Phương pháp xếp hạng khách hàng của phòng Dịch vụ ngân hàng Doanh nghiệp tại Ngân hàng thương mại cổ phần Kỹ thương Techcombank- Chi nhánh Hà Nội

LỜI MỞ ĐẦU Tính cầp thiết của đề tài Ngân hàng là một trong các tổ chức tài chính quan trọng nhất của nền kinh tế, đóng vai trò vô cùng quan trọng trong sự phát triển kinh tế toàn cầu. Với hoạt động chính là huy động vốn để sử dụng nhằm thu lợi nhuận, việc sử dụng vốn chính là quá trình tạo nên các loại tài sản khác nhau của Ngân hàng trong đó cho vay và đầu tư là hai loại tài sản lớn và quan trọng nhất. Hoạt động tín dụng (là quan hệ vay mượn gồm cho vay và đi vay) là hoạt động sinh lời lớn n

doc85 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1388 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Phương pháp xếp hạng khách hàng của phòng Dịch vụ ngân hàng Doanh nghiệp tại Ngân hàng thương mại cổ phần Kỹ thương Techcombank- Chi nhánh Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hất, song đi kèm với nó là rủi ro cao nhất cho các NHTM. Đối với hệ thống Ngân hàng Việt Nam, kể từ khi chuyển sang cơ chế thị trường đã không ngừng lớn mạnh và thu được những thành tựu nhất định, nhưng trong quá trình đó các Ngân hàng đã vấp phải không ít những rủi ro trong hoạt động kinh doanh gây tổn thất nặng nề. Nên đánh giá rủi ro tín dụng là khâu đầu tiên, là điều kiện tiên quyết trước khi cho vay. Sau một thời gian thực tập, em thấy việc xếp hạng khách hàng doanh nghiệp có ý nghĩa rất quan trọng trong nền kinh tế Việt Nam hiện nay, bởi vì thông qua xếp hạng doanh nghiệp các Ngân hàng có thể xác định mức lãi suất cho vay đối với từng doanh nghiệp, xác định được rủi ro của doanh nghiệp nhằm phòng ngừa rủi ro tạo điều kiện ổn định nền kinh tế. Vì vậy em đã chọn đề tài: “Phương pháp xếp hạng khách hàng của phòng Dịch vụ ngân hàng doanh nghiệp tại ngân hàng TMCP Kỹ thương Việt Nam - Chi nhánh Hà Nội” Đề tài của em gồm ba phần: Chương 1: Lý thuyết về rủi ro trong hoạt động Ngân hàng và thực trạng rủi ro tín dụng ở Việt Nam Chương 2 : Nghiệp vụ xếp hạng khách hàng tại ngân hàng TMCP Kỹ Thương Việt Nam Chương 3 : Ứng dụng mô hình Logit trong xếp hạng khách hàng Đối tượng, phạm vi nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu là các doanh nghiệp hiện đang có quan hệ tín dụng với Techcom bank Phạm vi nghiên cứu là sử dụng các chỉ tiêu tài chính của khách hàng phòng Dịch vụ ngân hàng doanh nghiệp tại ngân hàng TMCP Kỹ thương Việt Nam - Chi nhánh Hà Nội, xếp hạng khách hàng bằng phần mềm T24 và ứng dụng mô hình Logit trong xếp hạng bằng chương trình Eviews của kinh tế lượng từ đó đưa ra mối liên hệ và dự báo cho các khách hàng khác. Phương pháp nghiên cứu Là sinh viên năm cuối của khoa Toán Kinh Tế, với mong muốn được nâng cao kỹ năng và nghiệp vụ đồng thời có cơ hội áp dụng các kiến thức được học vào thực tế nhằm chuẩn bị ra trường, bên cạnh đó được ban lãnh đạo Ngân hàng TMCP Kỹ thương Việt Nam tạo điều kiện, sự giúp đỡ nhiệt tình của các cán bộ trong phòng Dịch vụ ngân hàng doanh nghiệp và sự hướng dẫn của thầy giáo PGS.TS Hoàng Đình Tuấn, em đã có điều kiện tìm hiểu về tình hình hoạt động, cơ cấu tổ chức của ngân hàng. Vì vậy em sử dụng phương pháp xếp hạng khách hàng trên hệ thống phần mềm quản trị ngân hàng T24r5 của Techcombank và ứng dụng mô hình Logit trong xếp hạng khách hàng. Nguồn thông tin và dữ liệu Sử dụng các chỉ tiêu tài chính của 73 doanh nghiệp trong năm 2007 và các tài liệu liên quan đến việc quản lý rủi ro, xếp hạng khách hàng của phòng Dịch vụ ngân hàng doanh nghiệp tại Techcombank - Chi nhánh Hà Nội. Em xin chân thành cám ơn Ban giám đốc Ngân hàng cùng tập thể cán bộ, nhân viên toàn Ngân hàng và đặc biệt cám ơn các cán bộ, chuyên viên Phòng Dịch vụ ngân hàng doanh nghiệp đã tạo điều kiện thuận lợi cho em trong quá trình thực tập, để em có thể tìm hiểu sâu về nghiệp vụ Ngân hàng. Em xin vô cùng biết ơn thầy PGS.TS Hoàng Đình Tuấn - khoa Toán Kinh Tế đã tận tình chỉ bảo, giúp đỡ em trong quá trình lựa chọn đề tài, xác định hướng nghiên cứu, sửa chữa và hoàn thiện luận văn. Em cũng xin cảm ơn sâu sắc tới các thầy cô giáo trong khoa Toán Kinh Tế đã dạy dỗ chỉ bảo em trong quá trình học tập tại trường. Chương 1 Lý thuyết về rủi ro trong hoạt động Ngân hàng và thực trạng rủi ro tín dụng ở Việt Nam 1.1 Rủi ro trong hoạt động Ngân hàng và thực trạng rủi ro tín dụng ở Việt Nam Khái niệm về rủi ro Rủi ro là khả năng xảy ra tổn thất ngoài dự kiến. Vì vậy trong bất kỳ lĩnh vực nào của đời sống đều có thể xảy ra rủi ro. Đối với cuộc sống đời thường rủi ro có thể là những điều hết sức đơn giản chẳng hạn như bị mất cắp....; đối với các ngân hàng thương mại luôn luôn phải đối mặt với các loại rủi ro đó có thể là rủi ro do khách hàng trả nợ không đúng hạn, cũng có thể là do ngân hàng không đáp ứng được nhu cầu rút tiền của người gửi tiền…… Ngân hàng thương mại là doanh nghiệp kinh doanh loại hàng hoá đặc biệt – hàng hoá tiền tệ, tiềm ẩn nhiều rủi ro. Đa phần trong đó là các khoản tiền gửi phải trả khi có yêu cầu. Nguồn tiền của các ngân hàng thương mại đang có thay đổi mạnh mẽ do sự gia tăng cạnh tranh trong hệ thống ngân hàng, giữa các ngân hàng với các tổ chức tài chính dưới ảnh hưởng của công nghệ thông tin và quá trình toàn cầu hoá. Các nguồn tiền của cá nhân và doanh nghiệp dễ dàng di chuyển hơn, nhạy cảm với lãi suất hơn. Điều này tạo thuận lợi cho ngân hàng trong việc tìm kiếm nguồn tiền song lại làm tăng tính kém ổn định của cả hệ thống. Mặt khác tài sản của các ngân hàng chủ yếu là các động sản tài chính (các khoản cho vay, chứng khoán) với tính rủi ro thị trường, rủi ro tín dụng rất cao. Công nghệ của Ngân hàng ngày càng phát triển cho phép các Ngân hàng có thể chuyển nguồn tiền đầu tư của mình tới những vùng xa trụ sở. Điều này vừa làm giảm bớt rủi ro của Ngân hàng do đa dạng hoá khách hàng nhưng đồng thời cũng làm tăng tính rủi ro do những biến động lớn trên thị trường Thế giới, khu vực và do Ngân hàng không kiểm soát tốt được các khoản vay…Điều này không chỉ xảy ra ở thị trường Việt Nam mà còn diễn ra ở trên Thế giới. Chẳng hạn vào cuối năm 1997, khủng hoảng tài chính đã làm cho nhiều Ngân hàng ở châu Á bị mất hàng tỷ đô la Mỹ, bị phá sản hoặc phải sát nhập; cũng vào năm 1997, nhiều Ngân hàng thương mại Việt Nam do mở rộng cho vay tràn lan đã rơi vào tình trạng nợ quá hạn, nợ khó đòi. Tóm lại tất cả các loại rủi ro của ngân hàng đều có bản chất chung đó là khả nảng xảy ra tổn thất cho ngân hàng. Các loại rủi ro trong kinh doanh Ngân hàng Dựa vào những tiêu thức khác nhau thì rủi ro của Ngân hàng được chia thành những loại khác nhau. Nếu phân chia theo nguyên nhân các nhân tố tác động thì rủi ro Ngân hàng bao gồm: rủi ro do người vay không trả được nợ cho Ngân hàng, rủi ro do lãi suất thay đổi, rủi ro do tỷ giá thay đổi, rủi ro do các nguyên nhân khác như mất trộm, cháy nổ, giấy tờ giả…Tuy nhiên trong phạm vi hoạt động của các Ngân hàng thương mại Việt Nam có thể tổng hợp thành một số loại rủi ro cơ bản như sau: 1.1.2.1 Rủi ro tín dụng Rủi ro tín dụng là khả năng xảy ra những tổn thất mà Ngân hàng phải gánh chịu do khách hàng không trả đầy đủ cả gốc và lãi của khoản vay, hoặc là việc thanh toán nợ gốc và lãi không đúng hạn. Khi thực hiện một hoạt động cho vay cụ thể, Ngân hàng không dự kiến khoản cho vay đó sẽ bị tổn thất. Tuy nhiên những khoản cho vay đó luôn hàm chứa rủi ro. Một số ý kiến cho rằng trên quan điểm quản lý toàn bộ Ngân hàng, tỷ lệ tổn thất dự kiến đối với hoạt động tín dụng luôn được xác định trước trong chiến lược hoạt động chung. Do vậy, khi tổn thất dưới mức tổn thất dự kiến, Ngân hàng coi đó là một thành công trong quản lý. 1.1.2.2 Rủi ro lãi suất Khi huy động vốn của