghiệp phát triển toàn diện, hiện đại và nông thôn trở thành một nông thôn giàu có, văn minh. Nhưng bản thân nông nghiệp và nông thôn lại không thể tự mình tạo ra quá trình đó, không thể đổi mới cơ sở vật chất - kỹ thuật và công nghệ để trở thành nền nông nghiệp hiện đại; cũng không thể có khả năng tạo ra sức tăng trưởng nhanh để tạo thêm nhiều việc làm cho người lao động... Những bất cập đó cho thấy, lĩnh vực nông nghiệp và nông thôn không thể thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá bản thân nó, mà đòi hỏi phải có sự tác động của công nghiệp và đô thị.
Thứ sáu, xuất phát từ tiềm năng, lợi thế của đất nước hiện nay
Việt Nam là một nước nông nghiệp. Tiềm năng và lợi thế của Việt Nam cũng là tiềm năng về phát triển nông nghiệp, bao gồm: tài nguyên đất, tài nguyên rừng, tài nguyên biển, tài nguyên mặt nước và yếu tố con người... Đây vừa là điều kiện, vừa là mục đích của công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn hiện nay. Việc tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn là nhằm khai thác triệt để và phát huy các tiềm năng này, nhưng mặt khác công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn hiện tại cũng chỉ có thể dựa chủ yếu vào những tiềm năng đó.
Nguồn tài nguyên phong phú của Việt Nam cho phép phát triển nền nông nghiệp đa dạng. Diện tích đất nông nghiệp nước ta chiếm 39,2% diện tích tự nhiên, trong đó đất có độ màu mỡ chiếm tỷ lệ tương đối cao (chủ yếu tập trung ở các tỉnh vùng đồng bằng sông Hồng, đồng bằng sông Cửu Long và một số tỉnh vùng Trung Bắc Bộ). Đây là điều kiện để phát triển các vùng sản xuất hàng hoá tập trung, hiện đại. Hiện tại quỹ đất chưa sử dụng còn nhiều, chiếm 11,38% diện tích tự nhiên, trong đó có khoảng 3 triệu ha đất có khả năng nông nghiệp (1 triệu ha có thể sử dụng ngay). Đây là nguồn lực quan trọng để tăng diện tích cây ăn quả, cây công nghiệp lâu năm, hoặc khoanh nuôi, trồng rừng mới theo hình thức kinh tế trang trại, nhằm tăng sản lượng và giá trị nông nghiệp. Tài nguyên rừng Việt Nam khá phong phú, trong đó diện tích rừng sản xuất chiếm đến 53%, được phân bố chủ yếu ở Tây Nguyên, các tỉnh miền núi Trung du Bắc Bộ, các tỉnh Bắc Trung Bộ và Duyên hải miền Trung. Rừng Việt Nam không chỉ cung cấp gỗ, tre, nứa... mà còn có nhiều động vật quý và khoáng sản. Đây là nguồn cung cấp hàng lâm sản xuất khẩu quan trọng cả trước mắt cũng như lâu dài. Ngoài ra, Việt Nam còn có hơn 3.200 km bờ biển với hệ thống sinh vật biển đa dạng và phong phú, với hơn 1.700 loài cá biển, cung cấp sản lượng bình quân 1 triệu tấn/năm. Sau cá là tôm, với sản lượng khai thác khoảng 5 vạn tấn/năm, cùng nhiều hải sản quý khác như mực, vẹm, sò, bào ngư, hải sâm, đồi mồi, trai ngọ... Có thể nói, nguồn lợi thuỷ sản của Việt Nam rất lớn và hiện đang là nguồn hàng xuất khẩu chủ lực của nước ta, với kim ngạch đạt 2,6 tỷ USD ( năm 2005).
Việt Nam còn có lực lượng lao động nông thôn khá dồi dào, với trình độ học vấn tương đối cao (96,26% người lớn biết chữ, 34,11% tốt nghiệp tiểu học, 31,31% tốt nghiệp trung học cơ sở, 11,82% tốt nghiệp trung học phổ thông- năm 2002). Đó là điều kiện quan trọng để người lao động tiếp thu và ứng dụng những thành tựu mới của khoa học-công nghệ thế giới, đẩy nhanh công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn. Đồng thời việc thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn, đẩy mạnh phát triển công nghiệp và dịch vụ ở nông thôn lại sẽ thu hút và sử dụng một cách có hiệu quả nhất đối với lực lượng lao động tiềm tàng này.
Như vậy, việc xác định lựa chọn chiến lược công nghiệp hoá, hiện đại hoá từ nông nghiệp và nông thôn ở Việt Nam là hoàn toàn phù hợp với điều kiện thực tiễn và cũng phù hợp với quy luật phát triển từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn hiện đại. Phải công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn thì mới vực dậy được cả khu vực nông thôn, và nhờ đó đẩy mạnh phát triển toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Việc Đảng ta đặt ra nhiệm vụ công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn lên hàng đầu trong những năm trước mắt là vừa hợp với quy luật, vừa hợp với yêu cầu của thực tiễn nền kinh tế. Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng đã từng nói: “Nếu muốn công nghiệp hoá gấp thì là chủ quan. Cho nên, trong kế hoạch phải tăng tiến nông nghiệp. Ta cho nông nghiệp là quan trọng, ưu tiên, rồi đến thủ công nghiệp, sau mới đến công nghiệp nặng”. Theo Người, đó là cách để “đi bước nào vững vàng, chắc chắn bước ấy”.[26]
1.1.2. Nội dung cơ bản của công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn
Sự thành công của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn ở nước ta phụ thuộc rất lớn vào việc xác định đúng đắn nội dung cụ thể cho từng thời kỳ cụ thể. Theo tinh thần của Hội nghị lần thứ năm Ban chấp hành Trung ương Đảng (khoá IX) thì công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn ở nước ta hiện nay đến năm 2010 cần giải quyết tốt những nội dung sau:
1.1.2.1. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn theo hướng hiện đại
Biến đổi cơ cấu kinh tế là một quá trình căn bản của sự phát triển kinh tế. Một sự thay đổi trong cơ cấu kinh tế có liên quan đến sự thay đổi vai trò của các khu vực nông nghiệp, công nghiệp và dịch vụ, của các ngành nông nghiệp, lâm nghiệp và thuỷ sản, của trồng trọt và chăn nuôi, của các loại cây và các loại con... trong một thời gian dài. Những thay đổi đó được đánh giá bằng sự thay đổi tương quan về tỷ trọng của các khu vực, các ngành, hay các bộ phận trong nội bộ ngành... Một xu hướng biến đổi cơ cấu kinh tế được coi là hợp lý, hiện đại khi tỷ trọng giá trị của các ngành phi nông nghiệp, nhất là dịch vụ trong tổng sản phẩm quốc dân ngày càng được tăng, tỷ trọng giá trị của nông, lâm nghiệp, thuỷ sản ngày càng giảm và trong nội bộ ngành nông nghiệp thì tỷ trọng giá trị lâm nghiệp và thuỷ sản ngày càng tăng, còn giá trị nông nghiệp thuần ngày càng giảm. Để tạo sự thay đổi tích cực trong cơ cấu kinh tế theo hướng đó, tiến trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn ở nước ta hiện nay phải thực hiện nội dung sau:
Thứ nhất, chuyển nền nông nghiệp độc canh sang nền nông nghiệp đa canh với việc hình thành các vùng sản xuất tập trung quy mô lớn
Tình trạng độc canh, thuần nông là đặc trưng của nền sản xuất nhỏ, tự cấp tự túc. Hậu quả của nó là không tạo được sức bật cho sự phát triển nông thôn. Vì vậy, việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp theo hướng tạo nên sự đa dạng trong sản xuất và sản phẩm, biến nền nông nghiệp chủ yếu chỉ sản xuất lúa gạo và hoa mầu thành nền nông nghiệp hàng hoá phong phú, đa dạng sẽ đáp ứng tốt hơn nhu cầu của xã hội.
