Quá trình cải thiện môi trường FDI tại Việt Nam

MỤC LỤC DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT - FDI: Đầu tư trực tiếp nước ngoài (Foreign Direct Investment) - ĐTNN: Đầu tư nước ngoài - IMF: Quĩ tiền tệ Quốc tế (International Monetary Fund). - TM: Thương mại - UNCTAD: Hội nghị của Liên Hiệp Quốc về Thương mại và Phát triển(United Nations Conference on Trade and Development) - WTO: Tổ chức thương mại thế giới (World Trade Organization) - OECD: Tổ chức hợp tác và phát triển - BTO: Xây dựng vận hành chuyển giao - Cty: Côn

doc104 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1587 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Quá trình cải thiện môi trường FDI tại Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
g ty - M&A : Hình thức công ty mua lại và sát nhập - XNK: Xuất nhập khẩu - ĐPT: Đang phát triển - TNCs: Các công ty xuyên quốc gia - WB: Ngân hàng thế giới DANH MỤC BẢNG BIỂU Biểu 1.1. Môi trường đầu tư – nước tiếp nhận đầu tư. 17 Biểu 1.2: Minh họa môi trường đầu tư trực tiếp tại nước tiếp nhận đầu tư 19 Biểu 2.1. Đánh giá về môi trường kinh doanh theo năm 42 Bảng 2.1. Đánh giá về môi trường kinh doanh theo năm 42 Biểu 2.2. Đánh giá các yếu tố trong môi trường kinh doanh 2007 43 Bảng 2.2. Đánh giá các yếu tố trong môi trường kinh doanh 2007 44 Bảng 2.3: Đầu tư trực tiếp nước ngoài phân theo giai đoạn 1998-2008 45 Biểu 2.3. Dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài phân theo giai đoạn 1988-2008 46 Biểu 2.4. Vốn đăng kí phân theo giai đoạn 1988-2008 46 Biểu 2.5. Qui mô vốn đăng kí bình quân (triệu USD) 48 Bảng 2.4. Qui mô vốn bình quân các dự án FDI giai đoạn 1988-2008 48 Bảng 2.5. Đầu tư trực tiếp nước ngoài theo ngành 1988 – 2008 50 Bảng 2.6. Đầu tư trực tiếp nước ngoài phân theo ngành CN và xây dựng 1988-2008 (tính tới 25/1/2009 - chỉ tính các dự án còn hiệu lực) 50 Biểu 2.6. Dự án FDI phân theo ngành CN và xây dựng 51 Biểu 2.7. Tổng vốn đầu tư FDI ngành CN và xây dựng 51 Biểu 2.8. Vốn điều lệ FDI ngành CN và xây dựng 51 Bảng 2.7. Đầu tư trực tiếp nước ngoài phân theo ngành dịch vụ 1988-2008 53 Biểu 2.9. Tổng số dự án FDI ngành dịch vụ 1988-2008 54 Biểu 2.10. Tổng vốn đầu tư dự án FDI vào ngành dịch vụ 1988-2008 54 Biểu 2.11. Vốn điều lệ các dự án FDI ngành dịch vụ 1988-2008 54 Bảng 2.8. FDI ngành nông – lâm nghiệp 1988-2008 (USD) 55 Biểu 2.12. Dự án FDI phân theo ngành nông lâm nghiệp 1988-2008 56 Biểu 2.13. Tổng vốn FDI ngành nông lâm nghiệp 1988-2008 56 Bảng 2.9 : Vốn FDI thưc các năm của giai đoạn 1988 – 2008 62 PHẦN MỞ ĐẦU Đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam đã có một quá trình hơn 20 năm với những kinh nghiệm rất phong phú ở nhiều thời kì. Trong môi trường kinh doanh mới, với không ít khó khăn nhưng nhiều doanh nghiệp đã trụ được tại Việt Nam, vượt qua thử thách và thành công. Khi chính sách Đổi mới bắt đầu được áp dụng, với những chính sách mới về đầu tư nước ngoài không ngừng được cải thiện của Chính phủ, Việt Nam được các nhà đầu tư nước ngoài đánh giá cao về tính ổn định và độ an toàn. Những yếu tố này đang thực sự quan trọng đối với những khoản đầu tư lớn và dài hạn. Không phải ngẫu nhiên mà thời gian gần đây, sự chú ý của doanh nghiệp quốc tế tăng cao đối với Việt Nam. Với mức tăng trưởng GDP rất cao trong khu vực, cùng với các ổn định về chính trị xã hội thì rõ ràng đây là những điều kiện thuận lợi cho đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam. Trong giai đoạn phát triển, hiện nay đang diễn ra cuộc cạnh tranh gay gắt giữa các quốc gia nhằm thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài, giữa các doanh nghiệp trong nước với nhau và với doanh nghiệp nước ngoài. Trong cuộc cạnh tranh này, môi trường đầu tư mà Nhà nước tạo ra là yếu tố tiên quyết. Chính phủ Việt Nam đã làm tất cả để môi trường Đầu tư ở Việt Nam ngày càng hoàn thiện, thông thoáng, minh bạch hơn và cạnh tranh hơn. Tuy nhiên, Việt Nam hiện còn gặp nhiều khó khăn, thách thức liên quan đến hạ tầng kinh tế còn nhiều yếu kém, chi phí sản xuất gia tăng trong bối cảnh giá cả gia tăng chưa có dấu hiệu suy giảm; khan hiếm lao động có tay nghề và cán bộ có trình độ quản lý tiên tiến, tổ chức và cán bộ ở các địa phương còn nhiều bất cập, thủ tục hành chính còn nhiều phức tạp, gây phiên hà, nhũng nhiễu nhà đầu tư và doanh nghiệp. Trước những khó khăn còn tồn tại thì Chính Phủ đã có những biện pháp gì để cải thiện môi trường đầu tư. Từ đó em quyết định lựa chọn nghiên cúu đề tài: “Quá trình cải thiện môi trường đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam” Đề tài gồm ba chương: Chương I: Lý luận chung về đầu tư trực tiếp nước ngoài và môi trường đầu tư trực tiếp nước ngoài. Chương II: Thực trạng quá trình cải thiện môi trường đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam Chương III: Một số giải pháp nhằm cải thiện môi trường đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam. Thông qua đề tài này em mong muốn có thể góp một phần nhỏ những kiến thức của mình cho công cuộc đổi mới và phát triển của nền kinh tế nước nhà. Em xin chân thành cảm ơn Ths. Nguyễn Thị Ái Liên đã hướng dẫn giúp em hoàn thành đề tài này. Với vốn hiểu biết và kinh nghiệm còn hạn hẹp, em mong nhận được những đánh giá, nhận xét, và cho ý kiến của các thầy cô nhằm hoàn thiện đề tài nghiên cứu này. CHƯƠNG I: LÝ LUẬN CHUNG VỀ ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI VÀ MÔI TRƯỜNG ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI (FDI) 1.1. Khái niệm, vai trò của đầu tư trực tiếp nước ngoài đối với Việt Nam 1.1.1. Khái niệm Theo quĩ tiền tệ quốc tế IMF, FDI được định nghĩa là một khoản đầu tư với những quan hệ, theo đó một tổ chức trong một nền kinh tế (nhà đầu tư trực tiếp) thu được lơi ích lâu dài từ một doanh nghiệp đặt tại một nền kinh tế khác. Mục đích của nhà đầu tư trực tiếp là muốn có nhiều ảnh hưởng trong việc quản lý doanh nghiệp đặt tại nền kinh tế khác đó. Hội nghị Liên Hợp Quốc về TM và phát triển UNCTAD cũng đưa ra một khái niệm về FDI. Theo đó, nguồn vốn FDI bao gồm vốn được cung cấp (trực tiếp hoặc thông qua các công ty liên quan khác) bởi nhà đầu tư trực tiếp nước ngoài cho các doanh nghiệp FDI, hoặc vốn mà nhà đầu tư trực tiếp nước ngoài nhận được từ doanh nghiệp FDI, FDI gồm có 3 bộ phận: vốn cổ phần, thu nhập tái đầu tư và các khoản vay trong nội bộ công ty. Các nhà kinh tế quốc tế định nghĩa: đầu tư trực tiếp nước ngoài là người sở hữu tại nước này hoặc mua hoặc kiểm soát một thực thể kinh tế của nước khác. Đó là một khoản tiền mà nhà đầu tư trả cho một thực thể kinh tế của nước ngoài để có ảnh hưởng quyết định đối với thực thể kinh tế ấy hoặc tăng thêm quyền kiểm soát trong thực thể kinh tế ấy. Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế (OECD) đưa ra khái niệm: một doanh nghiệp đầu tư trực tiếp là một doanh nghiệp có tư cách pháp nhân hoặc không có tư cách pháp nhân trong đó nhà đầu tư trực tiếp sở hữu ít nhất 10% cổ phiếu thường hoặc có quyền biểu quyết. Điểm mấu chốt của đầu tư trực tiếp là chủ định thực hiện quyền kiểm soát công ty. Tuy nhiên không phải hầu hết các quốc gia đều sử dụng mốc 10% làm mốc xác định FDI. Trong thực tế có những trường hợp tỉ lệ sở hữu tài sản trong doanh nghiệp của chủ đầu tư nhỏ hơn 10% nhưng họ vẫn được quyền điều hành quản lý doanh nghiệp, trong khi nhiều lúc lớn hơn vẫn chỉ là người đầu tư gián tiếp. Từ những khái niệm trên có thể hiểu một cách khái quát về đầu tư trực tiếp nước ngoài như sau: “Đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI tại một quốc gia là việc nhà đầu tư ở một nước khác đưa vốn bằng tiền hoặc bất kì tài sản nào vào quốc gia đó để được quyền sở hữu và quản lý hoặc quyền kiểm soát một thực thể kinh tế tại quốc gia đó, với mục tiêu tối đa hóa lợi ích của mình”. Tài sản trong khái niệm này, theo thông lệ quốc tế có thể hiểu là tài sản hữu hình (máy móc, thiêt bị, quy trình công nghệ, bất động sản, các loại hợp đồng và giấy phép có giá trị…), tài sản vô hình (quyền sở hữu trí tuệ, bí quyết và kinh nghiệm quản lý…) hoặc tài sản tài chính (cổ phần, cổ phiếu, trái phiếu, giấy ghi nợ…). Như vậy FDI bao giờ cũng là một dạng quan hệ kinh tế có nhân tố nước ngoài. 1.1.2. Các hình thức FDI. 1.1.2.1. Doanh nghiệp liên doanh: Doanh nghiệp liên doanh với nước ngoài gọi tắt là liên doanh là hình thức được sử dụng rộng rãi nhất của đầu tư trực tiếp nước ngoài trên thế giới từ trước đến nay. Nó là công cụ để thâm nhập vào thị trường nước ngoài một cách hợp pháp và có hiệu quả thông qua hoạt động hợp tác. Khái niệm liên doanh là một hình thức tổ chức kinh doanh có tính chất quốc tế, hình thành từ những sự khác biệt giữa các bên về quốc tịch, quản lý, hệ thống tài chính, luật pháp và bản sắc văn hoá, hoạt động trên cơ sở sự đóng góp của các bên về vốn, quản lý lao động và cùng chịu trách nhiệm về lợi nhuận cũng như rủi ro có thể xảy ra, hoạt động của liên doanh rất rộng, gồm cả hoạt động sản xuất kinh doanh, cung ứng dịch vụ, hoạt động nghiên cứu cơ bản và nghiên cứu triển khai. 1.1.2.2. Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài. Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài cũng là một hình thức doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài nhưng ít phổ biến hơn hình thức liên doanh trong hoạt động đầu tư quốc tế. Khái niệm doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài là một thực thể kinh doanh có tư cách pháp nhân, được thành lập dựa trên các mục đích của chủ đầu tư và nước sở tại. Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài hoạt động theo sự điều hành quản lý của chủ đầu tư nước ngoài nhưng vẫn phải tuỳ thuộc vào các điều kiện về môi trường kinh doanh của nước sở tại, đó là các điều kiện về chính trị, kinh tế luật pháp văn hoá, mức độ cạnh tranh… 1.1.2.3. Hình thức hợp tác kinh doanh trên cơ sở hợp đồng hợp tác kinh doanh Hình thức này là hình thức đầu tư trong đó các bên quy trách nhiệm và phân chia kết quả kinh doanh cho mỗi bên để tiến hành đầu tư kinh doanh mà không thành lập pháp nhân mới. Hợp đồng hợp tác kinh doanh là văn bản được kí kết giữa đại diện có thẩm quyền của các bên tham gia hợp đồng hợp tác kinh doanh, quy định từ việc thực hiện phân chia kết quả kinh doanh cho mỗi bên. Đặc điểm là các bên kí kết hợp đồng hợp tác kinh doanh, trong quá trình kinh doanh các bên hợp doanh có thể thành lập ban điều phối để theo dõi, giám sát việc thực hiện hợp đồng hợp tác kinh doanh. Phân chia kết quả kinh doanh: hình thức hợp doanh không phân phối lợi nhuận và chia sẻ rủi ro mà phân chia kết quả kinh doanh chung theo tỷ lệ góp vốn hoặc theo thoả thuận giữa các bên. Các bên hợp doanh thực hiện nghĩa vụ tài chính đối với nhà nước sở tại một cách riêng rẽ. Pháp lý hợp doanh là một thực thể kinh doanh hoạt động theo luật pháp nước sở tại, chịu sự điều chỉnh của pháp luật nước sở tại. Quyền lợi và nghĩa vụ của các bên hơp doanh được ghi trong hợp đồng hợp tác kinh doanh. 