doanh nghiệp hoặc dân cư, Ngân hàng sẽ phải trả lãi. Còn khi tài trợ, Ngân hàng sẽ thu lãi. Lãi suất của các khoản cho vay, tiền gửi và chứng khoán thường xuyên biến động, có thể làm gia tăng lợi nhuận cho Ngân hàng, ngược lại cũng có thể gây tổn thất cho Ngân hàng. Như vậy rủi ro lãi suất là khả năng thu nhập giảm do chênh lệch lãi suất giảm, khi lãi suất thị trường thay đổi ngoài dự kiến. Rủi ro lãi suất có thể có một số hình thức khác nhau như rủi ro xác định lại lãi suất, rủi ro đường cong lãi suất thay đổi, rủi ro tương quan lãi suất, và rủi ro quyền chọn đi kèm. Nguyên nhân gây ra rủi ro lãi suất có thể gồm: Do sự không phù hợp về kỳ hạn của nguồn và tài sản, và chế độ lãi suất cố định. Do sự thay đổi của lãi suất thị trường ngoài dự kiến. Rủi ro lãi suất là một loại rủi ro thị trường quan trọng, đặc biệt trong điều kiện lãi suất thay đổi như hiện nay. Vì vậy, việc thực hiện các biện pháp để hạn chế rủi ro lãi suất cũng là một nội dung quan trọng trong quản lý rủi ro của Ngân hàng thương mại. Các giải pháp phòng ngừa rủi ro lãi suất: Phải duy trì cân đối các khoản vay nhạy cảm với lãi suất bên tài sản nợ và tài sản có. Sử dụng một chính sách lãi suất linh hoạt, đặc biệt với những khoản vay lớn, thời hạn dài cần tìm kiếm nguồn vốn tương xứng, hoặc thực hiện cơ chế lãi suất thả nổi. Sử dụng các công cụ tài chính mới để hạn chế rủi ro ngoại bảng, như sử dụng các nghiệp vụ kỳ hạn về lãi suất, nghiệp vụ kỳ hạn về tiền gửi, nghiệp vụ kỳ hạn về lãi suất tiền vay, thực hiện hợp đồng tương lai do không cân xứng tài sản nợ và tài sản có; thực hiện nghiệp vụ hoán đổi lãi suất, quyền lựa chọn lãi suất. 1.1.2.3 Rủi ro tỷ giá Rủi ro tỷ giá là khả năng xảy ra những tổn thất mà Ngân hàng phải gánh chịu khi tỷ giá hối đoái thay đổi vượt quá thay đổi dự tính. Trong cơ chế thị trường, tỷ giá thường xuyên dao động. Sự thay đổi này cùng với trạng thái hối đoái của Ngân hàng tạo ra thu nhập thặng dư hoặc thâm hụt tạm thời. Tuy nhiên có những thay đổi tỷ giá ngoài dự kiến dẫn đến tổn thất cho Ngân hàng. Những nhân tố tác động đến rủi ro tỷ giá: Lãi suất. Các chính sách của chính phủ. Sự đầu cơ trên thị trường. Tính nhạy cảm của thị trường. Lạm phát. Sự ổn định về chính trị. Loại tiền kinh doanh: một số đồng tiền có sự biến động về tỷ giá rất lớn trong khi đó một số đồng tiền lại có sự biến động ít hơn. Để hạn chế rủi ro tỷ giá người ta có thể có một số giải pháp sau: Sử dụng một số công cụ - các nghiệp vụ kinh doanh ngoại tệ để quản lí rủi ro. Việc phòng ngừa rủi ro có thể dùng các nghiệp vụ sẵn có trên thị trường. Việc phòng ngừa rủi ro của giao dịch kỳ hạn bằng một giao dịch Swap, dùng giao dịch quyền chọn để hạn chế rủi ro. Việc nắm giữ một loại ngoại tệ nào đó quá nhiều là mạo hiểm vì khiến Ngân hàng phải gánh chịu rủi ro tỷ giá phát sinh. Vì vậy Ngân hàng nên thực hiện đa dạng hoá các loại ngoại tệ kinh doanh tránh những phụ thuộc quá nhiều vào Đôla Mỹ, phân tán rủi ro, thích nghi được với những biến động bất thường về tỷ giá. 1.1.2.4 Rủi ro thanh toán Rủi ro thanh toán là những tác động do sự biến động của Tài sản Nợ và Tài sản Có trong quá trình hoạt động của Ngân hàng, làm cho Ngân hàng không có đủ tiền để thực hiện các cam kết với khách hàng hay nói cách khác Ngân hàng không có khả năng thanh toán các giao dịch của khách hàng theo các cam kết (thiếu hoặc mất khả năng thanh toán). Rủi ro thanh khoản có thể xảy ra do nhiều nguyên nhân như: Do Ngân hàng sử dụng vốn để đầu tư, cho vay nhưng chưa thu hồi được vì chưa đến kỳ hạn khách hàng trả nợ, nhưng Ngân hàng phải thanh toán các khoản nợ đến hạn (do sự biến động của tài sản Nợ và Tài sản Có trong quá trình hoạt động). Do có nhiều khoản vay kém chất lượng nên Ngân hàng không thu được nợ làm cho Ngân hàng không có đủ tiền để thực hiện các cam kết với khách hàng hay nói cách khác Ngân hàng không có khả năng thanh toán các giao dịch của khách hàng theo các cam kết (thiếu hoặc mất khả năng thanh toán). Do những người gửi tiền đồng thời có nhu cầu rút tiền gửi ở Ngân hàng ngay lập tức. Hoặc có dòng tiền lớn rút ra đột ngột do yếu tố mất ổn định vĩ mô, do thông tin bất lợi cho Ngân hàng. Thiếu khả năng thanh toán là thiếu tiền theo dự kiến, điều này đòi hỏi Ngân hàng phải bù đắp lượng tiền thiếu với chi phí cao hơn bình thường dẫn đến làm giảm lợi nhuận. Khi lợi nhuận giảm qua số cân bằng thu chi làm cho NH bị lỗ trong kinh doanh. Nếu số lỗ này không được bù đắp và ngày càng tăng lên do việc huy động vốn đảm bảo khả năng thanh toán sẽ dẫn đến việc NH bị phá sản. Ngược lại khi Ngân hàng thừa khả năng thanh toán (tức là duy trì số tiền không sinh lời hoặc sinh lời thấp quá lớn để đảm bảo khả năng thanh toán) cũng sẽ dẫn đến thu nhập thấp, giảm khả năng sinh lời của Ngân hàng. Trường hợp mất khả năng thanh toán cũng dẫn đến việc NH bị phá sản vì mọi khách hàng là chủ nợ của NH sẽ cùng rút tiền ồ ạt (kể cả những khoản nợ chưa đến hạn) trong khi những khách nợ của NH không thanh toán vì các khoản nợ chưa đến hạn mà NH không thể huy động được tiền, kể cả việc chi phí cao hơn mức bình thường. Khi bị phá sản do mất khả năng thanh toán, hậu quả không phải chỉ xảy ra đối với chính Ngân hàng đó mà nó thường kéo theo sự rút tiền ồ ạt của khách hàng tại các Ngân hàng khác. Trường hợp xảy ra đối với NHTM cổ phần Á Châu cuối năm 2003 là một minh chứng cho việc đó. Khi khách hàng rút tiền tại NHTM cổ phần Á Châu, nhiều NH khác trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh đã phải xây dựng kế hoạch ứng phó trong trường hợp sự rút tiền ồ ạt của khách hàng lan truyền. Vì vậy các Ngân hàng phải tính toán nhu cầu khả năng thanh toán đó là việc tính toán nhu cầu phải chi và có thể phải chi của Ngân hàng. 1.1.2.5 Rủi ro trong dịch vụ bảo quản và quản lý chứng từ có giá Trong điều kiện kinh tế thị trường như hiện nay, việc các Ngân hàng thương mại đa dạng hoá hoạt động của mình được coi là những thay đổi tất yếu. Một trong những hoạt động đó là bảo quản và quản lý chứng từ có giá, một công việc được xem là có nhiều rủi ro. Vậy rủi ro trong quản lý và bảo quản chứng từ có giá là gì? Đó là khả năng xảy ra những tổn thất mà Ngân hàng phải gánh chịu trong việc quản lý và kinh doanh các loại chứng từ có giá. Các loại rủi ro mà Ngân hàng phải chịu khi kinh doanh chứng khoán rất cao; những rủi ro đó bao gồm: Rủi ro thị trường: các giấy tờ có giá do các Ngân hàng thương mại nắm giữ luôn có khả năng thay đổi giá trị do các tác động từ thị trường, hay từ chính bản thân Ngân hàng thương mại, hoặc từ Chính phủ…Vì vậy các Ngân hàng thương mại sẽ bị giảm giá trị tài sản nếu như dự đoán không đúng về tình hình thị trường, gây ra những thiệt hại nhất định đối với Ngân hàng. Rủi ro do người phát hành giấy tờ có giá không thể thanh toán được: mọi giấy tờ có giá mà một Ngân hàng thương mại nắm giữ đều tiềm ẩn rủi ro này (ngoại trừ trái phiếu Chính phủ). Các Ngân hàng thưong mại có thể chọn loại hình giấy tờ có giá để đầu tư cho phù hợp với mục đích chính của mình, nhưng luôn phải đánh giá đúng mức rủi ro của chứng khoán đó. Việc người phát hành không thể thanh toán được luôn gây ra những thiệt hại đáng kể đối với các Ngân hàng; nó gián tiếp gây ra những thiệt hại đối với toàn bộ hệ thống kinh tế quốc gia. Chính vì thế mà các quốc gia đều đặt ra những quy định chỉ cho phép Ngân hàng thương mại được phép kinh doanh số chứng khoán đã được xếp hạng ở một mức nào đó. Rủi ro nhân sự: hoạt động kinh doanh giấy tờ có giá của Ngân hàng thương mại rất đa dạng. Nó đòi hỏi sự độc lập của các cá nhân, nhân viên Ngân hàng. Chính vì thế mà những rủi ro phát sinh bởi chính các nhân viên của Ngân hàng là điều không thể tránh khỏi, đặc biệt là trong hoạt động môi giới đầu tư cho khách hàng. Rủi ro do yêu cầu thanh khoản: các Ngân hàng luôn phải đáp ứng một nhu cầu thanh khoản nhất định và việc đầu tư vào giấy tờ có giá có thể làm giảm khả năng thanh khoản của Ngân hàng, làm tăng rủi ro do yêu cầu thanh khoản. Rủi ro khác: các rủi ro khác mà một Ngân hàng phải đối mặt trong quản lý và kinh doanh giấy tờ có giá bao gồm những rủi ro như cháy, mất mát, cướp…Và còn nhiều rủi ro tới từ các hoạt động khác của Ngân hàng, chúng luôn có tác động qua lại lẫn nhau. Ngoài các rủi ro trên Ngân hàng còn phải đối mặt với nhiều loại rủi ro quan trọng khác như: - Rủi ro chính trị: khi xảy ra những thay đổi về pháp luật, những quy định về luật pháp trong và ngoài nước sẽ có ảnh hưởng xấu tới thu nhập của Ngân hàng. - Rủi ro phạm tội: xảy ra khi những người chủ Ngân hàng, nhân viên hay các khách hàng có hành vi phạm pháp như thực hiện các hành động lừa đảo, biển thủ, trộm cắp, hay các hành động bất hợp pháp khác làm Ngân hàng thua lỗ. - Rủi ro do các tình huống bất ngờ: đó là các tình huống mang tính chất bất ngờ như động đất, núi lửa, hoả hoạn…. 