viện đại học mở hà nội
khoa: kinh tế
tiểu luận kinh tế
Đề Tài:
Qúa trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá ở
Việt Nam
Giáo viên hướng dẫn: TS Phạm Văn Dũng
sinh viên thực hiện: Hoàng Thị Tuất.
Hà Nội tháng 04 năm 2002
phụ lục
phần mở đầu
phần nội dung
Định nghĩa CNH-HĐH.
Thực trạng của quá trình công nghiệp hoá trên thế giới vào Việt Nam.
Thuận lợi và khó khăn đối với sự nghiệp CNH-HĐH ở nước ta.
Tính tất yếu của công nghiệp hoá ở Việt Nam.
Các quan điểm chỉ đạo của Đảng trong quá
18 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 2286 | Lượt tải: 1
Tóm tắt tài liệu Quá trình CNH-HĐH ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
trình CNH-HĐH.
Nội dung của CNH-HĐH trong thời kỳ tới.
Các giải pháp.
Phần kết luận.
phần nội dung
Định nghĩa CNH-HĐH, ý nghĩa tầm quan trọng.
Thuật ngữ công nghiệp hoá để chỉ một quá trình cải tạo cơ cấu bên trong của toàn bộ nền kinh tế quốc dân dựa trên việc ứng dụng triệt để những tiến bộ khoa học và công nghệ hiện đại. Với ý nghĩa đó công nghiệp hoá không chỉ bó hẹp và liên quan trực tiếp đến công nghiệp mà còn là quá trình vận động diễn ra trong toàn bộ cơ cấu nền kinh tế quốc dân.
Xét trên góc độ toàn thế giới CNH-HĐH không phải là một cái gì mới là mà các quốc gia tiên tiến đầu tiên đã có một lịch sử về tiến trình công nghiệp hoá. Song mỗi giai đoạn lịch sử về tiến trình công nghiệp đó đều có những khái niệm khác nhau. Định nghĩa công nghiệp hoá của các tác giả: BmaZLish, Lodsicse, Vnido tuy chưa thật triệt để và toàn diện song đã phản ánh giai đoạn nào đấy tiến trình CNH. Theo thời gian, khái niệm về CNH ngày càng hoàn thiện hơn. Nói bao quát , CNH là quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế xã hội theo hướng phát triển mạnh về công nghiệp tạo sự vượt bậc về công nghiệp, tổng cơ cấu kinh tế và cơ cấu lao động, áp dụng rộng rãi những tiến bộ khoa học kỹ thuật và công nghệ mới hiện đại, làm nền tảng cho sự tăng trưởng và phát triển nhanh vững chắc của toàn bộ nền kinh tế xã hội.
Công nghiệp hoá thường gắn với hiện đại hoá. Công nghiệp hoá, hiện đại hoá là xu thế phát triển tất yếu đối với mỗi quốc gia muốn từ nền kinh tế nông nghiệp thành một nước công nghiệp, phù hợp với xu thế chung của nhân loại trong quá trình phát triển của xã hội loài người, đã diễn ra hai quá trình công nghiệp hoá đó là công nghiệp hoá tư bản chủ nghĩa và công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa.
Công nghiệp hoá tư bản chủ nghĩa là quá trình chuyển nền kinh tế sản xuất nhỏ, lạc hậu, phong kiến kỹ thuật, thủ công sang nền sản xuất lớn tư bản chủ nghĩa tiến bộ, lấy đại công nghiệp cơ khí làm nền tảng.
Còn đối với công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa là một qui luật đối với những nước có nền kinh tế kém phát triển hoặc phát triển chưa cao đi lên chủ nghĩa xã hội.
2.Thực trạng trong quá trình CNH – HĐH trên thế giới và Việt Nam.
a/ Khái quát quá trình CNH trên thế giới.
Trên thế giới, quá trình CNH được bắt đầu từ rất sớm, nó được đánh dấu bằng cuộc cách mạng công nghiệp ở nước Anh và đó cũng là cuộc cách mạng công nghiệp lớn nhất thế giới. Vào cuối thế kỷ 18 đầu thế kỷ 19, nguyên nhân của sự ra đời hàng loạt các máy móc được phát minh là tính chất hạn chế của công trường thủ công không sản xuất đủ hàng hoá để thoả mãn nhu cầu của thị trường ngày càng mở rộng. Nhưng lý do xảy ra của sự xuất hiện máy móc mới tính vụ lợi luôn luôn khao khát lợi nhuận cao của các cấp tư sản đương thời.
Các phát minh chủ yếu trong giai đoạn này là:
õNăm 1764 Giem – Ha - Grivơ sáng chế ra máy xe sợi có thể xe được 16 sợi bông cùng một lúc.
õNăm 1875 ET – min Cácvai phát minh ra máy dệt.
