Lời mở đầu
T
rong điều kiện hội nhập kinh tế và Việt Nam đã là thành viên của tổ chức thương mại Thế giới (WTO), vì vậy nền kinh tế Việt Nam phải thực sự đối mặt với những thách thức hết sức to lớn. Nguyên nhân của những thách thức đó là nền kinh tế Việt Nam còn yếu kém về nhiều mặt: công nghệ còn lạc hậu, trình độ còn chưa phát triển…Đặc biệt đối với ngành Ngân hàng, xu hướng tự do hoá và toàn cầu hoá kinh tế khiến hoạt động kinh doanh của ngành Ngân hàng của Việt Nam càng trở nên phức tạp, d
73 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1333 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Phương pháp xếp hạng Doanh nghiệp và ứng dụng vào Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ẫn tới nhiều rủi ro hoạt động. Vì vậy quá trình cải cách tài chính - ngân hàng là một bộ phận quan trọng, không thể tách rời trong công cuộc đổi mới ở Việt Nam.
Đối với các hoạt động kinh doanh của hệ thống Ngân hàng Việt Nam, rủi ro hầu như có mặt trong từng nghiệp vụ ngân hàng và muốn có lợi nhuận thì phải chấp nhận rủi ro. Tuy nhiên tín dụng là hoạt động chủ yếu hiện đang chiếm tỷ trọng lớn nhất: từ 60-70% trong danh mục tài sản có của Ngân hàng, đặc biệt nguồn tín dụng này đóng vai trò kênh dẫn vốn chủ đạo cho các doanh nghiệp. Thế nhưng hoạt động tín dụng lại đang gặp nhiều khó khăn và có xu hướng đóng băng. Sự đình trệ và hoạt động kém hiệu quả của hoạt động tín dụng không chỉ ảnh hưởng tới hoạt động kinh doanh của ngành ngân hàng mà còn gây trở ngại không nhỏ cho sự phát triển của nền kinh tế và sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá của đất nước.
Trong hoạt động tín dụng, đánh giá rủi ro tín dụng là khâu đầu tiên, là điều kiện tiên quyết trước khi cho vay. Vì vậy Ngân hàng nhà nước đã ban hành quyết định số 68/1999/QĐ – NHNN9 ngày 27/02/1999 của Thống đốc ngân hàng Nhà nước thành lập Trung tâm Thông tin tín dụng Ngân hàng Nhà nước (Credit information center – viết tắt CIC). CIC có chức năng thu thập và cung cấp, dịch vụ Thông tin tín dụng cho Ngân hàng Nhà nước, các tổ chức tín dụng, tổ chức và cá nhân khác nhằm góp phần đảm bảo an toàn hoạt động ngân hàng, phục vụ công tác quản lý của Ngân hàng Nhà nước, phòng ngừa, hạn chế rủi ro tín dụng và phát triển kinh tế xã hội. Việc xếp hạng tín dụng doanh nghiệp có ý nghĩa rất quan trọng trong nền kinh tế Việt Nam hiện nay, bởi vì thông qua xếp hạng doanh nghiệp các Ngân hàng có thể xác định mức lãi suất cho vay đối với từng doanh nghiệp, tạo điều kiện ổn định nền kinh tế. Vì vậy em đã chọn đề tài “Phương pháp xếp hạng doanh nghiệp và ứng dụng vào Việt Nam”. Đề tài của em gồm 3 phần:
Chương 1: Lý thuyết về rủi ro trong hoạt động Ngân hàng và thực trạng rủi ro tín dụng ở Việt Nam.
Chương 2: Lý luận về xếp hạng doanh nghiệp.
Chương 3: Phương pháp xếp hạng tín dụng các doanh nghiệp.
Trong thời gian học tập ở trường kết hợp với thời gian thực tập ở Trung tâm Thông tin tín dụng – Ngân hàng nhà nước, được sự giúp đỡ tận tình của các thầy cô và của trung tâm nói chung, Phòng Phân tích nói riêng em đã hoàn thành chuyên đề thực tập tốt nghiệp này.
Cuối cùng em xin chân thành cảm ơn sự chỉ bảo, hướng dẫn tận tình của thầy giáo PGS. TS. NGUYỄN QUANG DONG – khoa Toán Kinh tế; cảm ơn cán bộ nhân viên trong CIC nói chung, cùng các anh chị phòng Phân tích đã giúp đỡ em hoàn thành chuyên đề này.
Em xin chân thành cảm ơn!