Chuyển nền nông nghiệp độc canh sang nền nông nghiệp đa canh với các hệ sinh thái khác nhau, liên kết, bổ sung, hỗ trợ cho nhau sẽ tạo sự phát triển bền vững của nông nghiệp nước ta. Đây là một xu hướng cơ bản của công nghiệp hoá, hiện đại hoá trong nông nghiệp. Trước đây, trong cơ chế kế hoạch hoá tập trung, cơ cấu nông nghiệp ở nước ta được bố trí theo ý đồ chủ quan, đưa ra những mô hình cơ cấu cây trồng, vật nuôi thoát ly thực tế các mối quan hệ kinh tế, kỹ thuật, môi trường và thể chế... do đó ít mang lại hiệu quả. Quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn đòi hỏi phải phá bỏ cơ cấu lạc hậu đó, hướng vào phát triển nền nông nghiệp đa dạng về cây và con phù hợp với điều kiện thổ nhưỡng, khí hậu, thời tiết của đất nước cũng như của từng lãnh thổ, nhằm tạo giá trị thu nhập cao nhất trên mọi đơn vị diện tích.
Sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước đòi hỏi nông nghiệp phải thực hiện 3 nhiệm vụ lớn và trực tiếp là: bảo đảm an ninh lương thực quốc gia; đảm bảo tối đa nguồn nguyên liệu cho công nghiệp chế biến và tăng giá trị nông sản xuất khẩu. Để thực hiện các nhiệm vụ đó, nông nghiệp, nông thôn không thể là một nền nông nghiệp sản xuất nhỏ lạc hậu, mà phải là nền nông nghiệp phát triển toàn diện, hiện đại. Việc xây dựng cơ cấu kinh tế hợp lý cho nông nghiệp và nông thôn sẽ cho phép sự lựa chọn những công nghệ thích hợp để phát huy thế mạnh của nông nghiệp, nông thôn, do đó sẽ khai thác tốt nhất các nguồn lực hiện có ở nông thôn, tạo nên một sức bật mới trong nông thôn.
Nhu cầu tiêu dùng của xã hội ngày càng cao và đa dạng thì sản xuất nông nghiệp cũng không thể tập trung sản xuất lương thực, mà còn phải đẩy mạnh sản xuất các loại cây trồng, vật nuôi đa dạng khác để đáp ứng nhu cầu đó. Đồng thời với đa dạng hoá sản xuất nông nghiệp, nông thôn còn hướng tới xây dựng và phát triển những vùng sản xuất hàng hoá tập trung quy mô lớn để áp dụng có hiệu quả những thành tựu mới của khoa học – công nghệ, nâng cao năng suất và chất lượng sản phẩm, khả năng cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường trong nước và quốc tế. Xây dựng vùng hàng hoá lớn sẽ tạo được khối lượng lớn về nông sản với chất lượng tốt, đáp ứng yêu cầu của công nghiệp chế biến, tăng nhanh kim ngạch xuất khẩu, từ đó nâng cao đời sống nông dân, tăng cường sức mua, mở rộng thị trường hàng hoá công nghệ phẩm. Điều đó đến lượt nó lại trở thành động lực của sự phát triển công nghiệp.
Thứ hai, chuyển nền nông nghiệp và kinh tế nông thôn từ trạng thái khép kín sang nền nông nghiệp đa hàng hoá, hướng mạnh vào xuất khẩu, mở rộng phân công và hợp tác lao động
Phát triển kinh tế nông thôn theo hướng sản xuất hàng hoá, mở rộng phân công và hợp tác lao động là xu thế tất yếu, phù hợp với xu thế phát triển chung của các nước đang phát triển, mà Việt Nam cũng không nằm ngoài những vấn đề mang tính quy luật đó. Chỉ trên cơ sở sản xuất hàng hoá phát triển mới kích thích và thúc đẩy sự phát triển mạnh mẽ của lực lượng sản xuất, áp dụng tiến bộ khoa học-công nghệ, tạo sự phát triển kinh tế nói chung và nông nghiệp, nông thôn nói riêng. Kinh tế hàng hoá phát triển cũng sẽ thúc đẩy quá trình xã hội hoá sản xuất, đẩy mạnh phân công và hợp tác, mở rộng thị trường, tạo sự tích tụ và tập trung sản xuất nhanh chóng, từng bước chuyển nền sản xuất nhỏ, lạc hậu lên nền sản xuất lớn, hiện đại.
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn theo hướng sản xuất hàng hoá là phải giảm dần tỷ trọng giá trị những cây, con cho năng suất và giá trị hàng hoá thấp, tăng dần tỷ trọng diện tích và tỷ trọng giá trị các loại cây và con có giá trị thương phẩm cao và có thị trường tiêu thụ lớn. Trước mắt, phải giảm giá trị trồng trọt, tăng tỷ trọng giá trị chăn nuôi; trong trồng trọt thì giảm tỷ trọng giá trị cây lương thực, tăng tỷ trọng giá trị cây thực phẩm, cây ăn quả, cây lâm nghiệp và cây công nghiệp, đặc biệt phải mở rộng diện tích các loại cây đặc sản cho giá trị xuất khẩu cao, giảm tỷ trọng giá trị sản phẩm thô, tăng tỷ trọng giá trị sản phẩm chế biến... trong tổng giá trị sản xuất nông nghiệp. Đó là cách để khai thác tốt hơn tiềm năng các vùng đất khác nhau: trung du, miền núi, diện tích ao hồ, sông, biển... đồng thời đa dạng hoá sự kết hợp giữa nông, lâm, ngư nghiệp để tận dụng hiệu quả đất đai, khí hậu, đất lao động và vốn của nông dân ở nông thôn; làm cho đất đai, sông nước, đồi núi đều được khai thác hợp lý nhất, tạo giá trị cao nhất trên một đơn vị diện tích.
Thứ ba, chuyển kinh tế nông thôn thuần nông sang phát triển kinh tế nông thôn tổng hợp nông - công nghiệp - dịch vụ và chuyển dịch lao động nông nghiệp sang lĩnh vực phi nông nghiệp
Một điều dễ thấy là sản xuất nông nghiệp phụ thuộc rất lớn vào điều kiện tự nhiên nên năng suất lao động và hiệu quả thường rất bấp bênh. Việc kết hợp phát triển nông nghiệp với công nghiệp (đặc biệt là công nghiệp chế biến), tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ có ý nghĩa to lớn trong việc làm tăng hiệu quả kinh tế nông thôn, tạo việc làm cho người lao động, nâng cao mức thu nhập và đời sống nông dân. Vì vậy, công nghiệp hoá, hiện đại hoá phải tác động tích cực vào nông nghiệp, nông thôn theo hướng phát triển kinh tế nông thôn tổng hợp, bao gồm cả nông nghiệp, công nghiệp và thương mại, du lịch, dịch vụ, trong đó giảm tỷ trọng giá trị nông nghiệp, tăng tỷ trọng giá trị các ngành sản xuất phi nông nghiệp. Từ đó, một bộ phận lao động sẽ được đưa sang lĩnh vực công nghiệp và dịch vụ. Xu hướng đó sẽ làm cho nông thôn thuần nông trở thành một nông thôn với kết cấu kinh tế đa dạng, phong phú và năng động, người nông dân sẽ dần trở thành công nhân, nhờ đó sẽ thoát dần khỏi sự phụ thuộc hoàn toàn vào tự nhiên, tạo sự phát triển bền vững của nông nghiệp, nông thôn. Như vậy, sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn, sự đổi mới bộ mặt xã hội nông thôn không chỉ là nội dung của công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn, mà còn là thước đo hiệu quả của quá trình đó.
