§Ò bµi:
Phân tích những nguyên nhân dẫn đến sự không thành công của các Bản kế hoạch phát triển của Việt Nam. Hãy lý giải sự cần thiết phải đổi mới công tác kế hoạch hoá ở nước ta và trình bày nội dung cơ bản định hướng kế hoạch hoá của Việt Nam.
bµi lµm:
I. Kế hoạch hoá phát triển ở Việt Nam
1. Khái niệm về kế hoạch hoá phát triển
Kế hoạch hoá phát triển là sự tác động của Chính phủ vào nền kinh tế vĩ mô thông qua việc thiết lập một cách chủ động mối quan hệ khả năng với các mục đích nhằm
17 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1228 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu PT nguyên nhân dẫn đến sự ko thành công của Bản kế hoạch phát triển. Hãy lý giải sự cần thiết phải đổi mới công tác kế hoạch hoá và …, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
đạt được các mục tiều đặt ra bằng việc sử dụng có hiệu quả nguồn tiềm năng hiện có. Kế hoạch phát triển được xem là công nghệ của sự lựa chọn các hoạt động hợp lý, tối ưu. Trong đó chủ yếu là:
Lựa chọn, sắp xếp, sử dụng các nguồn lực khan hiếm
Đưa ra các định hướng phát triển
Xác định các cơ chế chính sách điều tiết vĩ mô
Một kế hoạch như trên là kế hoạch ở tầm vĩ mô, kế hoạch hướng dẫn và kế hoạch dưới dạng chính sách, kế hoạch như vậy phải được tiếp cận theo hình thức từ trên xuống. Sự khác nhau cơ bản giữa kế hoạch hoá tập trung và kế hoạch hoá phát triền thể hiện: Một bên là tính cưỡng chế, một bên là tính thuyết phục. Trong khi mục tiêu của kế hoạch hoá phát triển chỉ là cố gắng ngăn chặn để cho nền kinh tế khỏi đi lạc với mục tiêu tăng trưởng và ổn định bằng những công cụ chính sách năng động và gián tiếp thì kế hoạch hoá tập trung không chỉ tạo ra một loạt các mục tiêu cụ thể thể hiện qua quá trình phát triển kinh tế mong muốn mà còn cố gắng thực hiện kế hoạch của mình bằng việc khống chế trực tiếp những hoạt động của nền kinh tế quốc dân. Nội dung của công tác kế hoạch hoá bao gồm có: Chiến lược, quy hoạch, kê hoạch và chương trình, dự án. Trong đó, kế hoạch phát triển giữ vai trò chủ chốt trong hệ thống kế hoạch hoá.
Ở Việt Nam hiện nay đang hướng tới việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống kế hoạch hoá phát triển. Tuy vậy, xuất phát từ tính chất quá độ của một nền kinh tế hỗn hợp nên trong nội dung của hệ thống kế hoạch hoá phát triển của nước ta vẫn còn bao hàm dung lượng nhất định của kế hoạch hoá tập trung. Trên một mức dộn nhất định, tính chất pháp lệnh, tính chất phân bổ trực tiếp, khống chế cụ thể vẫn tồn tại. Trong quá trình phát triển của nền kinh tế thị trường, dung lượng các vấn đề trên sẽ giảm dần trong công tác kế hoạch hoá ở Việt Nam. Đó cũng chính là yêu cầu đổi mới của công tác kế hoạch hoá.
2. Thành công và hạn chế trong công tác kế hoạch hoá ở Việt Nam
Kế hoạch hoá tập trung, bao cấp
Thời kỳ này bắt đầu từ năm 1955 cho đến năm 1980, Việt Nam áp dụng mô hình kế hoạch hoá tập trung theo mô hình của Liên Xô với các đặc điểm đặc trưng:
Kế hoạch hoá phân bổ các nguồn lực phát triển cho các mục tiêu với 2 thành phần kinh tế cơ bản là quốc doanh và tập thể.
Cơ chế kế hoạch hoá tập trung theo phương thức “giao-nhận” với hệ thống chằng chịt các chỉ tiêu pháp lệnh của Nhà nước, giao đến tận nơi các cơ sở sản xuất kinh doanh theo phương thức bao cấp cả “đầu vào” lẫn “đầu ra” trong quá trình sản xuất, kinh doanh.
Cơ chế kế hoạch hoá mang nặng tính chất hiện vật và nặng tính khép kín trong từng ngành, từng lãnh thổ.
Với cơ chế này, chúng ta đã thực hiện thành công các mục tiêu khôi phục, cải tạo và phát triển kinh tế sau hoà bình năm 1954, thực hiện có hiệu quả mục tiêu phát triển kinh tế và kháng chiến chống Mỹ thắng lợi năm 1975.
Tuy nhiên, sau năm 1975, tình hình kinh tế xã hội có nhiều thay đổi. Chính sách thực hiện kế hoạch hoá tập trung không còn phát huy tác dụng mà ngược lại, nó kìm hãm sự phát triển của đất nước, tạo ra cơ chế cấp phát, quan liêu, bao cấp, cơ chế kinh tế không huy động các nguồn lực trong nền kinh tế vào sản xuất, các đơn vị kinh tế quốc doanh trông chờ, ỷ lại và nhanh chóng rơi vào khủng hoảng. Lạm phát tăng cao, đời sống xã hội khó khăn, chính từ yêu cầu của vấn đề sản xuất, đời sống và hiệu quả kinh tế đã nảy sinh những dấu hiệu đổi mới công tác kê hoạch hoá vào những năm đầu thập niên 80.