1.2 Rủi ro tín dụng trong hoạt động của Ngân hàng 1.2.1 Khái niệm về rủi ro tín dụng Như đã trình bày ở phần trên: rủi ro tín dụng là khả năng xảy ra những tổn thất mà Ngân hàng phải gánh chịu do khách hàng không trả đầy đủ cả gốc và lãi của khoản vay, hoặc là việc thanh toán nợ gốc và lãi không đúng hạn. Rủi ro tín dụng là kết quả của việc Ngân hàng cấp tín dụng cho khách hàng và Ngân hàng nhận được các giấy nhận nợ do con nợ phát hành với sự cam kết là sẽ thanh toán cả gốc và lãi đúng hạn cho Ngân hàng. Do đó tại thời điểm cấp tín dụng và chấp nhận giấy nhận nợ nghĩa là Ngân hàng đã thừa nhận khả năng thanh toán đầy đủ và đúng hạn của khách hàng mình với một xác suất cao, còn xác suất mất khả năng thanh toán của khách hàng là thấp hơn nhiều. Trái phiếu coupon có thu nhập cố định và giấy nhận nợ tín dụng đối với Ngân hàng là hai ví dụ điển hình về giấy nhận nợ do công ty phát hành. Trong cả hai trường hợp, Ngân hàng đều đầu tư vào các giấy nhận nợ nhằm nhận được trái tức từ trái phiếu và lãi suất từ khoản tín dụng nếu người vay tiền không bị phá sản. Trường hợp người vay tiền phá sản, Ngân hàng thường không thu được lợi tức cũng như lãi suất và có thể bị mất toàn bộ hoặc một phần vốn gốc là phụ thuộc vào khả năng Ngân hàng tiếp cận đối với tài sản của con nợ trong khi giải quyết phá sản hoặc giải thể. Nếu coi khoản tiền hoàn trả đúng hạn cho ngân hàng khi đầu tư vào trái phiếu và các khoản chênh lệch vay tín dụng là X thì X sẽ là biến ngẫu nhiên. Đồ thị dưới đây minh họa phân phối xác suất của khả năng khoản tiền hoàn trả X so sánh với khoản tiền gốc và lãi khách hàng phải trả. Đồ thị 1.1: Phân phối xác suất khoản tiền hoàn trả P gốc tiền hoàn trả gốc và lãi 0 P=1 Chúng ta thấy rằng đỉnh của đồ thị biểu diễn xác suất hoàn trả đầy đủ cả gốc và lãi của khoản vay là tương đối cao (tuy nhiên luôn nhỏ hơn 1). Đặc điểm luân chuyển vốn của các công ty có thể là nguyên nhân gây nên rủi ro tín dụng ở các mức độ khác nhau. Tỷ lệ không thanh toán được một phần hay toàn bộ tiền lãi là khoảng cách từ điểm “gốc” đến điểm “gốc và lãi”; và tỷ lệ không thanh toán được một phần hay toàn bộ tiền gốc là từ điểm “0” đến điểm “gốc”. Đồ thị 1.1 cũng chỉ ra rằng xác suất mà ngân hàng thu được cả gốc và lãi là cao hơn nhiều so với trường hợp không thu được cả gốc và lãi, điều này nói lên rằng bổn phận của Ngân hàng là phải đánh giá được mức độ rủi ro dự tính của các khoản đầu tư và đặt yêu cầu cho phần thu nhập phụ trội so với rủi ro tương xứng với mức độ rủi ro của các chứng khoán mà Ngân hàng nắm giữ. Đồ thị 1.2: Phân bổ xác suất rủi ro đối với một danh mục đầu tư P P=1 tiền hoàn trả hoàn trả tối đa 0 P=1 tiền hoàn trả hoàn trả tối đa 0 Sự phân bổ lợi tức đối với rủi ro tín dụng đặt ra cho Ngân hàng là phải giám sát và thu thập được những thông tin về công ty mà Ngân hàng đã đầu tư. Nghĩa là chiến lược quản trị rủi ro tín dụng cùng với việc quản trị công ty hiệu quả có ảnh hưởng đến đường cong phân bổ xác suất trong việc thu hồi tín dụng. Ngoài ra, sự phân bổ rủi ro tín dụng trên Đồ thị 1.1 là trường hợp chỉ đầu tư vào một loại tài sản và đo mức độ rủi ro của nó. Một trong những lợi thế của Ngân hàng so với những nhà đầu tư riêng lẻ là khả năng đa dạng hoá danh mục đầu tư của Ngân hàng là rất lớn, và thông qua việc đa dạng hoá danh mục đầu tư thì rủi ro tín dụng giảm đáng kể. Trong phạm vi Đồ thị 1.1 nếu thông qua đa dạng hoá đầu tư thì rủi ro tín dụng sẽ được làm dịu đi. Trong trường hợp, một Ngân hàng thực hiện tốt việc đa dạng hoá danh mục đầu tư của mình, thì hình dáng đồ thị phân bổ xác suất thu hồi gốc và lãi như được chỉ ra ở Đồ thị 1.2. Ngân hàng thu được lượng tiền cực đại khi mà toàn bộ các khoản tín dụng và trái phiếu được đầu tư thu hồi đầy đủ cả gốc và lãi. Trong thực tế, một số khoản tín dụng và trái phiếu không thể thu hồi đủ, thu đúng được một phần hay toàn bộ số lãi và gốc. Vì vậy, mức độ thu hồi trung bình của các danh mục đầu tư có thể nhỏ hơn so với trường hợp thu được đầy đủ cả gốc và lãi. Kết quả của việc đa dạng hoá đầu tư là việc hạn chế được xác suất xảy ra các hậu quả xấu trong danh mục đầu tư. Một danh mục đầu tư được đa dạng hóa đã rút ngắn được phạm vi rủi ro tín dụng. Trong thực tế, đa dạng hoá danh mục đầu tư chỉ có thể giảm được rủi ro tín dụng đặc thù riêng của các ngành kinh tế, tuy nhiên rủi ro có tính chất hệ thống, chung cho cả nền kinh tế có ảnh hưởng đến tất cả các ngành kinh tế thì không thể loại trừ được. 1.2.2 Các hình thức biểu hiện của rủi ro tín dụng Nợ có vấn đề Khi thực hiện nghiệp vụ cho vay, các Ngân hàng thương mại đều mong muốn rằng khoản cho vay đó sẽ được hoàn trả đầy đủ, đúng thời hạn như đã thoả thuận. Vì vậy, để đảm bảo an toàn cho hoạt động của mình, sau khi cấp tín dụng cho khách hàng, Ngân hàng phải thường xuyên giám sát khoản tín dụng đã cấp đó, để xem khách hàng có sử dụng vốn đúng mục đích đã thoả thuận không? Và mức độ hiệu quả sử dụng vốn vay của khách hàng như thế nào? Do đó có thể nói rằng, hoạt động giám sát có vai trò hết sức quan trọng: nó hướng vào những dấu hiệu báo trước các vấn đề kinh doanh nảy sinh, cũng như những biện pháp khắc phục, giúp Ngân hàng nhận biết và phát hiện được các khoản nợ xấu có vấn đề, để có hành động và biện pháp cần thiết, kịp thời để ngăn ngừa hoặc xử lý. Nợ có vấn đề là những khoản vay, trong đó thoả thuận hoàn trả của khách hàng có khả năng đổ vỡ, dù hiện tại những khoản vay đó chưa đến kỳ hạn trả nợ gốc và lãi. Muốn tránh được thiệt hại và tổn thất, thì cán bộ tín dụng cần sớm phát hiện ra những khoản nợ có vấn đề, để kịp thời ngăn ngừa hoặc xử lý. Nếu không có thể sẽ không giải quyết được vấn đề trước khi tình hình trở nên xấu hơn. Trong thực tế có nhiều dấu hiệu biểu hiện khoản vay sẽ gặp khó khăn. Một số trường hợp cho thấy khó khăn xuất hiện ngay khi bắt đầu cho vay, một số khác có thể xuất hiện chậm hơn, và một số đột ngột phát sinh mà không hề có dấu hiệu báo trước. Như vậy có nghĩa là không có một mô hình nhất định nào về các biến cố thường xuyên xảy ra để có thể kết luận rằng một khoản cho vay sẽ khó hoàn trả. Tuy nhiên, ta có thể dựa vào một số nhóm dấu hiệu để cảnh báo rủi ro tín dụng trong hoạt động tín dụng của Ngân hàng. Nợ quá hạn Nợ quá hạn là một khoản tín dụng được cấp ra nhưng không thể thu hồi được đúng hạn, do những nguyên nhân khác nhau gây ra. Nợ quá hạn sẽ làm tăng các khoản chi phí cho việc đi đòi nợ, làm tăng chi phí cho hoạt động kinh doanh nên có ảnh hưởng xấu tới hoạt động kinh doanh của Ngân hàng. Nợ quá hạn cũng sẽ làm mất cân bằng các cân đối tsài chính, ảnh hưởng xấu tới tính