Với sự phát minh ra máy hơi nước của Giêm wat đã tạo thuận lợi rất lớn cho việc lắp đặt các máy móc, xây dựng các nhà xưởng ở mọi nơi. Máy hơi nước đã phát huy tác dụng trong mọi ngành công nghiệp. Đến thế kỷ 19, máy hơi nước đã cách mạng hoá cả giao thông thuỷ bộ phục vụ đắc lực cho vận chuyển và giao lưu. Cách mạng công nghiệp là một hiện tượng phổ biến ở các nước tiến lên chủ nghĩa tư bản, song diễn ra trước tiên ở Anh. Sớm hơn các nước khác 50 – 100 năm, biến Anh từ một nước nông nghiệp thành một nước có nền công thương nghiệp phát triển nhất trên thế giới.
Sau cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ nhất là cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật hiện nay đã và đang diễn ra với những thành tựu phát triển vượt bậc, đưa loài người chuyển sang một thời kỳ mới, thời kỳ máy móc thay thế con người. Cuộc cách mạng này được bắt đầu từ những năm 50 của thế kỷ 20. Nội dung của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ hai có thể khái quát trên những mặt chủ yếu sau:
Cuộc cách mạng về phương thức sản xuất đó là tự động hoá máy móc được sử dụng để thay thế con người điều khiển quá trình vận hành sản xuất.
Cuộc cách mạng về năng lượng: bên cạnh những nguồn năng lượng truyền thống ngày nay con người ngày càng khám phá ra nhiều dạng năng lượng mới: năng lượng nguyên tử, năng lượng mặt trời, v.v…
Cách mạng về vật liệu mới: ngày càng có nhiều dạng vật liệu nhân tạo được tạo ra thay thế hiệu quả các vật liệu tự nhiên.
Cuộc cách mạng về điện tử và tin học: đây là lĩnh vực mà hiện nay loài người đang quan tâm trong đó đặc biệt là lĩnh vực máy tính điện tử.
Cả hai cuộc cách mạng về khoa học kỹ thuật trên thế giới đã và đang đóng một vai trò vật chất lớn thúc đẩy quá trình CNH ở tất cả các nước, nhất là các nước có nền kinh tế kém phát triển.
b/ Quá trình CNH ở Việt Nam
Chúng ta thực hiện CNH – HĐH trong bối cảnh đất nước có những thời cơ lớn và những thách thức lớn:
õThời cơ lớn: thành tựu của 10 năm đổi mới đã và đang tạo ra thế và lực mới cả bên trong và bên ngoài, tạo nhiều tiền đề cần thiết cho CNH – HĐH, quan hệ đối ngoại được mở rộng, khả năng giữ vững độc lập tự chủ và hội nhập tăng.
õThách thức lớn: nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế do thời điểm xuất phát thấp, nhịp độ tăng trưởng chưa cao, lại phải đi lên trong môi trường cạnh tranh gay gắt. Thêm vào đó, trong những năm gần đây, Việt Nam chịu tác động trực tiếp của sự khủng hoảng kinh tế khu vực và bão lũ liên tiếp gây nhiêù thiệt hại và có nguy cơ chệch hướng xã hội chủ nghĩa, tham nhũng, quan liêu và nguy cơ diễn biến hoà bình của các thế lực thù địch.
3. Những thuận lợi và khó khăn tiến hành CNH-HĐH.
a. Thuận lợi: Điểm thuận lợi của nước ta đó chính là :
Nước ta tiến hành CNH-HĐH trong một tình hình chính trị, xã hội ổn định, nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lí của Nhà nước, đã hình thành và bước đầu có bước phát triển. Nguồn lực vật chất được tăng cường, mức sống của nhân dân dần ổn định. Sản lượng lương thực, thực phẩm đã tăng lên đáng dể, từ 13,3 triệu tấn năm 1970-1980 đã tăng lên 26,3 triệu tấn năm 1995. Nền kinh tế bắt đầu tích luỹ. Trong 5 năm 1991-1995 nhịp độ tăng bình quân hàng năm về tổng sản phẩm quốc nội (GDP) đạt 8,2%. Vốn đầu tư toàn xã hội năm 1990 chiếm 15,8% GDP, đến năm 1995 lên 27,4%. Sự nghiệp giáo dục của đất nước có nhiều tiến bộ cải tiến, trình độ dân trí được nâng lên. Sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước có thêm kinh nghiệm. Nước ta có nguồn nhân công dồi dào, tài nguyên đa dạng, phong phú.
Hơn nữa, điều kiện thế giới đã trải qua hai cuộc cách mạng công nghệ khoa học kĩ thuật. Các nước đi sau như chúng ta có thể tận dụng những thành tựu và kinh nghiệm của các nước đi trước, rút ngắn thời gian và tránh sai lầm.
