MỞ ĐẦU
1. Tính cấp bách của đề tài
Bước vào thời kỳ đổi mới, công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn là một trong những nhiệm vụ hàng đầu, giữ vị trí đặc biệt quan trọng trong toàn bộ tiến trình của công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Chính quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn không chỉ tạo đà cho sự phát triển kinh tế nông thôn, mà còn thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn, theo hướng phát triển sản xuất hàng hoá. Sự thành công
132 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1505 | Lượt tải: 2
Tóm tắt tài liệu Quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn tỉnh Bắc Ninh từ 1997 đến nay: thực trạng, kinh nghiệm và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
của quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước phụ thuộc vào công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn.
Bắc Ninh là tỉnh thuộc vùng đồng bằng Bắc Bộ, nằm trong châu thổ sông Hồng, liền kề với thủ đô Hà Nội. Bắc Ninh là một trong tám tỉnh trong vùng kinh tế trọng điểm Bắc bộ. Những năm đổi mới vừa qua, cùng với những chính sách của Đảng và Nhà nước về nông nghiệp và nông thôn, tỉnh Bắc Ninh đã có những chủ trương, chính sách và biện pháp tác động thúc đẩy công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp và nông thôn, mang lại những thành tựu quan trọng về kinh tế, chính trị, xã hội. Tuy nhiên, xét động thái công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp và nông thôn tỉnh Bắc Ninh vẫn bộc lộ không ít những hạn chế và bất cập về cơ chế chính sách và những giải pháp hữu hiệu cần phải được quan tâm giải quyết.
Để thực hiện thắng lợi đường lối và chiến lược phát triển kinh tế - xã hội do Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX đề ra về đẩy nhanh công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn, nhằm khai thác, phát huy tiềm năng, lợi thế của một tỉnh vốn có truyền thống sản xuất nông nghiệp, tiểu thủ công nghiệp với những làng nghề truyền thống và yêu cầu của quá trình phát triển và hội nhập kinh tế, tác giả chọn đề tài luận án tiến sĩ: Quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn tỉnh Bắc Ninh từ 1997 đến nay: thực trạng, kinh nghiệm và giải pháp.
2. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của luận án là trên cơ sở hệ thống hoá và làm sáng tỏ những vấn đề lý luận vè công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn làm cơ sở cho việc phân tích thực trạng và đề ra phương hướng, mục tiêu và những giải pháp chủ yếu để đẩy nhanh quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn trong giai đoạn tới. Phấn đấu đến năm 2010 Bắc Ninh là một tỉnh phát triển khá trong cả nước, đến năm 2015 cơ bản trở thành tỉnh công nghiệp.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Luận án lấy quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn của tỉnh Bắc Ninh làm đối tượng nghiên cứu.
- Công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn là vấn đề rất rộng lớn và phức tạp, luận án tập trung chủ yếu nghiên cứu quá trình chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp, nông thôn; phát triển các làng nghề truyền thống, làng nghề mới, xây dựng và phát triển các khu, cụm công nghiệp làng nghề; đầu tư, xây dựng kết cấu hạ tầng ở nông nghiệp, nông thôn từ khi tái lập tỉnh (1997) đến nay.
4. Phương pháp nghiên cứu
Luận án sử dụng các phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử; phương pháp lịch sử và lôgíc; phân tích,tổng hợp; Phương pháp thống kê, mô hình hoá và tiếp cận hệ thống .
5. Những đóng góp khoa học của luận án.
- Hệ thống hoá một số vấn đề lý luận cơ bản về công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn, kinh nghiệm một số tỉnh trong vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ và khả năng vận dụng vào tỉnh Bắc Ninh.
- Phân tích, đánh giá thực trạng công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn và tác động của nó đến quá trình phát triển kinh tế - xã hội ở tỉnh Bắc Ninh từ khi tái lập tỉnh (1997) đến nay. Từ đó rút ra những bài học kinh nghiệm từ thực tiễn địa phương.
- Quán triệt, vân dụng những quan điểm của Đảng từ đó xác định phương hướng mục tiêu, đề xuất những giải pháp chủ yếu nhằm đẩy nhanh quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn tỉnh Bắc Ninh.
6. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận án kết cấu gồm 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn và kinh nghiệm một số tỉnh
Chương 2: Thực trạng công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn tỉnh Bắc Ninh từ 1997 đến nay
Chương 3: Phương hướng và giải pháp tiếp tục đẩy nhanh công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn tỉnh Bắc Ninh đến năm 2015.
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ
CÔNG NGHIỆP HOÁ, HIỆN ĐẠI HOÁ NÔNG NGHIỆP NÔNG THÔN
VÀ KINH NGHIỆM MỘT SỐ TỈNH
1.1 THỰC CHẤT VÀ SỰ CẦN THIẾT CỦA CÔNG NGHIỆP HOÁ, HIỆN ĐẠI HOÁ NÔNG NGHIỆP, NÔNG THÔN
1.1.1. Quan niệm về công nghiệp hoá
- Các quan niệm về công nghiệp hoá
Mỗi phương thức sản xuất đều có cơ sở vật chất - kỹ thuật thích ứng với nó. Cơ sở vật chất kỹ thuật là hệ thống các yếu tố vật chất của lực lượng sản xuất ra của của vật chất, nhằm đáp ứng các nhu cầu ngày càng đa dạng của xã hội.
Sự biến đổi và phát triển mạnh mẽ của lực lượng sản xuất, của tiến bộ khoa học kỹ thuật, năng lực và quy mô tích luỹ, sự tác động của quy luật nhân khẩu, quan hệ kinh tế đối ngoại... là những nhân tố cơ bản ảnh hưởng rất lớn đến trình độ của cơ sở vật chất - kỹ thuật. Ngoài ra, tính chất và trình độ của các quan hệ sản xuất, có ảnh hưởng không nhỏ và có mối quan hệ hữu cơ đối với cơ sở vật chất - kỹ thuật.
Nói đến cơ sở vật chất - kỹ thuật của một phương thức sản xuất nào đó là nói đến trình độ, sự vận động và biến đổi của nó theo xu hướng nào.
Đặc trưng của cơ sở vật chất - kỹ thuật của phương thức sản xuất trước chủ nghĩa tư bản là kỹ thuật thủ công, lạc hậu.
Chủ nghĩa tư bản xuất hiện, với những bước chuyển biến có tính quy luật của nó, tất yếu đưa sản xuất dựa trên kỹ thuật thủ công lên hiện đại, công nghiệp đại cơ khí. Vì vậy, đặc trưng cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa tư bản là nền đại công nghiệp cơ khí hoá với trình độ khoa học - kỹ thuật cao.
Đối với những nước xã hội chủ nghĩa, việc xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật cho nền sản xuất lớn hiện đại là một trong những nhiệm vụ kinh tế to lớn và là một yêu cầu khách quan. Bởi vì, cơ sở vật chất - kỹ thuật của nền sản xuất lớn hiện đại đòi hỏi phải dựa trên trình độ kỹ thuật, công nghệ ngày càng cao hơn, hiện đại hơn. Điều đó không chỉ dừng lại ở chỗ, những yếu tố của tư liệu sản xuất được cơ khí hoá và ngày càng hiện đại hoá, mà còn ở trình độ công nghệ tiên tiến và thường xuyên đổi mới.
Vậy có thể khái quát: “Cơ sở vật chất của nền sản xuất hiện đại, chỉ có thể là nền đại công nghiệp cơ khí hoá cân đối và hiện đại dựa trên trình độ khoa học – công nghệ ngày càng phát triển cao...”[21]. Để có được cốt vật chất kỹ thuật như vậy, tất cả các nước phải tiến hành xây dựng nó. Nói cách khác, xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của nền sản xuất lớn, hiện đại là quy luật chung, phổ biến đối với tất cả các nước trong quá trình phát triển. Công nghiệp hoá chính là con đường và bước đi tất yếu để tạo ra cơ sở vật chất - kỹ thuật cho nền sản xuất lớn hiện đại.
Trong lịch sử, nhiều nước đã tiến hành công nghiệp hoá, ở mỗi nước quá trình công nghiệp hoá đang diễn ra khác nhau về bước đi, tốc độ và nội dung cụ thể. Nước Anh đã tiến hành công nghiệp hoá trong những điều kiện hoàn toàn khác với hiện nay. Đó là nước tiến hành công nghiệp hoá đầu tiên. Nước Anh chỉ có thể bắt đầu công nghiệp hoá từ nông nghiệp, tích luỹ vốn, mở rộng thị trường, tìm kiếm nguồn lao động... và phải bằng những biện pháp cưỡng chế tàn bạo.
Trong bộ tư bản, C.Mác có đề cập “...những người nông dân bị tước đoạt bằng vũ lực, bị xua đuổi và bị biến thành những kẻ lang thang lại bị người ta dùng những đạo luật kỳ quái đánh đập, đóng dấu bằng sắt nung đỏ, tra tấn để ghép vào một kỷ luật cần thiết cho chế độ làm thuê...”[13]
Hơn nữa, nước Anh vì là nước đầu tiên tiến hành công nghiệp hoá, nên phải bắt đầu tự nghiên cứu, tự sáng tạo, tự áp dụng vào sản xuất và công nghiệp hoá là một con đường vừa dài, vừa gian nan. Nước Anh đã mất khoảng 100 năm với sự bóc lột, tước đoạt tàn bạo hàng triệu người lao động, mới đạt được nền công nghiệp dẫn đầu thế giới vào cuối thế kỷ XVIII, đầu thế kỷ XIX.
Nước Mỹ đi sau đã học tập kinh nghiệm công nghiệp hoá của nước Anh, đã nhập khẩu được kỹ thuật, đã thu hút được vốn, lao động, kỹ thuật công nghệ từ Châu Âu chuyển sang và có thị trường Châu Âu, Châu Á, Châu Mỹ. Đó là những lý do chính, làm rút ngắn thời gian công nghiệp hoá ở Mỹ xuống còn khoảng 80 năm.
Nước Nhật tiến hành công nghiệp hoá khoảng 60 năm với những đặc điểm nổi bật là: Nhật đã kế thừa công nghệ, kỹ thuật và vốn thị trưởng của Châu Âu và Châu Mỹ. Đồng thời, người Nhật đã sử dụng những ưu thế vốn có của nền văn hoá và xã hội Nhật vào quá trình công nghiệp hoá.
Ở Liên Xô (cũ), quan niệm cho rằng; công nghiệp hoá là quá trình xây dựng nền đại công nghiệp cơ khí có khả năng cải tạo cả nông nghiệp. Đó là phát triển các ngành công nghiệp nặng mà cốt lõi là ngành cơ khí, do đó tỷ trọng công nghiệp trong tổng sản phẩm xã hội ngày càng lớn.
Sta-lin viết: “Quan trọng hơn, vì nếu không phát triển công nghiệp nặng, thì chúng ta không thể xây dựng được ngành công nghiệp nào cả, chúng ta không thể thực hiện được một công cuộc công nghiệp hoá nào cả”[36]:
Theo VI.Lê Nin: “Chỉ có đại công nghiệp cơ khí mới có thể làm cho công nghiệp và nông nghiệp hoàn toàn tách rời nhau... chính nền sản xuất bằng máy móc, đã cắt đứt hẳn mối quan hệ giữa công nhân với ruộng đất” [69]. Như vậy, công nghiệp hoá ở Liên Xô (cũ) trong giai đoạn đó là phù hợp với bối cảnh lịch sử của thế giới và tình hình trong nước. Mô hình công nghiệp hoá này đã đem lại những kết quả đáng kể, song bên cạnh đó cũng còn nhiều hạn chế mà đến thập kỷ 80, 90 đã có sự điều chỉnh cho hợp lý.
Các nước và lãnh thổ (NICs) Đông Á đi sau, rút ngắn quá trình công nghiệp hoá hơn nữa, chỉ còn khoảng 40 năm. Do họ đã tiếp thu được kinh nghiệm của cả Châu Âu, Châu Mỹ và Nhật Bản. Ngày nay, một số nước ASEAN còn có thể rút ngắn quá trình công nghiệp hoá này xuống còn khoảng 30 năm; trong đó Đài Loan là một trong những nước tiến hành công nghiệp hoá thành công.
Từ thực tiễn về công nghiệp hoá của đất nước, có thể khái quát một số quan niệm về công nghiệp hoá:
+ Quan niệm đơn giản nhất cho rằng: công nghiệp hoá là đưa tính đặc thù công nghiệp cho một hoạt động (của một vùng, một nước) với các nhà máy, các loại hình công nghiệp. Theo quan điểm này, có những điểm chưa hợp lý, vì thứ nhất là nội dung quan niệm này gần như đồng nhất quá trình công nghiệp hoá với quá trình phát triển công nghiệp. Thứ hai là không thể hiện được tính lịch sử của qúa trình công nghiệp hoá. Thứ ba là không thể hiện được mục tiêu của quá trình công nghiệp hoá. Quan niệm về công nghiệp hoá nêu trên được hình thành trên cơ sở khái quát quá trình lịch sử công nghiệp hoá của các nước Tây Âu và Bắc Mỹ và do có những điểm chưa hợp lý, nên quan niệm này ít được vận dụng trong thực tiễn.
+ Quan niệm Liên Xô (cũ) và các nước xã hội chủ nghĩa trước đây thì khi tiến hành công nghiệp hoá nhấn mạnh là phát triển công nghiệp nặng. Cho rằng: công nghiệp hoá là quá trình xây dựng nền đại công nghiệp cơ khí có khả năng cải tạo cả nông nghiệp. Đó là sự phát triển công nghiệp nặng với trung tâm là chế tạo máy. Với đường lối công nghiệp hoá như vậy, công nghiệp nặng có vai trò đặc biệt quan trọng và trong một chừng mực nhất định nó phù hợp với hoàn cảnh Liên Xô khi bước vào thời kỳ công nghiệp hoá: chủ nghĩa đế quốc bao vây, chống đối, không có sự trợ giúp từ bên ngoài, trong khi yêu cầu phải xây dựng một nền sản xuất lớn hiện đại và bảo vệ chủ nghĩa xã hội.
Liên Xô cần thực hiện công nghiệp hoá với tốc độ nhanh, phải tập trung vào phát triển công nghiệp nặng, nhằm đảm bảo các nhu cầu trong nước. Do vậy, chủ trương về công nghiệp hoá này chỉ đúng với giai đoạn lịch sử Liên Xô lúc đó. Sẽ sai lầm nếu hiểu công nghiệp hoá như vậy trong mọi hoàn cảnh, mọi phương tiện. Bởi vì, công nghiệp hoá không chỉ đơn thuần là phát triển đại công nghiệp.