1.1.2.4. Đầu tư theo hợp đồng BOT BOT (xây dựng - vận hành - chuyển giao) là một thuật ngữ để chỉ một số mô hình hay một cấu trúc sử dụng đầu tư tư nhân để thực hiện xây dựng cơ sở hạ tầng vẫn được dành riêng cho khu vực nhà nước. Trong một dự án xây dựng BOT, một doanh nghiệp tư nhân được đặc quyền xây dựng và vận hành một công trình mà thường do chính phủ thực hiện. Công trình này có thể là nhà máy điện, sân bay, cầu, cầu đường… Vào cuối giai đoạn vận hành doanh nghiệp tư nhân sẽ chuyển quyền sở hữu dự án về cho chính phủ. Ngoài hợp đồng BOT còn có BTO, BT. Hợp đồng BOT là văn bản kí kết giữa các nhà đầu tư nước ngoài với cơ quan có thẩm quyền của nước chủ nhà để đầu tư xây dựng công trình kết cấu hạ tầng (kể cả mở rộng, nâng cấp, hiện đại hoá công trình) và kinh doanh trong một thời gian nhất định để thu hồi vốn và có lợi nhuận hợp lý, sau đó chuyển giao không bồi hoàn toàn bộ công trình cho nước chủ nhà. Hợp đồng xây dựng chuyển giao kinh doanh BTO và hợp đồng xây dựng chuyển giao BT, được hình thành tương tự như hợp đồng BOT nhưng có điểm khác là: đối với hợp đồng BTO sau khi xây dựng xong công trình nhà đầu tư nước ngoài chuyển giao lại cho nước chủ nhà và được Chính phủ nước chủ nhà dành cho quyền kinh doanh công trình đó hoặc công trình khác trong một thời gian đủ để hoàn lại toàn bộ vốn đầu tư và có lợi nhuận thoả đáng về công trình xây dựng và chuyển giao đó. Đối với hợp đồng BT, sau khi xây dựng xong công trình nhà đầu tư nước ngoài chuyển giao lại cho nước chủ nhà và được chính phủ nước chủ nhà thanh toán bằng tiền hoặc bằng tài sản nào đó tương xứng với vốn đầu tư đó bỏ ra và một tỉ lệ lợi nhuận hợp lí. 1.1.2.5. Đầu tư thông qua mô hình công ty mẹ và con Holding company là một trong những mô hình tổ chức quản lý được thừa nhận rộng rãi ở hầu hết các nước có nền kinh tế thị trường phát triển. Holding company là một công ty sở hữu vốn trong một công ty khác ở mức đủ để kiểm soát hoạt động quản lý và điều hành công ty đó thông qua việc gây ảnh hưởng hoặc lựa chọn thành viên hợp đồng quản trị. Holding company được thành lập dưới dạng công ty cổ phần và chỉ giới hạn hoạt động của mình trong việc sở hữu vốn, quyết định chiến lược và giám sát hoạt động quản lí của các công ty con, các công ty con vẫn duy trì quyền kiểm soát hoạt động kinh doanh của mình một cách độc lập, tạo rất nhiều thuận lợi: - Cho phép các nhà đầu tư không chỉ huy động vốn để triển khai nhiều dự án đầu tư khác nhau mà còn tạo điểu kiện thuận lợi cho họ điều phối hoạt động và hỗ trợ các công ty trực thuộc trong việc tiếp thị, tiệu thụ hàng hoá, điều tiết chi phí thu nhập và các nghiệp vụ tài chính. - Quản lí các khoản vốn góp của mình trong công ty khác như một thể thống nhất và chịu trách nhiệm về việc ra quyết định và lập kế hoạch chiến lược điều phối các hoạt động và tài chính của cả nhóm công ty. - Lập kế hoạch, chỉ đạo, kiểm soát các luồng lưu chuyển vốn trong danh mục đầu tư. Holding company có thể thực hiện cả hoạt động tài trợ đầu tư cho các công ty con và cung cấp dịch vụ tài chính nội bộ cho các công ty này. - Cung cấp cho các công ty con các dịch vụ như kiểm toán nội bộ, quan hệ đối ngoại, phát triển thị trường, lập kế hoạch, nghiên cứu và phát triển (R&D)… 1.1.2.6. Hình thức công ty cổ phần Công ty cổ phần (công ty cổ phần trách nhiệm hữu hạn) là doanh nghiệp trong đó vốn điều lệ được chia thành nhiều phần bằng nhau gọi là cổ phần, các cổ đông chỉ chịu trách nhiệm về nợ và các nghĩa vụ tài sản khác của doanh nghiệp trong phạm vi vốn góp vào doanh nghiệp, cổ đông có thể là tổ chức cá nhân với số lượng tối đa không hạn chế, nhưng phải đáp ứng yêu cầu về số cổ đông tối thiểu. Đặc trưng của công ty cổ phần là nó có quyền phát hành chứng khoán ra công chúng và các cổ đông có quyền tự do chuyển nhượng cổ phần của mình cho người khác. Cơ cấu tổ chức, công ty cổ phần phải có đại hội cổ đông, hội đồng quản trị và giám đốc. Thông thường ở nhiều nước trên thế giới, cổ đông hoặc nhóm cổ đông sở hữu trên 10% số cổ phiếu thường có quyền tham gia giám sát quản lý hoạt dộng của cty cổ phần. Đại hôi cổ đông gồm tất cả cổ đông có quyền biểu quyết là cơ quan quyết định cao nhất của công ty cổ phần. Ở một số nước khác, cty cổ phần hữu hạn có vốn đầu nước ngoài được thành lập theo cách: thành lập mới, cổ phần hoá doanh nghiệp FDI (doanh nghiệp liên doanh và doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài) đang hoạt động, mua lại cổ phần của doanh nghiệp trong nước cổ phần hoá. 1.1.2.7. Hình thức chi nhánh công ty nước ngoài Hình thức này được phân biệt với hình thức công ty con 100% vốn nước ngoài ở chỗ chi nhánh không được coi là một pháp nhân độc lập trong khi công ty con thường là một pháp nhân độc lập. Trách nhiệm của công ty con thường giới hạn trong phạm vi tài sản ở nước sở tại, trong khi trách nhiệm của chi nhánh theo quy định của một số nước, không chỉ giới hạn trong phạm vi tài sản của chi nhánh, mà còn được mở rộng đến cả phần tài sản của công ty mẹ ở nước ngoài. Chi nhánh được phép khấu trừ các khoản lỗ ở nước sở tại và các khoản chi phí thành lập ban đầu vào các khoản thu nhập của công ty mẹ tại nước ngoài. Ngoài ra chi nhánh còn được khấu trừ một phần các chi phí quản lý của công ty mẹ ở nước ngoài vào phần thu nhập chịu thuế ở nước sở tại. Việc thành lập chi nhánh thường đơn giản hơn so với việc thành lập công ty con. Do không thành lập 1 pháp nhân độc lập, việc thành lập chi nhánh không phải tuân thủ theo các quy định về thành lập công ty, thường chỉ thông qua việc đăng kí tại các cơ quan có thẩm quyền của nước chủ nhà. 1.1.2.8. Hình thức công ty hợp danh Công ty hợp danh là doanh nghiệp phải có ít nhất hai thành viên hợp danh, ngoài các thành viên hợp danh có thể có thành viên góp vốn. Thành viên hợp danh phải là cá nhân có trình độ chuyên môn, có uy tín nghề nghiệp và phải chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về nghĩa vụ của cty; thành viên góp vốn chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ của cty trong phạm vi số vốn góp vào cty. Cty hợp danh không được phát hành bất kì loại chứng khoản nào. Các thành viên hợp danh có quyền ngang nhau khi quyết định các vấn đề quản lý công ty, còn thành viên góp vốn có quyền được chia lợi nhuận theo tỷ lệ quy định tại điều lệ công ty nhưng không được tham gia quản lý cty và hoạt động kinh doanh nhân danh cty. 1.1.2.9. Hình thức công ty mua lại và sát nhập (M&A) Phần lớn các vụ M&A được thực hiện giữa các TNC lớn và tập trung vào các lĩnh vự công nghiệp ô tô, dược phẩm, viễn thông và tài chính ở các nước phát triển. Mục đích chủ yếu : - Khai thác lợi thế của thị trường mới mà hoạt động thương mại quốc tế hay đầu tư mới theo kênh truyền thống không mang lại hiệu quả mong đợi. Hoạt động M&A tạo cho các công ty cơ hội mở rộng nhanh chóng hoạt động ra thị trường nước ngoài. - Bằng con đường M&A, các TNC có thể sáp nhập các cty của mình với nhau, hình thành một cty khổng lồ hoạt động trong nhiều lĩnh vự hay các cty khác nhau cùng hoạt động trong một lĩnh vực có thể sáp nhập lại nhằm tăng khả năng cạnh tranh toàn cầu của tập đoàn. - Các cty vì mục đích quốc tế hoá sản phẩm muốn lấp chỗ trống trong hệ thống phân phối của họ trên thị trường thế giới. - Thông qua con đường M&A các ty có thể giảm chi phí từng lĩnh vực nghiên cứu và phát triển sản xuất, phân phối và lưu thông. - M&A tao điều kiện thuận lợi cho việc tái cấu trúc các ngành công nghiệp và cơ cấu ngành công nghiệp ở các quốc gia, do đó, hình thức này đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển công nghiệp ở mọi quốc gia. 1.1.3. Vai trò của đầu tư trực tiếp nước ngoài đối với nền kinh tế Việt Nam (nước nhận đầu tư). 1.1.3.1. Tác động tích cực của FDI. * Đầu tư trực tiếp nước ngoài đã kịp thời bổ sung nguồn vốn quan trọng cho đầu tư phát triển, góp phần thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế. FDI là một trong những nguồn quan trọng để bù đắp sự thiếu hụt về vốn ngoại tệ của các nước nhận đầu tư, đặc biệt là đối với các nước kém phát triển. Hầu hết các nước kém phát triển đều rơi vào cái “vòng luẩn quẩn”. Đó là: Thu nhập thấp dẫn đến tiết kiệm thấp, vì vậy đầu tư thấp và rồi hậu quả thu lại là thu nhập thấp. Tình trạng luẩn quẩn này chính là điểm nút khó khăn mà các nước này phải vượt qua để hội nhập vào quỹ đạo kinh tế hiện đại. Nhiều nước lâm vào tình trạng trì trệ của nghèo đói bởi lẽ không lựa chọn và tạo ra điểm đột phá chính xác. Trở ngại lớn nhất để thực hiện điều đó đối với các nước kém phát triển là vốn đầu tư và kỹ thuật. Vốn đầu tư là cơ sở tạo ra công ăn việc làm trong nước, đổi mới công nghệ, kỹ thuật, tăng năng suất lao động vv...Từ đó tạo tiền đề tăng thu nhập, tăng tích lũy cho sự phát triển của xã hội. Tuy nhiên để tạo ra vốn cho nền kinh tế chỉ trông chờ vào vốn nội bộ thì hậu quả khó tránh khỏi là sẽ tụt hậu trong sự phát triển chung của thế giới. Do đó vốn nước ngoài sẽ là một “cú hích” để góp phần đột phá vào cái “vòng luẩn quẩn” đó. Đặc biệt là FDI: nguồn quan trọng để khắc phục tình trạng thiếu vốn mà không gây nợ cho các nước nhận đầu tư. Không như vốn vay nước đầu tư chỉ nhận một phần lợi nhuận thích đáng khi công trình đầu tư hoạt động có hiệu quả. Hơn nữa lượng vốn này còn có lợi thế hơn nguồn vốn vay ở chỗ. Thời hạn trả nợ vốn vay thường cố định và đôi khi quá ngắn so với một số dự án đầu tư, còn thời hạn vốn FDI thì linh hoạt hơn. * Chuyển giao công nghệ. Lợi ích quan trọng mà FDI mang lại đó là công nghệ khoa học hiện đại, kỹ sảo chuyên môn, trình độ quản lý tiên tiến. Khi đầu tư vào một nước nào đó, chủ đầu tư không chỉ đưa vào nước đó vốn bằng tiền mà còn chuyển cả vốn hiện vật như máy móc thiết bị, nguyên vật liệu...(hay còn gọi là phần cứng), tri thức khoa học, bí quyết quản lý, năng lực tiếp cận thị thường ...(hay còn gọi là phần mềm.) Do vậy đứng về lâu dài đây chính là lợi ích căn bản nhất đối với nước nhận đầu tư. FDI có thể thúc đẩy phát triển các nghề mới, đặc biệt là những nghề đòi hỏi hàm lượng công nghệ cao. Vì thế nó có tác dụng to lớn đối với quá trình công nghiệp hóa, dịch chuyển cơ cấu kinh tế nhanh của các nước nhận đầu tư. FDI đem lại kinh nghiệm quản lý, kỹ năng kinh doanh và trình độ kỹ thuật cho các đối tác trong nước nhận đầu tư, thông qua những chương trình đào tạo và quá trình vừa học vừa làm. FDI còn mang lại cho họ những kiến thức sản xuất phức tạp trong khi tiếp nhận công nghệ của các nước nhận đầu tư. FDI còn thúc đẩy các nước nhận đầu tư phải cố gắng đào tạo những kỹ sư, những nhà quản lý có trình độ chuyên môn để tham gia vào các công ty liên doanh với nước ngoài. * Thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Tranh thủ vốn và kỹ thuật của nước ngoài, các nước đang phát triển muốn thực hiện mục tiêu quan trọng hàng đầu là đẩy mạnh kinh tế. Đây cũng là điểm nút để các nước đang phát triển khoát ra khỏi các vòng luẩn quẩn của sự đói nghèo. Thực tiễn và kinh nghiệm của nhiều nước cho thấy, các quốc gia nào thực hiện chiến lược kinh tế mở của với bên ngoài, biết tranh thủ và phát huy tác dụng của các nhân tố bên ngoài biến nó thành những nhân tố bên trong thì quốc gia đó tạo được tốc độ tăng trưởng cao. Mức tăng trưởng ở các nước đang phát triển thường do nhân tố tăng đầu tư, nhờ đó các nhân tố khác như tổng số lao động được sử dụng, năng suất lao động cũng tăng lên theo. Rõ ràng hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài đã góp phần tích cực thúc đẩy tăng trưởng kinh tế ở các nước đang phát triển. Nó là tiền đề, là chỗ dựa để khai thác những tiềm năng to lớn trong nước nhằm phát triển nền kinh tế. * Thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Yêu cầu dịch chuyển trong nền kinh tế không chỉ đòi hỏi của bản thân sự phát triển nội tại nền kinh tế, mà còn là đòi hỏi của xu hứng quốc tế hóa đời sống kinh tế đang diễn ra mạnh mẽ hiện nay. Đầu tư trực tiếp nước ngoài là một trong bộ phận quan trọng của hoạt động kinh tế đối ngoại. Thông qua các quốc gia sẽ tham gia ngày càng nhiều vào quá trình phân công lao động quốc tế. Để hội nhập vào nền kinh tế giữa các nước trên thế giới, đòi hỏi mỗi quốc gia phải thay đổi cơ cấu kinh tế trong nước cho phù hợp với sự phân công lao động quốc tế. Sự dịch chuyển cơ cấu kinh tế của nước phù hợp với trình độ chung trên thế giới sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động đầu tư nước