chủ động trong kế hoạch nguồn vốn của Ngân hàng. Quy mô nợ quá hạn càng lớn thì tính rủi ro càng cao. Tuy vậy, nó còn phụ thuộc vào cả quy mô cho vay của Ngân hàng. Tỷ lệ nợ quá hạn = (Nợ quá hạn / Tổng dư nợ) là một chỉ tiêu mà hầu hết các Ngân hàng đều sử dụng để đánh giá mức độ rủi ro trong hoạt động tín dụng. Nếu tỷ lệ đó cao thì có thể nói rằng hoạt động tín dụng của Ngân hàng là không hiệu quả, nguy cơ rủi ro tín dụng rất có khả năng xảy ra, Ngân hàng cần phải xem xét lại quy trình cho vay của mình nhằm làm giảm bớt nợ quá hạn. Ngược lại, nếu tỷ lệ đó thấp thì rủi ro tín dụng nếu có xảy ra cũng không ảnh hưởng lớn tới hoạt động kinh doanh của Ngân hàng. Nợ khó đòi Nợ khó đòi là nợ quá hạn không được thanh toán, mặc dù Ngân hàng đã gia hạn nợ. Chính vì vậy có thể nói đây là chỉ tiêu rõ ràng nhất để phản ánh mức độ tổn thất trong hoạt động tín dụng của Ngân hàng. Hầu hết các Ngân hàng thương mại đều thực hiện lập quỹ dự phòng rủi ro bằng 100% số nợ khó đòi. Tỷ lệ nợ khó đòi = (Nợ khó đòi / Tổng dư nợ) Cho biết Ngân hàng cho vay 100 đơn vị tiền tệ thì tỷ lệ tổn thất bao nhiêu đơn vị tiền tệ. Nợ khó đòi và tỷ lệ nợ khó đòi = (Nợ khó đòi / Tổng dư nợ) phản ánh trực tiếp chất lượng tín dụng nói riêng và hoạt động kinh doanh của Ngân hàng nói chung. Nợ khó đòi cao làm cho Ngân hàng phải trích lập quỹ dự phòng rủi ro nhiều hơn, chi phí hoạt động kinh doanh của Ngân hàng sẽ tăng, qua đó đẩy lãi suất cho vay của Ngân hàng tăng lên, làm giảm tính cạnh tranh của Ngân hàng. Lãi treo Lãi treo là số tiền lãi mà khách hàng không trả được cho Ngân hàng khi đến hạn thanh toán. Đây cũng là một dấu hiệu quan trọng để nhận biết rủi ro tín dụng. Bởi vì việc thanh toán lãi thường không gắn liền với việc trả gốc, và có giá trị nhỏ hơn gốc rất nhiều, được trả vào những thời điểm nhất định, tuỳ theo sự thoả thuận của Ngân hàng và khách hàng. Khi khách hàng không thanh toán được tiền lãi của khoản vay thì có thể coi đấy là một dấu hiệu thể hiện rằng doanh nghiệp đang gặp khó khăn về tài chính. Tỷ lệ (Lãi treo phát sinh / Tổng thu nhập) từ hoạt động tín dụng, cũng là một chỉ tiêu quan trọng trong việc đánh giá mức độ rủi ro của Ngân hàng. Tuy nhiên việc nhận biết rủi ro tín dụng nếu chỉ thông qua các khoản nợ có vấn đề, nợ quá hạn, nợ khó đòi và lãi treo thì dường như đã khá là muộn đối với các Ngân hàng. Bởi vì chỉ khi tình hình của khách hàng là khó khăn đặc biệt thì những dấu hiệu này mới bộc lộ. Đến lúc đó thì tổn thất mà Ngân hàng có thể gặp phải sẽ là rất lớn. Vậy nên, điều mà các Ngân hàng quan tâm là những dấu hiệu có thể tạo ra rủi ro tín dụng; để từ đó có thể chủ động và kịp thời đưa ra biện pháp phù hợp, nhằm hạn chế những khó khăn tổn thất cho cả Ngân hàng và khách hàng. Do đó, ngoài các dấu hiệu ở trên, các cán bộ tín dụng còn nhận biết rủi ro tín dụng thông qua một số dấu hiệu khác. Cơ cấu dư nợ tín dụng Giống như mọi hoạt động đầu tư khác: hoạt động tín dụng của Ngân hàng cũng phải tuân thủ nguyên tắc “không bỏ tất cả trứng vào một giỏ”. Bởi vì doanh thu của Ngân hàng chủ yếu từ lãi do hoạt động tín dụng mang lại. Nếu tỷ trọng cho vay đối với một khách hàng trong tổng dư nợ quá lớn thì khi khách hàng này gặp khó khăn trong việc trả nợ cho Ngân hàng, sẽ ảnh hưởng trực tiếp tới doanh thu của Ngân hàng. Cũng như vậy, nếu Ngân hàng chỉ tập trung cho các doanh nghiệp hoạt động trong một lĩnh vực nào đó vay thì rủi ro sẽ là rất lớn nếu như ngành đó hoạt động không hiệu quả. Một số dấu hiệu khác Nhóm các dấu hiệu về hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Khả năng sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp giảm sút, thể hiện ở giá trị sản lượng và doanh thu của doanh nghiệp bị giảm. Thu nhập không thường xuyên và ổn định: cơ cấu doanh thu thay đổi bất thường, như doanh thu các hoạt động phụ chiếm tỷ trọng lớn hơn… Hệ số quay vòng vốn lưu động thấp, có sự gia tăng bất thường về hàng tồn kho và sự gia ttăng các khoản nợ thương mại, đặc biệt là các khoản nợ với thời gian dài. Nhóm các dấu hiệu liên quan đến phương pháp quản lý và tổ chức của khách hàng. - Thay đổi thường xuyên cơ cấu của hệ thống quản lý hoặc ban điều hành - Có sự mất đoàn kết, bè cánh, tranh giành quyền lực trong nội bộ doanh nghiệp, có hiện tượng nhân tài rời bỏ doanh nghiệp. - Hệ thống quản trị hoặc ban điều hành luôn bất đồng về mục đích, điều hành độc đoán hoặc quá phân tán. - Cơ cấu nhân lực của doanh nghiệp không hợp lý, bộ phận quản lý ngày càng phình to, có các hoạt động sát nhập với các doanh nghiệp yếu kém khác. - Có những khoản chi phí bất hợp lý. Ngoài ra còn có một số dấu hiệu khác như: nhóm các dấu hiệu thuộc về mặt pháp luật, nhóm các dấu hiệu thuộc về kỹ thuật và thương mại…. 1.2.3 Nguyên nhân gây ra rủi ro tín dụng Có rất nhiều nguyên nhân gây ra rủi ro tín dụng cho Ngân hàng, có thể phân thành các loại nguyên nhân như sau: 1.2.3.1 Những nguyên nhân bất khả kháng Những nguyên nhân bất khả kháng tác động tới người vay, làm mất khả năng thanh toán cho Ngân hàng. Ví dụ: Thiên tai, chiến tranh, hoặc những thay đổi tầm vĩ mô (thay đổi của Chính phủ, chính sách kinh tế, hàng rào thuế quan…) vượt quá tầm kiểm soát của người vay lẫn người cho vay. Những thay đổi này thường xuyên xảy ra, tác động liên tục tới người vay, tạo thuận lợi hoặc khó khăn cho người vay. Nhiều người vay, với bản lĩnh của mình có khả năng dự báo, thích ứng, hoặc khắc phục những khó khăn. Trong những trường hợp khác, người vay có thể sẽ bị tổn thất song vẫn có thể trả nợ cho Ngân hàng đúng hạn, đủ gốc và lãi. Tuy nhiên, khi tác động của những nguyên nhân bất khả kháng đối với người vay là nặng nề thì khả năng trả nợ của họ bị suy giảm. 1.2.3.2 Nguyên nhân thuộc về chủ quan người vay Trình độ yếu kém của người vay trong dự đoán các vấn đề kinh tế, yếu kém trong quản lý, chủ định lừa đảo cán bộ Ngân hàng, chây ì…. là nguyên nhân gây ra rủi ro tín dụng. Rất nhiều người vay sẵn sàng mạo hiểm với kì vọng thu được lợi nhuận cao. Để đạt được mục đích của mình, họ sẵn sàng tìm mọi thủ đoạn ứng phó với Ngân hàng như cung cấp thông tin sai, mua chuộc….. Nhiều người vay đã không tính toán kĩ lưỡng hoặc không có khả năng tính toán kĩ lưỡng những bất trắc có thể xảy ra, không có khả năng thích ứng và khắc phục khó khăn trong kinh doanh. Trong trường hợp còn lại, người vay kinh doanh có lãi song vẫn không trả nợ cho Ngân hàng đúng hẹn, chây ì với hy vọng có thể quỵt nợ hoặc sử dụng vốn vay càng lâu càng tốt. 1.2.3.3 Nguyên nhân thuộc về Ngân hàng Chất lượng cán bộ kém, không đủ trình độ đánh giá khách hàng hoặc đánh giá không tốt, cố tình làm sai…. Là một trong những nguyên nhân của rủi ro tín dụng. Nhân viên Ngân hàng phải tiếp cận với nhiều ngành nghề, nhiều vùng, thậm chí nhiều quốc gia. Để cho vay tốt, họ phải am hiểu khách hàng, lĩnh vực mà khách hàng kinh doanh, môi trường mà khách hàng sống. Họ phải có khả năng dự báo các vấn đề liên quan người vay…. Như vậy họ cần phải được đào tạo và tự đào tạo kĩ lưỡng, liên tục và toàn diện. Khi nhân viên tín dụng cho vay đối với khách hàng mà họ chưa đủ trình độ để hiểu kĩ lưỡng, rủi ro tín dụng luôn rình rập họ. Sống trong môi trường “tiền bạc”, nhiều nhân viên Ngân hàng đã không tránh khỏi cám dỗ của đồng tiền. Họ tiếp tay cho khách hàng rút ruột Ngân hàng. Như vậy, chất lượng nhân viên Ngân hàng bao gồm trình độ và đạo đức nghề nghiệp không đảm bảo là nguyên nhân gây ra rủi ro tín dụng. 1.2.4 Các loại rủi ro tín dụng Quyết định số 493/2005/QĐ-NHNN ngày 22/4/2005 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước về việc phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro tín dụng trong hoạt động Ngân hàng của tổ chức tín dụng. Theo Quyết định này khái niệm nợ được định nghĩa rất rộng. Nợ không chỉ bao gồm các khoản cho vay, cho thuê tài chính, chiết khấu, tái chiết khấu thương phiếu và các giấy tờ có giá khác, tiền trả thay cho người được bảo lãnh, mà còn bao gồm các khoản ứng trước, thấu chi và các khoản bao thanh toán (một hình thức cấp tín dụng mới được phép theo Quy chế bao thanh toán của các TCTD ban hành kèm theo Quyết định số 1096/2004/QĐ-NHNN ngày 6/9/2004 của NHNN) và các hình thức tín dụng khác. Việc phân loại nợ cũng được xác đ._.