+ Quan niệm mới về công nghiệp hoá: năm 1963, tổ chức phát triển công nghiệp của Liên hợp quốc (UNIDO) đã đưa ra quan niệm: Công nghiệp hoá là quá trình phát triển kinh tế. Trong quá trình này, một bộ phận nguồn của cải quốc dân được động viên để phát triển cơ cấu kinh tế nhiều ngành ở trong nước với kỹ thuật hiện đại. Đặc điểm của cơ cấu kinh tế này, có một bộ phận công nghiệp chế biến luôn thay đổi để sản xuất ra những tư liệu sản xuất và hàng tiêu dùng, có khả năng đảm bảo cho nền kinh tế phát triển với nhịp độ cao, đảm bảo đạt tới sự tiến bộ về kinh tế -xã hội.[24]
Do đó, công nghiệp hoá không chỉ hiểu là quá trình phát triển nền kinh tế dựa trên trình độ kỹ thuật, công nghệ hiện đại mà còn là quá trình phát triển, đảm bảo tạo ra cơ cấu sản phẩm vật chất, bao gồm các điều kiện sản xuất và điều kiện sinh hoạt, đảm bảo các mục tiêu phát triển kinh tế và sự tiến bộ xã hội.
- Quan niệm về công nghiệp hoá, hiện đại hoá
Kinh nghiệm về công nghiệp hoá của các nước đi trước và qua thực tế kiểm nghiệm, kết hợp với sự phát triển mạnh của khoa học công nghệ và quan hệ kinh tế quốc tế ngày càng được mở rộng, quan niệm về công nghiệp hoá, hiện đại hoá được hiểu như sau: Công nghiệp hoá chính là một cuộc cách mạng về lực lượng sản xuất, làm thay đổi căn bản kỹ thuật, công nghệ sản xuất, tăng năng suất lao động. Hiện đại hoá là quá trình thường xuyên cập nhật và nâng cấp những công nghệ hiện đại nhất, mới nhất trong quá trình công nghiệp hoá. Trong thời đại ngày nay, công nghiệp hoá luôn gắn liền với hiện đại hoá.
Công nghiệp hoá, hiện đại hoá là quá trình trang bị kỹ thuật và công nghệ hiện đại cho nền kinh tế quốc dân, trước hết là các ngành giữ vị trí quan trọng, biến một nước có nền kinh tế kém phát triển thành một nước có nền kinh tế phát triển, thành một nước công nghiệp hiện đại.
Hiện nay ở Việt Nam công nghiệp hoá, hiện đại hoá theo quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam là: Quá trình chuyển đổi căn bản toàn diện các hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế - xã hội, từ sử dụng lao động thủ công là chính sang sử dụng phổ biến sức lao động cùng với công nghệ, phương tiện và phương pháp tiên tiến, hiện đại, dựa trên sự phát triển của công nghiệp và tiến bộ khoa học- công nghệ, tạo ra năng suất lao động xã hội cao.[23] Quan niệm này nói lên phạm vi và vai trò đặc biệt quan trọng của công nghiệp hoá, hiện đại hoá trong phát triển kinh tế - xã hội, gắn liền được hai phạm trù, không thể tách rời là công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Xác định vai trò không thể thiếu được của khoa học công nghệ trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Công nghiệp hoá và hiện đại hoá có mối quan hệ mật thiết với nhau, quá trình tiến hành công nghiệp hoá là cái đích để đạt tới hiện đại hoá. Việc tiến hành công nghiệp hoá phụ thuộc nhiều vào điều kiện và hoàn cảnh của mỗi nước và tình hình chung của khu vực và thế giới. Xu hướng hiện nay ở các nước đang phát triển là vừa tiến hành công nghiệp hoá theo những kinh nghiệm truyền thống, nhưng đồng thời cũng thường xuyên cập nhật, hội nhập những thành tựu khoa học kỹ thuật mới nhất, để vừa đảm bảo phát triển tuần tự, vừa phát triển nhảy vọt ở những thời điểm, những ngành nghề có điều kiện và khả năng.
1.1.2. Thực chát công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn
1.1.2.1- Công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp
Công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp là quá trình chuyển nền nông nghiệp truyền thống phát triển thành nông nghiệp hiện đại, về thực chất là hiện đại hoá các biện pháp sản xuất nông nghiệp, hiện đại hoá công nghệ sản xuất, hiện đại hoá quản lý sản xuất kinh doanh và hiện đại hoá lực lượng lao động ngành nông nghiệp; làm thay đổi căn bản tính chất, phương thức sản xuất, cơ cấu sản xuất, hình thức tổ chức quản lý sản xuất của một nền nông nghiệp sản xuất tự cung, tự cấp, dựa chủ yếu vào điều kiện tự nhiên với kỹ thuật thủ công sang một nên nông nghiệp sản xuất hàng hoá với kỹ thuật công nghệ tiên tiến, trong điều kiện thương mại hoá toàn cầu và phải đảm bảo cho sự phát triển bền vững về tự nhiên, kinh tế, xã hội.
Công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp là việc sử dụng máy móc rộng rãi, áp dụng khoa học công nghệ tiên tiến, đặc biệt là công nghệ sinh học và công nghệ thông tin trong khâu sản xuất. Bảo quản chế biến và tiếp thị mở rộng thị trường tiêu thụ trong nước và quốc tế, chính vì vậy sẽ thúc đẩy nhanh sự tan rã của nông nghiệp chậm phát triển và nông nghiệp truyền thống.
Công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp diễn ra đồng thời với công nghiệp hoá, hiện đại hoá các ngành kinh tế của đất nước.
Nền kinh tế nông nghiệp, nông thôn không thể tự cải tạo kỹ thuật, không thể tự mình giải quyết vấn đề phát triển. Sự phát triển của nông nghiệp được quyết định bởi bản thân quá trình nền sản xuất xã hội thực hiện được, quá trình phát triển với hai tiến trình thị trường hoá và công nghiệp hoá đó là quá trình chuyển từ làn sóng nông nghiệp sang làn sóng công nghiệp. Sự phát triển này khiến cho nông nghiệp mất vị trí nền tảng của nền kinh tế. Quy luật chung của quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá là làm giảm tỷ lệ GDP của nông nghiệp trong cơ cấu chung nền kinh tế, lao đông ngành nông nghiệp có tỷ lệ nhỏ trong cơ cấu lao động chung của các ngành kinh tế.
Không thể tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp bó hẹp trong quan niệm phát triển trong phạm vi ngành nông nghiệp, mà nó phải gắn với sự phát triển và sự chuyển đổi cơ cấu của toàn bộ nền kinh tế. Chính sự phát triển công nghiệp, du lịch, dịch vụ, cơ sở hạ tầng trong điều kiện hiện đại hoá làm thay đổi phương thức sản xuất, cơ cấu của nền sản xuất xã hội và là sự thay đổi bản chất kinh tế của nông nghiệp. Chuyển từ lĩnh vực tất yếu thành lĩnh vực kinh doanh, thành cực tăng trưởng và bắt buộc phải tồn tại phát triển trong cơ chế thị trường.
Quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp phải đảm bảo vai trò duy trì và phát triển cảnh quan thiên nhiên, xã hội cho phù hợp với yêu cầu của cuộc sống ở trình độ văn minh cao, trình độ văn hoá cao. Tái sản xuất hệ sinh thái, duy trì phát triển môi trường sống bền vững. Giữ gìn và phát triển truyền thống lâu đời của cộng đồng các dân tộc. Tham gia đắc lực trong việc hình thành sự kết hợp hài hoà giữa cuộc sống công nghiệp, đô thị và thiên nhiên, giữa lao động thư giãn và giải trí cho các tầng lớp dân cư và cộng đồng các dân tộc.
Trong tiến trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp nước ta sẽ thay đổi bản chất kinh tế của ngành, thay đổi căn bản vị trí của ngành trong cơ cấu kinh tế, chuyển hẳn từ sản xuất tự cung tự cấp sang lĩnh vực kinh doanh.
Yếu tố chính để mở rộng sản lượng nông nghiệp và chuyển đổi cơ cấu nông nghiệp là do thị thường tiêu thụ trong nước và thị trường thế giới quy định, như ngành sản xuất lúa là ngành sản xuất truyền thống và có lợi thế của nước ta. Từ khi nước ta xuất khẩu hàng năm trên 3 triệu tấn gạo đã thúc đẩy ngành sản xuất lúa gạo có tốc độ phát triển nhanh, sự tăng cường xuất khẩu thuỷ sản đã làm cho sự chuyển đổi cơ cấu mạnh mẽ ở các vùng có điều kiện nuôi trồng thuỷ sản.
1.1.2.2. Công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông thôn
Công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông thôn là quá trình thay đổi căn bản phương thức hoạt động, cơ cấu kinh tế của nông thôn và thay đổi căn bản tầng lớp gắn liền với sản xuất nông nghiệp là nông dân, biến người nông dân thành người “công nhân làm thuê”
Công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông thôn làm thay đổi căn bản khái niệm về nông thôn truyền thống: Nông thôn là một xã hội được tổ chức trên nền tảng sản xuất nông nghiệp và dân cư của nó là những người làm ruộng. Quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá diễn ra cùng với quá trình đô thị hoá, đã làm thay đổi hệ thống xã hội ở các phương diện: tập trung hoá sản xuất, do đó tập trung hoá dân cư, tăng một cách căn bản các quá trình trao đổi, giao dịch dịch vụ, sự phát triển của xã hội tiêu dùng, phát triển mạnh hạ tầng kinh tế - xã hội. Sự thay đổi này đã dẫn tới sự thay đổi căn bản trong phương thức sản xuất và phương thức sinh hoạt xã hội, văn hoá.
Cùng với tiến trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đã cải tổ toàn bộ xã hội theo diện mạo công nghiệp, thương mại- hoà nhập vào xu thế toàn cầu hoá và sự biến chuyển của xã hội nông thôn cũng không thể nằm ngoài xu hưóng chung này.
Cơ cấu nghề nghiệp thay đổi, xu hướng cơ bản là chuyển từ hoạt động nông nghiệp sang cơ cấu dân cư nghiêng hẳn về phi nông nghiệp, tỷ lệ hộ sống ở nông thôn giảm hẳn, dân cư chuyển vào sống trong các đô thị ngày càng tăng cùng với dân cư nông thôn giảm đi đáng kể (tỷ lệ dân nông thôn ở các nước công nghiệp phát triển chỉ còn 10 – 25%).
Qua quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá tiến trình phát triển xã hội đã có sự thay đổi căn bản, đó là quá trình: phát triển đô thị hoá kèm theo thu hẹp xã hội nông thôn, về mặt cơ sở hạ tầng cho sản xuất, cơ sở hạ tầng văn hoá, đời sống (hạ tầng về kinh tế và xã hội) là sự thay đổi về chất của xã hội nông thôn.
Sự chênh lênh thu nhập, đời sống vật chất, văn hoá, xã hội của dân cư ở nông thôn và dân cư thành thị được thu hẹp.
1.1.3. Sự cần thiết của công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn
Trong khi coi công nghiệp hoá, hiện đại hoá là nhiệm vụ trung tâm trong suốt thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta, Đảng ta vẫn xác định nội dung của công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước trong những năm trước mắt là “coi trọng công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp và nông thôn”[21]. Điều đó bắt nguồn từ vai trò của nông nghiệp, nông thôn trong quá trình phát triển kinh tế xã hội và những lợi thế phát triển của Việt Nam hiện nay. Cụ thể, việc tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn ở nước ta xuất phát từ những cơ sở chủ yếu sau:
Thứ nhất, xuất phát từ yêu cầu đảm bảo an ninh lương thực quốc gia
Lương thực là sản phẩm tiêu dùng thiết yếu đối với cuộc sống con người, nhất là đối với một nước có truyền thống tiêu dùng lúa gạo như Việt Nam. Vì vậy, vấn đề đảm bảo an ninh lương thực quốc gia là nhân tố quan trọng hàng đầu để ổn đinh kinh tế, chính trị, xã hội, nhờ đó thúc đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn, thực hiện phân công lại lao động xã hội hợp lý hơn. Không chỉ ở Việt Nam, mà ngay cả các nước Đông Á, sự phát triển nông nghiệp vẫn được coi là một trong các nhân tố quan trọng tạo nên sự thần kỳ của họ trong nửa cuối thế kỷ trước.
Quy mô dân số Việt Nam ngày càng tăng nên nhu cầu về lương thực, thực phẩm cũng tăng lên rất nhanh, trong khi đó quỹ đất nông nghiệp của nước ta lại ít. Do đó, để đáp ứng đầy đủ nhu cầu lương thực cho hơn 80 triệu dân đòi hỏi nông nghiệp phải được công nghiệp hoá, hiện đại hoá để tạo sự phát triển vượt bậc về năng suất, cây trồng, vật nuôi. Vả lại, nếu nông nghiệp không sản xuất đủ lương thực thì việc dùng ngoại tệ để nhập khẩu lương thực sẽ đè nặng lên chi tiêu của Chính phủ, do đó sẽ ngăn cản việc nhập khẩu máy móc, công nghệ, nguyên nhiên vật liệu phục vụ công nghiệp hoá đất nước. Thực tế nói lên rằng, nếu trong cơ cấu kinh tế quốc dân mà không có một nền nông nghiệp phát triển để đảm bảo đầy đủ lương thực cho con người thì toàn bộ nền kinh tế sẽ gặp không ít khó khăn trong việc tạo ra tốc độ tăng trưởng cao. Do đó, vấn đề an ninh lương thực là nhiệm vụ thường xuyên của quốc gia cũng như từng địa phương.
Thứ hai, xuất phát từ yêu cầu của sự phát triển công nghiệp và dịch vụ.
Nông nghiệp và nông thôn không chỉ sản xuất ra sản phẩm tiêu dùng trực tiếp cho con người, mà còn là nơi cung cấp nguồn nguyên liệu cho công nghiệp, trước hết là cho công nghiệp chế biến lương thực, thực phẩm, công nghiệp hàng tiêu dùng và hàng suất khẩu. Vì vậy, sự lạc hậu hay tiến bộ của nông nghiệp, nông thôn có ảnh hưởng rất lớn đến phát triển công nghiệp và dịch vụ.