Thứ tư, chuyển dịch cơ cấu thành phần kinh tế theo hướng phát huy cao độ các nguồn lực từng vùng nông thôn
Quá trình thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn tất yếu dẫn đến quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng từng bước hình thành cơ cấu công nghiệp - nông nghiệp - dịch vụ hiện đại, kết hợp nhiều thành phần kinh tế trên cơ sở đa dạng hoá các hình thức sử hữu ở nông thôn. Sự phát triển ba ngành cơ bản trên trong một cơ cấu hữu cơ nhiều thành phần kinh tế với các tỷ trọng hợp lý cùng với việc áp dụng những quy trình công nghệ hiện đại sẽ đưa khu vực nông thôn phát triển với tốc độ nhanh và hiệu quả.
Để phát huy các nguồn lực ở nông thôn, trước hết phải tập trung xây dựng, phát triển hợp tác xã và đa dạng các hình thức kinh tế hợp tác hoạt động trên cơ sở tự nguyện, dân chủ, bình đẳng và công khai; tự chủ, tự chịu trách nhiệm và cùng có lợi; hợp tác và phát triển cộng đồng. Trên cơ sở chuyển đổi hợp tác xã kiểu cũ thành hợp tác xã kiểu mới hoặc thành lập mới các hợp tác xã theo luật để đẩy mạnh các hoạt động dịch vụ cho sản xuất của kinh tế hộ như: dịch vụ kỹ thuật (bảo vệ thực vật, nhân giống và cung cấp giống, dịch vụ điện nước, dịch vụ làm đất), dịch vụ tài chính, dịch vụ thương mại, tiêu thụ sản phẩm... Kết hợp hài hoà các hình thức sở hữu, phương thức quản lý, mô hình tổ chức kinh tế và quan hệ phân phối trong sản xuất, kinh doanh của các hợp tác xã sẽ tạo cơ hội cho việc làm và tăng thu nhập cho nông dân.
Kinh tế hộ nông dân đang là lực lượng tạo ra hầu hết các nông sản chủ yếu cho tiêu dùng trong nước và xuất khẩu. Đặc điểm của các vùng nông thôn là sản xuất nhỏ, phân tán nên việc xác định hộ nông dân, hộ dân cư nông thôn (kinh tế cá thể, tiểu chủ) là đơn vị kinh tế cơ sở tự chủ có tác động rất lớn đến việc khai thác triệt để các nguồn lực phân tán ở nông thôn. Xu hướng phát triển kinh tế hộ nông dân ở nông thôn nước ta là phải ngày càng đa dạng, phong phú trong nhiều ngành nghề, nhiều lĩnh vực, với nhiều trình độ. Tuy nhiên, do tư duy của nền kinh tế hộ là tư duy sản xuất nhỏ nên hiệu quả kinh doanh thấp, do đó cần có sự hướng dẫn, giúp đỡ và hỗ trợ các hộ nông dân phát triển thành kinh tế trang trại, hoặc tự nguyện liên kết lại với nhau để có đủ sức mạnh vươn lên trong cơ chế thị trường.
Sự phát triển của kinh tế thị trường đòi hỏi kinh tế tư nhân, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài phải được tạo điều kiện để ngày càng phát triển. Đây là những thành phần kinh tế có điều kiện về vốn, về công nghệ, lại rất năng động, do đó sự phát triển của nó sẽ thu hút được các nguồn vốn lớn hơn, tạo sự phát triển mạnh mẽ hơn cho khu vực kinh tế nông thôn.
1.1.2.2. Thực hiện cơ giới hoá, điện khí hoá, thuỷ lợi hoá và sinh học hoá trong nông nghiệp
Một trong những mục tiêu lớn của công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn là cải tạo nền nông nghiệp thủ công, lạc hậu, năng suất thấp, tự cấp, tự túc thành nền nông nghiệp cơ khí hiện đại, năng suất cao, tạo khối lượng nông sản hàng hoá lớn, xây dựng nông thôn mới văn minh, hiện đại. Để đạt được điều đó, nền nông nghiệp và kinh tế nông thôn phải được thực hiện cơ giới hoá, điện khí hoá, thuỷ lợi hoá và sinh học hoá.
- Cơ giới hoá
Khi nói về vai trò của công cụ lao động, C.Mác đã viết: “Những thời đại kinh tế khác nhau không phải ở chỗ chúng sản xuất ra cái gì, mà là ở chỗ chúng sản xuất bằng cách nào, với những công cụ nào”[12] . Trong hoạt động nông nghiệp, việc sử dụng các nông cụ cơ giới ngày càng hiện đại cũng là điều kiện trực tiếp để tăng năng suất lao động và do đó tăng thặng dư nông nghiệp. Lịch sử phát triển nông nghiệp thế giới và các nước trong khu vực đã cho thấy, muốn có một nền nông nghiệp bền vững, năng suất lao ._.hành quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.[22]
Quán triệt quan điểm trên, qua nghiên cứu vai trò của các chủ thể tham gia phát triển sản xuất nông nghiệp và kinh tế nông thôn ở tỉnh Bắc Ninh, giải pháp để phát triển kinh tế nhiều thành phần trong giai đoạn tới như sau:
Đối với khu vực kinh tế tập thể
Kinh tế tập thể phát triển bền vững và có hiệu quả sẽ có tác dụng củng cố vai trò nền tảng của kinh tế công hữu và góp phần làm cho nền tảng này ngày càng vững chắc. Vì lẽ đó, cần có cơ chế, chính sách khuyến khích và thúc đẩy sự phát triển bền vững của kinh tế tập thể với thực thể cấu thành chủ yếu là các hợp tác xã cổ phần, có sự tham gia của cả pháp nhân và thể nhân (người góp vốn và người góp sức lao động) dựa trên sở hữu của các thành viên và sở hữu tập thể (vốn không chia), không giới hạn ngành nghề, địa bàn và lĩnh vực, chủ yếu là quy mô nhỏ và vừa, liên kết rộng rãi với nhiều hình thức sở hữu khác trên nguyên tắc tự nguyện, cùng có lợi và quản lý dân chủ, thực hiện phân phối theo lao động, theo vốn góp và theo mức độ tham gia hoạt động dịch vụ, tự chủ, tự chịu trách nhiệm. Đây là những đặc trưng hoàn toàn mới mà các hợp tác xã kiểu cũ không thể dung nạp được. Phải coi trọng thực chất và hiệu quả kinh tế, lấy việc thu hút nhiều lao động, xoá đói, giảm nghèo và từng bước làm giàu cho xã viên và người lao động, coi trọng lợi ích cá nhân và tôn trọng lợi ích tập thể, lợi ích nhà nước làm mục đích hoạt động của các hợp tác xã kiểu mới. Tôn trọng, tạo điều kiện cho hộ gia đình, cá thể, tiểu chủ (kể cả chủ trang trại) phát huy tối đa tính độc lập, tự chủ, tự chịu trách nhiệm, năng động sáng tạo trong cơ chế thị trường và hợp tác xã chỉ đảm nhận những công việc mà từng chủ thể riêng lẻ không làm được hoặc làm không có hiệu quả. Xét về mặt bản chất, các hợp tác xã chính là những doanh nghiệp tập thể hoạt động trong kinh tế thị trường, cho nên cần tháo gỡ chức năng xã hội mà hiện nay hợp tác xã phải đảm nhiệm, trả lại cho chính quyền và các tổ chức chính trị xã hội tại địa phương. Có như vậy mới tạo điều kiện cho các hợp tác xã tập trung mọi nguồn lực cho nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh trên cơ sở đổi mới công nghệ và quản lý. Vì vậy, trước mắt cần tập trung nâng cao hiệu quả hoạt động của các hợp tác xã với những giải pháp chủ yếu sau:
Củng cố và phát triển mạnh các hợp tác xã dịch vụ nông nghiệp cho kinh tế hộ, từ đó tạo mối quan hệ gắn bó giữa hợp tác xã nông nghiệp với hộ nông dân và các thành phần kinh tế khác. Củng cố và phát triển nhiều mô hình hợp tác xã như hợp tác xã dịch vụ nông nghiệp, hợp tác xã đa chức năng, hợp tác xã kinh doanh tổng hợp, hợp tác xã chuyên ngành .