ngoài. Ngược lại, chính hoạt động đầu tư lại góp phần thúc đẩy nhanh quá trình dịch chuyển cơ cấu kinh tế. Bởi vì: Một là, thông qua hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài đã làm xuất hiện nhiều lĩnh vực và ngành kinh tế mới ở các nước nhận đầu tư. Hai là, đầu tư trực tiếp nước ngoài góp phần vào sự phát triển nhanh chóng trình độ kỹ thuật công nghệ ở nhiều ngành kinh tế, góp phần thúc đẩy tăng năng suất lao động ở một số ngành này và tăng tỷ phần của nó trong nền kinh tế. Ba là, một số ngành được kích thích phát triển bởi đầu tư trực tiếp nước ngoài, nhưng cũng có nhiều ngành bị mai một đi, rồi đi đến chỗ bị xóa bỏ. * Một số tác động khác. Ngoài những tác động trên, đầư tư trực tiếp nước ngoài còn có một số tác động sau: - Góp phần đáng kể vào nguồn thu ngân sách Nhà nước thông qua việc nộp thuế của các đơn vị đầu tư và tiền thu từ việc cho thuê đất .... - Đầu tư trực tiếp nước ngoài cũng đóng góp cải thiện cán cân quốc tế cho nước tiếp nhận đầu tư. Bởi vì hầu hết các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài là sản xuất ra các sản phẩm hướng vào xuất khẩu phần đóng góp của tư bản nước ngoài và việc phát triển xuất khẩu là khá lớn trong nhiều nước đang phát triển. Cùng với việc tăng khả năng xuất khẩu hàng hóa, đầu tư trực tiếp nước ngoài còn mở rộng thị trường cả trong nước và ngoài nước. Đa số các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài đều có phương án bao tiêu sản phẩm. Đây gọi là hiên tượng “hai chiều” đang trở nên khá phổ biến ở nhiều nước đang phát triển hiện nay. - Về mặt xã hội, đầu tư trực tiếp nước ngoài đã tạo ra nhiều chỗ làm việc mới, thu hút một khối lượng đáng kể người lao động ở nước nhận đầu tư vào làm việc tại các đơn vị của đầu tư nước ngoài. Điều đó góp phần đáng kể vào việc làm giảm bớt nạn thất nghiệp vốn là một tình trạng nan giải của nhiều quốc gia. Đặc biệt là đối với các nước đang phát triển, nơi có lực lượng lao động rất phong phú nhưng không có điều kiện khai thác và sử dụng được, thì đầu tư trực tiếp nước ngoài được coi là chìa khóa quan trọng để giải quyết vấn đề trên đây. Vì đầu tư trực tiếp nước ngoài tạo ra được các điều kiện về vốn và kỹ thuật, cho phép khai thác và sử dụng các tiềm năng về lao động. Tuy nhiên sự đóng góp của FDI đối với việc làm trong nước nhận đầu tư phụ thuộc rất nhiều vào chính sách và khả năng kỹ thuật của nước đó. 1.1.3.2. Những ảnh hưởng tiêu cực của FDI * Chuyển giao công nghệ. Khi nói về vấn đề chuyển giao kỹ thuật thông qua kênh đầu tư trực tiếp nước ngoài ở phần trên, chúng ta đã đề cập đến một nguy cơ là nước tiếp nhận đầu tư sẽ nhận nhiều kỹ thuật không thích hợp. Các công ty nước ngoài thường chuyển giao những công nghệ kỹ thuật lạc hậu và máy móc thiết bị cũ. Điều này cũng có thể giải thích là: Một là, dưới sự tác động của cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật cho nên máy móc công nghệ nhanh chóng trở thành lạc hậu. Vì vậy họ thường chuyển giao những máy móc đã lạc hậu cho các nước nhận đầu tư để đổi mới công nghệ, đổi mới sản phẩm, nâng cao chất lượng của sản phẩm của chính nước họ. Hai là, vào giai đoạn đầu của sự phát triển, hầu hết các nước đều sử dụng công nghệ, sử dụng lao động. Tuy nhiên sau một thời gian phát triển giá của lao động sẽ tăng, kết quả là giá thành sản phẩm cao. Vì vậy họ muốn thay đổi công nghệ bằng những công nghệ có hàm lượng cao để hạ giá thành sản phẩm. Do vậy việc chuyển giao công nghệ lạc hậu đã gây thiệt hại cho các nước nhận đầu tư như là: - Rất khó tính được giá trị thực của những máy móc chuyển giao đó. Do đó nước đầu tư thường bị thiệt hại trong việc tính tỷ lệ góp trong các doanh nghiệp liên doanh và hậu quả là bị thiệt hại trong việc chia lợi nhuận. - Gây tổn hại môi trường sinh thái. Do các công ty nước ngoài bị cưỡng chế phải bảo vệ môi trường theo các quy định rất chặt chẽ ở các nước công nghiệp phát triển, thông qua đầu tư trực tiếp nước ngoài họ muốn xuất khẩu môi trường sang các nước mà biện pháp cưỡng chế, luật bảo vệ môi trường không hữu hiệu. - Chất lượng sản phẩm, chi phí sản xuất cao và do đó sản phẩm của các nước nhận đầu tư khó có thể cạnh tranh trên thị trường thế giới. * Phụ thuộc về kinh tế đối với các nước nhận đầu tư. Đầu tư trực tiếp nước ngoài thường được chủ yếu là do các công ty xuyên quốc gia, đã làm nảy sinh nỗi lo rằng các công ty này sẽ tăng sự phụ thuộc của nền kinh tế của nước nhận đầu tư vào vốn, kỹ thuật và mạng lưới tiêu thụ hàng hóa của các công ty xuyên quốc gia. Đầu tư trực tiếp nước ngoài có đóng góp phần vốn bổ sung quan trọng cho quá trình phát triển kinh tế và thực hiện chuyển giao công nghệ cho các nước nhận đầu tư. Đồng thời cũng thông qua các công ty xuyên quốc gia là những bên đối tác nước ngoài để chúng ta có thể tiêu thụ hàng hóa vì các công ty này nắm hầu hết các kênh tiêu thụ hàng hóa từ nước này sang nước khác. Vậy nếu càng dựa nhiều vào đầu tư trực tiếp nước ngoài, thì sự phụ thuộc của nền kinh tế vào các nước công nghiệp phát triển càng lớn. Và nếu nền kinh tế dựa nhiều vào đầu tư trực tiếp nước ngoài thì sự phát triển của nó chỉ là một phồn vinh giả tạo. Sự phồn vinh có được bằng cái của người khác. Nhưng vấn đề này có xảy ra hay không còn phụ thuộc vào chính sách và khả năng tiếp nhận kỹ thuật của từng nước. Nếu nước nào tranh thủ được vốn, kỹ thuật và có ảnh hưởng tích cực ban đầu của đầu tư trực tiếp nước ngoài mà nhanh chóng phát triển công nghệ nội tại, tạo nguồn tích lũy trong nước, đa dạng hóa thị trrường tiêu thụ và tiếp nhận kỹ thuật mới cũng như đẩy mạnh nghiên cứu và triển khai trong nước thì sẽ giảm được rất nhiều sự phụ thuộc của các công ty đa quốc gia. * Chi phí cho việc thu hút FDI và sản xuất không thích hợp. Một là: Chi phí của việc thu hút FDI. Để thu hút FDI, các nước đầu tư phải áp dụng một số ưu đãi cho các nhà đầu tư như là giảm thuế hoặc miễn thuế trong một thời gian khá dài cho phần lớn các dự án đầu tư nước ngoài. Hoặc việc giảm tiền cho họ cho việc thuê đất, nhà xưởng và một số các dịch vụ trong nước là rất thấp so với các nhà đầu tư trong nước. Hay trong một số lĩnh vực họ được Nhà nước bảo hộ thuế quan.... Và như vậy đôi khi lợi ích của nhà đầu tư có thể vượt lợi ích mà nước chủ nhà nhận được. Thế mà, các nhà đầu tư còn tính giá cao hơn mặt bằng quốc tế cho các yếu tố đầu vào. Các nhà đầu tư thường tính giá cao cho các nguyên vật liệu, bán thành phẩm, máy móc thiết bị mà họ nhập vào để thực hiện đầu tư. Việc làm này mang lại nhiều lợi ích cho các nhà đầu tư, chẳng hạn như trốn được thuế, hoặc giấu được một số lợi nhuận thực tế mà họ kiếm được. Từ đó hạn chế cạnh tranh của các nhà đầu tư khác xâm nhập vào thị trường. Ngược lại, điều này lại gây chi phí sản xuất cao ở nước chủ nhà và nước chủ nhà phải mua hàng hóa do các nhà đầu tư nước ngoài sản xuất với giá cao hơn.. Hai là: Sản xuất hàng hóa không thích hợp. Các nhà đầu tư còn bị lên án là sản xuất và bán hàng hóa không thích hợp cho các nước kém phát triển, thậm chí đôi khi lại là những hàng hóa có hại cho khỏe con người và gây ô nhiễm môi trường. Ví dụ như khuyến khích dùng thuốc lá, thuốc trừ sâu, nước ngọt có ga thay thế nước hoa quả tươi, chất tẩy thay thế xà phòng ... * Những ảnh hưởng tiêu cực khác. Trong một số các nhà đầu tư không phải không có trường hợp hoạt động tình báo, gây rối an ninh chính trị. Thông qua nhiều thủ đoạn khác nhau theo kiểu “diễn biến hòa bình”. Có thể nói rằng sự tấn công của các thế lực thù địch nhằm phá hoại ổn định về chính trị của nước nhận đầu tư luôn diễn ra dưới mọi hình thức tinh vi và xảo quyệt. Mặt khác, mục đích của các nhà đầu tư là kiếm lời, nên họ chỉ đầu tư vào những nơi có lợi nhất. Vì vậy khi lượng vốn nước ngoài đã làm tăng thêm sự mất cân đối giữa các vùng, giữa nông thôn và thành thị. Sự mất cân đối này có thể gây ra mất ổn định về chính trị, hoặc FDI cũng có thể gây ảnh hưởng xấu về mặt xã hội. Những mặt trái của FDI không có nghĩa là phủ nhận những lợi thế cơ bản của nó mà chúng ta chỉ lưu ý rằng không nên quá hy vọng vào FDI và cần phải có những chính sách, những biện pháp kiểm soát hữu hiệu để phát huy những mặt tích cực, hạn chế những mặt tiêu cực của FDI. Bởi vì mức độ thiệt hại của FDI gây ra cho nước chủ nhà nhiều hay ít lại phụ thuộc rất nhiều vào chính sách, năng lực, trình độ quản lý, trình độ chuy._.ên môn của nước nhận đầu tư. 1.2. Môi trường đầu tư trực tiếp nước ngoài và các nhân tố ảnh hưởng 1.2.1. Khái niệm đầu tư và môi trường đầu tư. Đầu tư là hành động bỏ vốn ngày hôm nay để thu lại lợi nhuận trong tương lai. Trong quá trình đó môi trường đầu tư đóng vai trò như một chất xúc tác ban đầu cho việc lựa chọn quyết định bỏ vốn của nhà đầu tư, vì vậy môi trường đầu tư có một vị trí vô cùng quan trọng. Môi trường đầu tư là tập hợp các yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động đầu tư của doanh nghiệp. Môi trường đầu tư bao gồm các yếu tố kinh tế, chính trị, xã hội, văn hóa, tự nhiên, công nghệ. Trong đó, chính sách của Chính phủ, các yếu tố về địa lý, về quy mô thị trường là quan trọng. Môi trường đầu tư tốt khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư, giảm thấp chi phí và rủi ro. Một môi trường đầu tư tốt không chỉ mang lại lợi nhuận cao cho doanh nghiệp mà còn nâng cao hiệu quả hoạt động trên phạm vi toàn xã hội Theo nghĩa chung nhất: môi trường đầu tư là tổng hoà các yếu tố bên ngoài liên quan đến hoạt động đầu tư. Môi trường đầu tư hấp dẫn phải là một môi trường có hiệu quả đầu tư cao, mức độ rủi ro thấp. Điều này lại chịu ảnh hưởng bởi nhiều nhân tố như: chính sách, cơ chế ưu đãi đầu tư của nước chủ nhà, điều kiện phát triển về cơ sở hạ tầng kinh tế, mức độ hoàn thiện về thể chế hành chính - pháp lý, khả năng ổn định về mặt chính trị - xã hội, độ mở của nền kinh tế, sự phát triển của hệ thống thị trường ... Các nhân tố trên có mối quan hệ và tác động qua lại lẫn nhau, vì vậy, để nâng cao chất lượng và hiệu quả của môi trường đầu tư, nhất thiết phải quan tâm xử lý đồng bộ các nhân tố ảnh hưởng trên 1.2.2. Phân loại môi trường đầu tư trực tiếp nước ngoài. Có nhiều cách phân loại môi trường đầu tư, song theo nhiều nhà kinh tế, môi trường đầu tư có thể chia ra môi trường cứng và môi trường mềm. Môi trường cứng liên quan đến các yếu tố thuộc cơ sở hạ tầng kỹ thuật phục vụ cho sự phát triển kinh tế, gồm: hệ thống cơ sở hạ tầng giao thông (đường sá, cầu cảng hàng không, cảng biển...), hệ thống thông tin liên lạc, năng lượng... Môi trường mềm bao gồm: hệ thống các dịch vụ hành chính, dịch vụ pháp lý liên quan đến hoạt động đầu tư (đặc biệt các vấn đề liên quan đến chế độ đối xử và giải quyết các tranh chấp, khiếu nại); hệ thống các dịch vụ tài chính - ngân hàng, kế toán và kiểm toán... Môi trường đầu tư nước ngoài có thể thay đổi và chịu sự chi phối của Chính phủ nước tiếp nhận đầu tư, thay đổi khi nước tiếp nhận đầu tư ký kết hoặc gia nhập Hiệp định khuyến khích và bảo hộ đầu tư song phương, khu vực và địa phương. Môi trường đầu tư trực tiếp nước ngoài chủ yếu được xác định theo hai cách tiếp cận sau: - Thứ nhất, dựa vào các nhóm nhận tố chính tác động đối với hoạt động đầu tư, môi trường đầu tư theo cách tiếp cận này bao gồm các nhóm yếu tố chính sau: khung chính sách đối với hoạt động FDI, nhóm nhân tố kinh tế, nhóm nhân tố hỗ trợ kinh doanh. Biểu 1.1. Môi trường đầu tư – nước tiếp nhận đầu tư. MÔI TRƯỜNG ĐẦU TƯ I. KHUNG CHÍNH SÁCH FDI - Tình hình kinh tế, chính trị và xã hội ổn định - Qui định liên quan đến thành lập và ổn định. - Chính sách đối với chức năng và cấu trúc thị trường (chính sách cạnh tranh và sát nhập doanh nghiệp). Gia nhập các điều ước quốc tế về FDI. - Chính sách tư