Quan hệ quốc tế có nhiều thay đổi thuận lợi cho việc thực hiện chiến lược phát triển kinh tế. Hiện chúng ta là thành viên của nhiều tổ chức quốc tế như : ASEAN, WTO…
b, Khó khăn:
Khó khăn lớn nhất của ta là luôn phải đối phó với 4 nguy cơ: tụt hậu, chệch hướng xã hội chủ nghĩa, tham nhũng quan liêu và diễn biến hoà bình, đã đề cập ở trên.
Nước ta là một nước nông nghiệp lạc hậu, nền kinh tế chủ yếu dựa vào nông nghiệp. Năm 1992 vẫn còn 78% dân số sống ở nông thôn, lao động thất nghiệp trong nông nghiệp là 30%-40% tổng lực lượng lao động trong nền kinh tế quốc dân.
Nước ta trải qua nhiều cuộc đấu tranh chống ngoại xâm hao người, tốn của. Chi phí để khắc phục hậu quả chiến tranh quá lớn làm giảm tốc độ phát triển kinh tế. Trình độ khoa học kĩ thuật còn rất thấp, đầu tư không đồng bộ, chất lượng kém, chỉ đạt 25%-30% so với yêu cầu. Xuất phát điểm để tiến hành CNH-HĐH là rất thấp.
Nền kinh tế nước ta vẫn được xếp vào hạng chậm phát triển, lạm phát còn chưa được kìm chế vững chắc, nguồn vốn hạn chế mà lại phải đương đầu với cuộc cạnh tranh quyền lực kinh tế và thương mại. Tình hình quốc phòng an ninh còn phức tạp. Công tác giáo dục và đào tạo nghiên cứu triển khai chưa theo kịp yêu cầu. Đội ngũ cán bộ còn yếu, bố trí sử dụng chưa hợp lí. Bộ máy của Đảng và Nhà nước và các Đoàn thể còn cồng kềnh, kém hiệu lực, tình trạng tham nhũng, quan liêu, lãng phí nghiêm trọng.
4. Tính tất yếu của CNH ở Việt Nam.
Công cuộc xây dựng một xã hội mới, phải được tiến hành một cách toàn diện trên các mặt: quan hệ sản xuất, lực lượng sản xuất, nền văn hoá và con người của xã hội đó. Công nghiệp hoá chính là con đường và bước đi tất yếu để tạo ra cơ sở vật chất - kỹ thuật cho nền sản xuất lớn hiện đại.
Xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật cho nền sản xuất lớn, hiện đại là một quy luật chung phổ biến đối với tất cả các nước, tuy nhiên, tuỳ từng nước khác nhau, do điểm xuất phát tiến lên không giống nhau nên cách thức tiến hành xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật cho nền sản xuất lớn hiện đại sẽ không giống nhau.
Đối với những nước có nền kinh tế kém phát triển như nước ta, nền sản xuất nhỏ, kỹ thuật thủ công là chủ yếu… công nghiệp hoá là quá trình mang tính quy luật để tạo ra cơ sở vật chất-kỹ thuật cho nền sản xuất lớn hiện đại.
Việc thực hiện và hoàn thành tốt công nghiệp hoá có ý nghĩa đặc biệt to lớn, và có tác dụng trên nhiều mặt:
õ Công nghiệp hoá làm thay đổi căn bản kỹ thuật, công nghệ, sản xuất, tăng năng suất lao động.Công nghiệp hoá chính là thực hiện xã hội hoá về mặt kinh tế – kỹ thuật, tăngtrưởng và phát triển kinh tế với tốc độ cao, góp phần ổn định ngày càng nâng cao đời sống vật chất và văn hoá của mọi thành viên trong cộng đồng xã hội.
õ Công nghiệp hoá phát triển mới phát triển các mối quan hệ kinh tế giữa các ngành, các vùng trong phạm vi một nước và giữa các nước với nhau, nó nâng cao trình độ quản lý kinh tế của Nhà nước, nâng cao khả năng tích luỹ mở rộng sản xuất, làm xuất hiện thêm nhiều ngành mới để từng bước giải quyết những nhu cầu việc làm cho người lao động.
õ Công nghiệp hoá không ngừng nâng cao vai trò của nhân tố con người trong nền sản xuất, đặc biệt trong nền sản xuất lớn hiện đại, kỹ thuật cao.
Chỉ trên cơ sở thực hiện tốt CNH mới có khả năng thực hiện và quan tâm đầy đủ đến sự phát triển tự do và toàn diện nhân tố con người, làm cho con người trở nên hiện đại, có trình độ khoa học – kỹ thuật, nắm bắt được những tiến bộ mới về khoa học kỹ thuật.
õ Công nghiệp hoá tạo điều kiện vật chất cho việc củng cố và tăng cường tiềm lực quốc phòng.