Kế hoạch hoá trong thời kỳ đổi mới
Tình hình kinh tế-xã hội nước ta trong các năm qua tiếp tục diễn biến theo chiều hướng tích cực, kinh tế tăng trưởng với tốc độ tương đối cao, cơ sở hạ tầng và dịch vụ được tăng cường, đời sống các tầng lớp dân cư tiếp tục được cải thiện, sự nghiệp văn hoá, giáo dục và y tế thu được những thành tựu mới. Tuy nhiên, nếu so với những mục tiêu Đại hội IX định hướng cho kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội 5 năm 2001-2005 thì một số chỉ tiêu còn đạt mức thấp và nhiệm vụ dồn lại cho 2 năm 2004-2005 là rất nặng nề, nhất là mục tiêu tăng trưởng kinh tế và tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu. Trong 3 năm 2001-2003 tổng sản phẩm trong nước tăng bình quân mỗi năm mới đạt 7,06% và kim ngạch xuất khẩu chỉ tăng 10,4% mỗi năm. Để hai chỉ tiêu này thực hiện được mục tiêu đề ra cho kế hoạch 5 năm 2001-2005 là tăng bình quân mỗi năm 7,5% và 16% thì 2 năm 2004-2005, bình quân mỗi năm tổng sản phẩm trong nước phải tăng 8,17% và kim ngạch xuất khẩu phải tăng 24,9%. Trong những năm 1992-1997 tổng sản phẩm trong nước của nước ta đã từng đạt tốc độ tăng bình quân mỗi năm 8,77% và kim ngạch xuất khẩu cũng tăng bình quân 28% mỗi năm, nhưng sau nhiều năm liên tục tăng trưởng với tốc độ cao thì quy mô của nền kinh tế và theo đó là lượng tuyệt đối của 1% tăng lên đã lớn hơn nhiều so với những năm trước đây nên việc phấn đấu thực hiện được các tốc độ tăng trưởng nêu trên là rất khó khăn, đòi hỏi các cấp, các ngành phải có nỗ lực vượt bậc thì mới có thể hoàn thành toàn diện các mục tiêu kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội 5 năm 2001-2005 mà Đại hội Đảng IX đã đề ra.
KẾT QUẢ THỰC HIỆN MỘT SỐ CHỈ TIÊU
KINH TẾ-XÃ HỘI CHỦ YẾU 3 NĂM 2001-2003
Mục tiêu kế hoạch 5 năm 2001 - 2005
Thực hiện 3 năm 2001-2003 (%)
2001
2002
2003
BQ 3 năm
1. Tốc độ tăng GDP bình quân mỗi năm đạt 7,5%
6,9
7,0
7,2
7,1
2. Tốc độ tăng GTSX nông, lâm nghiệp và thuỷ sản BQ năm đạt 4,8%
4,7
6,5
4,7
5,3
3. Tốc độ tăng GTSX công nghiệp bình quân mỗi năm đạt 13,0%
14,6
14,8
15,8
15,0
4. Tốc độ tăng kim ngạch xuất khẩu bình quân mỗi năm đạt 16,0%
3,8
11,2
16,7
10,4
5. Tỷ lệ vốn đầu tư phát triển so với GDP
34,0
33,3
35,6
34,7
6. Tỷ lệ hộ nghèo đến năm 2005 còn 10,0%
16,1
14,5
12,0
7. Tỷ lệ trẻ em suy dinh dưỡng đến năm 2005 còn 22-25%
31,9
30,1
28,0
8. Tỷ lệ học sinh THCS đi học trong độ tuổi vào năm 2005 đạt 80,0%
76,5
78,1
9. Tỷ lệ học sinh THPT đi học trong độ tuổi vào năm 2005 đạt 45,0%
35,2
37,9
10. Giảm tỷ lệ sinh bình quân mỗi năm 0,05%
0,06
0,04
0,04
11. Tốc độ tăng dân số đến năm 2005 còn 1,2%
1,4
1,3
1,3
II. Nguyên nhân của sự không thành công:
Việc thực hiện kế hoạch hoá (KHH) kinh tế - xã hội của Việt Nam không thành công là do rất nhiều nguyên nhân, sau đây là mười nguyên nhân cơ bản nhất:
1. Tăng trưởng kinh tế chưa thực sự vững chắc; chất lượng tăng trưởng chưa cao, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế còn thấp; quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế còn chậm.
Trong lĩnh vực nông nghiệp, các phương thức canh tác tiên tiến chậm được áp dụng, năng suất cây trồng vật nuôi và chất lượng sản phẩm nông nghiệp còn thấp, hiệu quả còn phụ thuộc nhiều vào điều kiện tự nhiên, chi phí sản xuất còn lớn. Do đó giá trị gia tăng chưa tương xứng.