Thực tế nhiều nước đã chỉ ra rằng, sự lạc hậu của lực lượng sản xuất tại nông thôn đã hạn chế đến sự tăng trưởng của công nghiệp thành thị, vì nguồn tích luỹ thấp, mức đầu tư bị giảm xuống. Trong trường hợp đó, khu vực công nghiệp ở thành thị không đủ sức để cải tạo khu vực nông nghiệp cổ truyền ở nông thôn như vai trò vốn có của nó, mà ngược lại cả công nghiệp và nông nghiệp đều rơi vào tình trạng kém phát triển. Chỉ công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn, làm cho năng suất lao động nông nghiệp tăng lên, khối lượng nguyên liệu cung cấp cho công nghiệp nhiều hơn, khi đó công nghiệp mới có cơ hội phát triển, và đến lượt nó công nghiệp sẽ thúc đẩy trở lại đối với sự phát triển nông nghiệp và các ngành khác. Như vậy, công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn đã tạo ra quy mô và tốc độ tăng trưởng của các nguồn nguyên liệu nông nghiệp, là nhân tố có tác động quan trọng đến quy mô và tốc độ tăng trưởng của công nghiệp, dịch vụ và các ngành kinh tế khác.
Mặt khác, nông nghiệp, nông thôn là địa bàn rộng lớn tiêu thụ các sản phẩm của công nghiệp, từ tư liệu sản xuất, vật tư thiết bị đến các sản phẩm hàng hoá và dịch vụ tiêu dùng. Nhiều nhà kinh tế đã khẳng định rằng, với vai trò là thị trường tiêu thụ hàng hoá cho lĩnh vực công nghiệp và dịch vụ, nông nghiệp, nông thôn đã trở thành động lực thúc đẩy công nghiệp, dịch vụ phát triển, và như vậy nó còn quan trọng hơn cả vai trò nguồn cung cấp “đầu vào” cho công nghiệp. Tốc độ tăng trưởng thu nhập và quy mô dân số trong lĩnh vực nông nghiệp sẽ tác động đến dung lượng của thị trường nội địa đối với hàng hoá của khu vực công nghiệp. Nói cách khác, tăng trưởng của lĩnh vực công nghiệp phụ thuộc vào tăng trưởng của khu vực nông nghiệp và kinh tế nông thôn. Do đó, “bóc lột” lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn vượt quá mức đầu tư trở lại cho nó thì sẽ làm cho khu vực này rơi vào tình trạng trì trệ, dẫn tới giảm sút tốc độ tăng trưởng của khu vực công nghiệp. Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng đã từng xác đinh: “Muốn phát triển công nghiệp, phát triển kinh tế nói chung phải lấy việc phát triển nông nghiệp làm gốc, làm chính”[26].
Ngoài ra, nông nghiệp, nông thôn còn là nơi cung cấp nguồn nhân lực dồi dào cho các ngành kinh tế khác. Dưới tác động của khoa học và công nghệ, quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá sẽ giải phòng một bộ phận lao động ra khỏi nông nghiệp để chuyển nhanh sang lĩnh vực công nghiệp và dịch vụ, do đó công nghiệp và dịch vụ sẽ có cơ hội phát triển nhanh.
Thứ ba, xuất phát từ yêu cầu tích luỹ vốn cho nền kinh tế
Là một nước nông nghiệp với đa phần dân số sinh sống ở nông nghiệp, thế mạnh của nước ta là thế mạnh về nông nghiệp và các ngành nghề phi nông nghiệp ở nông thôn. Đây là tiềm năng to lớn cần khai thác để tạo nguồn vốn tích luỹ và cũng là mục tiêu của chủ trương dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn sẽ cho phép khai thác triệt để và có hiệu quả tiền năng đa dạng của nông, lâm, ngư nghiệp ở nước ta nhằm tạo giá trị thu nhập cao. Việc phát triển công nghệ sinh học, một thành tựu của tiến trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá sẽ tạo ra nhiều giống cây, con mới phù hợp với điều kiện sinh thái, rút ngắn thời gian canh tác, do đó sẽ tăng vụ, tăng sản lượng và giá trị trên một đơn vị diện tích. Việc áp dụng thành tựu khoa học - kỹ thuật hiện đại trong đánh bắt và chế biến hải sản sẽ làm tăng sản lượng và giá trị của nguồn lợi từ biển, từ đó sẽ tạo nguồn thu nhập cao cho ngư dân. Tóm lại, công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn làm cho năng suất lao động nông nghiệp và các ngành phi nông nghiệp ở nông thôn được nâng cao, thu nhập của nông dân tăng lên thì Chính phủ sẽ có cơ hội huy động một phần thu nhập từ nông dân thông qua nhiều kênh khác nhau như thuế sử dụng đất, lãi suất tín dụng, hoặc các chi phí tiêu dùng hàng hoá và dịch vụ khác, nhờ đó mà có thêm nguồn vốn cho nền kinh tế.
Ở các nước đang phát triển, ngoài nguồn vốn từ viện trợ và đầu tư nước ngoài thì cần thiết phải có nguồn vốn từ tiết kiệm trong nước, trong đó nguồn thặng dư nông nghiệp là quan trọng. Đối với Việt Nam, trong giai đoạn đầu, nguồn vốn tất yếu phải dựa vào nông nghiệp và nông thôn, vì đây là khu vực rất lớn, xét cả về khía cạnh lao động và tổng sản phẩm quốc dân. Nguồn vốn do nông nghiệp, nông thôn tạo ra sẽ được đầu tư trước hết và chủ yếu vào các hoạt động kinh doanh nông nghiệp và một số hoạt động phi nông nghiệp và kinh tế nông thôn. Sự phát triển mạnh mẽ của nông nghiệp và kinh tế nông thôn sẽ làm tăng đáng kể nguồn vốn tích luỹ cho nền kinh tế, tạo điều kiện thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Thứ tư, xuất phát từ yêu cầu của sự ổn định chính trị, xã hội và môi trường.
Sự phát triển mạnh mẽ của nông nghiệp và kinh tế nông thôn do công nghiệp hoá, hiện đại hoá tạo ra đảm bảo đời sống vật chất và tinh thần cao cho gần 75% dân số sinh sống tại nông thôn, do đó là điều kiện căn bản để tạo nên sự ổn định chính trị - xã hội của cả nước. Nói cách khác, thực phẩm để nuôi sống dân cư nông thôn thì sẽ tạo ra sự ổn định của nông thôn. Nông thôn phát triển, đời sống nông dân no đủ, họ sẽ tin tưởng vào cuộc sống, vào sự lãnh đạo của Đảng do đó mà yên tâm làm giàu, xây dựng nông thôn giàu đẹp, ổn định. Sự ổn định của nông thôn sẽ có tác động rất lớn đến sự ổn định của cả nước. Hiện nay, Việt Nam vẫn là một nước nông nghiệp lạc hậu, lại trải qua nhiều năm bị chiến tranh tàn phá, do đó đang tồn tại sự chênh lệch khá xa về kinh tế và văn hoá giữa thành thị và nông thôn, giữa đồng bằng trung du và miền núi, do đó đã tiềm ẩn nguy cơ của sự bất ổn định.
Hơn nữa, sự lạc hậu của nông nghiệp và nông thôn đã làm tăng thêm làn sóng di cư tự do từ nông thôn ra thành thị, tạo nên hiện tượng quá tải ở thành thị. Quá trình đô thị hoá ồ ạt đặt ra những thách thức về môi trường đối với thành phố, như vấn đề vệ sinh, ô nhiễm môi trường sống, nhu cầu nước sạch, giao thông vận tải, rác thải, trật tự trị an... Do vậy, tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước không thể không coi trọng đầu tư cho nông nghiệp và nông thôn, không thể không gắn công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp với công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông thôn để giảm dần sự cách biệt về trình độ phát triển giữa các vùng trong nước.
Ngày nay, vai trò quan trọng của nông thôn đối với sự ổn định chính trị, xã hội đã được thừa nhận. Không riêng gì ở Việt Nam và các nước đang phát triển khác, mà ngay cả các nước công nghiệp phát triển và các nước mới công nghiệp hoá vẫn rất chú trọng đến khu vực nông nghiệp, nông thôn. Các học giả Đài Loan cho rằng: “Vấn đề nông nghiệp và nông thôn bao gồm các vấn đề chính trị, kinh tế, xã hội, văn hoá, giáo dục cho nên nó vô cùng quan trọng và phức tạp. Trong tương lai, tỷ trọng nông nghiệp trong nền kinh tế quốc dân sẽ ngày càng thu nhỏ, nhưng nó vẫn là lực lượng chủ yếu quyết định sự ổn định của nền kinh tế, xã hội và là yếu tố quan trọng để đảm bảo môi sinh, cân bằng sinh thái._.”[31]
Thứ năm, xuất phát từ yêu cầu đổi mới công nghệ của nông nghiệp và nông thôn
Nông nghiệp, nông thôn là khu vực kinh tế, xã hội có liên quan trực tiếp đến việc giải quyết những vấn đề cơ bản nhất của đời sống đại đa số dân cư. Nhưng nếu nông nghiệp và nông thôn lại nằm trong tình trạng phát triển thấp kém thì không thể đảm trách được vai trò quan trọng đó, trong khi chúng ta vẫn đang phải dựa vào nông nghiệp trong nhiều năm tới nữa. Điều đó nói nên rằng, vấn đề phát triển nông nghiệp và kinh tế nông thôn vẫn sẽ là mối quan tâm hàng đầu của Đảng và Nhà nước.
Nền nông nghiệp lạc hậu thì năng suất sản lượng thấp, không đủ sức đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng về nông sản thực phẩm của xã hội, thậm chí cho chính bản thân nông thôn. Điều đó đòi hỏi nông nghiệp phải trở thành một nền nông nghiệp phát triển toàn diện, hiện đại và nông thôn trở thành một nông thôn giàu có, văn minh. Nhưng bản thân nông nghiệp và nông thôn lại không thể tự mình tạo ra quá trình đó, không thể đổi mới cơ sở vật chất - kỹ thuật và công nghệ để trở thành nền nông nghiệp hiện đại; cũng không thể có khả năng tạo ra sức tăng trưởng nhanh để tạo thêm nhiều việc làm cho người lao động... Những bất cập đó cho thấy, lĩnh vực nông nghiệp và nông thôn không thể thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá bản thân nó, mà đòi hỏi phải có sự tác động của công nghiệp và đô thị.
Thứ sáu, xuất phát từ tiềm năng, lợi thế của đất nước hiện nay
Việt Nam là một nước nông nghiệp. Tiềm năng và lợi thế của Việt Nam cũng là tiềm năng và phát triển nông nghiệp, bao gồm: tài nguyên đất, tài nguyên rừng, tài nguyên biển, tài nguyên mặt nước và yếu tố con người... Đây vừa là điều kiện, vừa là mục đích của công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn hiện nay. Việc tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn là nhằm khai thác triệt để và phát huy các tiềm năng này, nhưng mặt khác công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn hiện tại cũng chỉ có thể dựa chủ yếu vào những tiềm năng đó.
Nguồn tài nguyên phong phú của Việt Nam cho phép phát triển nền nông nghiệp đa dạng. Diện tích đất nông nghiệp nước ta chiếm 39,2% diện tích tự nhiên, trong đó đất có độ màu mỡ chiếm tỷ lệ tương đối cao (chủ yếu tập trung ở các tỉnh vùng đồng bằng sông Hồng, đồng bằng sông Cửu Long và một số tỉnh vùng Trung Bắc Bộ). Đây là điều kiện để phát triển các vùng sản xuất hàng hoá tập trung, hiện đại. Hiện tại quỹ đất chưa sử dụng còn nhiều, chiếm 11,38% diện tích tự nhiên, trong đó có khoảng 3 triệu ha đất có khả năng nông nghiệp (1 triệu ha có thể sử dụng ngay). Đây là nguồn lực quan trọng để tăng diện tích cây ăn quả, cây công nghiệp lâu năm, hoặc khoanh nuôi, trồng rừng mới theo hình thức kinh tế trang trại, nhằm tăng sản lượng và giá trị nông nghiệp. Tài nguyên rừng Việt Nam khá phong phú, trong đó diện tích rừng sản xuất chiếm đến 53%, được phân bố chủ yếu ở Tây Nguyên, các tỉnh miền núi trung du Bắc Bộ, các tỉnh Bắc Trung Bộ và duyên hải miền Trung. Rừng Việt Nam không chỉ cung cấp gỗ, tre, nứa... mà còn có nhiều động vật quý và khoáng sản. Đây là nguồn cung cấp hàng lâm sản xuất khẩu quan trọng cả trước mắt cũng như lâu dài. Ngoài ra, Việt Nam còn có hơn 3.200 km bờ biển với hệ thống sinh vật biển đa dạng và phong phú, với hơn 1.700 loài cá biển, cung cấp sản lượng bình quân 1 triệu tấn/năm. Sau cá là tôm, với sản lượng khai thác khoảng 5 vạn tấn/năm, cùng nhiều hải sản quý khác như mực, vẹm, sò, bào ngư, hải sâm, đồi mồi, trai ngọ... Có thể nói, nguồn lợi thuỷ sản của Việt Nam rất lớn và hiện đang là nguồn hàng xuất khẩu chủ lực của nước ta, với kim ngạch đạt 2,6 tỷ USD ( năm 2005)
Việt Nam còn có lực lượng lao động nông thôn khá dồi dào, với trình độ học vấn tương đối cao (96,26% người lớn biết chữ, 34,11% tốt nghiệp tiểu học, 31,31% tốt nghiệp trung học cơ sở, 11,82% tốt nghiệp trung học phổ thông- năm 2002). Đó là điều kiện quan trọng để người lao động tiếp thu và ứng dụng những thành tựu mới của khoa học công nghệ thế giới, đẩy nhanh công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn. Đồng thời việc thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn, đẩy mạnh phát triển công nghiệp và dịch vụ ở nông thôn lại sẽ thu hút và sử dụng một cách có hiệu quả nhất đối với lực lượng lao động tiềm tàng này.