õ Khả năng đảm bảo an ninh và quốc phòng của mỗi nước phụ thuộc nhiều vào việc cung cấp và đảm bảo cho quốc phòng các yếu tố vật chất – kỹ thuật. Đáp ứng yêu cầu đó, công nghiệp hoá có tác dụng trực tiếp và chủ yếu trong việc tạo ra tiềm lực to lớn cho quốc phòng.
õ Công nghiệp hoá còn tạo nhiều khả năng cho việc thực hiện tốt sự phân công và hợp tác quốc tế về kinh tế, khoa học, công nghệ…
5. Các quan điểm chỉ đạo của Đảng trong quá trình CNH.
Trong bài phát biểu tại hội nghị lần thứ Bảy Ban chấp hành trung ương Đảng khoá VII về “phát triển công nghiệp công nghệ đến năm 2000 theo hướng CNH và HĐH xây dựng giai cấp công nhân trong giai đoạn mới, đồng chí tổng bí thư Đỗ Mười một lần nữa nhấn mạnh sự cần thiết phải tập trung dân chủ “công nghiệp hoá, hiện đại hoá đòi hỏi phải thực hiện nghiêm túc nguyên tắc tập trung dân chủ giữ vững kỷ cương”.
CNH – HĐH không chỉ dừng lại ở nội dung kinh tế – kỹ thuật – công nghệ. Nó còn bao hàm nội dung chính trị – văn hoá - xã hội. Hiệu quả của quá trình CNH – HĐH hiện nay nhất thiết phải được thể hiện một cách toàn diện cả về kinh tế chính trị – văn hoá, xã hội – giáo dục cả về lợi ích trước mắt và lâu dài.
CNH – HĐH là sự nghiệp của toàn Đảng, toàn dân, sự nghiệp này đòi hỏi mọi cố gắng sáng tạo của cải xã hội, sự tham gia của toàn cộng đồng Việt Nam ở trong và ngoài nước để tập trung mọi nguồn lực vào sự nghiệp xây dựng và phát triển kinh tế – xã hội nhanh chóng đạt tới mục tiêu dân giàu nước mạnh, xã hội văn minh. Mục tiêu cao cả của CNH – HĐH làm cho xã hội phát triển kinh tế và văn hoá phồn thịnh, mức sống của người dân được nâng cao, con người Việt Nam ngày càng phát triển toàn diện. Mọi sự nghiệp có qui mô và tầm vóc như thế đương nhiên đòi hỏi sự lãnh đạo và Nhà nước phải nâng cao năng lực trí tuệ, trình độ bản lĩnh. Nó đòi hỏi các cấp, các ngành, mọi tổ chức kinh tế, các nhà khoa học, các nhà doanh nghiệp với tất cả tinh thần trách nhiệm, sự sáng tạo và hoạt động có hiệu quả, kết quả của quá trình đang diễn ra hôm nay tạo ra trong năm tới sự chuyển dịch căn bản về cơ cấu kinh tế, sự đổi mới phương thức tổ chức sản xuất – kinh doanh từ các đơn vị kinh tế cơ sở cho đến địa phương, các vùng và trên qui mô cả nước.
Nước ta từ Đại hội III (năm 1996) Đản ta đã đề ra chủ trương công nghiệp hó để tiến lên công nghiệp xã hội. Nhưng từ đó đến nay chúng ta gặp không ít khó khăn thử thách do nhiều nguyên nhân cả khách quan lẫn chủ quan. Chính vì vậy, một trong những sách lược quan trọng hiện nay là phải có chính sách và bước đi thích hợp lấy việc phát huy yếu tố con người là cơ bản cùng với xây dựng đất nước tăng trưởng gắn liền với cải cách đời sống, phát triển văn hoá giáo dụn thực hiện tiến bộ công bằng xã hội và bảo vệ môi trường.
Đẩy mạnh CNH – HĐH là con đường đúng đắn nhất để nước ta thoát khỏi nguy cơ tụt hậu về kinh tế so với các nước khác, song nó phát triển đảm bảo theo hướng xã hội chủ nghĩa giữ được ổn định chính trị, bảo vệ độc lập chủ quyền đồng thời đi đôi với mở rộng quan hệ quốc tế.
Sự nghiệp CNH – HĐH sẽ có nhiều chặng đường luôn tuỳ thuộc vào hình thái phát triển trong nước và những biến đổi trong nền kinh tế thế giới. Vì vậy, việc tiến hành CNH – HĐH ở từng giai đoạn khác nhau ngoài những điểm giống nhau có những điểm khác nhau.
6. Nội dung của CNH – HĐH trong thời kỳ tới.
Nước ta tiến hành CNH nhằm chuyển sản xuất nhỏ, phân tán, công nghiệp lạc hậu, kỹ thuật công nghệ và năng suất lao động thấp – thành sản xuất lớn có cơ ccấu kinh tế mới hợp lý do đó là cơ cấu công – nông nghiệp và cịch vụ ngày càng hiện đại, khoa học, kỹ thuật và công nghệ ngày càng tiên tiến, năng suất lao động cao trong các ngành kinh tế quốc dân.