ịnh hết sức rõ ràng. Theo phương pháp “định lượng” Quyết định 493 đã phân loại nợ thành 5 nhóm, bao gồm: Nhóm 1: nợ đủ tiêu chuẩn, bao gồm nợ trong hạn được đánh giá có khả năng thu hồi đủ gốc và lãi đúng hạn và các khoản nợ có thể phát sinh trong tương lai như các khoản bảo lãnh, cam kết cho vay, chấp nhận thanh toán. Nhóm 2: nợ cần chú ý, bao gồm nợ quá hạn dưới 90 ngày và cơ cấu lại thời hạn trả nợ. Nhóm 3: nợ dưới tiêu chuẩn, bao gồm nợ quá hạn từ 90 ngày đến 180 ngày và nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ quá hạn 90 ngày. Nhóm 4: nợ nghi ngờ, bao gồm nợ quá hạn từ 181 ngày đến 360 ngày và nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ từ 90 ngày đến 180 ngày. Nhóm 5: nợ có khả năng mất vốn, bao gồm nợ quá hạn trên 360 ngày, nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ trên 180 ngày và nợ khoanh chờ Chính phủ xử lý. Tuy nhiên cần lưu ý là cho dù có tiêu chí thời gian quá hạn trả nợ cụ thể để phân loại nợ như trên, các tổ chức tín dụng (TCTD) và Ngân hàng (NH) vẫn có quyền chủ động tự quyết định phân loại nợ nào vào nhóm nợ rủi ro cao hơn tưong ứng với mức độ rủi ro nếu đánh giá khả năng trả nợ của khách hàng suy giảm. Điều đặc biệt ở Quyết định này là lần đầu tiên phương pháp “định tính” được cho phép áp dụng đối với các TCTD đủ điều kiện. Theo phương pháp này nợ cũng được phân thành 5 nhóm nợ tương ứng như 5 nhóm nợ theo cách phân loại “định lượng”, nhưng không nhất thiết căn cứ vào số ngày quá hạn chưa thanh toán nợ, mà căn cứ trên hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ và chính sách dự phòng rủi ro của TCTD được Ngân hàng Nhà nước chấp thuận. Các nhóm nợ bao gồm: Nhóm 1: nợ đủ tiêu chuẩn, bao gồm nợ được đánh giá là có khả năng thu hồi đầy đủ gốc và lãi đúng hạn. Nhóm 2: nợ cần chú ý, bao gồm nợ được đánh giá là có khả năng thu hồi đầy đủ gốc và lãi nhưng có dấu hiệu khách hàng suy giảm khả năng trả nợ. Nhóm 3: nợ dưới tiêu chuẩn, bao gồm nợ được đánh giá là không có khả năng thu hồi gốc và lãi khi đến hạn. Nhóm 4: nợ nghi ngờ, bao gồm nợ được đánh giá là có khả năng tổn thất cao. Nhóm 5: nợ có khả năng mất vốn, bao gồm nợ được đánh giá là không còn khả năng thu hồi, mất vốn. Như vậy Quyết định 493 đặt ra yêu cầu quản lý nợ, kiểm soát rủi ro cao hơn đối với các TCTD và việc thi hành Quyết định 493 sẽ đánh giá đúng bản chất và chất lượng tín dụng của các TCTD. Những chuẩn mực đặt ra trong quy định này đã hướng tới sự hoà nhập với chuẩn mực thế giới tức là yêu cầu cao hơn. Việc thi hành những quy định mới sẽ đòi hỏi có những thay đổi mới ở các Ngân hàng thương mại và cả Ngân hàng Nhà nước, vì những chi phí phát sinh từ những thay đổi đó sẽ chuyển sang khách hàng vay nên chi phí cho vay sẽ có thể tăng. Các NH cũng sẽ ưu tiên cho việc cho vay có bảo đảm để giảm gánh nặng về dự phòng rủi ro. Thực trạng rủi ro tín dụng tại ngân hàng TMCP Kỹ Thương Việt Nam 1.3.1 Quản trị rủi ro tổng hợp năm 2007 Rủi ro trong hoạt động ngân hàng là điều không thể tránh khỏi và do đó để đảm bảo hiệu quả kinh doanh tối ưu thì năng lực quản trị rủi ro của ngân hàng phải tốt. Với quan điểm nhất quán và xuyên xuốt của Techcombank như vậy về tầm quan trong của công tác quản trị rủi ro, năm 2007 tiếp tục đánh dấu một bước phát triển mới trong công tác này, đặc biệt là những phát triển trong công tác rủi ro tín dụng, vốn luôn được xác định là rủi ro chính cần được kiểm soát chặt chẽ của Techcombank. Nếu như năm 2006, việc thành lập phòng quản trị rủi ro Hội sở đựoc xem là bước đầu tiên quan trong trong việc thống nhất quản lý toàn bộ các rủi ro, thì năm 2007, việc thành lập khối tín dụng và quản trị rủi ro trên cơ sở tư vấn cúa HSBC được coi như bước phát triển hoàn tất về cơ cấu tổ chức cho công tác quản trị rủi ro của Techcombank, cả tầng vi mô và vĩ mô đã được độc lập hoàn toàn với mảng kinh doanh, giúp ban điều hành có cái nhìn khách quan, đảm bảo an toàn kinh doanh và nâng cao hiệu quả hoạt động chung của ngân hàng. Song song với việc cải tổ cơ cấu, mảng rủi ro tín dụng năm qua cũng nhận được nhiều sự thay đổi về chuyên môn nghiệp vụ, trong đó phải kể đến mảng rủi ro tín dụng doanh nghiệp với việc cải tổ về qui trình phê duyệt tín dụng và qui trình thẩm định. Các qui trình mới này đã góp phần vào sự tẳng truởng vựot bậc về tính ứng dụng của Techcombank trong nửa cuối năm 2007 mà vẫn kìm chế được rủi ro tín dụng ở mức rất thấp. Ngoài ra mảng rủi ro tín dụng bán lẻ cũng là một trong tâm phát triển trong năm 2007 cùng với tham vọng đẩy mạnh mảng ngân hàng bán lẻ của Techcombank. Tiếp nối những kĩ thuất quản trị rủi ro tín dụng bán lẻ theo danh mục bắt đầu gây dựng năm 2006, rủi ro tín dụng bán lẻ đã được trực tiếp các chuyên gia của HSBC xây dựng và chịu trách nhiệm trước ban điều hành. Theo đó, lần đầu tiên, việc phê duyệt những sản phẩm tín dụng tiêu dùng đã được thực hiện trên hệ thống xếp hạng khách hàng(scoring) được tích hợp tập trung trong hệ thống IT. Đây có thể là điểm đột phấ nhất cảu Techcombank trong rủi ro tín dụng của năm 2007. Công tác rủi ro thị trường trong năm 2007 cũng có những bước phát triển cơ bản tiếp nối nền tảng đã xây dựng những năm qua. Techcombank là một trong những ngân hàng đầu tiên áp dụng thành công hệ thống quản trị rủi ro thị trường từ năm 2003. trong năm 2007, các mô hình ngày một tiếp tục cải tiến theo phương hướng cập nhật những kĩ thuật tiên tiến nhất và sửa đổi các khoản mục cho khớp với hoạt động phát sinh mới của Techcombank. Ngoài chính sách quản trị rủi ro lãi xuất với báo cáo khe hở kỳ hạn ( GAP analysis) vẫn đang được tiến hành đều đặn, giúp Techcombank duy trì khe hở kỳ hạn mức an toàn cho phép, các kỹ thuất về thời lượng( Duration and Modified Duration) – mô hình tiên tiến hơn trong quản trị rủi ro lãi xuất – đang đi những bước cuối cùng của công việc nghiên cứu và sớm áp dụng trong đầu năm 2008. Trong quản trị rủi ro thanh khoản thì hệ thống hạn mức dòng tiền ra tối đa (MCO) vẫn được duy trì và kiểm soát tốt, giúp ban điều hành và phòng nguồn vốn có được cái nhìn kịp thời về diễn biến thanh khoản và ra quyết định kinh doanh kịp thời. Ngòai ra, nhứng kỹ thuất Stress Testing ( xấy dựng các giả định khủng hoảng và biện pháp ứng phó) cũng đang được nghiên cứu và áp dụng. Đặc biệt trong năm vừa qua, hệ thống quản trị rủi ro đã nghiên cứu và ápdụng thành công hệ thống hạn mức cho kinh doanh ngoại hối theo mô hình Value at Risk (VAR). Hệ thống này giúp Techcombank nhanh nhạy hơn trong việc nắm bắt các cơ hội kinh doanh mà vẫn kiểm soát đựoc rủi ro phát sinh. Bộ phận quản trị rủi ro hoạt động, với chức năng ban đầu là kiểm toán IT đã có những thành công bước đầu trong năm qua. Hệ thống kiểm toán IT độc lập với trung tâm IT, sử dụng chuẩn quản lý rủi ro ngân hàng điện tử( COBIT) đã giúp cho ban điều hành có cái nhìn toàn diện hơn về những rủi ro tiềm ẩn của hệ thống. Ngoài ra, chính sách về an ninh bảo mật thông tin theo chuẩn ISO 17799 cũng đã được ban hành, đưa công tác bảo mật thông tin của Techcombank từng bước vào chuẩn quốc tế. Bên cạnh đó qui trình áp dụng Basel II, được nghiên cứu trong năm 2006, đã dần định hình các bước rõ rang và sẽ đi vào áp dụng cụ thể đầu năm 2008. Như