Như vậy, việc xác định lựa chọn chiến lược công nghiệp hoá, hiện đại hoá bắt đầu từ nông nghiệp và nông thôn ở Việt Nam là hoàn toàn phù hợp với điều kiện thực tiễn Việt Nam và cũng phù hợp với quy luật phát triển từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn hiện đại. Phải công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn thì mới vực dậy được cả khu vực nông thôn, và nhờ đó đẩy mạnh phát triển toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Việc Đảng ta đặt ra nhiệm vụ công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn lên hàng đầu trong những năm trước mắt là vừa hợp với quy luật, vừa hợp với yêu cầu của thực tiễn nền kinh tế. Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng đã từng nói: “Nếu muốn công nghiệp hoá gấp thì là chủ quan. Cho nên, trong kế hoạch phải tăng tiến nông nghiệp. Ta cho nông nghiệp là quan trọng, ưu tiên, rồi đến thủ công nghiệp, sau mới đến công nghiệp nặng”. Theo Người, đó là cách để “đi bước nào vững vàng, chắc chắn bước ấy”[27].
1.2. NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA CÔNG NGHIỆP HOÁ, HIỆN ĐẠI HOÁ NÔNG NGHIỆP, NÔNG THÔN
Sự thành công của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn ở nước ta phụ thuộc rất lớn vào việc xác định đúng đắn nội dung cụ thể cho từng thời kỳ cụ thể. Theo tinh thần của Hội nghị lần thứ năm Ban chấp hành Trung ương Đảng (khoá IX) thì công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn ở nước ta hiện nay đến năm 2010 cần giải quyết tốt những nội dung sau:[51]
1.2.1. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn theo hướng hiện đại
Biến đổi cơ cấu kinh tế là một quá trình căn bản của sự phát triển. Một sự thay đổi trong cơ cấu kinh tế có liên quan đến sự thay đổi vai trò của các khu vực nông nghiệp, công nghiệp và dịch vụ, của các ngành nông nghiệp, lâm nghiệp và thuỷ sản, của trồng trọt và chăn nuôi, của các loại cây và các loại con... trong một thời gian dài. Những thay đổi đó được đánh giá bằng sự thay đổi tương quan về tỷ trọng của các khu vực, các ngành, hay các bộ phận trong nội bộ ngành... Một xu hướng biến đổi cơ cấu kinh tế được coi là hợp lý, hiện đại khi tỷ trọng giá trị của các ngành phi nông nghiệp, nhất là dịch vụ trong tổng sản phẩm quốc dân ngày càng được tăng, tỷ trọng giá trị của nông, lâm nghiệp, thuỷ sản ngày càng giảm; và trong nội bộ ngành nông nghiệp thì tỷ trọng giá trị lâm nghiệp và thuỷ sản ngày càng tăng, còn giá trị nông nghiệp thuần ngày càng giảm. Để tạo sự thay đổi tích cực trong cơ cấu kinh tế theo hướng đó, tiến trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn ở nước ta hiện nay phải thực hiện nội dung sau:
Thứ nhất, chuyển nền nông nghiệp độc canh sang nền nông nghiệp đa canh với việc hình thành các vùng sản xuất tập trung quy mô lớn.
Tình trạng độc canh, thuần nông là đặc trưng của nền sản xuất nhỏ, tự cấp tự túc. Hậu quả của nó là không tạo được sức bật cho sự phát triển nông thôn. Vì vậy, việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp theo hướng tạo nên sự đa dạng trong sản xuất và sản phẩm, biến nền nông nghiệp chủ yếu chỉ sản xuất lúa gạo và hoa mầu thành nền nông nghiệp hàng hoá phong phú, đa dạng sẽ đáp ứng tốt hơn nhu cầu của xã hội.
Chuyển nền nông nghiệp độc canh sang nền nông nghiệp đa canh với các hệ sinh thái khác nhau, liên kết, bổ sung, hỗ trợ cho nhau sẽ tạo sự phát triển bền vững của nông nghiệp nước ta. Đây là một xu hướng cơ bản của công nghiệp hoá, hiện đại hoá trong nông nghiệp. Trước đây, trong cơ chế kế hoạch hoá tập trung, cơ cấu nông nghiệp ở nước ta được bố trí theo ý đồ chủ quan, đưa ra những mô hình cơ cấu cây trồng, vật nuôi thoát ly thực tế các mối quan hệ kinh tế, kỹ thuật, môi trường và thể chế... do đó ít mang lại hiệu quả. Quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn đòi hỏi phải phá bỏ cơ cấu lạc hậu đó, hướng vào phát triển nền nông nghiệp đa dạng về cây và con phù hợp với điều kiện thổ nhưỡng, khí hậu, thời tiết của đất nước cũng như của từng lãnh thổ, nhằm tạo giá trị thu nhập cao nhất trên mọi đơn vị diện tích.
Sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước đòi hỏi nông nghiệp phải thực hiện 3 nhiệm vụ lớn và trực tiếp là: bảo đảm an ninh lương thực quốc gia, đảm bảo tối đa nguồn nguyên liệu cho công nghiệp chế biến và tăng giá trị nông sản xuất khẩu. Để thực hiện các nhiệm vụ đó, nông nghiệp, nông thôn không thể là một nền nông nghiệp sản xuất nhỏ lạc hậu, mà phải là nền nông nghiệp phát triển toàn diện, hiện đại. Việc xây dựng cơ cấu kinh tế hợp lý cho nông nghiệp và nông thôn sẽ cho phép sự lựa chọn những công nghệ thích hợp để phát huy thế mạnh của nông nghiệp, nông thôn, do đó sẽ khai thác tốt nhất các nguồn lực hiện có ở nông thôn, tạo nên một sức bật mới trong nông thôn.
Nhu cầu tiêu dùng của xã hội ngày càng cao và đa dạng thì sản xuất nông nghiệp cũng không thể tập trung sản xuất lương thực, mà còn phải đẩy mạnh sản xuất các loại cây trông, vật nuôi đa dạng khác để đáp ứng nhu cầu đó. Đồng thời với đa dạng hoá sản xuất nông nghiệp, nông thôn còn hướng tới xây dựng và phát triển những vùng sản xuất hàng hoá tập trung quy mô lớn để áp dụng có hiệu quả những thành tựu mới của khoa học – công nghệ, nâng cao năng suất và chất lượng sản phẩm, khả năng cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường trong nước và quốc tế. Xây dựng vùng hàng hoá lớn sẽ tạo được khối lượng lớn về nông sản với chất lượng tốt, đáp ứng yêu cầu của công nghiệp chế biến, tăng nhanh kim ngạch xuất khẩu, từ đó nâng cao đời sống nông dân, tăng cường sức mua, mở rộng thị trường hàng hoá công nghệ phẩm. Điều đó đến lượt nó lại trở thành động lực của sự phát triển công nghiệp.
Thứ hai, chuyển nền nông nghiệp và kinh tế nông thôn từ trạng thái khép kín sang nền nông nghiệp đa hàng hoá, hướng mạnh vào xuất khẩu, mở rộng phân công và hợp tác lao động.
Phát triển kinh tế nông thôn theo hướng sản xuất hàng hoá, mở rộng phân công và hợp tác lao động là xu thế tất yếu, phù hợp với xu thế phát triển chung của các nước đang phát triển, mà Việt nam cũng không nằm ngoài những vấn đề mang tính quy luật đó. Chỉ trên cơ sở sản xuất hàng hoá phát triển mới kích thích và thúc đẩy sự phát triển mạnh mẽ của lực lượng sản xuất, áp dụng tiến bộ khoa học công nghệ tạo sự phát triển kinh tế nói chung và nông nghiệp, nông thôn nói riêng. Kinh tế hàng hoá phát triển cũng sẽ thúc đẩy quá trình xã hội hoá sản xuất, đẩy mạnh phân công và hợp tác, mở rộng thị trường, tạo sự tích tụ và tập trung sản xuất nhanh chóng, từng bước chuyển nền sản xuất nhỏ lạc hậu lên nền sản xuất lớn, hiện đại.
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn theo hướng sản xuất hàng hoá là phải giảm dần tỷ trọng giá trị những cây, con cho năng suất và giá trị hàng hoá thấp, tăng dần tỷ trọng diện tích và tỷ trọng giá trị các loại cây và con có giá trị thương phẩm cao và có thị trường tiêu thụ lớn. Trước mắt, phải giảm giá trị trồng trọt, tăng tỷ trọng giá trị chăn nuôi; trong trồng trọt thì giảm tỷ trọng giá trị cây lương thực, tăng tỷ trọng giá trị cây thực phẩm, cây ăn quả, cây lâm nghiệp và cây công nghiệp, đặc biệt phải mở rộng diện tích các loại cây đặc sản cho giá trị xuất khẩu cao, giảm tỷ trọng giá trị sản phẩm thô, tăng tỷ trọng giá trị sản phẩm chế biến... trong tổng giá trị sản xuất nông nghiệp. Đó là để cách khai thác tốt hơn tiềm năng các vùng đất khác nhau: trung du, miền núi, diện tích ao hồ, sông, biển... đồng thời đa dạng hoá sự kết hợp giữa nông, lâm, ngư nghiệp để tận dụng hiệu quả đất đai, khí hậu, đất lao động và vốn của nông dân ở nông thôn; làm cho đất đai, sông nước, đồi núi đều được khai thác hợp lý nhất, tạo giá trị cao nhất trên một đơn vị diện tích.
Thứ ba, chuyển kinh tế nông thôn thuần nông sang phát triển kinh tế nông thôn tổng hợp nông - công nghiệp - dịch vụ và chuyển dịch lao động nông nghiệp sang lĩnh vực phi nông nghiệp.
Một điều dễ thấy là sản xuất nông nghiệp phụ thuộc rất lớn vào điều kiện tự nhiên nên năng suất lao động và hiệu quả thường rất bấp bênh. Việc kết hợp phát triển nông nghiệp với công nghiệp (đặc biệt là công nghiệp chế biến), tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ có ý nghĩa to lớn trong việc làm tăng hiệu quả kinh tế nông thôn, tạo việc làm cho người lao động, nâng cao mức thu nhập và đời sống nông dân. Vì vậy, công nghiệp hoá, hiện đại hoá phải tác động tích cực vào nông nghiệp, nông thôn theo hướng phát triển kinh tế nông thôn tổng hợp, bao gồm cả nông nghiệp, công nghiệp và thương mại, du lịch, dịch vụ, trong đó giảm tỷ trọng giá trị nông nghiệp, tăng tỷ trọng giá trị các ngành sản xuất phi nông nghiệp. Từ đó, một bộ phận lao động sẽ được đưa sang lĩnh vực công nghiệp và dịch vụ. Xu hướng đó sẽ làm cho nông thôn thuần nông trở thành một nông thôn với kết cấu kinh tế đa dạng, phong phú và năng động, người nông dân sẽ dần trở thành công nhân, nhờ đó sẽ thoát dần khỏi sự phụ thuộc hoàn toàn vào tự nhiên, tạo sự phát triển triển bền vững của nông nghiệp, nông thôn. Như vậy, sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn, sự đổi mới bộ mặt xã hội nông thôn không chỉ là nội dung của công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn, mà còn là thước đo hiệu quả của quá trình đó.
Thứ tư, chuyển dịch cơ cấu thành phần kinh tế theo hướng phát huy cao độ các nguồn lực từng vùng nông thôn.
Quá trình thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn tất yếu dẫn đến quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng từng bước hình thành cơ cấu công nghiệp - nông nghiệp - dịch vụ hiện đại, kết hợp nhiều thành phần kinh tế trên cơ sở đa dạng hoá các hình thức sử hữu ở nông thôn. Sự phát triển ba ngành cơ bản trên trong một cơ cấu hữu cơ nhiều thành phần kinh tế với các tỷ trọng hợp lý cùng với việc áp dụng những quy trình công nghệ hiện đại sẽ đưa khu vực nông thôn phát triển với tốc độ nhanh và hiệu quả.
Để phát huy các nguồn lực ở nông thôn, trước hết phải tập trung xây dựng và phát triển đa dạng các hình thức kinh tế hợp tác trên cơ sở tự nguyện của các hộ nông dân, trong đó hợp tác xã là nòng cốt. Trên cơ sở chuyển đổi hợp tác xã kiểu cũ thành hợp tác xã kiểu mới hoặc thành lập mới các hợp tác xã theo luật để đẩy mạnh các hoạt động dịch vụ cho sản xuất của kinh tế hộ như: dịch vụ kỹ thuật (bảo vệ thực vật, nhân giống và cung cấp giống, dịch vụ điện nước, dịch vụ làm đất), dịch vụ tài chính, dịch vụ thương mại, tiêu thụ sản phẩm... Kết hợp hài hoà các hình thức sở hữu, phương thức quản lý, mô hình tổ chức kinh tế và quan hệ phân phối trong sản xuất, kinh doanh của các hợp tác xã sẽ tạo cơ hội cho việc làm và tăng thu nhập cho nông dân.
Kinh tế hộ nông dân đang là lực lượng tạo ra hầu hết các nông sản chủ yếu cho tiêu dùng trong nước và xuất khẩu. Đặc điểm của các vùng nông thôn là sản xuất nhỏ, phân tán nên việc xác định hộ nông dân, hộ dân cư nông thôn (kinh tế các thể, tiểu thủ) là đơn vị kinh tế cơ sở tự chủ có tác động rất lớn đến việc khai thác triệt để các nguồn lực phân tán ở nông thôn. Xu hướng phát triển kinh tế hộ nông dân ở nông thôn nước ta là phải ngày càng đa dạng, phong phú trong nhiều ngành nghề, nhiều lĩnh vực, với nhiều trình độ. Tuy nhiên, do tư duy của nền kinh tế hộ là tư duy sản xuất nhỏ nên hiệu quả kinh doanh thấp, do đó cần có sự hướng dẫn, giúp đỡ và hỗ trợ các hộ nông dân phát triển thành kinh tế trang trại, hoặc tự nguyện liên kết lại với nhau để có đủ sức mạnh vươn lên trong cơ chế thị trường.
Đầu tư xây dựng thành phần kinh tế nhà nước trong nông thôn đủ mạnh để hỗ trợ cho nông dân và nông thôn, xứng đáng là thành phần chủ đạo ở nông thôn. Trong các doanh nghiệp Nhà nước trong nông nghiệp và công nghiệp chế biến ở nông thôn phải được phát huy vai trò và nâng cao hiệu quả hoạt động theo hướng tập trung vào các hoạt động cung ứng điện, nước, kỹ thuật, vận tải, tài chính – tín dụng, tiêu thụ sản phẩm... cho các thành phần kinh tế khác ở nông thôn. Các nông, lâm trường quốc doanh phát triển mạnh sẽ thúc đẩy kinh tế nông thôn phát triển, đặc biệt là nông thôn miền núi, do đó sẽ giảm dần sự cách biệt giữa các vùng trong nước.