nhân hóa. - Chính sách thương mại (thuế quan và phi thuế quan). - Chính sách thuế. II. NHÓM NHÂN TỐ KINH TẾ. III. NHÓM NHÂN TỐ HỖ TRỢ KINH DOANH. - Xúc tiến đầu tư (bao gồm xây dựng hình ảnh, các hoạt động quảng bá đầu tư và cung cấp dịch vụ hỗ trợ đầu tư). - Biện pháp khuyến khích đầu tư. - Chống tham nhũng và nâng cao hiệu quả quản lý hành chính. - Có dịch vụ giải trí cho người nước ngoài. - Dịch vụ sau đầu tư. NHÓM NHÂN TỐ CHỦ YẾU A. THỊ TRƯỜNG - Dung lượng thị trường và thu nhập bình quân đầu người. - Tăng trưởng thị trường. - Khả năng tiếp cận thị trường và khu vực thế giới. - Sở thích của người tiêu dùng. - Cấu trúc thị trường. B. TÀI NGUYÊN/TÀI SẢN. - Nguyên nhiên vật liệu sản xuất. - Chi phí nhân công thấp. - Trình độ lao động cao. - Thừa nhận và bảo hộ tài sản công nghệ, thương hiệu. - Cở sở hạ tầng (cảng, đường, điện, viễn thông). C. HIỆU QUẢ. - Chi phí đầu vào (vận chuyển, viễn thông) và chi phí của hàng hóa trung gian. - Gia nhập các hiệp định khu vực và thế giới để thiếp lập mạng lưới hợp tác. Nguồn: UNTAD, WIR 1998, trang 91 - Thứ hai, dựa vào giai đoạn hình thành và hoạt động đầu tư, môi trường đầu tư trực tiếp nước ngoài bao gồm các nhân tố của giai đoạn: thành lập, hoạt động và giải thể hay phá sản doanh nghiệp FDI. Môi trường đầu tư trực tiếp nước ngoài theo cách tiếp cận này được quan niệm là: “Tổng thể các yếu tố, chính sách của nước tiếp nhận đầu tư có tác động trực tiếp hay gián tiếp đến quá trình thành lập, hoạt động và giải thể hay phá sản doanh nghiệp nước đi đầu tư”. Các yếu tố này bao gồm chính sách của một quốc gia đối với FDI, cơ sở vật chất, trình độ lao động và tình hình an ninh chính trị … ở nước tiếp nhận đầu tư. Khi nhà đầu tư quyết định tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh tại nước tiếp nhận đầu tư thì vấn đề đầu tiên họ sẽ gặp phải đó là thủ tục thành lập và cấp phép đầu tư, xuất nhập cảnh, cư trú, đi lại, lĩnh vực đầu tư được phép hoạt động, nguồn nhân lực …. đây được coi là “nhóm yếu tố tiếp cận thị trường đầu tư”. Sau khi thành lập, nhà đầu tư tiến hành hoạt động sản xuất, kinh doanh sẽ gặp phải các yếu tố có liên quan đến thuế, xuất nhập khẩu, đất đai, lao động, ngoại hối, chuyển tiền … đây được gọi là “nhóm yếu tố liên quan đến quá trình hoạt động”. Sau khi tiến hành hoạt động trong một thời gian nhất định nếu nhà đầu tư không muốn tiếp tục kinh doanh hoặc bị phá sản thì sẽ liên quan đến các yếu tố: phá sản, giải thể… đây được coi là “nhóm yếu tố liên quan đến quá trình kết thúc hoạt động đầu tư”. Dưới đây là Đồ thị minh họa môi trường đầu tư theo cách tiếp cận từng giai đoạn đầu tư. Biểu 1.2: Minh họa môi trường đầu tư trực tiếp tại nước tiếp nhận đầu tư - VỐN FDI - NHÀ ĐẦU TƯ NƯỚ NGOÀI TIẾP CẬN THỊ TRƯỜNG HOẠT ĐỘNG KINH DOANH KẾT THÚC HOẠT ĐỘNG KINH DOANH. 1. An ninh chính trị - xã hội. 2. Thủ tục thành lập doanh nghiệp. 3. Xuất nhập cảnh. 4. Minh bạch, công khai chính sách đầu tư… 1. Thuế 2. Xuất nhập cảnh 3. Tuyển dụng lao động. 4. Đất đai. 5. Yếu tố sản xuất của doanh nghiệp. 6. Ngoại hối. 7. Khiếu kiện. 8. Chuyển tiền. 9. Bảo hộ tài sản của nhà đầu tư. 10. Lĩnh vực được phép kinh doanh. 11. Giải quyết tranh chấp. 12. Minh bạch, công khai. 13. Cơ sở hạ tầng 1. Giảt thể. 2. Phá sản. 3. Khiếu kiện và giải quyết tranh chấp… Nguồn: UNTAD, WIR 1998, tr 91. 1.2.3. Môi trường đầu tư của nước chủ nhà 1.2.3.1.Tình hình chính trị Ổn định chính trị là yếu tố quan trọng hàng đầu đối với sự thu hút đầu tư nước ngoài bởi nó đảm bảo việc thực hiện các cam kết của chính phủ trong các vấn đề sở hữu vốn đầu tư, hoạch định các chính sách ưu tiên, định hướng phát triển đầu tư của một nước, ổn định chính trị sẽ tạo ra sự ổn định về kinh tế xã hội và giảm bớt độ rủi ro cho các nhà đầu tư nhất là các nhà đầu tư nước ngoài. Tình hình chính trị không ổn định sẽ dẫn tới việc bất ổn định về chính sách và đường lối phát triển không nhất quán. Chính phủ đương thời cam kết không quốc hữu hoá tài sản, vốn của người nước ngoài nhưng chính phủ mới chưa chắc đã thống nhất với quan điểm này và tiến hành những thay đổi khiến quyền sở hữu vốn của người nước ngoài bị đe doạ. Hiện tượng này đã từng xảy ra ở một số nước Châu Phi, châu Á và châu Mỹ như ChiLe, Philippines… Hoặc như ở một số nước, khi chính phủ mới lên lãnh đạo sẽ thay đổi định hướng đầu tư của nước chủ nhà (thay đổi lĩnh vực khuyến khích, ưu tiên, thay đổi chiến lược xuất nhập khẩu…) khiến các nhà đầu tư ở trong tình trạng rút lui không được mà tiến hành tiếp cũng không xong và phải chấp nhận thua lỗ. 1.2.3.2. Môi trường luật pháp Quá trình đầu tư liên quan đến rất nhiều lĩnh vực hoạt động trong một thời gian dài, nên một môi trường pháp lý ổn định và có hiệu lực là một yếu tố quan trọng để quản lý và thực hiện đầu tư một cách có hiệu quả. Môi trường này bao gồm các chính sách, qui định, luật cần thiết đảm bảo sự nhất quán, không mâu thuẫn, chồng chéo nhau và có tính hiệu lực cao. - Chính sách thuế: bao gồm các nội dung liên quan đến các loại thuế, mức thuế, thời gian miễn giảm thuế, thời gian khấu hao và các điều kiện ưu đãi khác. - Chính sách lệ phí: qui định về các khoản tiền phải nôp như phí dịch vụ cấp giấy phép, dịch vụ cơ sở hạ tầng (điện, nước, giao thông, thông tin liên lạc, thuê đất…). Chính sách 2 giá ở Việt Nam đã làm các nhà ĐTNN bất bình. - Chính sách quản lý ngoại hối: bao gồm các qui định về viêc mở tài khoản ngoại tệ, tỷ giá hối đoái, chuyển ngoại tệ ra nước ngoài. Đối với nhiều nước, việc mở tài khoản ngoại tệ cho doanh nghiệp có vốn ĐTNN phải được sự cho phép của cơ quan quản lý ngoại tệ của nước này để nhằm kiểm soát được dòng ngoại tệ ra vào. - Quản lý hoạt động ĐTNN. Trong quá trình hình thành và triển khai dự án đầu tư, chủ đầu tư phải chịu sự quản lý của các cơ quan có thầm quyền đại diện cho nước chủ nhà từ - Các chính sách và qui định khác: Chính sách về công nghệ (các qui định về công nghệ). Chính sách về bảo vệ môi trường. Chính sách về lao động tiên lương… 1.2.3.3. Vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên Đó là những yếu tố tự nhiên như khí hậu, tài nguyên, dân số, khoảng cách… liên quan đến việc lựa chọn lĩnh vực để đầu tư và khả năng sinh lời của dự án. Khí hậu nhiệt đới gió mùa thường ảnh hưởng không tốt đến tuổi thọ của máy móc thiết bị có nguồn gốc từ phương Tây. Nguồn nguyên vật liệu đầu vào phong phú sẽ thu hút các nhà đầu tư, giảm chi phí và giá thành. Dân cư đông sẽ là nguồn cung cấp sức lao động dồi dào và là thị trường tiềm năng để tiêu thụ hàng hoá. 1.2.3.4. Trình độ phát triển kinh tế Trình độ phát triển kinh tế của một quốc gia ảnh hưởng rất nhiều đến việc thu hút và hiệu quả sử dụng vốn ĐTNN, đặc biệt là FDI. Trình độ phát triển kinh tế được thể hiện qua các nội dung sau: - Mức độ phát triển về quản lý kinh tế vĩ mô, chất lượng cung cấp dịch vụ phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh doanh, mức độ cạnh trang của thị trường trong nước. - Mức độ phát triển về quản lý kinh tế vĩ môi thấp dẫn tới các hiện tượng lạm phát cao, nợ nước ngoài nhiều, tham nhũng, thủ tục hành chính rườm rà, tăng trưởng kinh tế thấp… là nguyên nhân tiềm ẩn gây nên khủng hoảng. - Chất luợng dịch vụ cơ sở hạ tầng kém ảnh hưởng trực tiếp tới sự vận hành các hoạt động sản xuất và kinh doanh cũng như đời sống của các nhà đầu tư nước ngoài, khiến tăng chi phí sản xuất, chất lượng sản phẩm không cao . - Chất lượng các dịch vụ khác như cung ứng lao động, tài chính cũng là yếu tố rất cần thiết để tu hút các nhà ĐTNN. - Tính cạnh tranh của nước chủ nhà cao sẽ giảm được rào cản đối với ĐTNN, các nhà đầu tư có thể lựa chọn lĩnh vự đầu tư để phát huy lợi thế so sánh của mình. 1.2.3.5. Đặc điểm phát triển kinh tế xã hội Các yếu tố về ngôn ngữ, tôn giáo, phong tục tập quán, thị hiếu thẩm mĩ, hệ thống giáo dục , đạo đức… cũng có tác động không nhỏ tới việc lựa chọn lĩnh vực đầu tư. Sự bất đồng về ngôn ngữ và văn hoá trong một số trường hợp đã mang lại những hậu quả không lường trong kinh doanh.Thẩm mĩ dân tộc của nước chủ nhà là một yếu tố quan trọng để chủ ĐTNN chọn các hình thức quảng cáo và bao bì sản phẩm. Một ngân hàng của Anh thiết kế màu xanh lá cây trong biểu tượng của mình, nhưng khi đặt chi nhánh hoạt động tại Singapore đã phải thay đổi màu bởi ở nước này màu xanh lá cây bị coi là màu tang tóc. Tương tự, người dân Trung Quốc đặc biệt có cảm tình với màu đỏ nên khi quảng cáo sản phẩm, các nhà ĐTNN cũng tăng thêm lượng màu này. Trình độ phát triển giáo dục đào tạo sẽ quyết định chất lựơng đội ngũ lao động. Mặc dù sau khi tuyển dụng lao động thì đại đa số các doanh nghiệp FDI phải đào tạo lại, nhưng sự khác biệt quá lớn trong quan điểm cũng như nội dung đao tạo ở nước nhận đầu tư và nhu cầu của doanh nghiệp sẽ làm hạn chế hiệu quả đầu tư và làm nản lòng những nhà đầu tư có nhu cầu sử dụng nhiều lao động. 1.2.4. Môi trường ở nước chủ đầu tư 1.2.4.1. Thay đổi chính sách kinh tế vĩ mô Những chính sách như tài chính – tiền tệ, xuất nhập khẩu và quản lý ngoại hối của nước đầu tư ảnh hưởng rất lớn đến luồng đầu tư trực tiếp của nước này sang các nước khác. Sự thay đổi các chính sách tài chính-tiền tệ tác động mạnh đến lãi suất, làm tăng hoặc giảm khả năng tạo lợi nhuận của các nhà đầu tư. Thay đổi chính sách tiền tệ sẽ làm ảnh hưởng đến lạm phát, lạm phát cao có nghĩa là đồng nội tệ mất giá khiến hoạt động đầu tư ra nước ngoài giảm bởi để mua được cùng một lượng dịch vụ đầu tư ở nước ngoài thì các nhà đầu tư phải tốn nhiều tiền bản tệ hơn và ngược lại. Ảnh hưởng của chính sách XNK của nước đầu tư đến dòng vốn đầu tư ra nước ngoài được thể hiện ở chỗ: các ưu đãi khuyến khích xuất khẩu trong các hiệp định thương mại sẽ khiến cho hàng hoá và dịch vụ của nước đầu tư có cơ hội thuận lợi thâm nhập thị trường nước khác, do đó động cơ đầu tư ra nước ngoài để vượt qua rào cản thương mại sẽ giảm mạnh. Đối với nhập khẩu cũng vậy, nếu nước đâu tư hạ mức rào cản đối với hang hoá từ nước ngoài nhất là từ các nước ĐPT thì các nhà đầu tư trong nước sẽ có nhiều cơ hội tiến hành hoạt động đầu tư ra nước ngoài nhằm khai thác triệt để lợi thế so sánh trong phân công lao động quốc tế, tìm kiếm nguồn nguyên liệu mới để sản xuất hang hoá và nhập khẩu lại vào nước mình. 1.2.4.2. Các hoạt động thúc đẩy đầu tư ra nước ngoài Các hiệp định đầu tư song phương, đa biên, hiệp định tránh đánh thuế 2 lần, hỗ trợ tài chính, bảo hiểm đầu tư, và các chính sách đối ngoại của nước đầu tư có tác động mạnh tới luồng vốn đầu tư ra nước ngoài của quốc gia này. Việc kí kết các hiệp định đầu tư với nước ngoài là cơ sở pháp lý quan trọng hàng đầu để đảm bảo tin tưởng cho các nhà đầu tư khi đầu tư ở nước ngoài. Hiệp định đầu tư song phương được kí giữa nước đầu tư với nước nhận đầu tư, còn hiệp định đa biên được kí giữa các nước trong cùng một nhóm. Cùng với các hiệp định trên, hiệp định tránh đánh thuế 2 lần với nước đầu tư với nước ngoài cũng tạo sức hấp dẫn cho các nhà đầu tư bởi họ chỉ chịu một lần thuế ở nước nhận đầu tư mà thôi. Mặt khác, việc nước đầu tư áp dụng chính sách bảo hiểm vốn đầu tư cũng là yếu tố tác động mạnh đến luồng đầu tư ra nước ngoài. Năm 1992, chính phủ Nhật Bản tuyên bố bảo hiểm đầu tư cho các nhà đầu tư Nhật Bản vào Việt Nam đã khiến dòng đầu tư của Nhật vào Việt Nam tăng mạnh. 1.2.4.3. Tiềm lực kinh tế, khoa học công nghệ và các chính sách xã hội Một nước chỉ có thể đầu tư ra nước ngoài khi tiềm lực kinh tế đủ mạnh, lượng tích luỹ lớn nên lượng vốn cần cho đầu tư trong nước dư thừa. Như vây, mức độ tích luỹ của nền kinh tế có vai trò làm tăng hoặc giảm áp lực đẩy dòng vốn đầu tư ra nước ngoài. Trình độ khoa học công nghệ thông qua các công việc nghiên cứu và phát