Hoàn thiện cơ chế quản lý, nội dung và phương thức hoạt động của các hợp tác xã. Cần tập trung đổi mới phương thức huy động vốn, đa dạng hình thức sở hữu, hoàn thiện quan hệ phân phối thu nhập trong hợp tác xã.
Đào tạo và đào tạo lại cán bộ hợp tác xã nông nghiệp, thương mại, dịch vụ theo chương trình phù hợp với yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn.
Cung cấp kịp thời và đầy đủ thông tin thị trường trong nước và quốc tế, quy hoạch vùng, sản phẩm của từng ngành và địa phương để các hợp tác xã chủ động xây dựng kế hoạch sản xuất kinh doanh phù hợp.
Khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi để các hợp tác xã nông nghiệp, thương mại, dịch vụ phát triển các hoạt động dịch vụ đầu vào cũng như đầu ra đối với kinh tế hộ, doanh nghiệp phù hợp với quy hoạch của tỉnh. Cần tạo điều kiện thuận lợi để các hợp tác xã tiếp cận với các nguồn vốn nhằm mở rộng quy mô và phương thức hoạt động. Hình thành và phát triển chuỗi hợp tác xã để tạo nên mối liên kết bền vững.
Đối với kinh tế hộ nông dân
Đảm bảo quyền tự chủ của kinh tế hộ, nhưng phương thức tổ chức sản xuất cần được đổi mới phù hợp với yêu cầu sản xuất hàng hoá với quy mô lớn, khắc phục tình trạng phân tán, nhỏ lẻ, tự cung, tự cấp, manh mún. Trước hết tiếp tục thực hiện chủ trương “dồn điền, đổi thửa” với sự chỉ đạo thống nhất giữa các cấp, các ngành.
Hỗ trợ nông dân giải quyết khó khăn về vốn, kỹ thuật và kiến thức hoạt động kinh tế. Khuyến khích các hộ liên kết với nhau và liên kết với các chủ thể kinh tế khác dưới những hình thức thích hợp để hỗ trợ nhau trong sản xuất và tiêu thụ sản phẩm.
Đối với kinh tế trang trại
Xây dựng cơ chế, chính sách tiếp tục đẩy mạnh kinh tế trang trại, nâng cao năng lực sản xuất hiện tại để sản xuất ra sản phẩm hàng hoá có chất lượng cao. Tạo điều kiện tích tụ đất đai, vốn ban đầu, phương hướng sản xuất để phát triển thêm nhiều trang trại về nuôi trồng thuỷ sản, chăn nuôi lợn, gia cầm.
Có chính sách ưu đãi, đào tạo các chủ trang trại để có thêm kiến thức, trình độ quản lý, marketing, tiếp thu các tiến bộ khoa học- kỹ thuật, ứng dụng vào sản xuất. Được vay vốn của quỹ phát triển sản xuất, vay vốn trung và dài hạn để nâng cao trang thiết bị sản xuất, kinh doanh.
Có chính sách hỗ trợ vốn ưu đãi đối với các trang trại giống như chính sách của Nhà nước đối với các doanh nghiệp nhỏ trong nông nghiệp. Tạo cơ hội cho họ tiếp cận với những cơ sở chế biến, tiêu thụ sản phẩm lớn, tham gia dự Hội chợ ngành nông nghiệp.
Phát triển mạnh mẽ doanh nghiệp trong nông thôn
Để góp phần giải quyết vấn đề nông nghiệp, nông dân và nông thôn trong giai đoạn hiện nay không thể không phát triển các loại hình doanh nghiệp trên địa bàn nông thôn. Thực tiễn ở Bắc Ninh cho thấy cần phát triển đồng bộ các doanh nghiệp kinh doanh trong khu vực nông, lâm, ngư nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, mà chủ yếu là phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ (SMEs). Đây là những doanh nghiệp có vai trò rất quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hội, tạo nhiều công ăn việc làm cho người lao động. Sản phẩm của các doanh nghiệp là cây trồng, vật nuôi, sản phẩm và vật dụng tiêu dùng phục vụ cho đời sống dân sinh nông thôn.
Cần thống nhất nhận thức về khu vực kinh tế tư nhân. Tạo điều thuận lợi cho việc thành lập doanh nghiệp, nới lỏng quy định về điều kiện kinh doanh, mở rộng quyền tự chủ kinh doanh của doanh nghiệp, tránh những can thiệp không đáng có của các cấp lãnh đạo vào công việc của doanh nghiệp.
Tạo môi trường kinh doanh bình đẳng, thông thoáng hơn nữa cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ nói riêng và khu vực kinh tế tư nhân nói chung phải được coi là nhiệm vụ lâu dài và then chốt để đẩy nhanh tốc độ công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Tăng cường hoạt động cung cấp thông tin, hỗ trợ xúc tiến thương mại, phát triển các loại hình sản xuất kinh doanh trong các doanh nghiệp. Tạo mọi điều kiện thuận lợi để các doanh nghiệp vừa và nhỏ tiếp cận các thị trường đầu ra lẫn đầu vào.
Xây dựng cơ chế chính sách khuyến khích phát triển mạnh các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong sản xuất, bảo quản, chế biến và tiêu thụ sản phẩm hàng hoá để các doanh nghiệp thực hiện tốt quan hệ với các hộ gia đình, trang trại, hợp tác xã thông qua các hợp đồng dịch vụ kỹ thuật ứng trước vốn cho sản xuất nguyên liệu và thu mua sản phẩm nông nghiệp đưa vào chế biến bằng các thiết bị máy móc, dây truyền công nghệ tiên tiến.
Có chính sách giải quyết mặt bằng sản xuất, vốn và đào tạo chủ doanh nghiệp để khuyến khích các loại hình doanh nghiệp (công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn, doanh nghiệp tư nhân - đó là những tổ chức sản xuất, kinh doanh hàng hoá có đăng ký hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn). Có chính sách khuyến khích các doanh nghiệp liên kết với nông dân để ổn định và phát triển nguyên liệu, tiêu thụ sản phẩm hàng hoá cho nông dân.