Sự phát triển của kinh tế thị trường đòi hỏi kinh tế tư nhân, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài phải được tạo điều kiện để ngày càng phát triển. Đây là những thành phần kinh tế có điều kiện về vốn, về công nghệ, lại rất năng động, do đó sự phát triển của nó sẽ thu hút được các nguồn vốn lớn hơn, tạo sự phát triển mạnh mẽ hơn cho khu vực kinh tế nông thôn.
1.2.2. Thực hiện thuỷ lợi hoá, điện khí hoá, cơ khí hoá và sinh học hoá trong nông nghiệp
Một trong những mục tiêu lớn của công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn là cải tạo nền nông nghiệp thủ công, lạc hậu, năng suất thấp, tự cấp, tự túc thành nền nông nghiệp cơ khí hiện đại, năng suất cao, tạo khối lượng nông sản hàng hoá lớn, xây dựng nông thôn mới văn minh, hiện đại. Để đạt được điều đó, nền nông nghiệp và kinh tế nông thôn phải được thực hiện cơ giới hoá, điện khí hoá, thuỷ lợi hoá và sinh học hoá..
Cơ giới hoá
Khi nói về vai trò của công cụ lao động, Các Mác đã viết: “Những thời đại kinh tế khác nhau không phải ở chỗ chúng sản xuất ra cái gì, mà là ở chỗ chúng sản xuất bằng cách nào, với những công cụ nào”. Trong hoạt động nông nghiệp, việc sử dụng các nông cụ cơ giới ngày càng hiện đại cũng là điều kiện trực tiếp để tăng năng suất lao động và do đó tăng thặng dư nông nghiệp. Lịch sử phát triển nông nghiệp thế giới và các nước trong khu vực đã cho thấy, muốn có một nền nông nghiệp bền vững, năng suất lao động cao thì không thể dựa vào những nông cụ truyền thống thô sơ với sức kéo của trâu bò là chủ yếu, mà phải thay thế về cơ bản lao động thủ công bằng lao động sử dụng máy móc. Chỉ có trang bị các công cụ cơ giới cho nông nghiệp trong tất cả các khâu, từ sản xuất đến thu hoạch, vận chuyển và chế biến thì mới xoá được tình trạng nghèo nàn và lạc hậu ở khu vực nông thôn nói riêng và toàn bộ nền kinh tế nói chung.
Đẩy mạnh cơ giới hoá sản xuất nông nghiệp không chỉ làm tăng năng suất lao động nông nghiệp, mà còn có tác động đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn thông qua việc giải phóng một số bộ phận lao động nông thôn ra khỏi lĩnh vực nông nghiệp. Hơn nữa, năng suất lao động tăng lên, đất trồng sớm được giải phóng, do đó lại có thể tăng thêm mùa vụ, tăng sản lượng và giá trị thu nhập. Với những tác động đó, cơ giới hoá sản xuất nông nghiệp là nội dung quan trọng của công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn hiện nay.
Điện khí hoá
Điện khí hoá là điều kiện để các công cụ cơ giới phát huy tác dụng. Sự phát triển của lĩnh vực điện năng tạo cơ hội sử dụng điện rộng rãi trong sản xuất, do đó sẽ làm tăng sức sản xuất của các công cụ lao động. Ở Việt Nam, vai trò của điện khí hoá nông thôn mặc dù đã được đặt ra khá lâu, nhưng thực tế mới chỉ được ứng dụng một cách rộng rãi vào khoảng giữa thập kỷ 90 của thế kỷ XX khi mạng lưới điện quốc gia về đến nông thôn. Tuy nhiên mức độ điện khí hoá ở nông thôn còn rất hạn chế cả về phạm vi lẫn chất lượng và đối tượng sử dụng.
Ngay từ đầu thế kỷ XX, V.I.Lê -Nin đã rất coi trọng vai trò của điện khí hoá trong sự phát triển kinh tế, xây dựng chủ nghĩa xã hội. Ở Việt Nam, Đảng ta cũng xác định là “điện phải đi trước một bước”, bởi muốn xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội thì không thể thiếu hệ thống điện quốc gia, trong đó có việc cung cấp năng lượng ổn định cho nông thôn để vừa phục vụ nhu cầu sinh hoạt của dân cư, vừa phục vụ nhu cầu sản xuất kinh doanh.
Thực hiện nội dung điện khí hoá nông thôn trong những năm trước mắt là đẩy mạnh xây dựng các trạm điện với công suất khác nhau không chỉ đến tận các huyện, mà còn phải đến tận các xã, thôn. Để đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn trong giai đoạn tới, trên phạm vi toàn quốc điện khí hoá nông thôn phải phát triển theo hướng phủ kín mạng lưới điện đến 100% số thôn với chất lượng điện đảm bảo về công suất, cường độ an toàn. Chuyển đổi nhanh hình thức quản lý kinh doanh điện với hướng ưu tiên cho phát triển điện nông thôn và phục vụ nông nghiệp, cải tạo hệ thống cấp điện, dẫn điện hiện tại, đảm bảo cho giá điện nông thôn ít nhất là bằng và thấp hơn giá điện thành phố và khu vực công nghiệp, để đến năm 2010 giải quyết cơ bản nhu cầu dùng điện ổn định và có chất lượng cao ở khu vực nông thôn.
Thuỷ lợi hoá
Nước là một trong bốn điều kiện và là điều kiện cơ bản nhất của sản xuất nông nghiệp, đặc biệt với nền nông nghiệp lúa nước như Việt Nam. Năng suất cây trông, vật nuôi cao hay thấp phụ thuộc rất lớn vào việc có cung cấp đầy đủ nước cho nó một cách thật sự khoa học hay không, bời dù công cụ lao động có hiện đại đến mấy, dù phân bón và giống tốt đến mấy mà tưới tiêu không chủ động được thì năng suất cây trồng vẫn bị hạn chế. Đó là một thực tế ở các vùng nông thôn nước ta: có điều kiện đất đai thuận lợi cho sản xuất lúa nước, nhưng do thời tiết bất thuận (thường bị ngập úng sau bão lụt) nên hàng năm đã bị mất đi hàng ngàn tấn lương thực; hay ở một số vùng do thường xuyên bị nắng hạn, thiếu nước nên năng suất cây trồng rất thấp, thậm trí có nơi còn bị mất mùa. Cả hai trường hợp trên đều có nguyên nhân từ việc không chủ động được nguồn nước tưới tiêu hợp lý.
Sinh học hoá
Sự phát triển của công nghệ sinh học có vai trò ngày càng lớn đối với nền kinh tế nông nghiệp. Nó không chỉ tác động đến việc cải tạo giống cây, giống con hay tạo ra những loại giống mới có năng suất, chất lượng cao, mà còn tác động rất lớn đến khâu chế biến, bảo quản giá trị sử dụng của sản phẩm. Vì vậy công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn ở Việt Nam hiện nay có nội dung là: áp dụng nhanh các thành tựu của cách mạng sinh học để tạo và nhân nhanh giống cây trồng, vật nuôi, đặc biệt là áp dụng thành tựu về giống có ưu thế lai như kỹ thuật cấy truyền hợp tử, kỹ thuật gen hocmon sinh trưởng; áp dụng công nghệ sản xuất các loại phân vi sinh cố định nitơ để thay thế dần phân đạm hoá học; sản xuất các chế phẩm vi sinh để bảo vệ cây trồng thay thế dần các loại hoá chất độc hại đối với người và gia súc; sản xuất các loại thuốc thú y và các loại vacxin thế hệ mới.... Đó là con đường vừa làm tăng năng suất cây trồng, vật nuôi, vừa tạo được nông phẩm “sạch” đảm bảo an toàn sức khoẻ cho người tiêu dùng.
Trong điều kiện hiện nay, nội dung cách mạng sinh học ở nước ta là phải tập trung vào các khâu chính của quá trình sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp, đặc biệt là trong khâu giống và các khâu sau thu hoạch để nâng cao giá trị sản phẩm tiêu dùng và xuất khẩu.
1.2.3. Phát triển công nghiệp nông thôn, trong đó chú trọng phát triển các làng nghề truyền thống và làng nghề mới
Công nghiệp nông thôn là bộ phận của công nghiệp với các trình độ phát triển khác nhau, phân bổ ở nông thôn, gắn liền với sự phát triển kinh tế, xã hội ở nông thôn bao gồm nhiều ngành nghề, đan kết chặt chẽ với kinh tế nông thôn, nhất là sản xuất nông nghiệp. Công nghiệp nông thôn không phải là toàn bộ các hoạt động phi nông nghiệp hoặc bó hẹp trong các hoạt động tiểu thủ công nghiệp ở nông thôn, mà bao gồm bộ phận sản xuất công nghiệp và các dịch vụ có tính chất công nghiệp ở nông thôn của thợ thủ công chuyên nghiệp và không chuyên nghiệp; các doanh nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn, các hợp tác xã và các tổ hợp, các tổ sản xuất công nghiệp và thủ công nghiệp, các xí nghiệp công nghiệp quốc doanh chế biến lương thực, thực phẩm hoặc xí nghiệp công nghiệp khác, quy mô vừa và nhỏ mà hoạt động của nó trực tiếp gắn với kinh tế ở nông thôn.
Phát triển công nghiệp nông thôn có tác động tích cực và có hiệu quả tới toàn bộ sự phân công lao động, tới chuyển dịch cơ cấu kinh tế và đẩy mạnh sản xuất hàng hoá ở nông thôn. Phát triển công nghiệp nông thôn là quá trình có tính quy luật bắt nguồn từ sự phát triển của lực lượng sản xuất và phân công lao động xã hội theo vùng lãnh thổ. Thực trạng nghèo đói, sự phân hoá về kinh tế và xã hội giữa các vùng lãnh thổ đã và đang đặt ra yêu cầu cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá là xây dựng hệ thống các cơ sở công nghiệp nông thôn đồng bộ và rộng khắp trên địa bàn nông thôn. Đây là con đường cơ bản và quan trọng trong trước mắt cũng như lâu dài để tăng năng suất và hiệu quả của sản xuất ở nông thôn, cải biến phong cách sống và thị hiếu tiêu dùng ở nông thôn theo hướng xích lại gần với phong cách và lối sống đô thị. Sự phát triển công nghiệp nông thôn sẽ tạo thêm việc làm và tăng thu nhập cho dân cư nông thôn, tạo điều kiện để nâng cao mức sống, nhờ đó sẽ làm giảm sự khác biệt giữa thành thị và nông thôn cả trong sản xuất lẫn trong tiêu dùng. Nhờ những ảnh hưởng nói trên của công nghiệp nông thôn mà sự chuyển dịch tự phát của dân cư nông thôn sẽ làm giảm bớt những căng thẳng về kinh tế, xã hội ở các đô thị do mật độ dân cư tập trung quá lớn.
Sự phát triển công nghiệp nông thôn, đặc biệt là công nghiệp chế biến, nông, lâm, thuỷ sản có tác động mạnh đến sự phát triển của sản xuất nông, lâm, thuỷ sản và đời sống của cư dân nông thôn. Các nhà nghiên cứu đã chỉ ra rằng, trong giá trị của nông sản chế biến, giá trị của nguyên liệu nông, lâm, thuỷ sản thường chiếm đến 70-80%. Cho nên, quy mô, tốc độ và cơ cấu phát triển công nghiệp chế biến phụ thuộc rất lớn vào trình độ và tính chất phát triển của các ngành nông, lâm, ngư nghiệp. Nhưng mặt khác, nhờ phát triển các ngành công nghiệp chế biến nông, lâm, thuỷ sản mà các ngành nông, lâm, ngư nghiệp sẽ được phát triển theo hướng đa ngành, chuyên canh, thâm canh, có năng suất cao, tỷ suất hàng hoá lớn, giá trị gia tăng nhiều và tỷ lệ tổn thất sau khi thu hoạch thấp.
Phát triển các làng nghề truyền thống và các ngành nghề tiểu, thủ công nghiệp đa dạng ở nông thôn cũng là nội dung phát triển công nghiệp nông thôn. Các ngành nghề tồn tại phổ biến ở nông thôn là: chế biến nông, lâm, thuỷ sản, sản xuất vật liệu xây dựng, gốm, sứ, thuỷ tinh, rèn, đúc, sửa chữa cơ khí, gia công, may mặc...Sự phát triển các ngành nghề tiểu thủ công nghiệp có ưu thế là sử dụng nguồn nguyên liệu và lao động tại chỗ nên nó khai thác được lợi thế của mỗi vùng, mỗi địa phương. Do đó, các địa phương phải tiến hành phân công lại lao động trên địa bàn theo hướng gắn sự phát triển công nghiệp với nông nghiệp và nông thôn, từng bước hình thành cơ cấu kinh tế công - nông nghiệp. Đồng thời tăng cường và phát huy những giá trị văn hoá truyền thống của dân tộc thể hiện thông qua các mặt hàng được chế biến từ bàn tay khéo léo, khối óc tinh tế của người thợ thủ công, giới thiệu những nét đẹp độc đáo của văn hoá của dân tộc.
Sự phát triển của công nghiệp và làng nghề ở nông thôn sẽ làm “thức dậy” tiềm năng to lớn về nguồn vốn phân tán trong dân cư, về một thị trường rộng lớn, hấp dẫn, một nguồn lao động dồi dào, cả về nguồn tài nguyên khoáng sản..., đồng thời kéo theo sự phát triển của nhiều hoạt động dịch vụ, thương mại, xây dựng, vận tải, thông tin, văn hoá. Sự phát triển các dịch vụ này vừa thúc đẩy nông nghiệp và công nghiệp nông thôn phát triển, vừa thu hút được số lao động dư thừa ở nông thôn, làm thay đổi cơ cấu lao động ở nông thôn nói riêng và cơ cấu kinh tế nông thôn nói chung. Là những bộ phận hợp thành cơ cấu kinh tế nông thôn, công nghiệp, nông nghiệp và dịch vụ cùng phát triển trong mối quan hệ tương hỗ với nhau. Vì vậy, trong quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá việc kết hợp phát triển công nghiệp, nông nghiệp và dịch vụ nông thôn ngay từ đầu là hết sức cần thiết đối với một nước thực hiện công nghiệp hoá từ nông nghiệp.