vây, hệ thống quản trị rủi ro của Techcombank không ngừng được củng cố một cách đồng bộ và dần đựoc nâng cấp cho phù hợp với các chuấn mực rủi ro tiên tiến trên thế giới. Đây là cơ sở quan trong để hoạt động kinh doanh được tiến hành một cách an toàn, hiệu quả và bền vững. 1.3.2 Định hướng năm 2008 Tổng tài sản tăng 70% so với năm 2007, đạt 68.000 tỷ. Trong đó, vốn huy động dân cư đạt 35.000 tỷ và các tổ chức kinh tế 16.000 tỷ( tăng 100%). Vốn tự có năm 2008 đạt 6.000 tỷ (tăng 100%). Phát hành thêm 300.000 thẻ, đưa con số lũy kế thẻ lên 650.000 thẻ, lắp đặt mới thêm 170 ATM và 1.000 POS. Thu nhập dịch vụ đạt 360 tỷ (tăng 80%), tỷ lệ thu nhập dịch vụ/ thu nhập hoạt động thuần là 20% trong năm 2008. Dư nợ cho vay đạt 32.000 tỷ (tăng 60%). Tỷ lệ nợ loại 3 – 5 thấp hơn 2% tổng dư nợ. ROE duy trì ở mức 18% đến 20%. Hoạt động tín dụng của ngân hàng Techcombank trong 3 năm gần đây Bảng1.3 . Các chỉ tiêu tài chính cơ bản STT Chỉ tiêu 2005 2006 2007 1 Tổng doanh thu 905 1.398 2.653,29 2 Tổng tài sản 10.666 17.326 39.542,50 3 Vốn điều lệ 617 1.500 2.521,31 4 Vốn tự có 1.009,41 1.761.69 3.573,42 5 LN trước thuế 286,06 356,52 709,74 6 LN sau thuế 206,15 256,90 510,38 7 ROA(%) 2,60 1,89 1,99 8 ROE(%) 45,19 26,76 22,98 Đơn vị: tỷ VNĐ Đến nay tổng dư nợ tín dụng của Techcombank đạt 19.958,1 tỷ đồng tăng 11.147,67 tỷ đồng.Mặc dù dư nợ tăng khá mạnh nhưng chất lượng tín dụng của Techcombank vẫn được kiểm soát chặt chẽ, mặt khác dự phòng rủi ro tín dụng được trích đầy đủ và thường xuyên để bảo đảm an toàn cho hoạt động ngân hàng. Tỷ lệ nợ 3 – 5 tính đến cuối năm 2007 đã giảm mạnh so với tháng 12/2006, giảm từ 3,11% xuống còn 1,38 %. Với hệ thống công nghệ hiện tại của Techcombank, việc phân loại tuổi nợ được tự động hóa hoàn toàn. Bên cạnh đó, một số khoản nợ quá hạn lâu vẫn được để trong nội bảng là để tăng cường ý thức trách nhiệm của cán bộ trong việc thu hồi những khoản nợ này cũng như kiểm soát tốt hơn tỷ lệ nợ xấu. Kết quả đạt được trong năm 2007 Bảng1.4 . Kết quả đạt được trong năm 2007 Chỉ tiêu Kế hoạch năm 2007 Thực hiện năm 2007 Tỷ lệ hoàn thành Thu nhập hoạt động thuần 1.134,43 1.216 107% Chi phí hoạt động 416,43 425,38 102% Lợi nhuận trước thuế và dự phòng 718,01 790,62 110% Trích dự phòng 78,01 80,89 103% Lợi nhuận trước thuế 640,00 709,74 111% Đơn vị: tỷ VNĐ Giải pháp phòng ngừa rủi ro tín dụng tại Techcombank Tiếp tục đẩy mạnh xử lý dứt điểm nợ xấu, nợ tồn đọng hạ thấp tỷ lệ nợ quá hạn trong mức cho phép. Trích lập quỹ dự phòng rủi ro tín dụng theo đúng thực tế hoạt động tín dụng. Đẩy mạnh chất lượng công tác thẩm định tín dụng, kiểm tra, kiểm soát trước, trong và sau khi cho vay. Hoàn thiện và xây dựng một chính sách tín dụng phù hợp, chính sách khách hàng theo quy định của ngân hàng. Giảm tỷ lệ nợ quá hạn trong cho vay doanh nghiệp, có chính sách thu hồi nợ và xử lý dứt điểm các khoản nợ tồn đọng. Nâng cao trình độ cán bộ và sắp xếp vị trí hợp lý để tăng hiệu quả. Thực hiện đa dạng hóa sản phẩm hay danh mục đầu tư với mục tiêu phân tán rủi ro. Tiếp tục phát triển hệ thống xếp hạng khách hàng tư nhân và doanh nghiệp. Chương 2 Nghiệp vụ xếp hạng khách hàng tại ngân hàng TMCP Kỹ Thương Việt Nam 2.1 Một số tổ chức xếp hạng tín dụng 2.1.1 Trên thế giới Đầu thế kỷ 20, trên thế giới bắt đầu hình thành xếp hạng tín dụng. Ra đời sớm nhất là công ty xếp hạng Moody’s, đến nay trên toàn thế giới đã có hàng trăm tổ chức xếp hạng tín dụng lớn nhỏ khác nhau, với nhiều phương pháp và công nghệ mới. Nhưng phải kể đến là hai công ty Standard $ Poor (S $ P) và Moody’s. Công ty Moody’s được thành lập năm 1909, do John Moody – người có công đầu trong sự ra đời của hệ thống xếp hạng tín dụng trên thế giới thành lập nên. Công ty hoạt động chủ yếu ở Mỹ nhưng có nhiều các chi nhánh ở trên toàn thế giới. Khi mới thành lập, công ty chỉ tiến hành xếp hạng các doanh nghiệp phát hành trái phiếu, nhưng hiện nay với sự phát triển lớn mạnh không ngừng công ty đã tiến hành xếp hạng nhiều doanh nghiệp khác và nhiều công cụ đầu tư khác, nhưng mạnh nhất vẫn là xếp hạng các doanh nghiệp phát hành trái phiếu. Thành lập sau công ty Moody’s 7 năm nhưng Standard $ Poor cũng chứng tỏ được vị thế của mình ngay lập tức và cùng với Moody’s trở thành hai tổ chức xếp hạng tín dụng uy tín nhất thế giới. Với mạng lưới hoạt động rộng khắp (theo thống kê hiện nay S$P hoạt động tại hơn 50 quốc gia trên thế giới ), S$P ngày càng tạo được uy tín trong phương pháp cũng như công nghệ được sử dụng để xếp hạng và được nhiều công ty, nhiều tổ chức, nhiều nhà đầu tư tin dùng. So với Moody’s thì phạm vi xếp hạng của tổ chức này rộng hơn nhiều, nhất là các loại chứng khoán. Sau Moody’s, S$P thì hàng loạt các công ty định mức ra đời, nhất là sau sự kiện liên tiếp những cuộc khủng hoảng kinh tế, tài chính diễn ra trên toàn thế giới, gây thiệt hại nặng nề đến nền kinh tế toàn cầu. Có thể điểm qua một số tổ chức xếp hạng tín dụng tiêu biểu được hình thành sau sự kiện khủng hoảng kinh tế liên tiếp diễn ra trên thế giới như: Tổ chức xếp hạng trái phiếu Canada (Canada Bond Rating) được thành lập vào năm 1972, tổ chức xếp hạng trái phiếu Nhật Bản (Japanese Bond Rating Institue) bắt đầu hoạt động vào năm 1975, tổ chức xếp hạng trái phiếu quốc tế (International Bond Credit Agency) thành lập tại London vào năm 1978, công ty xếp hạng tín dụng Duff $ Phelps ra đời và đã trở thành tổ chức xếp hạng lớn thứ tư tại Mỹ và bắt đầu tiến hành xếp hạng cho hàng loạt các công ty lớn,… Nhìn chung, xét toàn bộ hệ thống xếp hạng tín dụng trên thế giới thì các công ty xếp hạng tín dụng của Mỹ vẫn được đánh giá cao nhất cả về chất lượng xếp hạng và phạm vi hoạt động. Các tổ chức xếp hạng của Mỹ đã xếp hạng cho hàng loạt các công cụ được giao dịch trên thị trường tài chính, hàng nghìn các doanh nghiệp phát hành. Các tổ chức này hoạt động ở các thị trường tài chính lớn trên khắp thế giới cũng như rất nhiều thị trường tài chính mới nổi. Chẳng hạn như Standard $ Poor đã tiến hành xếp hạng cho khoảng 30000 loại trái phiếu và các cổ phiếu ưu đãi được phát hành bởi hơn 4000 công ty trên toàn thế giới, ngoài ra nó còn xếp hạng cho khoảng 15000 trái phiếu chính quyền địa phương, trái phiếu Chính phủ, các tổ chức nước ngoài và tổ chức xuyên quốc gia. Hiện nay, xếp hạng tín dụng không chỉ bó hẹp ở các quốc gia phát triển mà tại các quốc gia mới nổi và các quốc gia đang phát triển, các tổ chức xếp hạng cũng được thành lập và từng bước đi vào hoạt động chuyên nghiệp.Hơn thế nữa các công ty xếp hạng tín dụng có tên tuổi cũng đã thiết lập các chi nhánh của mình ở các thị trường mới nổi là những nơi đang rất cần đến việc xếp hạng tín dụng để đảm bảo sự hoạt động lành mạnh của thị trường. Trong những năm gần đây, các nhà hoạch định chính sách ở các nước Công nghiệp mới (NICS) và các quốc gia đang phát triển ngày càng nhận thức được tầm quan trọng, vai trò của các cơ quan định mức, xếp hạng tín dụng đối với sự phát triển của toàn bộ nền kinh tế nói chung và đối với thị trường tài chính nói riêng. Đây là những tín hiệu rất đáng mừng của nền kinh tế toàn cầu. Bảng 2.1. Xếp hạng tín dụng sử dụng cho nợ dài hạn S$P Moody’s Nội dung AAA Aaa Đối tượng được xếp loại này có chất lượng tín dụng cao nhất, có độ rủi ro thấp nhất vì thế có khả năng trả nợ mạnh nhất AA Aa Đối tượng được xếp loại này có chất lượng cao, mức độ rủi ro thấp và do đó khả năng trả nợ cao A A Đây là đối tượng đạt trên mức trung bình các nhân tố bảo đảm về khả năng trả nợ ngắn và dài hạn chưa thật chắc chắn nhưng vẫn đạt độ tin cậy cao. Do đó được xếp loại có khả năng trả nợ. BBB Baa Đây là đối tượng đạt mức trung bình, mức an toàn và rủi ro không cao nhưng cũng không thấp. Khả năng trả nợ gốc và