Chi phí sản xuất của nhiều sản phẩm công nghiệp, nhất là sản phẩm của doanh nghiệp nhà nước còn ở mức cao. Giá thành một số sản phẩm còn cao hơn nhiều so với sản phẩm cùng loại của của các nước trong khu vực, giá trị gia tăng của nghành công nghiệp chưa tương ứng với tốc độ tăng của giá trị sản xuất.
Tốc độ tăng trưởng khu vực dịch vụ còn thấp; chất lượng và hiệu quả các hoạt động dịch vụ chưa cao; phí dịch vụ còn nhiều bất hợp lý, nhìn chung là cao hơn nhiều so với sản phẩm cùng loại của các nước trong khu vực.
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế diễn ra chậm chạp, lộ trình chưa rõ ràng, công nghiệp hoá, hiện đại hoá chậm, nhất là khu vực nông nghiệp, nông thôn. Cân đối vĩ mô trong nền kinh tế vừa hạn hẹp, chưa đủ sức cơ cấu lại nền kinh tế; vừa không vững chắc, dễ bị phá vỡ bởi những tác động từ những yếu tố khách quan.
Quy mô nền kinh tế đến nay vẫn còn nhỏ bé, thấp nhiều so với các nước phát triển chưa hết tiềm năng do cơ chế, chính sách huy động vốn chưa đủ hấp dẫn.
2. Hoạt động đối ngoại còn nhiều hạn chế, chưa phát huy hết tiềm năng.
Chưa vượt qua được những thách thức gay gắt về cạnh tranh và thị trường, chưa phát huy được lợi thế về ổn định chính trị – xã hội; hàng hoá xuất khẩu kém sức cạnh tranh; thu hút nguồn vốn đầu tư nước ngoài còn nhiều hạn chế giải ngân nguồn vốn ODA chậm; chưa thực sự chủ động trong hội nhập quốc tế.
3. Chất lượng nguồn nhân lực chưa đáp ứng được yêu cầu cuộc sống.
Đứng trước yêu cầu đòi hỏi cần nhanh chóng nâng cao chất lượng nhuông nhân lực đáp ứng công cuộc đổi mời thì những kết quả đạt được trong thời gian qua còn khiêm tốn; những tồn tại vàn bất cập còn lớn.
4. Nghiên cứu khoa học chưa gắn với thực tế cuộc sống
Chất lượng nghiên cứu khoa học nói chung chưa cao, trình độ công nghệ của các ngành, nhất là các ngành cần công nghệ hiện đại nhìn chung còn trong tình trạng yếu kém, lạc hậu so với các nước trong khu vực. Đội ngũ cán bộ khoa học và công nghiệp làm việc tại các cơ quan nghiên cứu khoa học còn hạn chế về trình độ và bất hợp lý về cơ cấu.
Cơ cấu vật chất kỹ thuật của các cơ quan nghiên cứu khoa học vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu phát triển, trang thiết bị cho nghiên cứu còn thiếu và chưa đồng bộ. Chủ trương xây dựng hai khu công nghệ cao, các phòng thí nghiệm trọng điểm quốc gia tuy đã được bắt đầu triển khai nhưng còn quá chậm so với yêu cầu. Chuyển giao công nghệ chưa gắn chặt với đầu tư trong các ngành kinh tế. Cơ chế quản lý khoa học và công nghệ còn chậm đổi mới.
5. Chất lượng lao động kém, năng suất lao động xã hội thấp
Tỷ lệ lao động chuyên môn, kỹ thuật thấp, đặc biệt lao động có trình độ kỹ thuật cao. Chất lượng lao động làm việc tịa nước ngoài còn thấp, khả năng hoà nhập, canh tranh (trình độ thể lực, ngoại ngữ) thua kém các nước trong khu vực. Việc giao dịch chuyển lao động không đáp ứng nhu cầu cải thiện chất lượng lao động từng vùng, khu vực, từng ngành.
6. Chất lượng xoá đói giảm nghèo chưa vững chắc.
Tỷ lệ số hộ tái nghèo còn cao, đời sống nhân dân vùng cao, vùng xa, vùng thường bị thiên tai, hạn hán còn nhiều khó khăn. Nhiều vùng đồng boà dân tộc ở miền núi phía Bắc, Tây Nguyên, Bắc Trung bộ tỷ lệ hộ nghèo còn cao, gấp 4-5 lần mức bình quân cả nước. Nhiều chính sách về hỗ trợ hộ nghèo đã được ban hành, nhưng việc tổ chức thực hiện còn nhiều bất cập.
7. Công tác chăm sóc sức khoẻ còn bộc lộ nhiều hạn chế:
Sự chênh lệch trong tiếp cận và sử dụng các dịch vụ y tế giữa người giàu và người nghèo, giữa các vùng, miền có xu hướng tăng; một bộ phận cán bộ y tế ở các bệnh viện còn vi phạm y đức, làm giảm lòng tin của nhân dân đối với người thầy thuốc. Quản lý lĩnh vực dược đang có nhiều vấn đề bức xúc, từ sản xuất, phân phốim lưu thông, sử dụng thuốc.