Từ sự phân tích trên có thể nói công nghiệp nông thôn có vai trò ngày càng to lớn, hiện đang thu hút khoảng trên 60% tổng số lao động và tạo ra khoảng trên 50% giá trị tổng sản lượng công nghiệp. Công nghiệp nông thôn thúc đẩy sự hình thành, hoàn thiện và mở rộng thị trường, góp phần nâng cao trình độ kỹ thuật, mở rộng quy mô của quá trình sản xuất và tái sản xuất kinh tế nông thôn. Công nghiệp nông thôn gắn chặt với sự phát triển kinh tế xã hội nông thôn nó tác động đến tất các quá trình của sản xuất nông nghiệp. Tuy nhiên, việc chuyển nông thôn sang giai đoạn mới chúng ta phải đương đầu với những khó khăn và thách thức mới đòi hỏi phải có những định hướng đúng đắn và giải pháp tích cực, phù hợp.
1.2.4. Phát triển nguồn nhân lực cho nông nghiệp, nông thôn
Công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn là sự nghiệp của toàn dân, nhưng trước hết và trực tiếp là sự nghiệp của nông dân. Vì vậy trình độ của nông dân, đặc biệt là của cán bộ quản lý các cấp ở nông thôn có ảnh hưởng rất lớn đến thành công của quá trình này. Người nông dân Việt Nam đã có hàng nghìn năm gắn bó với sản xuất nông nghiệp, nên kiến thức của họ về kỹ thuật nông nghiệp cũng gắn rất chặt với kỹ thuật canh tác cổ truyền, còn những kiến thức hiện đại về phát triển nông nghiệp, nông thôn thì vẫn còn rất thấp, thạm trí nhiều nơi ở vùng sâu, vùng xa còn chưa được tiếp cận. Họ chỉ quen với cung cách làm ăn của tư duy sản xuất nhỏ, do đó năng suất lao động thấp, làm không đủ ăn.
Người nông dân trong thời đại công nghiệp hoá, hiện đại hoá, thời đại phát triển nền kinh tế trong điều kiện mở rộng phân công và hợp tác quốc tế thì không thể là người nông dân kém hiểu biết, với những kinh nghiệm sản xuất cổ truyền đó. Sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn đòi hỏi phải nâng cao trình độ dân trí cho dân cư nông thôn, đặc biệt là đối với lực lượng lao động, mà điều này chỉ có được khi có sự tác động tích cực của hệ thống giáo dục - đào tạo. Việc phổ cập giáo dục cho cư dân nông thôn là điều kiện đầu tiên tạo cho nông dân khả năng tiếp cận được với những thành tựu của cuộc cách mạng khoa học - kỹ thuật trong nông nghiệp, từ đó sẽ cho phép họ nâng cao trình độ kỹ thuật canh tác, tăng năng suất lao động. Đây là cơ sở để người nông dân đủ sức làm chủ hoạt động kinh doanh của mình, chủ động lựa chọn các phương án sản xuất tối ưu nhằm đạt hiệu quả cao. Vì vậy, việc đầu tư phát triển nguồn nhân lực cho nông nghiệp, nông thôn là rất có ý nghĩa, bởi không có đầu tư nào mang lại nguồn lực lớn như đầu tư vào nguồn nhân lực, đặc biệt là đầu tư cho giáo dục. Sử dụng nguồn nhân lực trình độ cao sẽ làm tăng hàm lượng chất xám trong giá trị hàng hoá, do đó nâng cao sức cạnh tranh c._.g 8/1996.
4- Nguyễn - Sỹ (1997), Một số giải pháp chủ yếu để phát triển kinh tế - xã hội ở Bắc Ninh, Tạp chí Giáo dục lý luận, số 4- tháng 8/1997, trang 28.
5- Nguyễn - Sỹ (2001), Làng nghề ở Bắc Ninh, Tạp chí Cộng sản số 14- tháng 7/2001, trang 46.
6- Nguyễn - Sỹ (2002), tham gia nghiên cứu, Những biện pháp chủ yếu thúc đẩy công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn vùng đồng bằng sông Hồng, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội-2002. Tác giả: GS.TS Nguyễn Đình Phan, PGS.TS Trần Minh Đạo, TS Nguyễn Văn Phúc.
7- Nguyễn - Sỹ (2005), tham gia nghiên cứu, Những giải pháp nhằm phát triển làng nghề ở một số tỉnh đồng bằng sông Hồng, đề tài nghiên cứu câp bộ, Trung tâm thông tin Khoa học và công nghệ Quốc gia, Chủ nhiệm đề tài GS-TS Nguyễn Trí Dĩnh.
8- Nguyễn - Sỹ (2006), Bắc Ninh đẩy nhanh tiến trình công nghiệp hoá, hiện đại hóc nông nghiệp nông thôn, Tạp chí Cộng sản, tháng 8/2006.
DANH MỤC TÀI LIỆU KHAM KHẢO
1- A Dam Smith (1997), Của cải của các dân tộc , Nxb Giáo dục, Hà Nội.
2- Ban Bí thư Trung ương Đảng khoá IV (1981), Chỉ thị 100-CT/TW ngày 13/1/1981
3- Ban chấp hành Đảng bộ tỉnh Bắc Ninh (2005), Văn kiện Đại hội lần thứ 17 (12/2005)
4- Ban chấp hành Đảng bộ tỉnh Hà Tây (2005), Văn kiện Đại hội lần thứ 14, (12/2005)
5- Ban chấp hành Đảng bộ tỉnh Hải Dương (2005), Văn kiện Đại hội lần thứ 14, (12/2005)
6- Ban chấp hành Đảng bộ tỉnh Hưng Yên (2005), Văn kiện Đại hội lần thứ 16, (12/2005)
7- Ban chấp hành Đảng bộ tỉnh Vĩnh Phúc (2005), Văn kiện Đại hội lần thứ 14, (12/2005)
8- Ban Kinh tế Trung ương (2005), Báo cáo 3 năm thực hiện nghị quyết 15-NQ/TW khoá IX về đẩy nhanh công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn thời kỳ 2001 – 2010, ngày 30/5/2005.
9- Ban Tư tưởng Văn hoá Trung ương, Bộ Nông nghiệp và PTNT (2002). Con đường công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn Việt Nam. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
10- Bộ Chính trị BCH TW Đảng (2005), Về phát triển kinh tế xã hội và đảm bảo an ninh quốc phòng vùng đồng bằng sông Hồng đến 2010 và định hướng đến 2020, Nghị quyết 54, ngày 14/9/2005
11- Bộ nông nghiệp và công nghiệp thực phẩm (1993), Chủ trương chính sách của Đảng, nhà nước về tiếp tục đổi mới và phát triển nông nghiệp, nông thôn, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội.
12- Bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn (2001), Một số vấn đề về công nghiệp hoá, hiện đại hoá trong phát triển nông nghiệp và kinh tế nông thôn thời kỳ 2001 – 2020, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội.
13- C.Mác (1975), Phê phán khoa học kinh tế chính trị, quyển 1, tập 3. Nxb sự thật, Hà Nội
14- Nguyễn Sinh Cúc (2003), Nông nghiệp, nông thôn Việt Nam thời kỳ đổi mới. Nxb Thống kê, Hà Nội.
15- Cục Thống kê Bắc Ninh (2005), Kết quả khảo sát mức sống hộ gia đình tỉnh Bắc Ninh, năm 2004, Nxb Thống kê, Hà Nội.
16- Cục Thống kê Bắc Ninh (2003), Kết quả tổng điều tra nông nghiệp nông nghiệp và thuỷ sản năm 2001, Bắc Ninh, 12/2003
17- Cục Thống kê Bắc Ninh, Niên giám thống kê 1997, 1998, 1999, 2001, 2002, 2003, 2004, 2005.
18- Cục Thống kê Bắc Ninh (2005), Thực trạng doanh nghiệp Bắc Ninh, Nxb Thống kê, Hà Nội.
19- Nguyễn Trí Dĩnh (1997), Lịch sử kinh tế quốc dân, Nxb Giáo dục, Hà Nội
20- Vũ Văn Dũng (2004), Cơ sở khoa học để xây dựng tiêu chí, bước đi cơ chế chính sách trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội.
21- Đại học Kinh tế quốc dân (1998), Kinh tế Chính trị học tập 2, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
22- Đảng Cộng sản Việt Nam (2004), Các Nghị quyết của Trung ương Đảng (2001 – 2004), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội
23- Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội Đại biểu Đảng toàn quốc lần thứ III, IV, V, VI, VII, VIII, IX, X và Văn kiện các Hội nghị BCH Trung ương.
24- Đỗ Đức Định (1999), Một số vấn đề về chiến lược công nghiệp hoá và lý thuyết phát triển. Nxb Thế giới.
25- Nguyễn Đình Hương (2000), Thực trạng và giải pháp phát triển kinh tế trang trại trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Việt Nam, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
26- Hồ Chí Minh toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, năm 2000, trang 180
27- Hồ Chí Minh, (1995), Biên niên tiểu sử, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội
28- Đỗ Hoài Nam (2004), Một số vấn đề công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn ở Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
29- Nguyễn Trọng Nghĩa (2004), Tác động của quá trình công nghiệp hoá đến sự phát triển kinh tế của Đài Loan trong thời kỳ (1949 – 2000) thực trạng và bài học kinh nghiệm đối với Việt Nam. Luận án tiến sỹ, Hà Nội.
30- Nguyễn Đình Phan (2002), Những biện pháp chủ yếu thúc đẩy công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp. nông thôn vùng đồng bằng sông Hồng, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội
31- Cao Huy Quân, Lý Thành (chủ biên) (1992), 40 năm kinh nghiệm Đài Loan, Nxb Đà Nẵng.
32- Phạm Thị Quý (2002), Chuyển đổi mô hình kinh tế ở Việt Nam, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
33- Sở Công nghiệp Bắc Ninh (2005), Báo cáo kết quả hoạt động thực hiện Nghị quyết 02-NQ/TU về phát triển làng nghề, khu, cụm công nghiệp làng nghề.
34- Sở Nông nghiệp và phát triển nông thôn Bắc Ninh (2005), Báo cáo đưa tiến bộ khoa học kỹ thuật phục vụ sản xuất nông nghiệp
35- Sở Tài nguyên - Môi trường Bắc Ninh (2005), Đề án quy hoạch môi trường Bắc Ninh thời kỳ 2006 – 2020, kế hoạch bảo vệ môi trường giai đoạn 2006 – 2010.
36- Sta-lin, toàn tập 12 (1965). Nxb Sự thật, Hà Nội
37- Lê Đình Thắng (2002), Định hướng chiến lược phát triển nông nghiệp, nông thôn nước ta thập niên đầu thế kỷ 21, kỷ yếu hội thảo khoa học kinh tế các trường đại học
38- Thủ tướng chính phủ (2004), Về phương hướn chủ yếu phát triển kinh tế - xã hội Vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ đến năm 2010 và tầm nhìn đến năm 2020. Quyết định số145/2004/QĐ TTg, ngày 13/8/2004
39- Tỉnh uỷ Bắc Ninh (2005), Các văn bản chỉ đạo của Tỉnh uỷ Bắc Ninh từ 2001 – 2005, Bắc Ninh, tháng 5/2005.
40- Tỉnh uỷ Bắc Ninh (2006), Nghị quyết của Ban chấp hành đảng bộ tỉnh về tiếp tục đẩy mạnh xây dựng và phát triển các khu công nghiệp, cụm công nghiệp gắn với phát triển đô thị theo hướng hiện đại hoá” ngày 29/5/2006.
41- Tỉnh uỷ Bắc Ninh (2001), Văn kiện đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ 15, 16,17
42- Tỉnh uỷ Hưng Yên(2005), Chương trình hành động thực hiện NQTW 5 (khoá 9) về đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn giai đoạn 2001 – 2005 và định hướng đến 2010.
43- Tổng cục thống kê (2003), Kết quả tổng điều tra nông thôn, nông nghiệp và thuỷ sản, Nxb Thống kê, Hà Nội.
44- Tổng cục thống kê (2001), Tình hình kinh tế xã hội Việt Nam 10 năm 1991 – 2000, Nxb Thống kê, Hà Nội.
45- Nguyễn Thế Thảo (2005), Phát huy lợi thế so sánh đẩy mạnh phát triển kinh tế tỉnh Bắc Ninh. Luận án tiến sỹ kinh tế, Hà Nội
46- Trung tâm kinh tế châu Á Thái Bình Dương (VAPEC) (1998), Nông nghiệp Việt Nam bước vào thế kỷ XXI, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
47- Trung tâm thông tin khoa học và công nghệ quốc gia (2005), Những giải pháp nhằm phát triển làng nghề ở một số tỉnh đồng bằng sông Hồng, báo cáo kết quả đề tài nghiên cứu khoa học và công nghệ .