Đối với khu vực kinh tế nhà nước
Trên cơ sở đổi mới, nâng cao sức cạnh tranh và hiệu quả để thực hiện tốt vai trò chủ đạo trong nền kinh tế và góp phần quyết định đảm bảo định hướng xã hội chủ nghĩa. Cần tiếp tục sắp xếp và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước (bao gồm doanh nghiệp nhà nước nắm 100% vốn và cổ phần chi phối). Hệ thống doanh nghiệp nhà nước trong nông nghiệp bao gồm các trạm sản xuất giống, cây, con, các công ty khai thác công trình thuỷ nông. Không ngừng nâng cao hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp nhà nước sau cổ phần hoá
Chuyển các doanh nghiệp nhà nước hoạt động kinh doanh sang thực sự kinh doanh theo kinh tế thị trường, tự chủ, tự chịu trách nhiệm, cạnh tranh và hợp tác với các thành phần kinh tế khác. Cần có sự thay đổi căn bản cơ chế hoạt động của các doang nghiệp nhà nước hoạt động công ích để đảm bảo vừa phục vụ thiết thực và có hiệu quả quá trình phát triển nông nghiệp, nông thôn vừa quan tâm đến hiệu quả hoạt động.
Đối với khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài
Sau 20 năm đổi mới, từ sự hiện hữu trên thực tế và những đóng góp quan trọng của mình vào thành quả phát triển đất nước, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài đã trở thành một bộ phận nội tại, hữu cơ không thể thiếu được của nền kinh tế nhiều thành phần, hoạt động theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Thu hút vốn đầu tư trực tiếp của nước ngoài là cuộc cạnh tranh quyết liệt. Kinh nghiệm cho thấy nơi nào có môi trường đầu tư hấp dẫn, cùng với ổn định tình hình xã hội là những lợi thế trong việc thu hút đầu tư nước ngoài. Vấn đề đặt ra là phải có chiến lược, thể chế và chính sách rõ ràng, nhất quán để khai thác, phát huy tối ưu những lợi thế này cho quá trình phát triển rút ngắn hơn.
Đa dạng hoá các hình thức đầu tư, khuyến khích hơn nữa và tạo mọi điều kiện để thu hút đầu tư nước ngoài vào nông nghiệp, nông thôn, nhất là đối với các dự án chuyển giao tiến bộ khoa học-công nghệ, đầu tư cơ sở chế biến sản phẩm nông nghiệp, hoặc các dự án mà địa phương không thể thực hiện đươc.
Tạo môi trường sản xuất kinh doanh thông thoáng, thống nhất các quy định về ưu đãi đầu tư và chi phí đầu tư giữa đầu tư trong tỉnh và ngoài tỉnh (trong đó có đầu tư nước ngoài), tạo môi trường thuận lợi cho hình thức hợp tác liên doanh giữa các doanh nghiệp trong tỉnh và doanh nghiệp nước ngoài, thông qua đó để doanh nghiệp trong tỉnh học hỏi kinh nghiệm quản lý, phương thức kinh doanh hiệu quả và cạnh tranh. Đây là giải pháp rất có ý nghĩa đối với mục tiêu chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn, nhất là khi Việt Nam là thành viên WTO.
3.4.7.2. Phát triển các quan hệ liên kết giữa các thành phần kinh tế trong nông nghiệp, nông thôn Bắc Ninh
Quá trình phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần tương thích với những biến đổi nhanh chóng của thị trường, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn Bắc Ninh là quá trình mang tính tổng hợp có sự tham gia của nhiều thành phần kinh tế, các tổ chức sản xuất kinh doanh. Vì vậy việc liên kết giữa các bên tham gia là một vấn đề hết sức bức thiết. Sự liên kết có thể theo các hướng sau:
Liên kết giữa các chủ thể nông nghiệp sản xuất nguyên liệu với các doanh nghiệp chế biến nông sản; liên kết giữa các chủ thể nông nghiệp với các chủ thể thương mại và công nghiệp chế biến; liên kết giữa chủ thể nông nghiệp với các cơ quan nghiên cứu khoa học, công nghệ và chuyển giao khoa học, công nghệ; liên kết theo hình thức đa tuyến đó là mối liên kết giữa “bốn nhà”: nhà nông, nhà doanh nghiệp, nhà khoa học và nhà nước.
Sự liên kết hiệu quả giữa các chủ thể kinh tế là một trong những vấn đề quan trọng trong việc phát triển kinh tế thị trường và công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn. Dù dưới hình thức nào, các quan hệ liên kết chỉ phát huy tác dụng và bền vững khi và chỉ khi đảm bảo lợi ích hài hoà giữa các chủ thể tham gia và xu hướng vận động của nền kinh tế.
3.4.8. Xây dựng cơ chế, chính sách phát triển nông nghiệp, nông thôn
Trên cơ sở chính sách hiện hành của nhà nước, căn cứ vào điều kiện cụ thể của tỉnh Bắc Ninh, cần xây dựng chính sách phù hợp với tình hình, đặc điểm của địa phương theo hướng tạo điều kiện thuận lợi nhất cho nông dân, nông nghiệp và nông thôn. Trước hết luận án đề cập giải pháp về một số chính sách chủ yếu sau:
3.4.8.1. Chính sách về ruộng đất
Tiến hành quy hoạch sử dụng đất, giao quyền sử dụng đất lâu dài cho nông dân; quản lý chặt chẽ, bảo vệ đất canh tác nhất là đất trồng lúa. Việc chuyển mục đích sử dụng đất nông nghiệp sang đất công nghiệp, dịch vụ, xây dựng hạ tầng, đô thị, khu dãn dân phải được cân nhắc kỹ lưỡng. Việc chuyển các ruộng úng, trũng sang nuôi trồng thuỷ sản phải làm theo quy hoạch.
Cần có chính sách khuyến khích, hỗ trợ các hộ nông dân thực hiện quyền chuyển đổi ruộng đất, thực hiện “dồn điền, đổi thửa” để tăng quy mô thửa đất canh tác.
Sửa đổi, bổ sung chính sách đền bù và ổn định cuộc sống, tạo việc làm, nhà ở tái định cư cho các hộ nông dân ở những nơi chuyển đổi đất nông nghiệp sang xây dựng các khu công nghiệp, giao thông và đô thị hoá.
3.4.8.2. Chính sách về tài chính
- Tiếp tục thực hiện Quyết định số 132/2001/QĐ-TTg ngày 7/9/2001 của Thủ tướng Chính phủ về cơ chế tài chính thực hiện chương trình phát triển đường giao thông nông thôn, kết cấu hạ tầng nuôi trồng thuỷ sản, kết cấu hạ tầng làng nghề nông thôn.
- Ưu tiên cho vay vốn phát triển trang trại.
- Miễn, giảm thuế một vài năm đầu cho các cơ sở chế biến và tiêu thụ sản phẩm nông sản, thực phẩm.
- Điều chỉnh lãi suất tiền vay, thời gian vay cho từng loại cây trồng, vật nuôi phù hợp với thực tế.
-Xây dựng cơ chế bảo hiểm nông sản (nhất là đối với lương thực) để chủ động bù đắp thiệt hại khi thiên tai hoặc khi giá cả biến động bất lợi.
-Trong cơ cấu đầu tư, cần tăng tỷ lệ vốn từ ngân sách nhà nước cho khu vực nông nghiệp, nông thôn. Đầu tư nhiều hơn cho chương trình khuyến nông, khuyến công trong nông nghiệp, nông thôn.