8. Các vấn đề xã hội còn nhiều bức xúc
Các hoạt động văn hoá thông tin còn chưa theo kịp với yêu cầu phát triển của đời sống xã hội và của thị trường. Tệ nạn xã hội như mại dâm, cờ bạc, nhất là nạn ma tuý vẫn tiếp tục gia tăng và lan rộng, đặc biệt là trong thanh niên, đang là vấn đề nhức nhối, gây bức xúc trong xã hội… Tai nạn giao thông xảy ra nghiêm trọng và có xu hướng tăng nhanh. Tội phạm kinh tế, tội phạm hình sự tuy có giảm nhưng chưa cơ bản, vững chắc. Cuộc đấu tranh chống các thói hư, tật xấu, hủ tục mê tín, thoái hoá đạo đức,… còn mang nhiều tính hình thức, chậm đưa lại hiệu quả thiết thực.
9. Hình thành và phát triển các loại thị trường chậm và chưa đồng bộ.
Cho đến nay, chỉ có thị trường hàng hoá dịch vụ đã được hình thành cơ bản; các thị trường khác còn ở mức rất sơ khai. Thị trường chứng khoán bắt đầu hoạt động từ năm 2000, nhưng đến nay vẫn rất nhỏ bé; thị trường bất động sản, nhất là thị trường chuyển sử dụng đất phát triển méo mó, hạn chế rất lớn đến khả năng đầu tư.
10. Công cuộc cải cách hành chính chậm, chưa có giải pháp hữu hiệu
Chậm đổi mới về công tác tổ chức, hoạt động của bộ máy nhà nước trì trệ, không hiệu lực, kém hiệu quả.
Tóm lại, trong 5 năm qua, tuy đối mặt với nhiều khó khăn thách thức rất gay gắt, nhưng nhờ sự chỉ đạo điều hành nhanh nhạy, kịp thời của Chính phủ, sự nổ lực phấn đấu rất cao của các ngành, các cấp, các cơ sở sản xuất kinh doanh, nền kinh tế tiếp tục phát triển với tốc độ tăng trưởng khá cao, xấp xỉ đạt mục tiêu tăng trưởng của kế hoạch 5 năm đề ra. Chất lượng tăng trưởng và sức cạnh tranh của một số lĩnh vực và sản phẩm có chuyển biến. Cơ cấu kinh tế, cơ cấu đầu tư, cơ cấu lao động có bước chuyển dịch đáng kể theo hướng công nghiệp hoá và từng bước hiện đại hoá, phát huy được các những lợi thế của từng vùng, từng ngành, từng sản phẩm. Kinh tế đối với nền kinh tế quốc tế và khu vực. Kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội tiếp tục được tăng cường. Các mặt xã hội đều có bước phát triển: đời sống nhiều vùng dân cư có cải thiện. Tình hình chính trị và an toàn xã hội được bảo đảm.
III. Sự cần thiết phải đổi mới công tác kế hoạch hoá ở nước ta
Bên cạnh những thành tựu chủ yếu đất được trong thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế xã hội 5 năm 2001-2005, vẫn còn tồn tại một số vấn đề cụ thể sau:
1. Tăng trưởng kinh tế chưa thực sự vững chắc; chất lượng tăng trưởng chưa cao, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế còn thấp; quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế còn chậm.
Trong nông nghiệp, các phương thức canh tác tiên tiến chậm được áp dụng: năng suất cây trồng, vật nuôi và chất lượng sản phẩm nông nghiệp còn thấp; kết quả còn phụ thuộc nhiều vào thời tiết, khí hậu, chi phí sản xuất vẫn còn cao, nên giá trị tăng thêm chưa tương xứng.
Chi phí sản xuất của nhiều sản phẩm công nghiệp, nhất là sản phẩm của doanh nghiệp nhà nước còn ở mức cao. Giá thành ở một số sản phẩm còn cao hơn nhiều so với sản phẩm cùng loại của các nước trong khu vực, giá trị gia tăng của ngành công nghiệp chưa tương ứng với tốc độ tăng của giá trị sản xuất.
Tốc độ tăng trưởng khu vực dịch vụ còn thấp; chất lượng và hiệu quả các hoạt động dịch vụ chưa cao; phí dịch vụ còn nhiều bất hợp lý, nhìn chung là cao hơn các nước trong khu vực.
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế diễn ra chậm chạp, lộ trình chưa rõ ràng, công nghiệp hoá, hiện đại hoá chậm, nhất là khu vực nông nghiệp, nông thôn. Cân đối vĩ mô trong nền kinh tế vừa hạn hẹp, chưa đủ sức cơ cấu lại nền kinh tế; vừa không vững chắc, dễ bị phá vỡ bởi những tác động từ những yếu tố khách quan.
Quy mô nền kinh tế đến nay vẫn còn nhỏ bé, thấp nhiều so với các nước phát triển hơn trong khu vực; do đó vẫn thuộc diện nước nghèo, thu nhập thấp của thế giới. thu hút các nguồn vốn đầu tư toàn xã hội cho đầu tư phát triển chưa hết tiềm năng do cơ chế, chính sách huy động vốn chưa đủ hấp dẫn.
2. Hoạt động đối ngoại còn nhiều hạn chế, chưa phát huy hết tiềm năng.
Chưa vượt qua được những thách thức gay gắt về cạnh tranh và thị trường, chưa phát huy được lợi thế về ổn định chính trị - xã hội; hàng hoá xuất khẩu kém sức cạnh tranh; thu hút nguồn vốn đầu tư nước ngoài còn nhiều hạn chế; giải ngân nguồn vốn ODA chậm; chưa thực sự chủ động trong hội nhập quốc tế.