48- Nguyễn Kế Tuấn (2006), Công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn ở Việt Nam, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội
49- Uỷ ban nhân dân tỉnh Bắc Ninh (2005), Kế hoạch phát triển kinh tế, xã hội 2006 – 2010 và định hướng đến năm 2020
50- V.I.Lê-Nin (1976), Sự phát triển của tư bản ở Nga, Nxb Tiến bộ Matxcova năm 1976, trang 542 - 543
51- Mai Thị Thanh Xuân (2004), Công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn ở Bắc Trung Bộ, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
MỤC LỤC
lỜI CAM ĐOAN
MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CHỮ VIẾT TẮT
DANH MỤC CÁC BẢNG VÀ ĐỒ THỊ
PHỤ LỤC
DANH MỤC CÁC BẢNG, BIỂU ĐỒ
ĐỒ THỊ VÀ MÔ HÌNH
Bảng 2.1
Hiện trạng đất đai tỉnh Bắc Ninh
55
Bảng 2.2
Tình hình nhân khẩu và lao động tỉnh Bắc Ninh
56
Bảng 2.3
Tổng sản phẩm và nhịp độ tăng trưởng khu vực Bắc Ninh với Hà Bắc thời kỳ 1990 – 1997
67
Bảng 2.4
Cơ cấu kinh tế khu vực Bắc Ninh so với cả nước 1990-1996
68
Bảng 2.5
So sánh tăng trưởng kinh tế khu vực Bắc Ninh, đồng bằng Bắc Bộ và cả nước (1991 - 1995)
69
Bảng 2.6
Kết quả thực hiện một số chỉ tiêu kinh tế (1997 – 2005)
71
Bảng 2.7
Một số chỉ tiêu của Bắc Ninh so với vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ và cả nước năm 2004
73
Bảng 2.8
Giá trị sản xuất, cơ cấu và tốc độ phát triển nông nghiệp
75
Bảng 2.9
Một số chỉ tiêu phát triển ngành trồng trọt (1996 - 2005)
77
Bảng 2.10
Hiệu quả sản xuất nông nghiệp 5 năm (2001 – 2005)
79
Bảng 2.11
Giá trị sản xuất và tăng trưởng công nghiệp theo khu vực kinh tế
83
Bảng 2.12
Số làng nghề và lao động trong các làng nghề ở Bắc Ninh
85
Bảng 2.13
Tổng hợp hoạt động trong các làng nghề, năm 2005
87
Bảng 2.14
Các loại máy móc chủ yếu, năm 2003
92
Bảng 2.15
Mức độ cơ giới hóa các khâu sản xuất ở Bắc Ninh
93
Bảng 2.16
Cơ cấu hộ khu vực nông thôn so sánh với các tỉnh đồng bằng sông Hồng và cả nước
96
Bảng 3.1
Dự báo một số chỉ tiêu đến năm 2020
134
Biểu đồ 1
Tốc độ tăng trưởng kinh tế và các lĩnh vực
72
Biểu đồ 2
Cơ cấu GDP năm 2000 và 2005
73
Biểu đồ 3
Cơ cấu lao động qua các giai đoạn
74
Biểu đồ 4
Cơ cấu nội bộ ngành nông nghiệp
76
Đồ thị 1
Chỉ số phát triển tổng sản phẩm giai đoạn 1997-2005
70
Mô hình 1
Tổng quát về các yếu tố tác động đến công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn
38
DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CHỮ TỪ VIẾT TẮT
ASEAN
Association of Southeast Asian Nations
Hiệp hội các nước Đông Nam Á
EU
European Union
Liên hiệp Châu Âu
FDI
World Dental Federation
Đầu tư trực tiếp nước ngoài
GDP
Gross Domestic Product
Tổng sản phẩm quốc nội
GNP
Gross National Product
Tổng thu nhập quốc dân
ICOR
Incremental Capital Output Rate
Hệ số gia tăng vốn đầu ra
KCN
Khu Công nghiệp
NGO
Non-Governmental Organizations
Tổ chức phi chính phủ
NICs
National Institute of Clinical Studies
Các nước mới công nghiệp hoá
ODA
Official Development Assistance
Hỗ trợ phát triển chính thức
SMEs
Doanh nghiệp vừa và nhỏ
UNIDO
United Nations Industrial Development Organization
Tổ chức phát triển công nghiệp của Liên hợp quốc
USD
United States dollar
Đô la Mỹ
VAC
Vườn ao chuồng
WB
World Bank
Ngân hàng thế giới
WTO
World Trade Organization
Tổ chức thương mại thế giới
PHỤ LỤC 1
KINH NGHIỆM CÁC TỈNH
1- Kinh nghiệm công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn tỉnh Hưng Yên
Hưng Yên là tỉnh nằm trong vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ, liền kề với thủ đô Hà Nội, giáp ranh với một số tỉnh trong đó có Bắc Ninh. Hưng Yên có trên 1,1 triệu người, trong đó dân số nông thôn chiếm 89% tổng lao động trong nông nghiệp chiếm 78,9%, trong ngành dịch vụ chiếm 10,4%, trong công nghiệp xây dựng chiếm 10,7%. Vị trí địa lý, điều kiện thời tiết, khí hậu, lao động đất đai (đất dùng vào mục đích nông nghiệp chiếm 69,2%) nhìn chung thuận lợi cho sản xuất nông nghiệp nhất là bố trí cơ cấu cây trồng, vật nuôi, thâm canh... Những năm qua, tỉnh đã có nhièu nỗ lực thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội đẩy nhanh quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn. Tốc độ tăng trưởng bình quân 5 năm (2001 – 2005) 12,3% (nông nghiệp tăng 4,5%, công nghiệp, xây dựng tăng 20,5%, dịch vụ tăng 15,2%) quy mô kinh tế của tỉnh không ngừng được mở rộng, năm 2005 tăng 1,78 lần so với năm 2000. Thu nhập GDP bình quân đầu người năm 2005 đạt 7,3 triệu đồng, tương đương với 463 USD/ người, tăng 1,92 là so với năm 2000 cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng gia tăng tỷ trọng khu vực công nghiệp, xây dựng, giảm tỷ trọng khu vực nông nghiệp (năm 2005 ngành công nghiệp xây dựng đạt 38%, dịch vụ đạt 31,1%, nông, lâm ngư nghiệp đạt 30,5%. Cơ cấu kinh tế tế chuyển dịch kéo theo cơ cấu thành phần kinh tế, cơ cấu lao động. Nét nổi bật là sự chuyển dịch một số ngành nông nghiệp, do chú trọng khai thác và phát huy lợi thế sinh thái nông nghiệp của tỉnh và chủ trương phát triển nông nghiệp của Đảng và Nhà nước, sản xuất nông nghiệp đã phát triển theo hướng sản xuất hàng hoá đa dạng, từng bước thích nghi với thị trường và phù hợp với tình hình đặc điểm của từng vùng trong tỉnh, vì vậy tỷ trọng cơ cấu ngành trồng trọt giảm 72% (2001) xuống còn 66,1% (2005) tỷ trọng cơ cấu chăn nuôi tăng lên 31,3% (2005), giá trị thu được bình quân trên 1ha canh tác đạt 37 triệu đồng năm 2005. Tỉnh đã có nhiều chủ trương, chính sách quy định khuyến khích sản xuất nông nghiệp phát triển sản xuất tiểu thủ công nghiệp nông thôn được chú trọng và từng bước mở rộng quy mô sản xuất, sản phẩm đa dạng phong phú, tổng tăng thu nhập cho người lao động, đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng nông nghiệp, nông thôn, đời sống nhân dân không ngừng được cải thiện, bộ mặt nông thôn đổi mới. Tuy nhiên, tốc độ tăng trưởng chưa vững chắc chưa tương xứng với tiềm năng của tỉnh, giá trị tăng trưởng nông nghiệp tăng chậm, hiệu quả đưa tiến bộ khoa học - kỹ thuật vào sản xuất nông nghiệp, công nghiệp chưa cao, vấn đề việc làm, thu nhập, môi trường, đời sống, đào tạo nghề cho người lao động còn những mặt hạn chế, là vấn đề bức xúc cần quan tâm.
Kết quả thực hiện chủ trương công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn Hưng Yên những năm qua có thể rút ra những bài học kinh nghiệm chủ yếu, trước hết. là phát huy lợi thế của tỉnh, từng địa phương, lĩnh vực, ngành nghề để tạo bước chuyển mạnh mẽ về cơ cấu kinh tế, kết hợp giữa phát triển kinh tế với giải quyết các vấn đề xã hội nhất là công tác xoá đói, giảm nghèo và việc làm. Thứ hai, là đẩy mạnh công tác quy hoạch, gắn kết chặt chẽ với khoa học phát triển khoa học kỹ thuật với quy hoạch tổng thể, quy hoạch ngành. Củng cố mở rộng các thị trường, chú trọng thị trường vốn để tạo nền tảng thúc đẩy mạnh mẽ kinh tế - xã hội phát triển. Ba là, đẩy mạnh tốc độ phát triển kinh tế - xã hội cần có các chính sách phù hợp, các giải pháp đồng bộ và có khả năng thực thi cao.
2- Kinh nghiệm công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn tỉnh Hải Dương
Hải Dương là một trong 8 tỉnh nằm trong vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ, liền kề với thủ đô Hà Nội, giáp ranh với một số tỉnh trong đó có tỉnh Bắc Ninh. Dân số toàn tỉnh năm 2005 là 1.711 nghìn người, trong đó dân số nông thôn chiếm 94,3% so dân số toàn tỉnh sản xuất. Các điều kiện về địa hình, khí hậu, giao thông, hệ thống sông ngòi... nguồn nhân lực thuận lợi, tạo cơ sở để thực hiện mục tiêu phát triển trong quá trình đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn.
Những năm qua, thực hiện Nghị quyết đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ 13, tỉnh đã xây dựng và chỉ đạo nhiều chương trình dự án, các công trình trọng điểm và xác định hướng trọng tâm chỉ đạo thực hiện các chương trình lớn là: Chương trình phát triển kinh tế nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hoá; chương trình phát triển công nghiệp địa phương; chương trình thu hút và sử dụng có hiệu quả mọi ngồn vốn đầu tư để phát triển; chương trình xây dựng kết cấu hạ tầng phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá;chương trình nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, giải quyết việc làm và chương trình xóa đói, giảm nghèo. Đồng thời tỉnh đã xây dựng nhiều đề án cụ thể để thực hiện chủ trương, phương hướng mục tiêu đề ra. Đó là đề án chuyển đổi cơ cấu cây trồng vật nuôi nhằm đạt 36 triệu đồng/ha, đất nông nghiệp vào năm 2005; đề án hướng dẫn nhân dân chuyển đổi ruộng đất từ ô thửa nhỏ thành ô thửa lớn; đề án kiên cố hoá 800 – 1000 Km kênh mương; đề án phát triển công nhgiệp thuỷ sản; đề án môi sinh và vệ sinh môi trường nông thôn. Xác định đầy đủ ý nghĩa và sự cần thiết của công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn và với những chủ trương, giải pháp phù hợp của đại phương, GDP của tỉnh liên tục tăng bình quân 10,5%/năm (thời kỳ 2000 – 2005). Cơ cấu nông, lâm, thuỷ sản, công nghiệp - xây dựng, dịch vụ chuyển dịch từ 34,8% - 37,2% - 28,0% năm 2000 sang 27,5% - 42,0% - 29,5% năm 2005. Cơ cấu lao động chuyển dịch đúng hướng. Tăng số lao động trong sản xuất phi nông nghiệp, giảm dần tỷ trọng nông nghiệp trong cơ cấu kinh tế (nông nghiệp 70%, công nghiệp - xây dựng 17%, dịch vụ 13%). Cơ cấu kinh tế nội bộ ngành nông nghiệp chuyển dịch theo hướng giảm giá trị sản xuất trồng trọt, tăng tỷ trọng chăn nuôi (năm 2005 trồng trọt 57,2%, công nghiệp 33,8%, dịch vụ 9%). Tỉnh Hải Dương là tỉnh vẫn duy trì diện tích sản xuất cây vụ đông, mặc dù đứng trước sự chọn lọc của thị trường về giá cả, chế biến diện tích cây vụ đông xấp xỉ đạt kế hoạch và bằng 38,2% diện tích canh tác. Diện tích lúa giảm, trong khi năng suất và chất lượng vẫn tăng (do áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật, xác định cơ cấu giống, cơ cấu mùa vụ) đạt giá trị sản phẩm trên 1ha đất nông nghiệp là 37,2 triệu đồng. Bước đầu hình thành và nhân rộng mô hình sản xuất trang trại, sản xuất rau an toàn, vùng sản xuất nông sản tập trung (chuyên san lúa, màu, cà rốt, dưa hấu...) đạt giá trị từ 70 – 100 triệu đồng/ha). Chuyển đổi mạnh diện tích cấy lúa hiệu quả thấp sang trồng cây ăn quả, rau màu và nuôi trồng thuỷ sản có giá trị kinh tế cao hơn. Kinh tế nông thôn cũng có sự chuyển biến tích cực, nhiều ngành nghề, làng nghề phục hồi và phát triển với nhiều mô hình tổ chức sản xuất kinh doanh phù hợp, các thành phần kinh tế trong nông nghiệp, nông thôn phát triển đúng hướng, sản phẩm đa dạng, giá trị sản xuất lĩnh vực này tăng bình quân 25,6%, chiếm tỷ trọng 22%.
Từ thực trạng kết quả đạt được cũng như những hạn chế tồn tại trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn tỉnh Hải Dương có thể rút ra một số bài học kinh nghiệm: Một là, phải luôn luôn xác định phát triển nông nghiệp, nông thôn là nhiệm vụ quan trọng chủ yếu của quá trình phát triển kinh tế - xã hội và nhất là những tỉnh mà sản xuất nông nghiệp là chủ yếu, đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hoá, nâng cao hiệu quả và thu nhập trên một đơn vị diện tích. Hai là, đẩy mạnh phát triển công nghiệp, ngành nghề và dịch vụ ở khu vực nông thôn, vừa phát huy ngành nghề truyền thống, và tận dụng và phát triển nguồn nhân lực dồi dào, có tay nghề nhằm giải quyết việc làm tăng thu nhập cho dân cư nông thôn. Ba là, đẩy mạnh phát triển kinh tế, trọng tâm và khuyến khích kinh tế hộ đầu tư cho phát triển sản xuất đồng thời tiếp tục đổi mới phát triển hợp tác xã dịch vụ để hỗ trợ kinh tế hộ và trang trại. Bốn là, quy hoạch phát triển sản xuất nông nghiệp gắn với quy hoạch giao thông, xây dựng, dịch vụ và các thiết chế công đồng văn hoá - xã hội, bảo vệ môi trường, đô thị hoá nông thôn, xây dựng nông thôn mới văn minh, theo hướng ngày càng hiện đại.
3- Kinh nghiệm công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn tỉnh Vính Phúc
Vĩnh Phúc là tỉnh thuộc vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ, giáp 4 tỉnh và liền kề với thủ đô Hà Nội. Tỉnh có diện tích tự nhiên 1.371,4Km2, dân số trung bình năm 2005 là 1.166 nghìn người, tỉnh có đường quốc lộ 2, đường sắt Hà Nội, Lào Cai chạy qua, liền kề với cảng hàng không quốc tế Nội Bài. Sự phát triển của Vĩnh Phúc sẽ góp phần cùng Hà Nội thúc đẩy tiến trình đô thị hoá, phát triển công nghiệp, giải quyết việc làm, giảm sức ép về đất đai, dân số, các nhu cầu về xã hội, du lịch, dịch vụ của thủ đô Hà Nội. Như vậy, vị trí địa lý, địa hình, khí hậu thuỷ văn, tài nguyên, đất đai, thổ nhưỡng, dân số, lao động tỉnh Vĩnh Phúc là những yếu tố tác động tích cực thúc đẩy quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn tỉnh giai đoạn vừa qua.