3.4.8.3. Chính sách hỗ trợ mới đối với nông nghiệp, nông thôn Bắc Ninh khi Việt Nam gia nhập WTO
Sửa đổi, điều chỉnh, loại bỏ các trợ cấp không phù hợp, chuyển sang các hình thức trợ cấp mà WTO cho phép áp dụng (như hỗ trợ tiếp thị, thông tin, tư vấn thị trường, ưu đãi cước phí vận tải...). Xây dựng chương trình thu mua nông sản, tăng cường hỗ trợ nông nghiệp thông qua nghiên cứu khoa học-kỹ thuật, đào tạo, khuyến nông. Xây dựng kết cấu hạ tầng nông nghiệp, chương trình giống cây trồng, giống vật nuôi, chương trình công nghệ sinh học, hỗ trợ giảm nhẹ thiên tai. Xây dựng chính sách phát triển ngành hàng, nhất là những ngành hàng có lợi thế cạnh tranh nhằm nâng cao năng suất và chất lượng sản phẩm, giữ vững thị trường, việc làm và thu nhập cho nông dân; đồng thời hỗ trợ nông dân ổn định cuộc sống khi thị trường có biến động xấu.
3.4.8.4. Chính sách nâng cao dân trí và đào tạo nguồn nhân lực
-Dự kiến trong nông thôn Bắc Ninh đến năm 2010 có khoảng gần 600 nghìn người trong độ tuổi lao động, nhu cầu lao động thực sự cho nông nghiệp chỉ sử dụng khoảng 60-70%. Vì vậy cần phải có chương trình, kế hoạch cụ thể để giải quyết vấn đề trên.
-Dành nguồn kinh phí thoả đáng cho công tác đào tạo nghề, dạy nghề đối với nông dân, bao gồm đào tạo nghề mới, đào tạo lại, bồi dưỡng ngắn hạn. Chuyển giao tiến bộ kỹ thuật cho nông dân
-Nâng cấp hệ thống trường dạy nghề trong tỉnh, khuyến khích mở trường dạy nghề tư nhân, đào tạo nghề dưới nhiều hình thức, phát triển nghề, làng nghề mới.
3.4.8.5. Củng cố và hoàn thiện hợp tác xã nông nghiệp
- Xây dựng phương án sản xuất kinh doanh có hiệu quả và xây dựng chương trình đào tạo cán bộ quản lý hợp tác xã.
-Đẩy mạnh sản xuất hàng hoá, đầu tư công nghiệp chế biến nông sản, mở rộng các dịch vụ chuyển giao tiến bộ kỹ thuật về cây trồng, vật nuôi, chế biến sản phẩm nông sản.
3.4.8.6. Chính sách khuyến khích đầu tư phát triển nông nghiệp công nghệ cao
Đầu tư xây dựng chương trình ứng dụng công nghê sinh học, nâng cao chất lượng giống cây trồng, vật nuôi, kể cả giống thủy sản. Khuyến khích các địa phương, các cơ sở sản xuất kinh doanh đầu tư áp dụng công nghệ cao để sản xuất nông sản thực phẩm, xây dựng khu nông nghiệp công nghệ cao.
3.4.8.7. Chính sách giảm nghèo
Thực hiện chính sách đầu tư vốn, cho vay vốn ưu đãi phát triển sản xuất đối với các hộ nghèo. Khai thác tốt các quỹ quốc gia về giải quyết việc làm, quỹ phục vụ người nghèo thông qua các dự án hướng dẫn, phổ biến kỹ thuật, khuyến khích sản xuất, kinh doanh, tạo việc làm cho người lao động, trước hết là các đối tượng diện chính sách. Tạo cơ hội và điều kiện cho người nghèo vươn lên thoát nghèo, được thụ hưởng các phúc lợi xã hội, từng bước nâng cao dân trí.
*
* *
Để thực hiện thắng lợi mục tiêu công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn tỉnh Bắc Ninh thời kỳ 2006-2015, đòi hỏi phải giải quyết đồn g bộ nhiều biện pháp về kinh tế, hành chính, kỹ thuật và tổ chức. Những giải pháp được nêu ra trong luận án này đều xuất phát từ sự phân tích thực tiễn quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn của tỉnh Bắc Ninh trong thời gian qua mà chủ yếu từ năm 1997 đến nay, đồng thời có vận dụng kinh nghiệm thành công của một số tỉnh, một số nước và vùng lãnh thổ khu vực Đông Á.
Mỗi giải pháp được tác giả nêu trên đều có vị trí quan trọng riêng, đồng thời chúng có mối quan hệ hữu cơ với nhau. Vì vậy, khi triển khai thực hiện cần phải được tiến hành đồng bộ.
Tuy nhiên, tuỳ theo tình hình đặc điểm của từng địa phương, của từng vùng có thể lựa chọn, ưu tiên những giải pháp cho phù hợp nhằm mang lại hiệu quả kinh tế - xã hội cao và bền vững. Có những giải pháp phải thực hiện trong một thời gian dài có thể từ 10 đến 20 năm sau, có những giải pháp phải đòi hỏi thực hiện khẩn trương như: giải pháp về rà soát, điều chỉnh, bổ sung quy hoạch; về đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực; về áp dụng tiến bộ khoa học- công nghệ; về khai thác triệt để lợi thế so sánh của tỉnh để phát triển.
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
Kết luận
Luận án đã luận giải những nội dung cơ bản của đề tài đặt ra và có những đóng góp chủ yếu sau đây:
1-Bằng cách tiếp cận hệ thống và lôgíc, luận án đã hệ thống một số vấn đề lý luận cơ bản về công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn. Với nội dung phong phú: chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn theo hướng hiện đại; thực hiện cơ khí hoá, điện khí hoá, thuỷ lợi hoá, sinh học hoá; phát triển công nghiệp nông thôn, làng nghề; phát triển nguồn nhân lực; xây dựng kết cấu hạ tầng nông thôn; ứng dụng tiến bộ khoa học và công nghệ. Đồng thời luận án nêu rõ kinh nghiệm của một số nước, vùng lãnh thổ, một số tỉnh trong nước về công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn và khả năng vận dụng vào tỉnh Bắc Ninh.
2- Tiếp cận vấn đề từ góc độ thực tiễn, luận án đã phân tích và nhận định rằng, quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn ở Bắc Ninh những năm qua đã thu được những thành tựu quan trọng, tình hình nông nghiệp, nông thôn có những biến đổi sâu sắc, tuy nhiên quá trình đó vẫn còn gặp không ít khó khăn, trở ngại và nhiều hạn chế, yếu kém.
3- Để tiếp tục đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn cần áp dụng một cách tích cực và đồng bộ nhiều giải pháp kinh tế, kỹ thuật, tổ chức, trong đó việc hoàn thiện môi trường, thể chế đào tạo và bồi dưỡng nguồn nhân lực, tăng cường kết cấu hạ tầng nông nghiệp, nông thôn, ứng dụng tiến bộ khoa học và công nghệ, trong các làng nghề, xây dựng nông thôn mới văn minh, hiện đại là những giải pháp rất quan trọng trong tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn tỉnh Bắc Ninh.
Kiến nghị
1- Tiếp tục rà soát, điều chỉnh, bổ sung quy hoạch kinh tế - xã hội, trước hết là quy hoạch và hình thành vùng sản xuất nông sản hàng hoá và xây dựng các khu nông nghiệp công nghệ cao, khu công nghiệp chế biến nông sản hàng hoá và phát triển ngành nghề gắn với quy hoạch vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ để phát huy lợi thế so sánh của tỉnh Bắc Ninh.