triển (R & D) luôn là một lợi thế cho nước đầu tư. Một nước có khả năng nghiên cứu và phát triển cao thường là nước tạo ra công nghệ nguồn và quyết định giá cả công nghệ trên thị trường. Các công nghệ nguồn tạo ra lợi thế cạnh tranh độc quyền và cần sản xuất với qui mô lớn, đây chính là yếu tố quyết định các TNCs đầu tư ra nước ngoài. Những nước đầu tư ra nước ngoài lớn cũng thường là những nước chiếm tỉ trọng cung cấp công nghệ cao trên thế giới 1.2.5. Môi trường đầu tư quốc tế 1.2.5.1.Xu hướng đối thoại giữa các nước Xu hướng đối thoại chính trị được hiểu là việc giải quyết xung đột giữa các nước được thực hiện bằng đàm phán, là yếu tố quan trọng, tác động tích cực tới luồng đầu tư trên thế giới. 1.2.5.2. Liên kết khu vực Sự tạo ra các khối thị trường chung tạo ra sự thuận lợi cho các TNCs chuyển địa điểm sản xuất và phân phối giữa các nước thành viên của khối, nhờ đó thúc đẩy dòng đầu tư… Tuy nhiên khối thị trường chung này không đưa ra những chinh sách trực tiếp đối với đầu tư nước ngoài đặc biệt là FDI, song thông qua các chính sách tự do hoá thương mại đã xoá bỏ rào cản giữa các nước. Việc liên kết khu vực tạo sự phát triển ổn định cho các nước thành viên, đồng thời buộc các nước cam kết những chính sách tự do hoá đầu tư, tạo môi trường đầu tư thuận lợi nhằm thu hút đầu tư nước ngoài 1.2.5.3. Tăng trưởng nhanh của các TNCs Phần lớn hoạt động ĐTNN được thực hiện do các TNCs nên tốc độ tăng trưởng của các TNCs ảnh hưởng đến động thái của dòng FDI. TNCs bao gồm công ty mẹ và các công ty con ở các nước trên thế giới. Công ty mẹ là công ty kiểm soát toàn bộ tài sản của minh tại nước sở hữu. Có 3 dạng công ty con: Dạng thứ nhất là công ty phụ thuộc – hơn 50% tài sản do chủ đầu tư ở công ty mẹ nắm quyền sở hữu, họ có quyền chỉ định hoặc bãi nhiệm các thành viên bộ máy tổ chức và điều hành của công ty con. Dạng thứ hai là công ty liên kết, chủ đầu tư của công ty mẹ chỉ nắm một tỷ lệ nhỏ tài sản và có quyền hạn ít hơn so với dạng thứ nhất. Dạng công ty con thứ ba là dạng công ty con hoạt động với 100% tài sản thuộc sở hữu của công ty mẹ, trường hợp này công ty mẹ có toàn quyền đối với công ty con. Làn sóng sáp nhập công ty đã hình thành các công ty khổng lồ có mặt trên khắp các châu lục, chiếm thị phần quan trọng trên thị trường thế giới, hoạt đông trên nhiều lĩnh vực hơn, tổ chức có hiệu quả hơn và được vi tính hoá cao độ hơn. Các chuyên gia kinh tế phương Tây cho rằng việc sáp nhập các công ty có tác dụng tích cực trong việc phát triển kinh doanh theo qui luật thị trường, đưa nhanh tiến bộ khoa học công nghệ vào thực tiễn, hạn chế các rủi ro kinh doanh. Làn sóng sáp nhập gia tăng góp phần làm cho đầu tư nước ngoài đạt kỉ lục. 1.2.5.4. Tốc độ toàn cầu hoá Nếu liên minh kinh tế nhấn mạnh đến các hiệp định kinh tế giữa các nước thì toàn cầu hoá nhấn mạnh quá trình đan xen kiên kết giữa các công ty trên phạm vi toàn cầu để hình thành mạng lưới sản xuất quốc tế. Tốc độ của quá trình toàn cầu hoá thúc đẩy xu hướng tự do hoá FDI, tạo thuận lợi cho các TNCs mở rộng đầu tư. Trong thập kỉ gần đây, FDI đã khẳng định vai trò của mình đối với những nước ĐPT, thúc đẩy nhiều nước ban hành và sửa đổi luật ĐTNN, đến năm 1997 có khoảng 143 nước có luật ĐTNN, riêng năm 1997 có 17 nước ban hành luật mới và 75 nước điều chỉnh luật cũ để tăng mức hấp dẫn FDI. Toàn cầu hoá thúc đẩy sự phát triển của thị trường vốn quốc tế, giảm bớt các ngăn cản lưu chuyển vốn, nhanh chóng và hiện đại trong nghiệp vụ giao dịch, đa dạng hoá các hình thức đầu tư và cung cấp tín hiệu đầy đủ kịp thời cho các nhà đầu tư. 1.3. Ảnh hưởng của môi trường đầu tư trực tiếp nước ngoài đến FDI. Đồng vốn bao giờ cũng biết tìm đến nơi có điều kiện sinh lời cao và ổn định, vì vậy để thu hút ĐTNN, Chính phủ các nước luôn tìm các tạo môi trường thuận lợi cho ĐTNN. Đó là việc ban hành các luật lệ, chính sách, chế độ liên quan đến hoạt động ĐTNN, tạo ra sự phát triển ổn định của nền kinh tế, ổn định chính trị xã hội và xây dựng một hệ thống cơ sở hạ tầng của nền kinh tế. 1.3.1. Ổn định môi trường vĩ mô Sự ổn định của môi trường vĩ mô là điều kiện tiên quyết của mọi ý định và hành vi đầu tư. Đối với vốn nước ngoài, điều này càng có ý nghĩa quan trọng hơn bao giờ hết. Để thu hút được vốn FDI, nền kinh tế nội địa phải là nơi an toàn cho sự vận động của tiền vốn đầu tư, sau đó là nơi có năng lực sinh lợi cao hơn những nơi khác. Sự an toàn của dòng vốn đòi hỏi môi trường vĩ mô ổn định, không gặp phải những rủi ro do các yếu tố chính trị xã hội gây ra. Một nền kinh tế ổn định vững chắc nhưng không phải và không thể là sự ổn định bất động, tức là sự ổn định hàm chứa trong đó khả năng trì trệ kéo dài và dẫn tới khủng hoảng. Một sự ổn định được coi là vững chắc nhưng bất động chỉ có thể là sự ổn định ngắn hạn. Tạo ra và duy trì triển vọng tăng trưởng nhanh, lâu bền là một cộng việc đòi hỏi có sự nỗ lực rất lớn của chính phủ trong việc điều hành kinh tế vĩ mô. Việc tạo lập môi trường kinh tế vĩ mô ổn định cũng yêu cầu phải giải quyết vẫn đề chống lam phát và ổn định tiền tệ. 1.3.2. Tạo môi trường pháp lý cho hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài Môi trường pháp lý đối với hoạt động ĐTNN bao gồm toàn bộ các văn bản pháp qui có liên quan đến hoạt động đầu tư này, từ hiến pháp cơ bản đến các đạo luật cụ thể. Điều mà các nhà đầu tư quan tâm trong nội dung của các đạo luật là: Thứ nhất, có sự đảm bảo pháp lý đối với quyền sở hữu tài sản tư nhân và môi trường cạnh tranh lành mạnh. Hai là, qui chế pháp lý của việc phân chia lợi nhuận, quyền hồi hương lợi nhuận đối với các hình thức vận động cụ thể của vốn nước ngoài tại nước sở tại. Ba là, các qui định về thu thuế, mức thuế các loại, giá và thời hạn thuê đất. Nếu như các qui định về mặt pháp lý đảm bảo an toàn về vốn của nhà đầu tư không bị quốc hữu hóa khi hoạt động đầu tư đó không phương hại đến an ninh quốc gia, đảm bảo mức lợi nhuận cao và việc di chuyển lợi nhuận về nước dễ dàng thì khả năng hấp dẫn và thu hút vốn ĐTNN càng cao. 1.3.3. Hệ thống kết cấu xây dựng cơ sở hạ tầng Một trong những trở ngại lớn đối với quá trình đầu tư kinh doanh ở Việt Nam trong những năm qua là sự nghèo nàn lạc hậu của hệ thống kết cấu cơ sở hạ tầng. Hiện tượng này đã tồn tại từ rất lâu, do hậu quả của một nền kinh tế kém phát triển trong thời kì bao cấp, đến nay tình trạng này ngày cành trở nên gay gắt khi nền kinh tế đang bước vào một thời kì phát triển mới với những kết quả tích cực trong việc gia tăng sản xuất trong nước và mở rộng quan hệ kinh tế ra nước ngoài. Kết cấu hạ tầng có ảnh hưởng quyết định đến hiệu quả sản xuất kinh doanh, trong đó đáng kể là ảnh hưởng đến tốc độ chu chuyển đồng vốn. Đây là vấn đề quan tâm hàng đầu của các nhà đầu tư trước khi ra quyết định đầu tư. Hệ thống cơ sở hạ tầng bao gồm cả mạng lưới giao thông, hệ thống thông tin liên lạc và các cơ sở dich vụ tài chính ngân hàng. Trình độ của các nhân tố này cũng phản ánh trình độ phát triển kinh tế của một quốc gia, nó tạo ra bộ mặt của đất nước và môi trường cho hoạt động đầu tư. CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG QUÁ TRÌNH CẢI THIỆN MÔI TRƯỜNG ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI TẠI VIỆT NAM. 2.1. Quá trình cải thiện môi trường đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam 2.1.1. Trước khi Việt Nam gia nhập WTO. 2.1.1.1. Cơ chế, chính sách. Việt Nam được coi là quốc gia ổn định, an toàn nhất trên thế giới. Đây đựoc coi là yếu tố đầu tiên tác động đến thu hút ĐTNN. Các nhà đầu tư tin rằng sự ổn định về chính trị đồng thời sẽ tạo ra sự ổn định về kinh tế xã hội và giảm bớt sự rủi ro cho họ. Theo báo cáo phát triển thế giới 2005 của ngân hàng thế giới, khảo sát hơn 30000 doanh nghiệp tại 53 nước đang phát triển, ông Martin Rama – chuyên gia kinh tế trưởng của WB đánh giá môi trường Việt Nam đang rất tốt trong đó có sự tác động dáng kể của hệ thống luật pháp. Cùng với các nước châu Phi, Việt Nam được coi là điển hình về cải cách thủ tục pháp lý - một trong những vấn đề cơ bản để cải thiện môi trường đầu tư trong những năm qua. Môi trường luật pháp này bao gồm các chính sách, quy định cần thiết đảm bảo sự nhất quán, không mâu thuẫn, chồng chéo nhau và có tính hiệu lực cao. - Chính sách sở hữu: với mục đính chính là kiểm soát các hoạt động của các nhà đầu tư, Việt Nam có quy định các nhà đầu tư nước ngoài phải góp vốn không ít hơn 30%. Hai đạo luật cơ bản trong hoạy động đầu tư là luật Doanh nghiệp và luật Đầu tư nước ngoài dược Quốc hội thông qua cuối 2005 đã thiết lập mặt bằng chung cho nhà đầu tư trong và ngoài nước. Trước đây, nhà đầu tư nước ngoài chỉ được thành lập cty TNHH, theo luật mới, họ có thể được mở rộng hình thức đầu tư. Chính phủ Việt Nam cũng cam kết không tịch thu quốc hữu hoá đối với tài sản của các nhà đầu tư. Trong trường hợp bắt buộc, đảm bảo an ninh quốc phòng, họ sẽ đươc bồi thường theo quy định. Thêm vào đó, Việt Nam có những bước tiến lớn về bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ sau khi gia nhập công ước Burn. - Chính sách thuế: chính phủ có quy định rõ ràng về từng loại thuế (thuế đất đai, thuế thu nhập doang nghiệp, thuế thu nhập cá nhân,..), xây dựng danh mục đầu tư, ưu đãi đầu tư, miễn giảm thuế trong một số lĩnh vực, có chính sách chuyển lỗ vào năm sau, hoàn thuế do tái đầu tư cho doanh nghiệp. - Chính sách lệ phí:quy định về các khoản tiền phải nộp như phí dịch vụ cấp giấy phép, dịch vụ cơ sở hạ tầng (điện nước,giao thông,thông tin liên lạc, thuê đất...) Chính sách 2 giá từng làm nhà đầu tư nước ngoài bất bình cũng đã được bãi bỏ, đối xử bình đẳng đối với mọi nhà đầu tư. 2.1.1.2. Vị trí địa lý và cơ sở hạ tầng. Đây là những yếu tố tự nhiên như khí hậu, tài nguyên, dân số, khoảng cách.. liên quan đến việc lựa chọn lĩnh vực đầu tư và khả năng sinh lời của dự án. Việt Nam nằm ở trung tâm, có khả năng kết nối với những nước có nền công nghiệp cao như: Nhật Bản, ĐàiLoan, Singapo, Malaixia... Một trong những điểm thu hút sự đầu tư vào Việt Nam là những đường bay thẳng tới các địa điểm ở châu Á, châu Âu, châu Mỹ. Việc không qua trạm chung chuyển ở châu Á mang lại lợi ích lớn cho khách hàng đặc biệt là tiết kiệm thời gian, không bỏ lỡ cơ hội đầu tư. Với đường bờ biển kéo dài là một lợi thế của nước ta trong việc phát triển du lịch, tạo điều kiện thu hút mọi người đến với Việt Nam , hiểu thêm về con người, văn hoá Việt, có một sự tác động nhất định đến cơ hội đầu tư vào nước ta. Việt Nam được đánh giá là thị trường tiềm năng. Với đặc điểm của một quốc gia có dân số đông hơn 81 triệu dân sẽ là nguồn cung cấp sức lao động dồi dào. Đồng thời con người Việt Nam chăm chỉ , cần cù lao động, có trình độ, ham học hỏi. Song, do Việt nam có khí hậu nhiệt đới gió mùa nên có ảnh hưởng nhiều đến tuổi thọ các loại máy móc thiết bị như hiện tượng ăn mòn... Điều này đòi hỏi các nhà đầu tư cần có biện pháp khấu hao phù hợp trong quá trình sản xuất kinh doanh. Nhìn chung, cơ sở hạ tầng ở Việt Nam còn rất nhiều bất cập, ở những thành phố lớn như Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh luôn xảy xa tình trạng ách tắc giao thông trong giờ cao điểm, tổng quan của các khu phố chính cần được qui hoạch tổng thể để có thể xây dựng được hình ảnh đẹp trong mắt khách du lịch đến tham quan. Mỗi năm có khoảng một triệu người từ các vùng nông thôn chuyển đến các thành phố của Việt Nam. Để đối phó với dòng người đổ vào thành thị này, cần phải nâng cao việc quản lý và lập kế hoạch đô thị. Đặc biệt cần phải kiểm soát tốt hơn những nhu cầu xây dựng nhà ở không theo qui hoạch và cung cấp cơ sở hạ tầng cơ bản trước khi tiến hành xây dựng. Trao thêm trách