Thực hiện Nghị quyết hội nghị lần thứ 5 Ban chấp hành Trung ương khoá VII, Nghị quyết đại hội đảng bộ tỉnh lần thứ 13, 5 năm qua nền kinh tế của tỉnh đạt tốc độ tăng trưởng cao, hầu hết các chỉ tiêu chủ yếu đạt và vượt mục tiêu đại hội đề ra. Tổng sản phẩm GDP tăng bình quân 15,3%/năm, trong đó nông nghiệp tăng 6,3%, công nghiệp, xây dựng tăng 22,2%, dịch vụ tăng 13,7% (cao hơn so bình quân chung cả nước). Cơ cấu có sự chuyển dịch tích cực: công nghiệp, xây dựng chiếm 52,2%, dịch vụ chiếm 26.6%, nông nghiệp chiếm 21,2%, so sánh các vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ thì Vĩnh Phúc xếp thứ 3 về giá trị sản xuất công nghiệp và đứng thứ 4 về tổng vốn đầu tư toàn xã hội, tổng thu ngân sách, thu hút vốn đầu tư nước ngoài.
Thành tựu nổi bật của Vĩnh Phúc, trước hết là cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn chuyển dịch theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Nhờ đầu tư thâm canh cây trồng vật nuôi, ứng dụng tiến bộ khoa học - kỹ thuật vào ngành trồng trọt, chăn nuôi nên nông nghiệp đã phát triển dần theo hướng sản xuất hàng hoá. Cơ cấu nội bộ ngành nông nghiệp chuyển dịch tích cực. Năm 2005 tỷ trọng trồng trọt giảm xuống còn 61,1% chăn nuuôi tăng lên từ 25,2% lên 35,2%, dịch vụ, nông nghiệp tăng từ 3,5% lên 3,7%. Mặc dù diện tích đất nông nghiệp giảm do phát triển công nghiệp và đô thị, nhưng năng suất, sản lượng lương thực có hạt vẫn tăng, diện tích đất cây công nghiệp phát triển khá. Đã hình thành các vùng sản xuất chuyên canh (điển hình là vùng trồng hoa ở huyện Mê Linh, vùng nuôi trồng thuỷ sản huyện Lập Thạch, Vĩnh Tường, Bình Xuyên, Yên Cựu, đạt trên 5.400ha.
Sản xuất công nghiệp, xây dựng duy trì mức tăng trưởng cao ở tất cả các thành phần kinh tế giá trị, giá trị sản xuất công nghiệp tăng từ 5.800 tỷ đồng năm 2000 lên 16.500 tỷ đồng năm 2005, đạt tốc độ tăng trưởng bình quân 23,1%. Cơ cấu sản xuất tăng dần, giá trị hàng hoá xuất khẩu, hàng tiêu dùng (ngành công nghiệp cơ khí lắp ráp ô tô, xe máy phát triển mạnh và là ngành chủ đạo đem lại 80% giá trị tăng toàn ngành công nghiệp). Sự phát triển nhanh của ngành công nghiệp Vính Phúc đã tạo vị thế mới cho tỉnh trong tiến trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Thu ngân sách tăng bình quân 36,46%/năm (đạt 1.865 tỷ đồng/năm). Năm 2004, Vĩnh Phúc đã tự cân đối được thu chi ngân sách và có đóng góp cho Trung ương. Sản xuất phát triển, tăng thu ngân sách, cơ sở vật chất, kết cấu hạ tầng nông nghiệp, nông thôn việc đầu tư. Do vậy sản xuất nông nghiệp và kinh tế nông thôn ngày càng phát triển.
Nguyên nhân của những thành tựu trên là do:
- Tỉnh quan tâm trước hết là công tác quy hoạch (luôn xác định đi trước 1 bước) làm cơ sở cho việc thực hiện tiến trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá, đô thị hoá nông nghiệp, nông thôn.
- Quy hoạch đầu tư phát triển cấc khu công nghiệp tập trung, cụm công nghiệp làng nghề để thu hút các nhà đầu tư trong và ngoài nước. Đến nay, tỉnh có 5 khu công nghiệp tập trung với tổng diện tích 830ha, 4 cụm công nghiệp vừa và nhỏ với 360ha. Quy hoạch xây dựng 28 cụm công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và làng nghề truyền thống. Các dự án đầu tư vào khu công nghiệp, cụm công nghiệp đã góp phần vào nguồn thu ngân sách tỉnh năm 2004 chiếm 41%, năm 2005 xấp xỉ 50%.
- Sự thành công trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá của Vĩnh Phúc là trên cơ sở chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước, tỉnh đã có nhiều giải pháp cải thiện môi trường đầu tư, môi trường sản xuất kinh doanh, đã thu hút mạnh mẽ nguồn nhân lực đầu tư nhằm giải phóng sức sản xuất đối với mọi thành phần kinh tế trong tỉnh. Trong phát triển đảm bảo tăng trưởng cao và tính bền vững, nâng cao cả về số lượng và chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế. Phát rtiển kinh tế gắn với phát triển kinh tế - xã hộ, phát triển con người, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ và cải thiện môi trường, đảm bảo cân bằng sinh thái.
- Thường xuyên quan tâm giải quyết tốt các vấn đề xã hội nông thôn như giải quyết việc làm, xoá đói, giảm nghèo, chống tệ nạn xã hội… tạo môi trường thuận lợi cho việc nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho nhân dân.
- Trong chỉ dạo điều hành phải sâu sát, cụ thể, kiên quyết, đồng thời tăng cường kiểm tra, giám sát, giải quyết kịp thời những thắc mắc nảy sinh (như trong giải phóng mặt bằng cho các nhà đầu tư vào các khu công nghiệp) nhằm đảm bảo đúng nguyên tắc, chú trọng bảo vệ lợi ích của Nhà nước, tập thể, doanh nghiệp và đặc biệt là của doanh nghiệp.
Trên đây là những nguyên nhân, đồng thời cũng là những bài học kinh nghiệm bổ ích của tỉnh Vĩnh Phúc cần kham khảo vận dụng vào tỉnh Bắc Ninh trong thời gian tới
4- Kinh nghiệm công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn tỉnh Hà Tây
Hà Tây là một tỉnh đồng bằng sông Hồng, thuộc Vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ, trong sự nghiệp đổi mới Hà Tây đã có những bước tiến đáng kể, bước đầu đã phát huy được lợi thế so sánh của tỉnh và có những đóng góp ngày càng lớn và quan trọng vào mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của vùng đồng bằng sông Hồng và cả nước. Tỉnh có diện tích tự nhiên 2.192,96Km2, dân số 2,5 triệu người. Tốc độ tăng trưởng GDP thời kỳ 1997 – 2000 là 7,3%/năm, thời kỳ 2001 – 2005 là 9,67%/năm, GDP bình quân đầu người đạt 6,1 triệu đồng năm 2005 đứng thứ 7 trong vùng đồng bằng sông Hồng. Quán triệt các quan điểm mục tiêu, nhiệm vụ về công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn và Nghị quyết của Đảng bộ tỉnh lần thứ 14 (tháng 12/2005), với phương châm khai thác có hiệu quả tiềm năng và lợi thế so sánh của một tỉnh liền kề phía tây Thủ đô Hà Nội, trong những năm qua , kinh tế - xã hội của tỉnh đã tăng trưởng và phát triển khá và tương đối toàn diện. Sản xuất theo hướng hàng hoá gắn liền với thị trường, cơ cấu chuyển dịch theo hướng giảm tỷ trọng giá trị sản xuất nông nghiệp, tăng giá trị sản xuất công nghiệp, dịch vụ, cơ sở hạ tầng nông nghiệp, nông thôn được đầu tư xây dựng, kinh tế nông thôn phát triển, đời sống nhân dân không ngừng nâng lên. Quá trình triển khai thực hiện chủ trương của Đảng và Nhà nước đã phát huy lợi thế so sánh và tiềm năng của tỉnh để huy động mọi nguồn lực cho phát triển. Tỉnh uỷ, Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân đã có nhiều chủ trương và giải pháp khuyến khích sản xuất phát triển, thúc đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế của tỉnh theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá trong đó rất trọng tâm tới chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn.
Đặc biệt ở Hà Tây số làng nghề truyền thống và sự phục hồi phát triển làng nghề truyền thống là tỉnh triển khai thực hiện thành công nhất so với các tỉnh trong vùng và cả nước. Hà Tây có 1116 làng nghề (trong đó có gần 200 làng nghề, 120 làng nghề được tỉnh công nhận làng nghề) và trên 75 ngàn hộ gia đình sản xuất công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp. Để phát huy vai trò và hiệu quả của làng nghề, Tỉnh uỷ đã có Kết luận 06/TU ngày 12/1/2002 về phương hướng phát triển làng nghề ở Hà Tây, hơn nữa Thủ tướng Chính phủ có Quyết định 132/2001-QĐ-TTg về phát triển làng nghề nông thôn. Như vậy, với những cơ chế chính sách, quy định khuyến khích làng nghề phát triển sản xuất ngành nghề đặc biệt là làng nghề truyền thống ở Hà Tây phát triển mạnh mẽ. Giá trị sản xuất hàng năm tăng từ 23 – 25% góp phần làm tăng tỷ trọng công nghiệp trong cơ cấu kinh tế của tỉnh. Đến nay, Uỷ ban nhân dân tỉnh đã có phê duyệt danh mục gồm 200 điểm cụm công nghiệp làng nghề với diện tích 1295,2ha. Tỉnh đã xây dựng tiêu chí làng nghề và xét duyệt công nhận làng nghề, xây dựng quy định chế độ ưu đãi đầu tư phát triển làng nghề, đào tạo nguồn nhân lực, mở rộng mặt bằng sản xuất, vay vốn nhằm khuyến khích ngành nghề, làng nghề phát triển. Tuy nhiên, hoạt động ngành nghề, làng nghề truyền thống ở Hà Tây còn hạn chế và nhiều bất cập nhất là công tác xây dựng quy hoạch cụm công nghiệp, về trình độ quản lý đội ngũ cán bộ, nâng cao tay nghề cho người lao động trong các làng nghề, môi trường, vốn công nghệ thiết bị, thị trường, giải quyết mặt bằng để xây dựng phát triển công nghiệp, đô thị…đó là những vấn đề mà tỉnh Hà Tây cần quan tâm chỉ đạo, sớm giải quyết trong thời gian tới. Đó cũng chính là bài học kinh nghiệm rút ra từ thực tiễn ở Hà Tây, nhất là bài học xây dựng và phát triển làng nghề trong quá trình đẩy nhanh công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn./.
PHỤ LỤC 2
HIỆN TRẠNG MÔI TRƯỜNG CÁC LÀNG NGHỀ, CỤM CÔNG NGHIỆP LÀNG NGHỀ Ở TỈNH BẮC NINH
1- Hiện trạng môi trường các cụm công nghiệp
1.1 Cụm công nghiệp Châu Khê
* Môi trường không khí
- Hàm lượng bụi cao hơn tiêu chuẩn cho phép1,8 – 4,3 lần
- Hàm lượng NO2 cao hơn tiêu chuẩn cho phép: 1,2 lần
- Hàm lượng O3 cao hơn tiêu chuẩn cho phép: 1,2 lần
- Tiếng ồn cao hơn tiêu chuẩn cho phép: 10-18dBA
* Hiện trạng môi trường nước
So với TCVN5945-1995 tiêu chuản B về nước thải: nước thải của khu công nghiệp không đạt tiêu chuẩn cho phép.
1.2.Cụm công nghiệp Tân Hồng - Hoàn Sơn
* Hiện trạng môi trường nước
So với TCVN5945-1995 tiêu chuẩn B về nước thải:
Hàm lượng các chất rắn lơ lửng cao hơn chuẩn cho phép 1,5 lần
Hàm lượng coliform trong nước thải cao hơn từ 2 – 4 lần
1.3. Cụm công nghiệp Phong Khê
* Môi trường không khí
Hàm lượng bụi cao hơn tiêu chuẩn cho phép: 2 - 2,3 lần
Tiếng ồn cao hơn tiêu chuẩn cho phép: 10 – 13dBA
* Hiện trạng môi trường nước
So với TCVN4945-1995 tiêu chuẩn B về nước thải
Hàm lượng các chất rắn lơ lửng cao hơn chuẩn cho phép 1,2-1,6 lần
Hàm lượng COD cao hơn tiêu chuẩn cho phép: 3,4-4,2 lần
Hàm lượng BOD2cao hơn tiêu chuẩn cho phép: 1,4-2,5 lần
Hàm lượng Pb cao hơn tiêu chuẩn cho phép: 4-5 lần
Hàm lượng coliform cao hơn từ: 4-5 lần
2- Hiện trạng môi trường trong các làng nghề
* Môi trường không khí
Hàm lượng bụi cao h ơn tiêu chuẩn cho phép: 1,5-3,6 lần
Tiếng ồn cao hơn tiêu chuẩn cho phép: 10-20dBA (Đa Hội - Đồng Kỵ)
Hàm lượng SO2 tại (Đại Bái, Đa Hội, Văn Môn) cao hơn tiêu chuẩn cho phép 5 -6 lần
Hàm lượng NO2 tại (Đại Bái, Đa Hội, Văn Môn) cao hơn tiêu chuẩn cho phép 5-5,2 lần.
Hàm lượng hơi hữu cơ tại Đồng Kỵ: cao hơn 2 lần
* Hiện trạng môi trường nước
So với TCVN5945-1995 tiêu chuẩn B về nước thải: nước thải có hàng lượng chất rắn lơ lửng cao hơn cho phép 4,5 – 11 lần; điển hình (cơ sở giấy sông Cầu, cán thép Đa Hội)
Hàm lượng COD cao hơn tiêu chuẩn cho phép 8 – 8,5 lần điẻn hình (giấy Phong Khê)
Hàm lượng BOD5 cao hơn tiêu chuẩn cho phép: 6 lần điển hình (giấy Phong Khê)
Hàm lượng Pb cao hơn tiêu chuẩn cho phép: 5,5 lần điển hình (thép Đa Hội).
Hàm lượng N tổng cao hơn tiêu chuẩn: 1,5 lần, điển hình tại các cơ sở sản xuất giấy, hộ gia đình nấu rượu.
Hiện trạng môi trường nước ngầm khu vực các làng nghề.
Hàm lượng Mn cao hơn so với tiêu chuẩn: 1,5-2,5 lần
Hàm lượng coliform cao hơn tiêu chuẩn: 10-30 lần, điển hình tại Đại Lâm có thể nước ngầm bị nhiễm từ các công trình vệ sinh của các hộ nấu rượu, chăn nuôi. Mặc dù hàm lượng NO2, NO3 thấp hơn TC cho phép nhưng qua kết quả cho thấy nước ngầm bị ô nhiễm bởi nước thải chăn nuôi.
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- ThS-50.doc