3. Chất lượng nguồn nhân lực chưa đáp ứng được yêu cầu cuộc sống.
Đứng trước yêu cầu đòi hỏi cần nhanh chóng nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, đáp ứng công cuộc đổi mới thì những kết quả đạt được trong thời gian qua còn khiêm tốn; những tồn tại và bất cập còn lớn.
4. Nghiên cứu khoa học chưa gắn với thực tế cuộc sống Chất lượng nghiên cứu khoa học nói chung chưa cao, trình độ công nghệ của các ngành, nhất là các ngành cần công nghệ hiện đại nhìn chung còn trong tình trạng yếu kém, lạc hậu so với các nước trong khu vực. Đội ngũ cán bộ khoa học và công nghệ làm việc tại các cơ quan nghiên cứu khoa học còn hạn chế về trình độ và bất hợp lý về cơ cấu.
Cơ sở vật chất kỹ thuật của các cơ quan nghiên cứu khoa học vẫn chưa đáp ứng nhu cầu phát triển, trang thiết bị cho nghiên cứu còn thiếu và chưa đồng bộ. Chủ trương xây dựng hai khu công nghệ cao, các phòng thí nghiệm trọng điểmquốc gia tuy đã được bắt đâù triển khai nhưng còn quá chậm so với yêu cầu. Chuyển giao công nghệ chưa gắn chặt với đầu tư trong các ngành kinh tế. Cơ chế quản lý khoa học và công nghệ còn chậm đổi mới.
5. Chất lượng lao động kém, năng suất lao động xã hội thấp,
Tỷ lệ lao động chuyên môn kỹ thuật thấp, đặc biệt lao động làm việc tại nước ngoài còn thấp, khả năng hoà nhập, cạnh tranh (trình độ thể lực, ngoại ngữ) thua kém các nước trong khu vực. Việc dịch chuyển lao động không đáp ứng nhu cầu cải thiện chất lượng lao động từng vùng, khu vực, từng ngành.
6. Chất lượng xoá đói giảm nghèo chưa vững chắc.
Tỷ lệ số hộ tái nghèo còn cao,đời sống nhân dân vùng sâu, vùng xa, vùng thường bị thiên tai, hạn hán còn nhiều khó khăn. Nhiều vùng đồng bào dân tộc ở miền núi phía Bắc, Tây Bắc, Tây Nguyên, Bắc Trung Bộ tỷ lệ hộ nghèo còn cao, gấp 4-5 lần mức bình quân cả nước.Nhiều chính sách về hỗ trợ hộ nghèo đã được ban hành, nhưng việc tổ chức thực hiện còn nhiều bất cập.
7. Công tác chăm sóc sức khoẻ còn bộc lộ nhiều hạn chế:
Sự chênh lệch trong tiếp cận và sử dụng các dịch vụ y tế giữa người giàu và người nghèo, giữa các vùng, miền có xu hướng tăng; một bộ phận cán bộ y tế ở các bệnh viện còn vi phạm y đức, làm giảm lòng tin của nhân dân đối với người thầy thuốc. Quản lý lĩnh vực dược đang có nhiều vấn đề bức xúc, từ sản xuất, phân phối, lưu thông, sử dụng thuốc.
8. Các vấn đề xã hội còn nhiều bức xúc.
Các hoạt động văn hoá thông tin còn chưa theo kịp với yêu cầu phát triển của đời sống xã hội và của thị trường. Tệ nạn xã hội như mại dâm, cờ bạc, nhất là nạn ma tuý vẫn tiếp tục gia tăng và lan rộng, đặc biệt là trong thanh niên, đang là vấn đề nhức nhối gây nhiều bức xúc trong xã hội... Tai nạn giao thông xảy ra nghiem trọng và có xu hướng tăng nhanh. Tội phạm kinh tế, tội phạm hình sự, tuy có giảm nhưng chưa cơ bản, vững chắc. Cuộc đấu tranh chống các thói hư, tật xấu, hủ tục mê tín, thoái hoá đạo đức,... còn mang nhiều tính hình thức, chậm đưa lại hiệu quả thiết thực.
9. Hình thành và phát triển các loại thị trường chậm và chưa đồng bộ.
Cho đến nay, chỉ có thị trường hàng hoá dịch vụ đã được hình thành cơ bản; các thị trường khác còn ở mức rất sơ khai. Thị trường chứng khoán bắt đầu hoạt động từ năm 2000, nhưng đến nay vẫn rất nhỏ bé; thị trường bất động sản, nhất là thị trường chuyển quyền sử dụng đất phát triển méo mó, hạn chế rất lớn đến khả năng đầu tư.
10. Công cuộc cải cách hành chính chậm, chưa có giải pháp hữu hiệu.
Chậm đổi mới về công tác tổ chức, hoạt động của bộ máy nhà nước trì trệ, không hiệu lực, kém hiệu quả.