Công nghiệp hóa ở nước ta bao hàm hai nội dung chủ yếu đó là:
a, Trang bị kỹ thuật và công nghệ hiện đại cho nền kinh tế quốc dân.
Trong mấy chục năm gần đây, thế giới đã đang diễn ra biến đổi cực kỳ to lớn trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật và công nghệ ngày càng có nhiều nội dung. Nó không chỉ dừng lại ở tính chất hiện đại của các yếu tố tư liệu sản xuất, mà còn ở kỹ thuật công nghệ sản xuất hiện đại, phương pháp sản xuất tiên tiến, v.v… hiện nay cuộc cách mạng khoa học – kỹ thuật và công nghệ có những nội dung nổi bật sau:
õ Cuộc cách mạng về phương pháp sản xuất, đó là : tự động hoá. Ngoài phạm vi hoạt động như trước đây, hiện nay tự động hoá cần được sử dụng rộng rãi, người máy thay thế con người, điều khiển quá trình vận hành sản xuất.
õ Cuộc cách mạng về năng lượng: bên cạnh những năng lượng truyền thống mà con người đã sử dụng trước kia như nhiệt điện, thuỷ điện, thì ngày nay con người càng khám phá ra nhiều năng lượng mới và sử dụng chúng rộng rãi trong sản xuất như năng lượng nguyên tử, năng lượng mặt trời…
õ Cách mạng về vật liệu mới: ngày nay ngoài việc sử dụng các vật liệu tự nhiên, con người thông qua cuộc cách mạng khoa học – kỹ thuật và công nghệ ngày càng tạo ra nhiều vật liệu nhân tạo mới thay thế có hiệu quả cho các vật liệu tự nhiên đang có xu hướng ngày càng cạn dần.
õ Cuộc cách mạng công nghệ về sinh học: các thành tựu của cuộc cách mạng này đang được áp dụng rộng rãi trong lĩnh vực công nghiệp, công nghiệp, ý tế, hoá chất, bảo vệ môi trường sinh thái, v.v…
õ Cuộc cách mạng về điện tử và tin học: đây là một lĩnh vực mà hiện nay loài người đang đặc biệt quan tâm, trong đó phải kể đến lĩnh vực máy tính điện tử.
Cả hai cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật trên thế giới đã và đang đóng vai trò to lớn đối với quá trình công nghiệp hóa trong tất cả các nước, nhất là các nước có nền kinh tế kém phát triển.
ở nước ta, một nước đang định hướng đi lên XHCN không qua chế độ tư bản chủ nghĩa, việc tiến hành CNH trong điều kiện đó tất yếu phải áp dụng những thành tựu mới của cách mạng – khoa học công nghệ, nhằm gắn liền CNH với HĐH nền kinh tế quốc dân. Chính vì vậy, cuộc cách mạng khoa học – kỹ thuật ở nước ta đựoc xác định là “then chốt” và khoa học – kỹ thuật được coi là một “quốc sách”, là động lực để thúc đẩy sản xuất phát triển.
Ngày nay trong tình hình cuộc cách mạng khoa học – kỹ thuật và công nghệ trên thế giới đang phát triển nhanh chóng, đây chính là lợi thế của những nước đi sau, trong đó có nước ta. Trong điều kiện của nền kinh tế mở, với các chính sách đa phương hoá và đa dạng hoá kinh tế, kỹ thuật, đã đang và sẽ tạo ra những khả năng to lớn để nước ta có thể vừa tranh thủ được sự giúp đỡ nhiều mặt từ bên ngoài, đặc biệt là vốn, kỹ thuật tiên tiến, vừa cố gắng phát huy mọi khả năng và tiềm lực có trong nước để cơ khí hoá và hiện đại hóa toàn bộ nền kinh tế quốc dân.
b. Xây dựng cơ cấu kinh tế hợp lí.
Công nghiệp hoá còn là quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế cũ, từng bước hình thành nên một cơ cấu kinh tế hợp lý. Trong cơ cấu kinh tế đó, quan hệ giữa công nghiệp, nông ngiệp và dịch vụ là các bộ phận có tầm quan trọng. Các mối quan hệ này được xem dưới nhiều góc độ như trình độ kỹ thuật công nghệ, quy mô và tốc độ phát triển.
Xây dựng cơ cấu kinh tế mới hợp lý là yêu cầu tất yếu trong quá trình công nghiệp hoá. Cơ cấu kinh tế đó phải đảm bảo các yêu cầu sau đây:
õ Phản ánh đúng đắn các yêu cầu, các quy luật khách quan, đặc biệt là các quy luật kinh tế.
õ Phù hợp với xu hướng phát triển của khoa học kỹ thuật và công nghệ hiện đại trên thế giới hiện nay.