lãi hiện thời không thật chắc chắn nhưng không có dấu hiệu nguy hiểm. BB Ba Đối tượng này đạt mức trung bình, khả năng trả nợ và lãi không thật chắc chắn và mức độ an toàn như BBB (Baa) B B Đối tượng này thiếu sự hấp dẫn cho đầu tư. Sự đảm bảo về hoàn trả gốc và lãi trong tương lai là rất nhỏ CCC Caa Khả năng trả nợ thấp, dễ xảy ra vỡ nợ CC Ca Rủi ro rất cao, thường bị vỡ nợ C C Đối tượng trong tình trạng sắp phá sản D Khả năng phá sản là gần như chắc chắn Bảng 2.2. Xếp hạng tín dụng sử dụng cho nợ ngắn hạn S$P Moody’s Nội dung P-1 A-1+ Khả năng trả nợ mạnh nhất A-1 Khả năng trả nợ mạnh P-2 A-2 Khả năng trả nợ đạt mức trung bình khá P-3 A-3 Khả năng trả nợ vừa đủ để được xếp hạng đầu tư NP B Khả năng trả nợ yếu C Khả năng trả nợ yếu D Khả năng trả nợ rất yếu, thể hiện doanh nghiệp hay nhà phát hành có nguy cơ phá sản Tại Việt Nam Ở nước ta, do thị trường tài chính phát triển chậm hơn rất nhiều so với khu vực và trên thế giới nên các tổ chức xếp hạng tín dụng ở Việt Nam cũng được thành lập sau. Năm 1993, tổ chức xếp hạng tín dụng đầu tiên của Việt Nam mới được thành lập, đó là trung tâm thông tin tín dụng – Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (gọi tắt là CIC). Trung tâm này ra đời với chức năng chính là lưu trữ thông tin trong lĩnh vực tín dụng các doanh nghiệp này dựa trên các chỉ tiêu tài chính và phi tài chính. Đến nay, Trung tâm đã tiến hành xếp hạng cho khoảng 8000 doanh nghiệp là những khách hàng của các ngân hàng thương mại. Tuy nhiên, phương pháp xếp hạng của CIC còn thiên về lịch sử vay vốn, quan hệ với các tổ chức tín dụng của doanh nghiệp hơn là phân tích chuyên sâu về khả năng cạnh tranh của các ngành, các doanh nghiệp cũng như những thay đổi, biến động của nền kinh tế. Đến năm 2004, Công ty thông tin tín nhiệm doanh nghiệp (C$R) cũng được thành lập. Công ty này chính thức công bố hoạt động từ năm 2004 nhưng thực tế công ty này hoạt động trong lĩnh vực thông tin tín dụng từ năm 2000. Thị phần chủ yếu của C$R là các doanh nghiệp trong và ngoài nước quan tâm đến việc đầu tư tại Việt Nam thông qua việc cung cấp báo cáo tín nhiệm về các doanh nghiệp đang hoạt động tại Việt Nam, trong đó có đưa ra chỉ số tín dụng và thang điểm chung nhất cho các công ty. Ngoài ra là Trung tâm định mức tín nhiệm (Vietnamnet Rating) ra đời với mục tiêu trở thành tổ chức định mức chuyên nghiệp đầu tiên ở Việt Nam, ngay từ khi thành lập trung tâm đã tập trung hoàn thiện Quy trình định mức, xếp hạng; tổ chức hội đồng thẩm định; đào tạo đội ngũ nhân viên. Thị trường chủ yếu mà trung tâm hướng tới đó là xếp hạng các doanh nghiệp có hoạt động kinh doanh liên quan đến thị trường và thị trường chứng khoán. Cùng với xu thế hội nhập vào thị trường tài chính quốc tế của Việt Nam, rất có thể sẽ có một số công ty, tổ chức xếp hạng tín dụng nước ngoài vào hoạt động tại nước ta trong tương lai không xa. Tóm lại, các tổ chức xếp hạng tín dụng ở Việt Nam hiện nay mới chỉ hoạt động như các tổ chức thông tin tín dụng, chứ chưa phải là các tổ chức xếp hạng tín dụng với vai trò xóa bỏ khoảng tối thông tin trên thị trường. Việc định mức, xếp hạng thường không linh hoạt để có thể đảm bảo thay đổi kịp thời theo diễn biến thị trường và hơn nữa nó chưa phải là một tiêu chí đánh giá chính xác về hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp được xếp hạng. Bảng 2.3.Xếp hạng tín dụng doanh nghiệp tại Việt Nam Kí hiệu xếp loại Nội dung AAA Loại tối ưu: Doanh nghiệp hoạt động hiệu quả cao. Khả năng tự chủ là rất tốt. Triển vọng phát triển lâu dài, tiềm lực tài chính mạnh. Lịch sử vay trả nợ tốt. Rủi ro rất thấp. AA Loại ưu: Doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả và ổn định. Khả năng tự chủ tài chính tốt, triển vọng phát triển tốt. Lịch sử vay trả nợ tốt. Rủi do thấp. A Loại tốt: Tình hình tài chính ổng định, hoạt đọng kinh doanh có hiệu quả. Lịch sử vay trả nợ tốt. Rủi do tương đối thấp. BBB Loại khá: Hoạt động tương đối hiệu quả, tình hình tài chính ổn định có hạn chế nhất định về tiềm lực tài chính. Rủi ro trung bình BB Loại trung bình khá: Doanh nghiệp hoạt động tốt trong hiện tại nhưng dễ bị ảnh hưởng bởi những biến động lớn trong kinh doanh do sức ép cạnh tranh. Tiềm lực tài chính trung bình, rủi ro trung bình. B Loại trung bình: Doanh nghiệp hoạt động chưa có hiệu quả, khả năng tự chủ tài chính thấp. Rủi ro tương đối cao. CCC Loại trung bình yếu: Doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả thấp, năng lực quản lý kém, khả năng trả nợ thấp, tự chủ về tài chính yếu. Rủi ro cao. CC Loại yếu: Doanh nghiệp hoạt động kém hiệu quả, tự chủ tài chính yếu kém. Khả năng trả nợ ngân hàng kém. Rủi ro rất cao. C Loại yếu kém: Doanh nghiệp hoạt động yếu kém, thua lỗ kéo dài, không tự chủ về tài chính. Năng lực quản lý yếu kém. Đáp ứng đòi hỏi phải quản lý rủi ro từng khách hàng trong phạm vi của mình nên ngoài việc các tổ chức tín dụng xếp hạng khách hàng cho ngân hàng thì mỗi ngân hàng đều phải tự mình xếp hạng, đánh giá. Xếp hạng tín dụng doanh nghiệp tại Techcombank 2.2.1 Khái niệm xếp hạng doanh nghiệp Xếp hạng doanh nghiệp là thuật ngữ bắt nguồn từ Tiếng Anh là Credit Ratings trong đó Credit là sự tín nhiệm còn Ratings nghĩa là xếp hạng. Thuật ngữ này xuất hiện đầu tiên vào năm 1909 trong cuốn “Cẩm nang chứng khoán đường sắt” do John Moody phát hành. Đến nay các tiêu chuẩn và những ký hiệu mà Moody đưa ra trở thành các chuẩn mực thế giới. Hoạt động này chỉ trở nên phổ biến ở các nước phát triển từ những năm 1960 và là một hoạt động rất quan trọng của các TCTD, ở Việt Nam hoạt động xếp hạng doanh nghiệp được các TCTD áp dụng trong vài năm gần đây. Đầu tháng 12.2005, Techcombank triển khai thành công dự án nâng cấp hệ thống phần mềm quản trị ngân hàng lõi (core banking) Globus của nhà cung cấp các giải pháp ngân hàng hàng đầu thế giới Temenos có trụ sở chính tại Thụy Sỹ. Phiên bản mới nhất của hệ thống phần mềm quản trị ngân hàng này có tên gọi là T24r5 với các tính năng tiên tiến như: Hỗ trợ đa máy chủ (multi-server), cho phép thực hiện 1000 giao dịch ngân hàng/1 giây,hỗ trợ giao dịch qua hệ thống 24h/ngày, phát triển sản phẩm, quản trị rủi ro… và vai trò đặc biệt quan trọng là xếp hạng khách hàng doanh nghiệp. Xếp hạng khách hàng doanh nghiệp: là phương pháp đo lường rủi ro về khả năng trả nợ của một doanh nghiệp đối với khoản cấp tín dụng tại Techcombank. Đơn vị kinh doanh: bao gồm Trung tâm giao dịch hội sở, các chi nhánh của Techcombank và các phòng giao dịch. Hạng tín dụng của một khách hàng doanh nghiệp: được xác định dựa trên tổng điểm số tín dụng (bao gồm điểm định lượng và điểm định tính) mà khách hàng đó đạt được. Chỉ tiêu định lượng: là các chỉ tiêu được đo lường cụ thể, không phụ thuộc vào ý kiến chủ quan của người xếp hạng. Chỉ tiêu định tính: là các chỉ tiêu đánh giá dựa trên những nhận xét, đánh giá của người xếp hạng. 2.2.2 Mục đích, đối tượng và phạm vi áp dụng Mục đích: Xây dựng các bước thống nhất trong việc xếp hạng tín dụng khách hàng doanh nghiệp trên phần mềm T24 tại các đơn vị của Techcombank. Tạo cơ sở cho việc xem xét đánh giá để cấp tín dụng và quản lý khách hàng trong hoạt động tín dụng. Làm cơ sở cho việc hoạch định chính sách tín dụng và xây dựng chính sách khách hàng của Techcombank. Nâng cao chất lượng dịch vụ ngân hàng doanh nghiệp trong hệ thống Techcombank. Đối tượng áp dụng: Các chi nhánh, Trung tâm giao dịch, các Phòng Giao dịch trực thuộc thực hiện cấp tín dụng cho khách hàng doanh nghiệp. Phạm vi áp dụng: Việc xếp hạng doanh nghiệp được áp dụng đối với tất cả các khách hàng là doanh nghiệp có quan hệ tín dụng với Techcombank. 