2- Tiếp tục củng cố, đổi mới hợp tác xã kiểu mới, phát triển kinh tế hộ, kinh tế trang trại. Theo đó, nhà nước cần nghiên cứu có một chiến lược lâu dài và đồng bộ trong việc tiêu thụ nông sản hàng hoá. Chỉ đạo tích cực hơn việc chuyển đổi ruộng đất để tạo điều kiện tích tụ đất đai, “dồn điền đổi thửa”, giao quyền sử dụng lâu dài. Sớm có chính sách đền bù, tạo việc làm và ổn định đời sống cho nông dân ở các vùng nhà nước thu hồi đất để xây dựng kết cấu hạ tầng phi nông nghiệp.
3- Trên cơ sở huy động vốn tự có trong nhân dân là chính, cần có chính sách ưu đãi, hỗ trợ vùng và thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn, trong đó ưu đãi vùng sản xuất hàng hoá và khu vực cần tác động để chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp.
4- Cần có các chính sách đầu tư: vốn, khoa học-công nghệ, cũng như chiến lược sử dụng các nguồn lực đất đai, vốn, lao động, cơ sở hạ tầng. Nhà nước cần đầu tư nguồn ngân sách để đào tạo nghề và giải quyết việc làm cho người lao động, đặc biệt trong khu vực nông thôn.
5- Hiện nay, Trung ương đã thành lập một cơ quan làm chức năng tổ chức, điều phối hoạt động vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ trong đó có tỉnh Bắc Ninh, làm chức năng phối hợp thực hiện quy hoạch, kế hoạch, đề xuất các cơ chế chính sách, các dự án lớn liên quan đến cả vùng. Đề nghị Ban điều phối phát triển vùng sớm triển khai, hướng dẫn và tổ chức thực hiện các chương trình, dự án đầu tư trọng điểm, điều phối hoạt động một cách thiết thực và có hiệu lực cao./.
DANH MỤC
NHỮNG BÀI BÁO, CÔNG TRÌNH CÔNG BỐ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN CỦA NGHIÊN CỨU SINH
1- Nguyễn Sỹ (1996), Tiềm năng Tiên Sơn và hướng đi đã chọn, Tạp chí
Cộng sản (17), tháng 9/1996, trang 43.
2- Nguyễn Sỹ (1997), Những giải pháp chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo
hướng CNH, HĐH ở huyện Tiên Sơn, tỉnh Bắc Ninh, Tạp chí Giáo
dục lý luận (2) năm 1997, trang 51.
3- Nguyễn Sỹ (1997), Một số giải pháp chủ yếu để phát triển kinh tế - xã hội
ở Bắc Ninh, Tạp chí Giáo dục lý luận (4) tháng 8/1997, trang 28.
4- Nguyễn Sỹ (2001), Làng nghề ở Bắc Ninh, Tạp chí Cộng sản (14)
tháng 7/2001, trang 46.
5- Nguyễn Sỹ (2001), Sự phát triển của làng nghề truyền thống ở tỉnh Bắc
Ninh trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH, Luận văn thạc sĩ kinh tế,
Trường Đại học Kinh tế Quốc dân Hà Nội, năm 2001.
6- Nguyễn Sỹ (2002), công trình tham gia nghiên cứu, Những biện pháp chủ
yếu thúc đẩy CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn vùng đồng bằng sông Hồng, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội-2002. Tác giả: GS.TS Nguyễn Đình Phan, PGS.TS Trần Minh Đạo, TS Nguyễn Văn Phúc.
7- Nguyễn Sỹ (2005), công trình tham gia nghiên cứu. Những giải pháp nhằm
phát triển làng nghề ở một số tỉnh đồng bằng sông Hồng, đề tài nghiên cứu cấp bộ, Trung tâm thông tin Khoa học và công nghệ Quốc gia, Chủ nhiệm đề tài GS-TS Nguyễn Trí Dĩnh.
8- Nguyễn Sỹ (2006), Bắc Ninh đẩy nhanh lộ trình CNH, HĐH nông nghiệp
nông thôn, Tạp chí Cộng sản (15) tháng 8/2006, trang 45.
9- Nguyễn Sỹ (2006), Những giải pháp đẩy nhanh CNH, HĐH nông nghiệp,
nông thôn trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh, chuyên đề (3), Viện chiến lược phát triển KT-XH Việt Nam và Đông Nam Á, NXB Thanh niên, năm 2006, trang 16.
DANH MỤC TÀI LIỆU KHAM KHẢO
1. A Dam Smith (1997), Của cải của các dân tộc, NXB Giáo dục, Hà Nội.
2. Ban Bí thư Trung ương Đảng khoá IV (1981), Chỉ thị 100-CT/TW.
3. Ban chấp hành Đảng bộ tỉnh Bắc Ninh (2005), Văn kiện Đại hội lần thứ 17, Văn phòng Tỉnh ủy Bắc Ninh.
4. Ban chấp hành Đảng bộ tỉnh Hà Tây (2005), Văn kiện Đại hội lần thứ 14, Văn phòng Tỉnh ủy Hà Tây.
5. Ban chấp hành Đảng bộ tỉnh Hải Dương (2005), Văn kiện Đại hội lần thứ 14, Văn phòng Tỉnh ủy Hải Dương.
6. Ban chấp hành Đảng bộ tỉnh Vĩnh Phúc (2005), Văn kiện Đại hội lần thứ 14, Văn phòng Tỉnh ủy Vĩnh Phúc.
7. Ban Kinh tế Trung ương (2005), Báo cáo 3 năm thực hiện nghị quyết 15-NQ/TW khoá IX về đẩy nhanh công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn thời kỳ 2001 – 2010.
8. Ban Tư tưởng Văn hoá Trung ương, Bộ Nông nghiệp và PTNT (2002). Con đường công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn Việt Nam. NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
9. Bộ Chính trị BCH TW Đảng (2005), Về phát triển kinh tế xã hội và đảm bảo an ninh quốc phòng vùng đồng bằng sông Hồng đến 2010 và định hướng đến 2020, Nghị quyết 54.
10. Bộ nông nghiệp và công nghiệp thực phẩm (1993), Chủ trương chính sách của Đảng, nhà nước về tiếp tục đổi mới và phát triển nông nghiệp, nông thôn, NXB Nông nghiệp, Hà Nội.
11. Bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn (2001), Một số vấn đề về công nghiệp hoá, hiện đại hoá trong phát triển nông nghiệp và kinh tế nông thôn thời kỳ 2001 – 2020, NXB Nông nghiệp, Hà Nội.
12. C.Mác (1975), Phê phán khoa học kinh tế chính trị, quyển 1, tập 3.
NXB sự thật, Hà Nội.
13. Nguyễn Sinh Cúc (2003), Nông nghiệp, nông thôn Việt Nam thời kỳ đổi mới. NXB Thống kê, Hà Nội.
14. Cục Thống kê Bắc Ninh (2005), Kết quả khảo sát mức sống hộ gia đình tỉnh Bắc Ninh, năm 2004, NXB Thống kê, Hà Nội.
15. Cục Thống kê Bắc Ninh (2003), Kết quả tổng điều tra nông nghiệp nông nghiệp và thuỷ sản năm 2001, Tỉnh Bắc Ninh.
16. Cục Thống kê Bắc Ninh, Niên giám thống kê 1997, 1998, 1999, 2001, 2002, 2003, 2004, 2005. NXB Thống kê.
17. Cục Thống kê Bắc Ninh (2005), Thực trạng doanh nghiệp Bắc Ninh, NXB Thống kê, Hà Nội.
18. Nguyễn Trí Dĩnh (1997), Lịch sử kinh tế quốc dân, NXB Giáo dục, Hà Nội.
19. Vũ Văn Dũng (2004), Cơ sở khoa học để xây dựng tiêu chí, bước đi cơ chế chính sách trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn, NXB Nông nghiệp, Hà Nội.