Tóm lại, trong 5 năm qua, tuy phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức rất gay gắt, nhưng nhờ sự chỉ đạo điều hành nhanh nhạy, kịp thời của Chính phủ, sự nỗ lực phấn đấu rất cao của các ngành, các cấp, các cơ sở sản xuất kinh doanh, nền kinh tế tiếp tục phát triển với tốc độ tăng trưởng khá cao, xấp xỉ đạt mục tiêu tăng trưởng của kế hoạch 5 năm đề ra. Chất lượng tăng trưởng và sức cạnh tranh của một số lĩnh vực và sản phẩm có chuyển biến. Cơ cấu kinh tế, cơ cấu đầu tư, cơ cấu lao động có bước chuyển dịch đáng kể theo hướng công nghiệp hoá và từng bước hiện đại hoá
Mặt khác, Việt Nam đang trong giai đoạn chuyển đổi từ nền kinh tế tập trung sang nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Do đó công tác KHH cần phải có sự đổi mới toàn diện và triệt để. Chúng ta cần phải đẩy nhanh việc tiếp cận các phương pháp tiên tiến trong xây dựng và quản lý các chỉ tiêu trong kế hoạch. Trong hệ thống phát triển theo thời gian, KH 5 năm đóng vai trò trung tâm. Hiện nay chíng ta vẫn áp dụng hình thức truyền thống là xây dựng các chỉ tiêu KH 5 năm theo “thời kỳ”, tức là khoảng thời gian 5 năm là cố định, các chỉ tiêu được xây dựng ngay tại thời điểm đầu của KH 5 năm và là con số tính bình quân năm cho cả thời kỳ hoặc cho năm cuối. Phương pháp này tạo ra các con số KH kém tính năng động, thiếu cập nhật theo sự biến đổi thường xuyên của kinh tế thị trường, gọi là phương pháp cuốn chiếu. Theo phương pháp này, mốc thời gian của KH 5 năm không cố định, nó được luân chuyển theo kiểu cuốn chiếu. Ví dụ như: KH 2001 – 2005; 2002 – 2006… Các chỉ tiêu được tính toán cụ thể đầu năm, dự tính cho một năm tiếp theo và dự báo một số chỉ tiêu cho ba năm còn lại. Cuối năm KH đầu tiên, trên cơ sở đánh giá thực hiện các chỉ tiêu và dự báo những phát sinh mới, các chỉ tiêu KH cho một năm đầu mới sẽ được xây dựng cụ thể và dự báo một số chỉ tiêu cho thêm một năm cuối của thời kỳ mới. Phương pháp này khắc phục được tính nhất thời sự không phù hợp giữa các chỉ tiêu KH với sự đổi thay thường xuyên của môi trường.
Phương pháp “cuốn chiếu” với các nội dung tổng quát nêu trên sẽ kkhác phục được tính nhất thời và không phù hợp giữa mục tiêu KH với sự đổi thay thường xuyên của môi trường. Theo phương pháp này việc xây dựng và triển khai KH 5 năm sẽ không còn mang tính chất “thời vụ”, mà nó tiếp tục được thời sự hoá để phù hợp với hoàn cảnh và những yêu cầu mới đặt ra. Các chỉ tiêu KH sẽ đủ độ tin cậy cho các nhà quản lý và lãnh đạo sử dụng tư cách là công cụ định hướng vĩ mô nền kinh tế quốc dân, làm cho kế hoạch thực hiện tốt chức năng tổ chức can thiệp của chính phủ vào nền kinh tế thị trường, đương đầu với những khó khăn, biến động bất thường từ thế giới bên ngoài. Ngoài ra, do các khuôn khổ 5 năm kế tiếp nhau luôn có 4 năm KH trùng nhau nên tính liên tục giữa các KH 5 năm, các chính sách, chương trình được thực hiện gối đầu giữa các KH đó sẽ được đảm bảo.
Sự cần thiết của khu vực kinh tế tư nhân trong KHH
Nền kinh tế thị trường là một tổng thể bao gồm nhiều bộ phận cấu thành thuộc các thành phần sở hữu khác nhau như kinh tế nhà nước, tập thể, cá thể, tư nhân, các nhà đầu tư nước ngoài, các kiên doanh… Kế hoạch hoá trong nền kinh tế thị trường không chỉ áp dụng ở khu vực kinh tế, trong đó có khu vực tư nhân. Khu vực này đang ngày càng chiếm tỷ lệ kcao về quy mô và hình thức thể hiện ngày càng đa dạng, phức tạp. Ở Việt Nam, cho đến cuối thập niên 90, khu vực tư nhân đã tạo nên 51% tổng GDP, cho cả nước, đóng góp 26,4% tổng thu ngân sách và 15% tổng đầu tư xã hội. Như vậy, sự cần thiết phải đặt vấn đề về sự tham gia của khu vực tư nhân trong kế hoạch hoá xuất phát từ chỗ khu vực tư nhân là một thành tố cấu thành của hệ thống kế hoạch hoá phát triển. Hơn thế nữa, đây lại là thành tố ngày càng có quy mô và vị thế cao trong nền kinh tế quôc dân.
Nếu đã xác định khu vực tư nhân là một bộ phận cấu thành của hệ thống kế hoạch hoá vĩ mô toàn diện và thống nhất vào công tác kế hoạch hoá lại được xem như một yêu cầu, một biểu hiện cụ thể klcủa tính dân chủ trong nguyên tắc tập trung – dân chủ của kế hoạch hoá. Sự tham gia của họ với tư cách là đối tượng kế hoạch hoá chính là sử dụng yếu tố nội lực nhằm đảm bảo tính chính xác và tăng cường sức mạnh thực thi kế hoạch đặt ra.