õ Phù hợp với sự phân công và hợp tác quốc tế ngày càng phát triển vì vậy cơ cấu kinh tế đó phải là “cơ cấu kinh tế mở”.
õ Tính hợp lý của cơ cấu còn phải đảm bảo cho phép tối ưu hoá việc sử dụng lợi thế so sánh về tài nguyên, lao động và nước phát triển muộn về công nghiệp, khai thác tối đa và có hiệu quả những tiềm năng vốn có của các ngành, các địa phương, các đơn vị kinh tế cơ sở.
Đáp ứng yêu cầu đó, tính hợp lý của cơ cấu kinh tế, xét về nội dung đó chính là cơ cấu ngành và vùng. Cơ cấu kinh tế ngành và vùng cần được quan tâm một cách đúng mức, phải được đầu tư theo cả chiều rộng và chiều sâu.
ở nước ta trong nhiều năm trước đây, việc xây dựng cơ cấu kinh tế tuy đã đạt được những kết quả nhất định, song cũng đã phạm phải những sai lầm không nhỏ trong xây dựng quy mô vừa và nhỏ. Từ Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ 6 đến nay, chúng ta đã có những bước tiến quan trọng trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
Xây dựng cơ cấu kinh tế mới hợp lý trong quá trình CNH là một quá trình hoạt động có ý thức, có kế hoạch và do đó tất yếu phải dựa vào các nhân tố dân số, nhu cầu, điều kiện tự nhiên và tiềm năng của đất nước, điều kiện phát triển của lực lượng sản xuất, khoa học – kỹ thuật và công nghệ; nguồn và quy mô vốn tích luỹ; quan hệ kinh tế quốc tế, v.v…
Trên cơ sở xem xét đánh giá thực trạng của đất nước, Đảng ta đã khẳng định CNH ở nước ta là quá trình tạo ra cơ cấu kinh tế mới hợp lý mà “bộ xương” của nó là “cơ cấu kinh tế công – nông nghiệp – dịch vụ’ gắn với sự phân công và hợp tác quốc tế sâu rộng.
Để từng bước tạo ra cơ cấu kinh tế đó, cần phải thực hiện sự kết hợp công nghệ với nhiều trình độ khác nhau. Đa dạng hoá mặt bằng kỹ thuật tranh thủ công nghệ, mũi nhọn, tiên tiến, điều đó cho phép sử dụng có hiệu quả lực lượng lao động dồi dào và phù hợp với khả năng vốn hiện có ở nước ta. Về mặt quy mô mà xét, lấy qui mô vừa và nhỏ là chính, từng bước chuẩn bị cho hướng tương lai xây dựng cơ cấu kinh tế với quy mô hợp lý.
Trong quá trình CNH để tạo ra cơ sở vật chất kỹ thuật cho nền sản xuất lớn hiện đại, tất yếu phải tiến hành phân công lại lao động xã hội trên phạm vi cả nước cũng như từng ngành, từng cơ sở. Sự phân công lại lao động xã hội trong quá trình CNH về phương hướng lâu dài cần phải tuân theo các quy luật sau:
õ Tỷ lệ và số tuyệt đối lao động nông nghiệp giảm xuống, tỷ lệ và số tuyệt đối lao động công nghiệp tăng lên.
õ Tỷ lệ lao động trí óc ngày càng tăng và chiếm phần lớn trong tổng số lao động xã hội.
õ Tốc độ tăng lao động trong các ngành phi sản xuất vật chất (dịch vụ) tăng nhanh hơn tốc độ tăng lao động trong các ngành sản xuất vật chất.
8) Các giải pháp để thực hiện công nghiệp hoá hiện đại hoá ở Việt Nam:
Có ba giải pháp sau:
õ Giải pháp về tạo nguồn vốn và sử dụng vốn có hiệu quả:
Vốn là tiền đề cơ bản cho mọi hoạt động sản xuất kinh doanh. Nước ta tiến hành quá trình CNH-HĐH trong điều kiện rất thiếu vốn.Vấn đề đặt ra là làm thế nào để huy động đủ vốn và sử dụng vốn có hiệu quả.
õ Giải pháp về công nghệ:Công nghệ hoá, hiện đại hoá đồng thời là quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng các ngành có hàm lượng khoa học công nghệ cao, giá trị gia tăng cao. Để đạt được mục tiêu này phải phát triển công nghệ, phải đổi mới công nghệ trong toàn bộ nền kinh kế, phải sử dụng có hiệu quả những thành tựu khoa học công nghệ của thế giới.