2.2.3 Quy trình thực hiện và hướng dẫn xếp hạng doanh nghiệp trên phần mềm T24 Bảng 2.4. Quy trình thực hiện xếp hạng doanh nghiệp trên T24 TRÁCH NHIỆM TIẾN TRÌNH THỰC HIỆN CVKH Lưu hồ sơ Phê duyệt Y Thu thập thông tin Xếp hạng khách hàng Kiểm soát phê duyệt trên T24 Y N N Lưu hồ sơ Phê duyệt Y Thu thập thông tin Xếp hạng khách hàng Kiểm soát phê duyệt trên T24 Y N N CVKH Trưởng/phó PGD, Trưởng/phó phòng KD Trưởng/phóPGD, Trưởng/phó phòng KD Ban giám đốc chi nhánh Ban KS & HTKD Hạng tín dụng của một khách hàng doanh nghiệp được xác định dựa trên điểm số tín dụng mà khách hàng đó đạt được, trong đó điểm tín dụng được tính dựa trên điểm của các chỉ tiêu định lượng và định tính. 2.2.3.1 Các chỉ tiêu định lượng Trong T24, thang điểm đánh giá cho các chỉ tiêu định lượng đối với mỗi ngành khác nhau thì khác nhau, vì vậy trước khi xếp hạng doanh nghiệp cần xác định doanh nghiệp đó thuộc ngành nào trong 4 ngành cơ bản sau: Công nghiệp Xây dựng Thương mại Dịch vụ Các chỉ tiêu định lượng để xếp hạng doanh nghiệp bao gồm các chỉ tiêu tài chính sau: Bảng 2.5. Bảng các chỉ tiêu định lượng xếp hạng DN Chỉ tiêu STT I. Khả năng thanh khoản 1 Tỷ số khả năng thanh toán ngắn hạn 2 Tỷ số khả năng thanh toán nhanh II. Khả năng vay trả 3 Tỷ số nợ/TTS 4 Tỷ số vốn chủ sở hữu/TTS 5 Tỷ số nợ/ vốn CSH 6 Tỷ số Lợi nhuận gộp/ Nợ phải trả III. Khả năng sinh lời 7 Tỷ số lợi nhuận sau thuế/ doanh thu 8 ROE 9 ROA IV. Năng lực hoạt động 10 Tỷ số doanh thu/tổng tài sản 11 Số ngày phải thu 12 Vòng quay hàng tồn kho 13 Tổng TS (triệu VNĐ) Khả năng thanh toán ngắn hạn (đơn vị: lần) Khả năng thanh toán ngắn hạn = TSLĐ và đầu tư ngắn hạn Tài sản nợ ngắn hạn ` Khả năng thanh toán ngắn hạn cho biết quy mô những khoản phải trả ngắn hạn được bù đắp bởi những tài sản có dự kiến sẽ chuyển đổi thành tiền trong một thời gian ngắn. Chỉ tiêu này dùng để kiểm tra trạng thái vốn lưu động và tính thanh khoản; xem xét mức độ bảo vệ người cho vay trong trường hợp doanh nghiệp vay ngắn hạn để tài trợ vốn lưu động, thể hiện sự an toàn của người cho vay ngắn hạn. Đối với chỉ tiêu này: Khoảng giá trị từ 1 → 4 là chấp nhận được. Nếu khả năng thanh toán ngắn hạn < 1 : dùng vốn ngắn hạn để đầu tư cho tài sản cố định → rủi ro trong thanh toán ngắn hạn. Nếu khả năng thanh toán ngắn hạn > 4: không tốt, có thể vì sử dụng không tốt khoản tiền đi vay, quỹ tiền mặt tồn đọng nhiều… Khả năng thanh toán nhanh (đơn vị: lần) Khả năng thanh toán nhanh = TSLĐ và đầu tư ngắn hạn - Hàng tồn kho bình quân Nợ ngắn hạn Tỷ lệ này cho biết khả năng chuyển đổi các tài sản có của doanh nghiệp thành tiền để đáp ứng yêu cầu thanh toán cấp thiết cho các khoản nợ. Giá trị của tỷ lệ càng cao chứng tỏ độ rủi ro thấp. Tuy nhiên điều này cũng có ý nghĩa rằng hiệu quả quản lý tài sản lưu động chưa tốt vì những tài sản này có tỷ lệ sinh lời thấp đối với doanh nghiệp. Nếu tỷ lệ nhỏ thì khả năng đáp ứng nghĩa vụ nợ ngắn hạn kém. Giá tri có thể chấp nhận được là 1 → 2. Nợ phải trả trên tổng tài sản (đơn vị: %) Nợ phải trả trên tổng tài sản = Nợ phải trả Tổng tài sản có Hệ số này phản ánh cơ cấu đầu tư của doanh nghiệp. Trên phương diện chủ nợ: tỷ lệ này càng cao thì khả năng thu hồi nợ càng thấp, mức độ phá sản của doanh nghiệp càng cao. Trên phương diện doanh nghiệp: tỷ lệ cao chứng tỏ thành tích vay mượn tốt, nếu doanh nghiệp có tỷ suất lợi nhuận cao hơn tỷ lệ lãi vay thì tỷ lệ cao là tốt. Ngược lại nếu tỷ suất lợi nhuận thấp hơn tỷ lệ lãi vay thì doanh nghiệp sẽ bị lỗ nặng, độ phá sản cao. Nợ phải trả trên nguồn vốn chủ sở hữu (đơn vị: %) Nợ phải trả trên nguồn vốn chủ sở hữu = Nợ phải trả Nguồn vốn chủ sở hữu Hệ số này phản ánh mức độ đảm bảo cho các khoản nợ bằng vốn riêng của doanh nghiệp. Giá trị này càng cao chứng tỏ mức độ rủi ro đối với các chủ nợ lớn. Tổng lợi tức sau thuế trên doanh thu (đơn vị: %) Tổng lợi tức sau thuế trên doanh thu = Lợi tức sau thuế Doanh thu thuần Tỷ số này phản ánh khả năng sinh lời của doanh nghiệp. Tỷ số này càng cao và doanh thu của doanh nghiệp lớn thì tiềm năng sinh lời càng lớn. Tổng lợi tức sau thuế trên tài sản (đơn vị: %) (ROA) Tổng lợi tức sau thuế trên tổng tài sản = Lợi tức sau thuế Tổng tài sản có Chỉ tiêu này dùng để so sánh với chi phí vốn (chi phí sử dụng ngân quỹ của doanh nghiệp). Nếu tỷ lệ này lớn hơn chi phí vốn thì doanh nghiệp kinh doanh có lãi, nếu nhỏ hơn chi phí vốn thì doanh nghiệp bị thua lỗ. Tổng lợi tức sau thuế trên nguồn vốn (đơn vị: %) (ROE) Tổng lợi tức sau thuế trên nguồn vốn = Tổng lợi tức sau thuế Nguồn vốn chủ sở hữu Hệ số này có ý nghĩa quan trọng đối với chủ sở hữu và tiềm tàng của doanh nghiệp, nó cho biết khả năng thu nhập có thể nhận được khi họ đầu tư vốn vào công ty. Tỷ số này thể hiện sức hấp hẫn của doanh nghiệp đối với các nhà đầu tư tiềm tàng, rất hữu ích khi so sánh với tỷ lệ sinh lời cần thiết trên thị trường (trái phiếu chính phủ). Nếu tỷ lệ này cao hơn tỷ lệ lãi trung bình trên thị trường thì hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp cao, có sức hấp dẫn các nhà đầu tư. Nếu tỷ lệ này bằng tỷ lệ lãi trung bình trên thị trường của doanh nghiệp thì hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp ở mức trung bình, có thể chấp nhận được. Nếu nhỏ hơn tỷ lệ lãi trung bình thì doanh nghiệp hoạt động hiệu quả thấp, không tạo được sự hấp dẫn đối với nhà đầu tư. Hiệu quả sử dụng tài sản (đơn vị: lần)(TS doanh thu/tổng tài sản) Hiệu quả sử dụng tài sản = Doanh thu thuần Tổng tài sản có Hệ số này thể hiện một đồng vốn đầu tư vào doanh nghiệp tạo ra được bao nhiêu đồng doanh thu trong kỳ. Giá trị này càng cao càng thể hiện hiệu quả hoạt động nhằm tăng thị phần và sức cạnh tranh. Vòng quay hàng tồn kho (đơn vị: vòng) Vòng quay hàng tồn kho = Giá vốn hàng bán Hàng tồn kho bình quân Hệ số này thấp chứng tỏ giá trị của các loại hàng hoá tồn kho quá cao so với doanh thu; số ngày hàng nằm trong kho lâu; hiệu quả quản trị ngân quỹ của doanh nghiệp thấp vì lượng tiền tồn đọng trong hàng hoá quá lâu. Kỳ thu tiền bình quân (đơn vị: ngày) (Số ngày phải thu) Kỳ thu tiền bình quân = Các khoản phải thu Doanh thu thuần/365ngày Hệ số này cho biết số ngày thu hồi tiền bán hàng bình quân. Giá trị này càng cao chứng tỏ hiệu quả thu hồi nợ của doanh nghiệp càng thấp, khả năng có những khoản nợ khó đòi cao. Giá trị có thể chấp nhận được 30 → 60 ngày 2.2.3.2 Các chỉ tiêu định tính bao gồm các tiêu chí sau Bảng 2.6. Bảng các chỉ tiêu định tính xếp hạng DN STT Chỉ tiêu 1 Chiến lược 2 Quan hệ với Techcombank 3 Thương hiệu 4 Trình độ, kinh nghiệm Ban lãnh đạo 5 Uy tín trong giao dịch tín dụng Đối với các chỉ tiêu định tính, để chuẩn hóa cách khai báo, hệ thống đưa ra các mã tương ứng của từng nội dung chỉ tiêu, các mã này được đặt là 10, 20,…..60 và khi đánh giá các chỉ tiêu này trong T24, người nhập chỉ cần khai các mã nội dung tương ứng, cụ thể hướng dẫn đánh giá và mã khai báo vào T24 đối với từng chỉ tiêu như sau: Chỉ tiêu “Chiến lược” Chỉ tiêu “Chiến lược” cho điểm dựa trên đánh giá về mức độ rõ ràng, tính phù hợp của chiến lược doanh nghiệp với xu hướng phát triển chung của ngành cũng như khả năng thực hiện được chiến lược của doanh nghiệp trong thực tế. Bảng 2.7. Bảng các chỉ tiêu “Chiến lược” Nội dung chỉ tiêu chiến lược Giá trị nhập Chiến lược rõ ràng, phù hợp với công ty, khả năng thực hiện chiến lược rất tốt, được cụ thể hóa bằng hệ thống văn bản chiến lược cho toàn công ty. 10 Chiến lược tốt, khả năng thực hiện chiến lược tốt 20 Chiến lược khá, khả năng thực hiện chiến lược khá 30 Chiến lược trung bình, khả năng thực hiện chiến lược trung bình 40 Chiến lược không phù hợp, không có khả năng thực hiện chiến lược 50 Chỉ tiêu “Quan hệ với Techcombank” Chỉ tiêu “Qua._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc33367.doc
Tài liệu liên quan