Thực tế, nhiều nghiên cứu trong lĩnh vực kế hoạch hoá phát triển, kể cả các dự án của các tổ chức phát triển quốc tế như Ngân hàng Thế giới (WB), Ngân hàng Phát triển Châu Á (ADB)… cũng đã khẳng định những thành công của công tác KHH khi có sự tham gia một cáh sâu sắc của các nhóm cộng đồng, khu vực tư nhân và các thành phần cấu thành của nó. Riêng sự tham gia của khu vực tư nhân đã đem lại lợi ích thiết thực trong kế hoạch hoá như sau:
Làm tăng cường khả năng hiểu biết của các nhà kế hoạch, của chính phủ đối với khu vực tư nhân như các thông tin chính xác về qui mô, cơ cấu hoạt động và đầu tư của khu vực tư nhân các tâm tư nguyện vọng, thế mạnh và điểm yếu vủa khu vực này cũng như mong muốn được Chính phủ “tiếp sức” trong hoạt động sản xuất kinh doanh.
Đảm bảo tính chính xác của kế hoạch hoá cho khu vực tư nhân, tính phù hợp của các chính sách, giải pháp nhằm hỗ trợ sự tăng trưởng của khu vực tư nhân và trên cơ sở đó nâng cao hiệu lực của kế hoạch hoá toàn diện.
Tạo ra sự cộng tác tốt hơn từ khu vực tư nhân trong quá trình thực hiện các chỉ tiêu kế hoạch, các chiến lược phát triển ngành, địa phương cũng như quá trình sửa đổi các chính sách và chương trình của chính phủ, đưa đến kết quả là một môi trường thuận lợi hơn cho tăng trưởng kinh tế.
IV. Nội dung cơ bản của các định hướng đổi mới KHH của Việt Nam.
1. Việt Nam đang trong quá trình chuyển đổi từ nền kinh tế tập trung sang nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Theo cơ chế này, công tác KHH cần phải có sự đổi mới toàn diện và triệt để. Những nét đặc trưng trong mô hình KHH của 3 nước có nền kinh tế thị trường phát triển được xem những cơ sở thực tiễn quan trọng cho việc rút ra những kết luận mang tính chất bài học trong quá trình cải tổ công tác KHH của Việt Nam sau đây:
1- Thừa nhận vai trò không thể thiếu được của KHH trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam, nhưng phải có sự cải tổ triệt để trong tư duy về KHH nhằm tạo cơ hội cho cơ chế thị trường phát huy tác dụng mạnh mẽ.
Kinh nghiệm của các nước Nhật, Pháp cho thấy việc chuyển đổi từ cơ chế KHH tập trung sang KHH định hướng phát triển ở nước ta là một hướng đi đúng để thực hiện yêu cầu đặt ra ở trên. Theo xu hướng này, thứ nhất, phải quan niệm kế hoạch không phải là thay thế thị trường mà là nhằm khắc phục các khuyết tật của thị trường; bổ sung các thiếu hụt của thị trường; hướng các hoạt động của thị trường theo các mục tiêu phát triển của xã hội. Thứ hai, phải coi thị trường và KH đều là 2 công cụ điều tiết nền kinh tế vĩ mô. Điều này đặt ra yêu cầu phải phân định “sân chơi” của 2 công cụ này và sự kết hợp nó trong quá trình tổ chức điều tiết kinh tế vĩ mô. Thực tế cũng chỉ ra một cơ chế hợp lý và có hiệu quả nhất trong việc sử dụng kết hợp 2 công cụ này là: Thông qua công cụ KH mà Nhà nước điều tiết thị trường để thị trường điều tiết sản xuất. Một Kh trong cơ chế như trên phải được xây dựng trên cơ sở tiếp cận ở tầm vĩ mô, từ trên xuống và được thể hiện trong các chính sách phát triển và các chính sách khuyến khích mang tính đòn bẩy kinh tế.
2- Thực hiện đổi mới toàn diện trong nội dung của các KH phát triển và coi KH 5 năm là trọng tâm.
Kinh nghiệm của các nước nêu trên cho thấy, việc đổi mới nội dung các KH theo hướng sau đây:
Thứ nhất, chuyển trong tâm sang KH giá trị tức là coi trọng các chỉ tiêu giá trị, đề cao vai trò của các tổ chức tài chính ngân hàng, tăng cường các chỉ tiêu tài chính, tín dụng, thuế, lãi suất.
Thứ hai, chú trọng vào các chỉ tiêu mục tiêu phát triển xã hội, mở rộng các chỉ tiêu hướng dẫn về khoa học công nghệ, văn hóa giáo dục, đào tạo, y tế, thể dục thể thao, chăm soác sức khỏe, xóa đói giảm nghèo và công bằng xã hội.
Thứ ba, nhấn mạnh việc hình thành các cân đối vĩ mô của nền kinh tế bao gồm: cân đối tích luỹ - tiêu dùng, cân đối xuất - nhập khẩu, cân đối cán cân thanh toán quốc tế, cân đối tổng sức mua toàn xã hội, cân đối vốn đầu tư và cân đối các nguồn đầu tư.