õ Giải pháp nâng cao trình độ người lao động, xây dựng và phát triển đội ngũ cán bộ khoa học- kỹ thuật, đội ngũ cán bộ quản lý cán bộ kinh tế, lấy việc phát huy nguồn lực con người làm yếu tố chiến lược, cơ bản cho sự ngiệp CNH- HĐH đất nước. Giải pháp này nhằm vào việc không ngừng đào tạo và đào tạo lại, nâng cao trình độ người lao động, chú trọng xây dựng đội ngũ cán bộ quản lý kinh tế am hiểu về đội ngũ cán bộ thị trường, đội ngũ cán bộ viên chức nhà nước có phẩm chất và năng lực để điều hành nền kinh tế theo luật định.
Đây là ba giải pháp cơ bản nhằm phát huy tối đa các nguồn lực cơ bản phục vụ sự ngiệp CNH- HĐH đất nước. Để hiểu sâu xa hơn ta phân tích hai giải pháp sau:
Phát triển nhanh chóng nguồn vốn trong nước.
Hiện nay, nguồn vốn nhàn rỗi trong dân vẫn còn khá lớn nhưng chưa được sử dụng đúng mục đích do đó chưa phát huy được sức mạnh của cơ cấu kinh tế. Vì vậy cần phải có các giải pháp để triển khai và phát huy tối đa nguồn vốn nhàn dỗi trong dân cư.
Trong việc tìm kiếm các giải pháp huy động vốn đầu tư phát triển nền kinh tế trong thời gian tới cần quán triệt quan điểm của Đảng và nhà nước coi nguồn vốn trong nước là quyết định, nguồn vốn bên ngoài là quan trọng. Để phát huy nhanh chóng nguồn vốn trong nước cần tập trung vào các vấn đề sau:
õ Giải quyết mối quan hệ giữa tiêu dùng và tích luỹ từ trong nội bộ nền kinh tế cho đầu tư phát triển sản xuất. Phấn đấu nâng cao tỷ lệ tích luỹ từ 10 lên 15- 20%, tăng nguồn thu và giảm mức thu hụt ngân sách, đẩy mạnh cuộc đấu tranh chống tham ô, lãng phí, vận động các tầng lớp dân cư thực hành tiết kiệm. Đồng thời phải tăng năng suất lao động, đa dạng hoá ngành nghề sản phẩm nhằm nâng cao nguồn vốn tích luỹ trong nước.
Xây dựng các cơ sở tài chính- tiền tệ, tạo lập một chính sách tiền tệ tích cực, năng động và có hiệu quả luôn hướng đến mở rộng mọi nguồn đầu tư cho đất nước. Cần tiếp tục cải cách chính sách thuế khoá và hoàn thiện cơ chế quản lý thu thuế, chống thất thu thuế và chống buôn lậu. Việc cải cách thuế sẽ góp phần đảm bảo kế hoạch thu của ngân sách nhà nước, tăng nguồn thu là để tăng nguồn chi cho đầu tư phát triển. Hay nói cách khác, việc cải cách về thuế sẽ góp phần làm tăng nguồn vốn dể thực hiện CNH-HĐH đất nước.
Xây dựng một hệ thống Ngân hàng hiệu quả.
Một hệ thống Ngân hàng được coi là hiệu quả khi nó điều chỉnh mức lãi suất hợp lý, đảm bảo mức cung cấp tiền hợp lý, khống chế và đẩy lùi được lạm phát.
Để tạo một nguồn vốn lớn vì sự nghiệp CNH – HĐH đất nước thì cần phải đẩy mạnh HĐH công nghệ Ngân hàng, nâng cao chất lượng dịch vụ Ngân hàng nhằm tăng nhanh sức cạnh tranh, thu hút được nhiều vốn cho đầu tư phát triển.
Ngân hàng cần phải nghiên cứu đặt ra mức lãi suất hợp lý, dùng lãi suất làm động lực kinh tế để huy động vốn, đa dạng hoá các hình thức huy động vốn nhàn rỗi tạo nền tảng phát triển các loại thị trường tiền tệ.
Đẩy nhanh sự hình thành của thị trường chứng khoán.
Thị trường chứng khoán trở thành một đòi hỏi khách quan và bức bách đối với quá trình phát triển nền kinh tế nước ta hiện nay. Việc mở rộng các hình thức thu hút vốn trực tiếp thông qua phát hành chứng khoán cho phép chúng ta có thể huy động triệt để mọi nguồn vốn nhàn rỗi chưa được sử dụng đúng mục đích để phục vụ cho các hoạt động đầu tư. Việc hình thành thị trường chứng khoán là điều kiện cơ bản đảm bảo nguồn vốn cho hoạt động đầu tư ngày càng được mở rộng và vững chắc.
b/ Huy động nguồn vốn từ bên ngoài.