nhiệm cho chính quyền địa phương và thông qua các phương pháp lập kế hoạch linh động hơn sẽ giúp đạt được yêu cầu trên. Do Việt Nam đã giảm nghèo, sự khác biệt giữa tỷ lệ nghèo thành thị và nông thôn đang thu nhỏ lại. Nhưng cùng lúc đó, khoảng cách giữa những người có thu nhập cao nhất và thu nhập thấp nhất lại tăng lên. Một vấn đề ngày càng trở nên quan trọng hơn là làm thế nào để tập trung nguồn hỗ trợ tài chính của chính phủ cho cơ sở hạ tầng để mang lại lợi ích cho những người dân nghèo nhất. Trong đó có con số tổng đầu tư cho có sở hạ tầng của Việt Nam trong giai đoạn này giữ ở mức 10% GDP, rất cao so với tiêu chuẩn quốc tế. Chính vì vậy, mạng lưới đường bộ Việt Nam đã tăng hơn gấp đôi chiều dài so với năm 1990, và chất lượng đường cải thiện rõ rệt. Tất cả các khu vực đô thị và 88% các hộ gia đình nông thôn có điện. Số người được dùng nước sạch tăng từ 26% dân số năm 1993 lên đến 49% dân số năm 2002, và trong cùng khoảng thời gian, số người có hố xí vệ sinh tăng từ 10% lến 25% dân số. 2.1.1.3. Nguồn nhân lực. Các yếu tố về ngôn ngữ, tôn giáo, phong tục tập quán, thị hiếu, hệ thống giáo dục, đạo đức... cũng có tác động không nhỏ tới việc lựa chọn lĩnh vực đầu tư. Có thể nói rằng Việt Nam được biết đến là một quốc gia giàu truyền thống văn hoá, có sự đoàn kết giữa các dân tộc anh em, tôn trọng quyền tự do tôn giáo nhưng vẫn trong khuôn khổ pháp luật. Tinh thần dân tộc, văn hoá cũng tạo điều kiện cho các chủ đầu tư nước ngoài dễ hoà nhập,thuận lợi trong kinh doanh. Con người Việt Nam luôn cần cù, chăm chỉ,có tinh thần ham học hỏi, sáng tạo, 60% dân số ra đời sau năm 1975, tỷ lệ biết chữ là 92%. Đây cũng là một thuận lợi đối với chủ đầu tư nước ngoài trong việc đưa sản phẩm đến tay người tiêu dùng thông qua các hình thức quảng cáo,mẫu mã sản phẩm. Nguồn lao động trẻ và được đào tạo ngày càng quy mô hơn. Nguồn nhân lực này được trang bị kiến thức khá tốt (được thể hiện qua số lượng các sinh viên ngày càng tăng, số lượng các trường đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp, dạy nghề được thành lập tăng qua các năm) và khá năng động, ham học hỏi. Trong thời gian qua, đáng chú ý là có sự gắn kết giữa nhà trường và các trung tâm dạy nghề như thành phố Hồ Chí Minh có 10 trung tâm đào tạo công nghệ thông tin liên kết với nhà nước. Mặt khác, giá nhân công ở nước ta thấp hơn so với các quốc gia khác: chỉ bằng 10% giá lao động ở Mỹ, 40% -50% giá lao động Trung Quốc, Ấn Độ. 2.1.1.4. Yếu tố kinh tế. Việt Nam có tốc độ tăng trưởng kinh tế ổn định lâu dài đặc biệt năm 2005 tốc độ tăng trưởng đạt 8,5%. Thêm vào đó chiến lược tăng tính cạnh tranh lành mạnh trong nền kinh tế Việt Nam đang đi đúng hướng khi tạo thêm động lực cho doanh nghiệp từ 2 góc độ: - Phát triển thị trường dịch vụ,chống độc quyền. - Ký kết hiệp định Thương mại với Hoa Kỳ và nỗ lực cho việc gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO). Giám đốc quốc gia của WB, ông Klaus Rohland nhận định: "Việt Nam thành công vượt trội trong lĩnh vực giảm nghèo, nhận thức rõ về vấn đề chống tham nhũng và đang có nhiều biện pháp giải quyết về cơ chế để giảm động cơ tham nhũng". Theo dự báo chuyên gia công nghệ thông tin cho thấy 4-5 năm nữa số lượng người sử dụng Internet có thể lên đến 30 triệu.Việc thu hút các tập đoàn lớn, đa quốc gia về công nghệ thông tin cho thấy Việt Nam đang là thị trường đầy tiềm năng. Tuy nhiên, môi trường đầu tư còn nhiều e ngại. So với thị trường công nghệ đã và đang thu hút mạnh đầu tư từ Mỹ như Trung Quốc, Ấn Độ thì thị trường Việt Nam nhỏ và thông tin về doanh nghiệp cũng rất hạn chế. Thông tin từ Việt Nam rất ít ỏi, sự thiếu hụt nguồn lực trình độ cao, những chuyên gia công nghệ thông tin còn yếu về kinh nghiệm, năng lực. Mặt khác giá thuê đường truyền Internet cao cũng tác động đến chi phí của doanh nghiệp. Giá thuê đường truyền là 256 kbs/s với mức giá 2400 USD/tháng gấp 80 lần giá thuê ở M._.àm hạn chế khả năng thu hút và sử dụng vốn đầu tư của nền kinh tế. * Về luật pháp và chính sách. Hệ thống luật pháp, chính sách về đầu tư vẫn còn một số điểm thiếu đồng bộ và nhất quán giữa các luật chung và các luật chuyên ngành. Vì vật trên thực tế vẫn tạo ra các cách hiểu khác nhau gây rất nhiều khó khăn cho việc xem xét cấp giấy chứng nhận đầu tư cũng như hướng dẫn các doanh nghiệp xử lý các vấn đề phát sinh trong quá trình triển khai dự án, cụ thể: - Yêu cầu hợp pháp hóa lãnh sự đối với hồ sơ của nhà ĐTNN không phù hợp với thực tế khi luật Công chứng 2006 đã cho phép các giấy tờ nước ngoài chỉ cần chứng thực tại địa phương. - Các văn bản hướng dẫn về cơ chế hậu kiểm, giám sát, quản lý đối với dự án FDI theo luật Đầu tư 2005 và nghị định 108 đến nay chưa được ban hành làm cho các cơ quan quản lý địa phương gặp nhiều lúng túng trong việc thực thi chức năng quản lý nhà nước của mình. - Qui định đối với một số ngành, lĩnh vực đầu tư có điều kiện còn chưa rõ ràng. Điển hình là hướng dẫn đối với FDI trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo. Chính phủ đã chỉ đạo sủa đổi, bổ sung nghị định số 06/2000/NĐ-CP, Nghị định số 18/2001/NĐ-CP và Nghị định 165/2005/NĐ-CP, nhưng đến nay Bộ giáo dục và Đào tạo là đơn vị chủ trì vẫn chưa có được dự thảo cuối cùng. Do vậy các cơ sở giáo dục, đào tạo có yếu tố nước ngoài rất khó áp dụng qui định tương ứng với tưng loại hình doanh nghiệp. * Về công tác qui hoạch Công tác qui hoạch lãnh thổ, ngành nghề, lĩnh vực, sản phẩm còn yếu và thiếu, đặc biệt trong bối cảnh phân cấp triệt để việc cấp phép và quản lý đầu tư về các địa phương, dẫn đến tình trạng mất cân đối chung. Nhiều địa phương cấp phép tràn lan, khai tăng vốn đăng ký của dự án để có thành tích, để cạnh tranh nhau, dẫn đến cùng cấp quá nhiều giấy phép cho các dự án có cùng một lọa sản phẩm mà khồn tính đến khả năng thị trường dưa thừa, lãng phí, hiệu quả đầu tư thấp. * Về cơ sở hạ tầng. - Sự yếu kém của hệ thống cơ sở hạ tầng ngoài hàng rào là nhân tố quan trọng gây tâm lý lo ngại của các nhà đầu tư. Thông thường các nhà đầu tư có tính toán, thực hiện tiến độ xây dựng công trình dự án theo tiến độ xây dựng xây dựng công trình hạ tầng ngoài hàng rào để tránh tình trạng công trình dự án xây dựng xong không đưa vào vận hành được do hệ thống cơ sở hạ tầng ngoài hàng rào không đáp ứng yêu cầu, đặc biệt là hệ thống cấp điện nước, đường giao thông, cảng biển phục vụ nhu cầu sản xuất và xuất nhập khẩu hàng hóa. - Nổi cộm nhất hiện nay là hệ thống đường giao thông ở khu vực vùng kinh tế trọng điểm phía Nam cần được nâng cấp mở rộng để đáp ứng nhu cầu vận chuyển và xuất khẩu hàng hóa trong khu vực đang tăng nhanh, cụ thể là đường 51 nối hệ thống cảng ở khu vực Cái Mép – Thị Vải tới các khu công nghiệp và các khu đô thị trong toàn vùng… - Hệ thống kết cấu hạ tầng ở các khu kinh tế mới được thành lập gần đây như Chân Mây, Nhơn Hội, Nam Phú Yên … phát triển quá chậm so với nhu cầu đầu tư phát triển các dự án FDI đang gây quan ngại cho các nhà đầu tư nước ngoài và đang cản trở việc giải ngân triển khai dự án FDI lớn trong các khu kinh tế này. - Tình trạng thiếu điện dẫn tới cắt điện luân phiên, cắt điện không theo lịch khiến cho các doanh nghiệp gặp khó khăn không nhỏ trong việc điều hành và hoàn thành kế hoạch sản xuất. * Về nguồn nhân lực. - Tình trạng thiếu hụt nguôn nhân lực đã qua đào tạo, đặc biệt là công nhân kĩ thuất và kỹ sư ngày càng rõ rệt, không chỉ xảy ra ở các khu kinh tế mới hình thành như Chân Mây, Dung Quất, Nhơn Hội… mà còn xảy ra ở cả những trung tâm công nghiệp như Hà Nội, TP.Hồ Chí Minh, Đồng Nai, Bình Dương… Mặt hạn chế này đã tồn tại từ các giai đoạn trước nhưng trong 2 năm trở lại đây càng trở nên bức xúc hơn trong điều kiện như dự án ĐTNN, đặt biệt là các dự án lớn đi vào triển khai thực hiện. Bên cạnh đó, chương trình đào tạo của các cơ sở giáo dục đào tạo trong nước quá lạc hậu không đáp ứng được yêu cầu của các doanh nghiệp. - Tình trạng đình công đang diễn ra với qui mô ngày cành lớn và trở thành áp lực đáng kể đối với các doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp sử dụng nhiều lao động. Điều này phần lớn do lạm pháp trong những tháng đầu năm 2008 ở mức cao, đặc biệt là giá các mặt hàng lương thực, thực phẩm tăng cao khiến đời sống nhân dân, đặc biệt là đội ngũ công nhân ngày càng khó khăn. Bên cạnh đó, đình công tại các khu công nghiệp tập trung đang có diễn biến phức tạp và trở nên khó kiểm soát, có cuộc đình công có tổ chức và không có yêu cầu gì đối với người sử dụng lao động. * Vấn đề đất đai và giải phóng mặt bằng. - Công tác giải phóng mặt bằng là mặt hạn chế chậm được khắc phục của môi trường đầu tư của ta. Trên thực tế, công tác qui hoạch sử dụng đất đã được các địa phương quan tâm nhưng vẫn còn thiếu và chưa đồng bộ với qui hoạch ngành, chưa đáp ứng đựơc yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của địa phương nói chung và thu hút sử dụng có hiệu quả nguồn vốn FDI nói riêng. - Việc đền bù thu hồi đất, giải phóng mặt bằng và xây dựng các công trình hạ tầng ngoài hàng rào kết nối vào khu vực dự án đầu tư đang là khó khăn lớn nhất đối với việc triển khai một số dự án FDI qui mô lớn hiện nay, đặc biệt đối với dự án 100% vốn nước ngoài. - Vấn đề qui mô vốn và diện tích sử dụng đối với một số dự án FDI qui mô lớn cũng đang là vấn đề đặt ra và cần phải được xem xét một cách nghiêm túc. Việc đơn giản hóa các thủ tục cấp giấy chứng nhận đầu tư theo Luật Đầu tư 2005, trong đó đặc điệt là không qui định phải thẩm tra năng lục tài chính của nhà đầu tư mà thay vào đó là việc để nhà thầu tự đăng kí và tự chịu trách nhiệm trước pháp luật về vốn đăng ký. Điều này tạo thuận lợi hơn trong quá trình xem xét cấp giấy chứng nhận đầu tư, tuy nhiên cũng đã xuất hiện những dấu hiệu cho thấy một số dự án có sự kê khai vốn đăng ký và nhu cầu sử dụng đất lớn hơn so với nhu cầu thực tế. * Vấn đề phân cấp trong quản lý đầu tư nước ngoài. - Chủ trương phân cấp trong quản lý nhà nước đối với lĩnh vực FDI là đúng đắn, tuy nhiên trong điều kiện hệ thống qui hoạch chưa đồng bộ, kịp thời, năng lực quản lý của đội ngũ cán bộ nhà nước trong lĩnh vực FDI tại một số địa phương còn yếu, thiếu và chưa đồng bộ nên đã nảy sinh vấn đề cạnh tranh thiếu lành mạnh trong việc thu hút FDI, thiếu sự liên kết vùng khu vực, ảnh hưởng đến cơ cấu ngành, lĩnh vực đầu tư. Một số địa phương không thẩm tra kỹ về năng lực của các nhà đầu tư trong các dự án qui mô lớn hàng tỷ USD. Do vậy, khả năng triển khai các dự án này sẽ rất khó khả thi theo đúng cam kết của nhà đầu tư. - Với chủ trương phân cấp như hiện nay, vịêc cung cấp thông tin FDI kịp thời của các địa phương lên trung ương, để phục vụ công tác quản lý, điều hành, phân tích và dự báo các biến động, các xu thế đầu tư vào Việt Nam của Chính phủ chưa được qui định rõ ràng. Việc thu thập tình hình hoạt động của các doanh nghiệp FDI hiện đang là khó khăn lớn nhất đối với các cơ quan quan lý đầu tư các cấp, kể cả Bộ Kế hoạch và Đầu tư, trong khi cơ sở vật chất và nhân lực phục vụ công tác thông tin kinh tế còn thiếu và yếu so với nhu cầu. * Vấn đề môi trường. Việc xử lý chất thải của các dự án ĐTNN tập trung tại các khu công nghiệp tập trung thuộc vùng kinh tế trọng điển đã và đang ảnh hưởng nhất định đến môi trường tự nhiên cũng như xã hội, trong đó đặc biệt là đối với các dự án sản xuất qui mô lớn. Thực tế thời gian gần đây các cơ quan chức năng đã phát hiện một số hành vu phạm pháp luật bảo vệ môi trường với các hành vi cố ý rất tinh vi của một số doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Đây là vấn đề cần được các cấp các ngành đặc biệt quan tâm ở tất cả các khâu từ thẩm tra cấp giấy chứng nhận đầu tư, đến triển khai thực hiện dự án cũng như quá trình triển khai hoạt động của dự án đầu tư. * Về xúc tiến đầu tư. - Công tác xúc tiến đầu tư trong thời gian qua còn nhiều bất cập, thiếu tính chuyên nghiệp, chưa thực sự hiệu quả, nội dung và hình thức chưa phong phú, còn chồng chéo, mâu thuẫn gây lãng phí nguồn lực. Nguyên nhân là do ta chưa có một chiến lược tổng thể về xúc tiến đầu tư, làm cho công tác xúc tiến đầu tư thiếu một tầm nhìn dài hạn, có tính hệ thống. Trình độ cán bộ làm công tác xúc tiến đầu tư còn hạn chế, thiếu cơ sở vật chất và điều kiện hoạt động. Công tác quản lý nhà nước và cơ chế phối hợp giữa các bộ ngành, địa phương trong công tác xúc tiến đầu tư chưa thực sự hiệu quả, nhiều nội dung chưa được xác định rõ ràng do còn thiếu một văn bản pháp luật qui định cụ thể về vẫn đề này. CHƯƠNG III: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM TĂNG CƯỜNG TÍNH HẤP DẪN CỦA MÔI TRƯỜNG ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI TẠI VIỆT NAM 3.1. Định hướng thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài và cải thiện môi trường đầu tư 3.1.1. Dự báo về tình hình FDI tại Việt Nam 2 năm 2009-2010. 