3- Đổi mới về phương pháp xây dựng và quản lý KH 5 năm theo hướng chuyển hướng KH 5 năm có thời hạn cố định sang KH 5 năm sang năm cuốn chiếu. Phương phương này khắc phục được tính cứng nhắc và bó gọn trong từng 5 năm một như hiện nay, nó đảm bảo KH tựhc sự là một kịch bản phát triển liên tục trong 5 năm có phân chia cụ thể theo từng năm. KH được xây dựng như thế đảm bảo tính liên tục, linh hoạt, hệ thống, cập nhật và điều chỉnh phù hợp với những đổi thay của nền kinh tế thị trường. Xây dựng KH 5 năm theo kiểu cuốn chiếu là một phương pháp đổi mới đòi hỏi trình độ chuyên môn cao của các nhà lập KH được tổ chức thực sự chu đáo mới có thể làm tốt được, vì vậy cần được triển khai thí điểm, rút kinh nghiệm sau đó mới áp dụng đại trà trên thực tế.
4- Đa dạng hóa và áp dụng linh hoạt các hình thức triển khai thực hiện kế hoạch.
Kế hoạch 5 năm sau khi được Chính phủ phê duyệt sẽ được triển khai công cụ duy nhất là KH hàng năm trên hệ thống các chỉ tiêu pháp lệnh. Cách thức triển khai như vậy không còn phù hợp trong điều kiện nền kinh tế thị trường. Từ việc nghiên cứu kinh nghiệm KHH của các nước có nền kinh tế thị trường phát triển cho thấy cần phải đa dạng hóa và sử dụng một cách linh hoạt các kênh triển khai và tổ chức thực hiện KH 5 năm sau đây.
Một là, các KH 5 năm được triển khai theo các chương trình quốc gia và các dự án đầu tư cụ thể, đó là các vấn đề cấp bách, các mắt xích, các khâu đột phá mang tính quyết định đối với sự phát triển kinh tế xá hội của đất nước trong thời kỳ KH. Việc triển khai bằng các chương trình, dự án một mặt tạo điều kiện thu hút được nhiều nguồn vốn đầu tư, đặc biệt là các nguồn đầu tư nước ngoài; mặt khác, theo các chương trình, dự án các nguồn lực sẽ được tập trung phân bổ theo các địa chỉ cụ thể và đảm bảo sử dụng có hiệu quả cao nhất.
Hai là, các nội dung không thuộc các vấn đề trên vẫn được cụ thể hóa và triển khai bằng các KH hàng năm, xem như là những công tác thường xuyên mang tính tác nghiệp.
Ba là, để đảm bảo cho tính linh hoạt, nhạy bén của KH 5 năm, các KH nên được triển khai thực hiện bằng các chính sách khuyến khích phát triển, chính sách điều tiết sản xuất kinh doanh, xem như đó là một cam kết của chính phủ hoặc là những yếu tố đòn bẩy đối với các ngành, các địa phương và các doanh nghiệp.
5- Tăng cường đội ngũ cán bộ làm kế hoạch phù hợp với các yêu cầu mới.
Để đảm bảo chất lượng của công tác KHH các cấp, khâu quyết định là đội ngũ cán bộ chuyên trách. Cần xóa bỏ nhận thức cũ cho rằng cán bộ kế hoạch cũng chỉ là một loại cán bộ hành chính trong hệ thống hành chính nhà nước. Theo quan điểm mới, cán bộ kế hoạch có thể không nằm trong bộ máy công chức nhà nước mà là các chuyên gia tư vấn thuộc các công ty tư vấn tư nhân làm việc theo các đơn đặt hàng. Công tác kế hoạch hóa là một công tác khoa học rất tổng hợp về kinh tế, các nhà kế hoạch đòi hỏi phải được đào tạo kỹ về kiến thức từ kinh tế vĩ mô, kinh tế quốc tế đến kinh tế vi mô và phải có chương trình đào tạo cán bộ KH từ các cấp sơ, trung cấp đến cao cấp.
2. Kiến nghị đổi mới kế hoạch hóa (KHH) ở Việt Nam.
1- Khẳng định rõ vị trí và tầm quan trọng của hệ thống chỉ tiêu trong KHH phát triển.
Các dự án đổi mới công tác KHH ở nước ta hiện nay đều có xu hướng giảm phần định lượng và tăng phần định tính. Điều này hoàn toàn phù hợp với chức năng của KH trong nền kinh tế thị trường. Tuy vậy, giảm phần định lượng không có nghĩa là giảm tính chất và chức năng định lượng của các kế hoạch phát triển mà là giảm số lượng các chỉ tiêu kế hoạch, giảm tỷ trọng các nội dung định lượng trong công tác KHH. Việc giảm phần định lượng phải được tiến hành theo quan điểm nâng cao tính định hướng và giảm dần tính tác nghiệp trong các kế hoạch phát triển. Điều đó đặt ra vấn đề cần phải lựa chọn được một hệ thống chỉ tiêu phù hợp theo các xu hướng đã nêu ra ở trên, phù hợp với từng giai đoạn phát triển kinh tế đất nước và ._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 28296.doc