Ngoài việc tạo vốn trong nước cần phải thu hút nguồn vốn từ bên ngoài. Do đó cần có chính sách hợp lý nhằm tranh thủ các nguồn viện trợ, vốn vay và đầu tư trực tiếp từ nước ngoài. Để thực hiện vấn đề này cần có các giải pháp sau:
Thi hành chính sách mở cửa với thế giới bên ngoài là điều kiện tiên quyết mở đường cho việc thu hút mọi nguồn vốn từ bên ngoài vào đầu tư phát triển và CNH – HĐh đất nước. Thông qua các hoạt động chính trị và ngoại giao tích cực giúp cho hoạt động kinh tế đa phương hoá và đa dạng hoá, góp phần khắc phục những khó khăn to lớn của tình trạng nền kinh tế nước ta nhằm tạo ra một môi trường đầu tư thuận lợi.
Cải tạo, nâng cấp cơ sở hạ tầng: Hệ thống giao thông vận tải, viễn thông, kho tàng, bến bãi, nhà xưởng… nhằm tạo điều kiện vật chất thuận lợi thu hút tối đa các nhà đầu tư, các tổ chức kinh tế… đầu tư vào Việt Nam.
Thực hiện duy trì và đẩy mạnh chính sách kinh tế nhiều thành phần, nâng cao trình độ, chất lượng của kinh tế quốc doanh, mở rộng kinh tế tư nhân và gia đình nhằm thu hút các hoạt động đầu tư, tạo sức lôi cuốn các nhà đầu tư quốc tế.
Đẩy mạnh hợp tác quốc té, tham gia tích cực hơn nữa vào quá trình phân công lao động trong khu vực và trên toàn thế giới. Thông qua nhiều hoạt động tích cực, uyển chuyển và khéo léo để tranh thủ sự giúp đỡ của tất cả các chính phủ và nhân dân các nước, tạo tiền để lôi cuốn các nguồn vốn đầu tư vào hoạt động.
Bên cạnh đó, cần phải xây dựng và kiện toàn hệ thống các chính sách chuẩn bị cho các dự án đầu tư : xây dựng và hoàn thiện hệ thống luật pháp, đổi mới hệ thống hành chính giảm bớt phiền hà, hoàn thiện cơ chế quản lý vốn và quản lý các doanh nghiệp có vốn nước ngoài, đồng thời phải tạo cơ sở để đối tác đầu tư thấy được khả năng hoàn vốn của bên vay vốn, thông qua tiềm năng hiện có và luật đầu tư cũng như cơ chế quản lý.
Cùng với việc khai thác tối đa mọi nguồn vốn phục vụ sự nghiệp CNH – HĐH là việc sử dụng từng đồng vốn đó một cách hiệu quả, tối ưu nhất, chống các tệ nạn tham nhũng, lãng phí trong đội ngũ cán bộ cũng như trong các tầng lớp dân cư.
phần kết luận
Qua phân tích, tìm hiểu em thấy rằng quá trình CNH- HĐH là một quá trình lâu dài bền vững. Nó sẽ đưa đất nước nghèo lạc hậu trở thành một đất nước phát triển, đưa đất nước khỏi nguy cơ tụt hậu. CNH- HĐH biến nước ta trở thành một nước công nghiệp có cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại, cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp với sự phát triển sản xuất, nguồn lực con người được phát huy, mức sống vật chất và tinh thần cao, quốc phòng an ninh vững chắc, dân giàu nước mạnh xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. CNH- HĐH chính là quá trình trang bị và đổi mới công nghệ tạo hệ thống cơsở hạ tầng tương đối vững chắc, đồng thời cũng là quá trình xây dựng cơ cấu kinh tế hợp lý, tạo hướng chuyển dịch cơ cấu trong các ngành nông nghiệp, công nghiệp và dịch vụ. Mặc dù quá trình thực hiện CNH- HĐH còn gặp nhiều khó khăn nhưng chúng ta cũng có nhiều thuận lợi, thời cơ để thực hiện thắng lợi sự nghiệp CNH- HĐH, đã đạt được những thành tựu nhất định, nền kinh tế đã có sự khởi sắc dù mới chỉ là bước đầu.
CNH- HĐH đặt chúng ta trước những thách thức lớn, vì vậy cần phải xây dựng các phương hướng, giải pháp nhằm khắc phục những khó khăn. Các giải pháp về vốn, sử dụng vốn nhằm khai thác và sử dụng một cách tối ưu nhất nguồn vốn trong và ngoài nước. Chúng ta nghiên cứu vấn đề này không nhằm một mục đích gì khác đó là tìm ra giải pháp, điều kiện tốt nhất đẻ phát triển đất nước. Thông qua những phân tích và đánh giá về mặt lý luận và kinh nghiệm thực tiễn của các nước trên thế giới về quá trình CNH- HĐH từ đó chúng ta có thể rút ra những kinh nghiệm để phù hợp với nền kinh tế Việt Nam và tìm ra những phương hướng phát triển CNH- HĐH ở Việt Nam cho hiện tại và tương lai.
Tài liệu tham khảo
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ 7.
Tạp chí kinh tế phát triển.
Kinh tế chính trị Mác - Lênin.
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 35260.doc