3.1.1.1. Đánh giá khả năng thực hiện mục tiêu 2006-2010: Mặc dù được đánh giá rất cao về tiềm năng thu hút FDI, Việt Nam vẫn còn nhiều việc phải làm để tiếp tục duy trì tính hấp dẫn đối với nhà đầu tư nước ngoài, đồng thời thúc đẩy giải ngân các dự án đã được cấp Giấy chứng nhận đầu tư. Trong bối cảnh đặc biệt hiện nay, giải ngân vốn FDI là quan trọng hàng đầu và là công việc khó khăn trong giai đoạn còn lại của kế hoạch 5 năm 2006-2010. Tuy nhiên, theo như kết quả thu hút và giải ngân nguồn vốn FDI đã đạt được, khả năng hoàn thành mục tiêu đề ra cho kế hoạch 5 năm2006-2010 là chắc chắn đạt được. 3.1.1.2. Một số thách thức đạt ra đối với FDI tại Việt Nam từ cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu: Khu vực kinh tế có vốn ĐTNN ngày càng khẳng định vai trò của mình trong nền kinh tế Việt Nam như đã nêu, tuy nhiên trong bối cảnh tình hình diễn biến phức tạp ở trong nước và cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu, khu vực FDI cũng đang phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức như sau: - Cuộc khủng hoảng tài chính thế giới sẽ làm cho nguồn vốn FDI toàn cầu sẽ bị thu hẹp lại và sẽ trực tiếp ảnh hưởng đến Việt Nam trong thời gian tới. Các tập đoàn kinh tế toàn cầu (TNCs) đã và đang điều chỉnh chiến lược kinh doanh để đối phó với cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu. Sự điều chỉnh chiến lược của các TNCs tác động đến cả những dự án đã đựơc cấp phép và các dự án tiềm năng. Chắc chắn nhiều TNCs phải tạm thời phải thu hẹp phạm vi và đình hoãn một số dự án đầu tư không có khả năng thu xếp các khoản tín dụng. Do vậy, nhiều dự án FDI đã được cấp phép có khả năng dãn tiến độ, thu hẹp qui mô hoặc không thực hiện, làm cho tỷ lệ vốn FDI thực hiện so với vốn FDI đăng ký giảm so với những năm trước. Đối với những nhà đầu tư tiềm năng, Việt Nam vẫn là thị trường hấp dẫn đối với họ nhìn tầm chung hạn và dài hạn. Họ sẽ đến nước ta tìm hiểu thị trường và cơ hội nhưng sẽ phải cân nhắc kĩ hơn, mất nhiều thời gian hơn để quyết định tiến hành dự án đầu tư, các ngân hàng cũng không dễ đưa ra quyết định cho vay các dự án lớn trong điều điện khủng hoảng tài chính toàn cầu. - Thu nhập thực tế của khá đông dân cư bị sụt giảm do ảnh hưởng lạm phát cao trong những tháng đầu năm 2008, hiện lại đang có nguy cơ một bộ phận lao động mất việc làm bởi một số doanh nghiệp sản xuất thu hẹp qui mô sản xuất do gặp phải khó khăn về đầu ra của sản phẩm. Điều này sẽ gây khó khăn cho việc giải quyết vấn đề lao động, việc làm trong thời gian tới. 3.1.1.3. Dự báo FDI 2 năm 2009-2010 * Vốn giải ngân. Với qui mô vốn đăng ký rất lớn trong nửa đầu kỳ kế hoạch, trong bối cảnh thuận lợi, vốn giải ngân trong 2 năm tới của kỳ kế hoạch có thể đạt 13-14 tỷ USD/năm. Với tổng số vốn đã giải ngân từ năm 2006 đến hết năm 2008 là 23,6 tỷ USD, đạt 94,4% mục tiêu đặt ra cho cả kỳ kế hoạch 5 năm 2006-2010. Việc thực hiện vượt mức mục tiêu ban đầu đặt ra là hoàn toàn khả thi. * Về vốn đăng ký trong 2 năm 2009-2010: Trong bối cảnh nền kinh tế thế giới cũng như bối cảnh kinh tế vĩ mô trong nước đang có những biến động khó dự báo, dòng vốn FDI đăng ký cũng trở nên rất khó dự báo. Tuy nhiên, theo đánh giá từ phía các nhà tài trợ, chính sách thắt chặt tiền tệ, chính sách tỷ giá đã bước đầu phát huy tác dụng, giải pháp thắt chặt tài khoá nếu thực hiện kiên quyết sẽ phát huy tác dụng chậm hơn, vào các tháng cuối năm nay. Triển vọng đầu tư trung và dài hạn của Việt Nam hiện vẫn được coi là tốt, ước tính dòng vốn đăng ký trong 2 năm tới sẽ giảm đáng kể so với năm 2008 nhưng vẫn ở mức cao, khoảng trên 20 tỷ USD/năm, đưa tổng vốn đăng ký của 5 năm 2006-2010 có thể lên tới mức 135 tỷ USD, vượt 2,4 lần kế hoạch đề ra cho cả giai đoạn này. Việc những năm tiếp theo khó có thể duy trì thu hút được tốc độ thu hút FDI cao như năm 2007 và năm 2008 không có nghĩa là môi trường đầu tư, kinh doanh của Việt Nam kém hơn các năm trước. Trong giai đoạn tới cần tập trung thu hút đầu tư vào các lĩnh vực quan trọng là công nghệ cao, phát triển cơ sở hạ tầng và phát triển nguồn nhân lực ... sẽ tạo động lực và góp phần quan trọng cho tăng trưởng kinh tế - xã hôi và thu hút mạnh FDI. 3.1.2. Định hướng cải thiện môi trường đầu tư. Phấn đấu đạt tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, chất lượng, bền vững, nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế gắn với cải thiện đời sống của nhân dân; phấn đấu vượt ngưỡng “nước đang phát triển có thu nhập thấp” trong năm 2008 là những mục tiêu không dễ thực hiện. Giải pháp được ưu tiên hàng đầu vẫn là tích cực cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh, đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng, nâng cao chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh và tính bền vững của nền kinh tế. Cụ thể, các ngành, các cấp, các địa phương cần tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật về kinh tế thị trường, xây dựng các thể chế để tạo lập đồng bộ và vận hành thông suốt các loại thị trường. Phải tiếp tục cải cách mạnh các thủ tục hành chính tạo môi trường thuận lợi cho đầu tư và kinh doanh của doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế. Bên cạnh đó, cần đẩy mạnh đổi mới doanh nghiệp nhà nước, mà trọng tâm là cổ phần hoá, nhất là các tập đoàn kinh tế, các tổng công ty của Nhà nước. Tích cực vận động và tạo mọi thuận lợi để thu hút mạnh đầu tư trực tiếp nước ngoài, nhất là các dự án lớn, dự án đầu tư vào kết cấu hạ tầng và các dự án sản xuất sản phẩm công nghệ cao. Ngoài ra, phải tạo bước phát triển vượt bậc của khu vực dịch vụ, bảo đảm tốc độ tăng trưởng dịch vụ cao hơn mức tăng trưởng chung của nền kinh tế. Để ổn định được kinh tế vĩ mô, trước hết cần phải hoàn thiện chính sách tài chính và ngân sách nhà nước. Cụ thể, cần tiếp tục hoàn thiện hệ thống thuế theo hướng rà soát các chính sách, quy định về thuế trên cơ sở các cam kết quốc tế đã ký kết. Cải tiến hệ thống giảm thuế và hoàn thuế; tổ chức thực hiện tốt công tác quản lý thu ngân sách nhà nước; tăng cường các biện pháp quản lý thu, chống thất thu, nợ đọng thuế; chống gian lận thương mại, trốn thuế. Tiếp tục tăng cường phân cấp quản lý ngân sách nhà nước cho địa phương theo quy định của Luật Ngân sách nhà nước... 3.2. Những giải pháp cải thiện môi trường đầu tư trực tiếp nước ngoài nhằm thu hút và nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn vốn FDI Để tiếp tục thu hút, thúc đẩy giải ngân và nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn vốn FDI năm 2009 và 2010, Bộ kế hoạch và đầu tư trình Chính phủ và thủ tướng chính phủ 8 nhóm giải pháp cần ưu tiên triển khai như sau: 3.2.1. Nhóm giải pháp về luật pháp, chính sách. - Tiếp tục rà soát pháp luật, chính sách về đầu tư, kinh doanh để sửa đổi các nội dung không đồng bộ, thiếu nhất quán và loại bỏ các ưu đãi về đầu tư không phù hợp với cam kết của Việt Nam với WTO. - Sửa đổi các qui định không rõ ràng còn bất cập liên quan đến thủ tục đầu tư và kinh doanh. - Theo dõi, giám sát việc thực thi pháp luật về đầu tư và doanh nghiệp để kịp thời phát hiện và xử lý các vướng mắc phát sinh. Nhanh chóng ban hàng các văn bản hướng dẫn các luật mới, nhất là các luật mới được Quốc hội thông qua trong năm 2006 có liên quan tới đầu tư, kinh doanh. - Ban hành các ưu đãi khuyến khích đầu tư đối với các dự án xây dựng các công trình phúc lợi (nhà ở, bệnh viện, trường học, văn hoá, thể thao) cho người lao động làm việc trong khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao, khu kinh tế. - Thực hiện các biện pháp thúc đẩy giải ngân, không cấp phép cho các dự án công nghệ lạc hậu, dự án tác động xấu đến môi trường... 3.2.2. Nhóm giải pháp về qui hoạch - Cần đẩy nhanh tiến độ xây dựng và phê duyệt các quy hoạch còn thiếu, rà soát để định kỳ bổ sung, điều chỉnh qui hoạch đã lạc hậu nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho nhà đầu tư trong việc xác định và xây dựng dự án. - Quán triệt và thực hiện thống nhất các qui định mới của Luật đầu tư trong công tác qui hoạch, đảm bảo việc xây dựng qui hoạch ngành, lĩnh vực, sản phẩm phù hợp với cam kết quốc tế. - Hoàn chỉnh qui hoạch sử dụng đất, công bố rộng rãi qui hoạch, tạo điều kiện để đẩy nhanh tiến độ giải phóng mặt bằng cho các dự án đâu tư... 3.2.3. Nhóm giải pháp về cải thiện cơ sở hạ tầng - Tiến hành tổng rà soát, điểu chỉnh, phê duyệt và công bố các quy hoạch về kết cấu hạ tầng đến năm 2020 làm cơ sở thu hút đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng. Tăng cường công tác quy hoạch, thực thi các quy hoạch cũng như thu hút đầu tư vào các công trình giao thông, năng lượng. - Tranh thủ tối đa các nguồn lực để đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng, đặc biệt là nguồn vốn ngoài ngân sách nhà nước; ưu tiên các lĩnh vực cấp, thoát nước, vệ sinh môi trường (xử lý chất thải rắn, nước thải.v.v.), hệ thống đường bộ cao tốc, trước hết là tuyến Bắc-Nam, hai hành lang kinh tế Việt Nam-Trung Quốc, nâng cao chất lượng dịch vụ đường sắt, trước hết là đường sắt cao tốc Bắc-Nam, đường sắt hai hành lang kinh tế Việt Nam-Trung Quốc, đường sắt nối các cụm cảng biển lớn, các mỏ khoáng sản lớn với hệ thống đường sắt quốc gia, đường sắt nội đô thành phố Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh.v.v. - Trước mắt tập trung chỉ đạo, giải quyết tốt việc cung cấp điện, trong mọi trường hợp không để xảy ra tình trạng thiếu điện đối với các cơ sở sản xuất. Tăng cường nghiên cứu xây dựng chính sách và giải pháp khuyến khích sản xuất và sử dụng điện từ và các loại năng lượng mới như sức gió, thủy triều, nhiệt năng từ mặt trời. - Khẩn trương xây dựng và ban hành cơ chế khuyến khích các thành phần kinh tế ngoài nhà nước tham gia phát triển các công trình kết cấu hạ tầng trong đó có các công trình giao thông, cảng biển, các nhà máy điện độc lập. - Mở rộng hình thức cho thuê cảng biển, mở rộng đối tượng cho phép đầu tư dịch vụ cảng biển, đặc biệt dịch vụ hậu cần (logistic) để tăng cường năng lực cạnh tranh của hệ thống cảng biển Việt Nam; kêu gọi vốn đầu tư các cảng lớn của các khu vực kinh tế như hệ thống cảng Hiệp Phước-Thị Vải, Lạch Huyện.v.v. - Tập trung thu hút vốn đầu tư vào một số dự án thuộc lĩnh vực bưu chính-viễn thông và công nghệ thông tin để phát triển các dịch vụ mới và phát triển hạ tầng mạng. - Đẩy mạnh đầu tư vào các lĩnh vực (văn hóa-y tế-giáo dục, bưu chính-viễn thông, hàng hải, hàng không) đã cam kết khi gia nhập WTO. Xem xét việc ban hành một số giải pháp mở cửa sớm hơn mức độ cam