20. Đại học Kinh tế quốc dân (1998), Kinh tế Chính trị học tập 2, NXB Giáo dục, Hà Nội.
21. Đảng Cộng sản Việt Nam (2004), Các Nghị quyết của Trung ương Đảng (2001 – 2004), NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
22. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội Đại biểu Đảng toàn quốc lần thứ III, IV, V, VI, VII, VIII, IX, X và Văn kiện các Hội nghị BCH Trung ương.
23. Đỗ Đức Định (1999), Một số vấn đề về chiến lược công nghiệp hoá và lý thuyết phát triển. NXB Thế giới.
24. Nguyễn Đình Hương (2000), Thực trạng và giải pháp phát triển kinh tế trang trại trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Việt Nam, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
25. Hồ Chí Minh toàn tập (2000), NXB Chính trị Quốc gia, trang 180.
26. Hồ Chí Minh (1995), Biên niên tiểu sử, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
27. Naibitt J (1988), Tám xu hướng phát triển của Châu Á đang làm thay đổi thế giới. NXB Chính trị quốc gia.
28. Đỗ Hoài Nam (2004), Một số vấn đề công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn ở Việt Nam, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội.
29. Nguyễn Trọng Nghĩa (2004), Tác động của quá trình công nghiệp hoá đến sự phát triển kinh tế của Đài Loan trong thời kỳ (1949 – 2000) thực trạng và bài học kinh nghiệm đối với Việt Nam.
Luận án tiến sĩ, Đại học Kinh tế Quốc dân, Hà Nội.
30. Oshima H.T (1989), Tăng trưởng kinh tế ở Châu Á gió mùa (3 tập),
Viện Châu Á Thái Bình Dương.
31. Nguyễn Đình Phan (2002), Những biện pháp chủ yếu thúc đẩy công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp. nông thôn vùng đồng bằng sông Hồng, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
32. Perkins D.H, Dapice D.D, Haughton JH (chủ biên), (1994), Việt Nam cải cách kinh tế theo hướng rồng bay. NXB Chính trị quốc gia.
33. Prtersen J.L (2000), Con đường đi đến năm 2015. Hồ sơ của tương lai. NXB Chính trị quốc gia.
34. Riedel J (2005), Kinh tế vĩ mô của nền kinh tế mở. NXB Chính trị quốc gia.
35. Cao Huy Quân, Lý Thành (chủ biên) (1992), 40 năm kinh nghiệm Đài Loan, NXB Đà Nẵng.
36. Phạm Thị Quý (2002), Chuyển đổi mô hình kinh tế ở Việt Nam, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
37. Sở Công nghiệp Bắc Ninh (2005), Báo cáo kết quả hoạt động thực hiện Nghị quyết 02-NQ/TU về phát triển làng nghề, khu, cụm công nghiệp làng nghề.
38. Sở Nông nghiệp và phát triển nông thôn Bắc Ninh (2005), Báo cáo đưa tiến bộ khoa học kỹ thuật phục vụ sản xuất nông nghiệp.
39. Sở Tài nguyên - Môi trường Bắc Ninh (2005), Đề án quy hoạch môi trường Bắc Ninh thời kỳ 2006 – 2020, kế hoạch bảo vệ môi trường giai đoạn 2006 – 2010.
40. Đặng Kim Sơn (2001), Công nghiệp hoá từ nông nghiệp, lý luận thực tiễn và triển vọng áp dụng ở Việt Nam, NXB Nông nghiệp, Hà Nội.
41. Sta-lin (1965), toàn tập 12, NXB Sự thật, Hà Nội.
42. Lê Đình Thắng (2002), Định hướng chiến lược phát triển nông nghiệp, nông thôn nước ta thập niên đầu thế kỷ 21, Kỷ yếu hội thảo khoa học kinh tế các trường đại học.
43. Thủ tướng chính phủ (2004), Về phương hướng chủ yếu phát triển kinh tế - xã hội Vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ đến năm 2010 và tầm nhìn đến năm 2020. Quyết định số145/2004/QĐ TTg.
44. Tỉnh uỷ Bắc Ninh (2005), Các văn bản chỉ đạo của Tỉnh uỷ Bắc Ninh từ 2001 – 2005, Văn phòng Tỉnh uỷ tỉnh Bắc Ninh.
45. Tỉnh uỷ Bắc Ninh (2006), Nghị quyết của Ban chấp hành đảng bộ tỉnh về tiếp tục đẩy mạnh xây dựng và phát triển các khu công nghiệp, cụm công nghiệp gắn với phát triển đô thị theo hướng hiện đại hoá.
46. Tỉnh uỷ Bắc Ninh (2005), Văn kiện ĐH Đảng bộ tỉnh lần thứ 15, 16, 17. Văn phòng Tỉnh uỷ tỉnh Bắc Ninh
47. Tổng cục thống kê (2003), Kết quả tổng điều tra nông thôn, nông nghiệp và thuỷ sản, NXB Thống kê, Hà Nội.
48. Tổng cục thống kê (2001), Tình hình kinh tế xã hội Việt Nam 10 năm 1991 – 2000, NXB Thống kê, Hà Nội.
49. Nguyễn Thế Thảo (2005), Phát huy lợi thế so sánh đẩy mạnh phát triển kinh tế tỉnh Bắc Ninh. Luận án tiến sỹ kinh tế, Đại học Kinh tế Quốc dân , Hà Nội.
50. Trung tâm kinh tế châu Á Thái Bình Dương (VAPEC) (1998), Nông nghiệp Việt Nam bước vào thế kỷ XXI, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
51. Trung tâm thông tin khoa học và công nghệ quốc gia (2005), Những giải pháp nhằm phát triển làng nghề ở một số tỉnh đồng bằng sông Hồng, Báo cáo kết quả đề tài nghiên cứu khoa học và công nghệ, chủ nhiệm đề tài GS.TS Nguyễn Trí Dĩnh.
52. Nguyễn Kế Tuấn (2006), Công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn ở Việt Nam, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
53. Uỷ ban nhân dân tỉnh Bắc Ninh (2005), Kế hoạch phát triển kinh tế, xã hội 2006 – 2010 và định hướng đến năm 2020. Văn phòng Uỷ ban nhân dân tỉnh Bắc Ninh
54. V.I.Lê-Nin (1976), Sự phát triển của tư bản ở Nga, NXB Tiến bộ Matxcova năm 1976, trang 542 – 543.
55. Mai Thị Thanh Xuân (2004), Công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn ở Bắc Trung Bộ, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
TÀI LIỆU TIẾNG ANH
56. Robert F.Ash (1998), Agricultural Development in China 1949 – 1989. Oxford University Press.
57. Yiping Huang (1998), Agricultural Reform in China, Cambridge University Press.
58. K.A.Ingersent, A.J Raymer & R.C.Hine (1998), The Reform of the Common Agriculture Policy, McMillan Press Ltd.
59. Gerard E. D. Souuza & Tesfa G. Gebremedhin (1998), Sustainability in Agricultural and Rural Development, Ashgate.
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LA0247.doc