kết đối với một số lĩnh vực dịch vụ mà nước ta có nhu cầu. 3.2.4. Nhóm giải pháp về nguồn nhân lực - Đẩy nhanh việc triển khai kế hoạch tổng thể về đào tạo nhằm nâng tỷ lệ lao động qua đào tạo lên 40% vào năm 2010. Theo đó, ngoài việc nâng cấp đầu tư hệ thống các trường đào tạo nghề hiện có lên ngang tần khu vực và thế giới, sẽ phát triển thêm các trường đào tạo nghề và trung tâm đào tạo từ các nguồn vốn khác nhau. - Nghiên cứu điều chỉnh chuyển dịch cơ cấu lao động theo tốc độ chuyển dịch cơ cấu kinh tế. - Thực hiện các giải pháp nhằm đưa Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật lao động vào thực tế cuộc sống để ngăn ngừa tình trạng đình công bất hợp pháp, lành mạnh hoá quan hệ lao động theo tinh thần của Bộ lao động, bao gồm: + Tiếp tục hoàn thiện pháp luật, chính sách vè lao động, tiền lương phù hợp trong tình hình mới, tăng cường công tác kiểm tra giám sát việc chấp hành pháp luật về lao động đối với người sử dụng lao đông nhằm đảm bảo điều kiện làm việc và đời sống cho người lao động. + Nâng cao hiểu biết pháp luật về lao động thông qua phổ biến, tuyên truyền giáo dục cho người lao động, người sử dụng lao động trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài để đảm bảo chính sách, pháp luật về lao động và tiền lương được thực hiện đầy đủ nghiêm túc. 3.2.5. Nhóm giải pháp về giải phóng mặt bằng. Uỷ ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương cần chỉ đạo các cơ quan chức năng tiến hành ngay các thủ tục thu hồi đất và thu hồi giấy chứng nhận đầu tư đối với các dự án FDI không có khả năng triển khai hoặc chưa có kế hoạch sử dụng hết diện tích đất đã được giao để chuyển cho các dự án đầu tư mới có hiệu quả hơn. Đồng thời trong phạm vi thẩm quyền của mình, chủ động tổ chức việc đền bù giải toả và giao đất cho chủ đầu tư theo đúng cam kết, đặc biệt là các dự án qui mô lớn mà chủ đầu tư sẵn sàng giải ngân thực hiện dự án. Nghiên cứu đề xuất với Bộ KH và ĐT phương an xử lý những vấn đề phát sinh trong quá trình triển khai dự án, vượt quá thẩm quyền của mình, để tổng hợp báo cáo Thủ tướng Chính phủ. 3.2.6. Nhóm giải pháp về phân cấp, cải cách hành chính. Qua thực tế thực hiện việc phân cấp trong hơn 2 năm qua đã bộc lộ một số vấn đề bất cập, không phù hợp, ảnh hưởng đến quy hoạch phát triển kinh tế xã hội chung. Cần nghiên cứu để xem xét lại chủ trương phân cấp toàn diện như qui định hiện nay, có các biện pháp để tăng cường sự phối hợp giữa Trung ương và địa phương trong việc cấp phép và quản lý các dự án đầu tư nước ngoài. - Thực hiện tốt việc phân cấp quản lý nhà nước đối với ĐTNN, đặc biệt trong việc phê duyệt, cấp Giấy chứng nhận đầu tư, quản lý tốt các dự án ĐTNN, gắn với việc tăng cường hợp tác, hỗ trợ, phối hợp hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát việc thi hành pháp luật về đầu tư. - Nâng cao trình độ của đội ngũ cán bộ, công chức nhằm đảm bảo thực hiện nhiệm vụ theo quy định tại Luật Đầu tư và quy định mới về phân cấp quản lý đầu tư nước ngoài. - Đơn giản hóa và công khai quy trình, thủ tục hành chính đối với đầu tư nước ngoài, thực hiện cơ chế "một cửa" trong việc giải quyết thủ tục đầu tư. Đảm bảo sự thống nhất, các quy trình, thủ tục tại các địa phương, đồng thời, phù hợp với điều kiện cụ thể. - Xử lý dứt điểm, kịp thời các vấn đề vướng mắc trong quá trình cấp phép, điều chỉnh Giấy chứng nhận đầu tư . - Tăng cường cơ chế phối hợp quản lý đầu tư nước ngoài giữa Trung ương và địa phương và giữa các Bộ, ngành liên quan. 3.2.7. Nhóm giải pháp về xúc tiến đầu tư - Nghiên cứu đề xuất chính sách vận động, thu hút đầu tư đối với các tập đoàn đa quốc gia cũng như có chính sách riêng đối với từng tập đoàn và các đối tác trọng điểm như các quốc gia thành viên EU, Hoa Kỳ, Nhật Bản... - Nhanh chóng hoàn thành việc xây dựng thông tin chi tiết về dự án đối với danh mục đầu tư quốc gia kêu gọi đầu tư nước ngoài giai đoạn 2006 – 2010 để làm cơ sở cho việc kêu gọi các nhà đầu tư nước ngoài vào dự án này. - Các Bộ, ngành tiếp tục rà soát, cập nhật bổ sung danh mục kêu gọi đầu tư phù hợp với nhu cầu đầu tư và quy hoạch phát triển địa phương, ngành, lĩnh vực, sản phẩm. - Thực hiện tốt chương trình xúc tiến đầu tư quốc gia gia đoạn 2007 – 2010. Triên khai nhanh việc thành lập bộ phận XTĐT tại một số địa bàn trọng điểm. - Tăng cường công tác bồi dưỡng cán bộ làm công tác xúc tiến đầu tư nói riêng và quản lý đầu tư nói chung. Vận động và phối hợp với các tổ chức quốc tế hỗ trợ mở cửa các lớp đào tạo về xúc tiến đầu tư và quản lý ĐTNN. Phối hợp chặt chẽ và nâng cao hiệu quả hoạt động xúc tiến đầu tư – thương mại – du lịch, khânt trương triển khai việc thành lập các bộ phận xúc tiến đầu tư tại các địa bàn trọng điểm theo kế hoạch. 3.2.8. Một số giải pháp khác. - Tiếp tục nâng cao hiệu quả việc chống tham nhũng, tiêu cực và tình trạng nhũng nhiễu đối với nhà đầu tư. Đề cao tinh thần trách nhiệm cá nhân trong xử lý công việc, thực hành tiết kiệm, chống lãng phí ở các cơ quan quản lý nhà nước. - Tăng cường phối hợp với các bộ ngành, địa phương xử lý vấn đề môi trường, vấn đề đình công trái pháp luật của các doanh nghiệp FDI. - Triển khai tốt việc xây dựng hệ thống quản lý thông tin ĐTNN theo quyết định 43/2008/QĐ-TTg ngày 24/3/2008 của Thủ tướng Chính phủ, đảm bảo thông tin phục vụ công tác quản lý, điều hành. Các kiến nghị cần cải thiện môi trường đầu tư và kinh doanh Để xác định những lĩnh vực cần cải thiện hơn nữa các doanh nghiệp tham gia điều tra được yêu cầu lựa chọn 3 biện pháp quan trọng nhất mà chính phủ cần làm để cải thiện môi trường kinh doanh. Biểu đồ dưới đây cho thấy thứ tự ưu tiên cải cách để cải thiện môi trường kinh doanh Việt Nam. Năm nay “Cải thiện soạn thảo luật lệ“ là lĩnh vực được phần lớn doanh nghiệp đề xuất (46%) phản ánh mối quan ngại ngày càng tăng về sự không rõ ràng và thiếu thực tiễn của luật lệ, tạo điều kiện cho việc diễn giải pháp luật tuỳ tiện và các hoạt động trục lợi. Doanh nghiệp vì vậy muốn nâng cao tính rõ ràng, minh bạch của môi trường pháp lý. Khi xây dựng các văn bản pháp luật cần tham vấn doanh nghiệp một cách toàn diện để đảm bảo các luật lệ khi được ban hành, phản ánh đầy đủ những ý kiến đóng góp từ thực tiễn doanh nghiệp, ngăn ngừa việc diễn giải luật chủ quan, thiếu nhất quán gay phức tạp trong quá trình thực hiện sau này. Năm nay các doanh nghiệp cũng đưa ra yêu cầu mạnh mẽ về cải cách nhằm “Bãi bỏ các giấy phép không cần thiết“ và “Ngăn chặn kiểm soát tham nhũng“ bằng những biện pháp nâng cao tính minh bạch và những giải trình của chính phủ ở các cấp trung ương và địa phương nhằm giảm thiểu tệ quan liêu, nhũng nhiễu doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, đối tượng dễ bị ảnh hưởng nhất. Tuy nhiên điều tra lần này cũng cho thấy có sự khác biệt trong việc lựa chọn ưu tiên chính sách giữa doanh nghiệp nước ngoài và trong nước. Trong khi “Cải thiện việc soạn thảo luật lệ“ được doanh nghiệp trong nước lựa chọn là ưu tiên hàng đầu, thì các doanh nghiệp nước ngoài lại coi việc “Cải thiện cơ sở hạ tầng“ là hoạt động quan trọng nhất. Lý giải cho điều này có lẽ là do doanh nghiệp nước ngoài thường có qui mô hoạt động lớn hơn va tham gia vào các hoạt động xuất nhập khẩu nhiều hơn, do vậy chất lượng cơ sở hạ tầng yếu kém như thiếu hụt điện năng, tắc nghẽn cảng biển gây hậu quả nặng nề hơn cho các doanh nghiệp nước ngoài so với doanh nghiệp trong nước. Tuy nhiên cả hai nhóm doanh nghiệp đều nhất trí cho rằng “Ngăn chăn và kiểm soát tệ tham nhũng“ là một trong những lĩnh vực cần được ưu tiên xư lý hàng đầu, cho thấy đây là một vấn đề có tác động tiêu cực mạnh mẽ tới hoạt động của cả doanh nghiệp trong và ngoài nước. Diễn đàn thương mại và phát triển liên hợp quốc (UNCTAD) đang xây dựng một báo cáo về “Chính sách đầu tư của Việt Nam“. Tại báo cáo này UNCTAD đã đánh giá: “Việt Nam đã thành công trong việc thu hút một số lượng lớn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) trong hai thập kỉ vừa qua mặc dù vẫn còn một số hạn chế trong tiếp nhận đầu tư và “gánh nặng“ hành chính làm cản trở các nhà đầu tư. Việc Nam cũng đã thành công trong việc thu được những lợi ích quan trọng từ sự tham gia của các nhà đầu tư nước ngoài vào phát triển kinh tế“. Theo UNCTAD việc gia nhập WTO trong năm 2007 là dấu mốc trong quá trình phát triển kinh tế của Việt Nam và có vai trò quan trọng ngang với chủ trương đổi mới năm 2006. Điều này sẽ khiến Việt Nam trở nên hấp dẫn hơn đối với các nhà đầu tư nước ngoài và làm tăng lợi ích tiềm năng phát triển của các dòng FDI đang ngày một tăng lên. KẾT LUẬN Môi trường đầu tư luôn giữ một vai trò quan trọng trong việc thu hút các nhà đầu tư. Qua hơn 20 năm đổi mới, Chính Phủ Việt Nam cũng đã có nhiều biện pháp nhằm cải hiện môi trường đầu tư thông thoáng và hoàn thiện hơn. Môi trường đầu tư của Việt Nam được đánh giá là có xu hướng ngày càng tốt hơn. Đó là một tín hiệu đáng mừng, cho thấy khả năng thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam đang ngày một tăng, báo hiệu những kết quả khả quan trong tương lai, và hứa hẹn sẽ mang lại nguồn lực mới cho đất nước. Việt Nam đã trở thành một trong những khu vực điểm nóng đầu tư trên thế giới có sức hấp dẫn nhất. Phát triển kinh tế của Việt Nam có hai ưu thế: tỷ lệ tài sản "xấu" trong lĩnh vực tài chính khá thấp. Hai là mặc dù xuất khẩu của Việt Nam chiếm tới 56% GDP, nhưng mức độ ảnh hưởng của sự tăng trưởng chậm lại của kinh tế thế giới đối với Việt Nam là rất nhỏ. Việt Nam có thể duy trì sự ổn định trong thu nhập từ xuất khẩu, bởi sản phẩm xuất khẩu của Việt Nam, chủ yếu là hàng tiêu dùng và sản phẩm công nghiệp nhẹ, không chịu ảnh hưởng lớn của biến động giá cả quốc tế. Ba là tình hình chính trị của Việt Nam ổn định, các chính sách đầu tư không chỉ duy trì tính nhất quán mà còn không ngừng được hoàn thiện. Từ đó có thể thấy, viễn cảnh thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài của Việt Nam là rất tốt đẹp. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Bài giảng “Đầu tư nước ngoài và chuyển giao công nghệ” : biên soạn và giảng dạy: TS. Đinh Đào Ánh Thuỷ. 2. Kỷ yếu 20 năm đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam. 3. Báo cáo điều tra cảm nhận môi trường kinh doanh. 4. Tạp chí tri thức và phát triển (Số 31/2004/Hội nhập và phát triển) 5. Tạp chí nghiên cứu kinh tế 6. Nguồn WTO- thách thức và hội nhập 7. Nguồn: Tác động của việc gia nhập WTO đến môi trường kinh doanh ở Việt Nam, Kiến nghị và giải pháp (TS. Nguyễn Hoàng Lưu) 8. Tạp chí cộng sản số phát hành 114 – 2006. 9. Báo Đầu tư nước ngoài 1/09 trang 34-35 10. Đầu tư trực tiếp nước ngoài với tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam (PTS. Vũ Trường Sơn) 11. Báo cáo phát triển thế giới 2005. Môi trường đầu tư tốt hơn cho mọi người 12. Đầu tư trực tiếp nước ngoài với phát triển kinh tế ở Việt Nam (Ths. Nguyễn Văn Tuấn). 12. 20 năm đầu tư nước ngoài nhìn lại và hướng tới (1987 – 2007). Một số website 1. Trang web Bộ kê hoach và đầu tư 2. Trang web Cục đầu tư nước ngoài 3. Web Tổng cục thống kê 4. 5. 6. 7. 8. Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam Độc lập - tự do - hạnh phúc BẢN CAM ĐOAN Kính gửi: Trường Đại học Kinh tế quốc dân Khoa: Đầu tư Tên em là: Đặng Thuý Hà Sinh ngày: 02/11/1987 Khoa: Đầu tư Lớp: Kinh tế đầu tư A Mã số sinh viên: CQ 470702 Em xin cam đoan chuyên đề tốt nghiệp hoàn toàn không có sự sao chép từ tài liệu chuyên môn, luận văn khác và số liệu phản ánh trong chuyên đề là đúng sự thật. Nếu có vấn đề gì em xin hoàn toàn chịu trách nhiệm. Hà Nội, ngày 7 tháng 5 năm 2009 Sinh viên Đặng Thuý Hà ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc22001.doc
Tài liệu liên quan