Chương 1: Lý thuyết về rủi ro trong hoạt động Ngân hàng và thực trạng rủi ro tín dụng ở Việt Nam
Tổng quan về rủi ro trong hoạt động kinh doanh của Ngân hàng
Khái niệm về rủi ro
Rủi ro là khả năng xảy ra tổn thất ngoài dự kiến. Vì vậy trong bất kỳ lĩnh vực nào của đời sống đều có thể xảy ra rủi ro. Đối với cuộc sống đời thường rủi ro có thể là những điều hết sức đơn giản chẳng hạn như bị mất cắp....; đối với các Ngân hàng thương mại luôn luôn phải đối mặt với các loại rủi ro đó có thể là rủi ro do khách hàng trả nợ không đúng hạn, cũng có thể là do Ngân hàng không đáp ứng được nhu cầu rút tiền của người gửi tiền……
Ngân hàng thương mại là doanh nghiệp kinh doanh loại hàng hoá đặc biệt – hàng hoá tiền tệ, tiềm ẩn nhiều rủi ro. Đa phần trong đó là các khoản tiền gửi phải trả khi có yêu cầu. Nguồn tiền của các ngân hàng thương mại đang có thay đổi mạnh mẽ do sự gia tăng cạnh tranh trong hệ thống ngân hàng, giữa các ngân hàng với các tổ chức tài chính dưới ảnh hưởng của công nghệ thông tin và quá trình toàn cầu hoá. Các nguồn tiền của cá nhân và doanh nghiệp dễ dàng di chuyển hơn, nhạy cảm với lãi suất hơn. Điều này tạo thuận lợi cho ngân hàng trong việc tìm kiếm nguồn tiền song lại làm tăng tính kém ổn định của cả hệ thống. Mặt khác tài sản của các ngân hàng chủ yếu là các động sản tài chính (các khoản cho vay, chứng khoán) với tính rủi ro thị trường, rủi ro tín dụng rất cao. Công nghệ của Ngân hàng ngày càng phát triển cho phép các Ngân hàng có thể chuyển nguồn tiền đầu tư của mình tới những vùng xa trụ sở. Điều này vừa làm giảm bớt rủi ro của Ngân hàng do đa dạng hoá khách hàng nhưng đồng thời cũng làm tăng tính rủi ro do những biến động lớn trên thị trường Thế giới, khu vực và do Ngân hàng không kiểm soát tốt được các khoản vay…Điều này không chỉ xảy ra ở thị trường Việt Nam mà còn diễn ra ở trên Thế giới. Chẳng hạn vào cuối năm 1997, khủng hoảng tài chính đã làm cho nhiều Ngân hàng ở châu Á bị mất hàng tỷ đô la Mỹ, bị phá sản hoặc phải sát nhập; cũng vào năm 1997, nhiều Ngân hàng thương mại Việt Nam do mở rộng cho vay tràn lan đã rơi vào tình trạng nợ quá hạn, nợ khó đòi. Tóm lại tất cả các loại rủi ro của ngân hàng đều có bản chất chung đó là khả nảng xảy ra tổn thất cho ngân hàng.
1.1.2 Các loại rủi ro trong kinh doanh Ngân hàng
Dựa vào những tiêu thức khác nhau thì rủi ro của Ngân hàng được chia thành những loại khác nhau. Nếu phân chia theo nguyên nhân các nhân tố tác động thì rủi ro Ngân hàng bao gồm: rủi ro do người vay không trả được nợ cho Ngân hàng, rủi ro do lãi suất thay đổi, rủi ro do tỷ giá thay đổi, rủi ro do các nguyên nhân khác như mất trộm, cháy nổ, giấy tờ giả…Tuy nhiên trong phạm vi hoạt động của các Ngân hàng thương mại Việt Nam có thể tổng hợp thành một số loại rủi ro cơ bản như sau:
1.1.2.1 Rủi ro tín dụng
Rủi ro tín dụng là khả năng xảy ra những tổn thất mà Ngân hàng phải gánh chịu do khách hàng không trả đầy đủ cả gốc và lãi của khoản vay, hoặc là việc thanh toán nợ gốc và lãi không đúng hạn.
Khi thực hiện một hoạt động cho vay cụ thể, Ngân hàng không dự kiến khoản cho vay đó sẽ bị tổn thất. Tuy nhiên những khoản cho vay đó luôn hàm chứa rủi ro. Một số ý kiến cho rằng trên quan điểm quản lý toàn bộ Ngân hàng, tỷ lệ tổn thất dự kiến đối với hoạt động tín dụng luôn được xác định trước trong chiến lược hoạt động chung. Do vậy, khi tổn thất dưới mức tổn thất dự kiến, Ngân hàng coi đó là một thành công trong quản lý.
1.1.2.2 Rủi ro lãi suất
Khi huy động vốn của doanh nghiệp hoặc dân cư, Ngân hàng sẽ phải trả lãi. Còn khi tài trợ, Ngân hàng sẽ thu lãi. Lãi suất của các khoản cho vay, tiền gửi và chứng khoán thường xuyên biến động, có thể làm gia tăng lợi nhuận cho Ngân hàng, ngược lại cũng có thể gây tổn thất cho Ngân hàng. Như vậy rủi ro lãi suất là khả năng thu nhập giảm do chênh lệch lãi suất giảm, khi lãi suất thị trường thay đổi ngoài dự kiến. Rủi ro lãi suất có thể có một số hình thức khác nhau như rủi ro xác định lại lãi suất, rủi ro đường cong lãi suất thay đổi, rủi ro tương quan lãi suất, và rủi ro quyền chọn đi kèm.
Nguyên nhân gây ra rủi ro lãi suất có thể gồm:
- Do sự không phù hợp về kỳ hạn của nguồn và tài sản, và chế độ lãi suất cố định.
Do sự thay đổi của lãi suất thị trường ngoài dự kiến.
Rủi ro lãi suất là một loại rủi ro thị trường quan trọng, đặc biệt trong điều kiện lãi suất thay đổi như hiện nay. Vì vậy, việc thực hiện các biện pháp để hạn chế rủi ro lãi suất cũng là một nội dung quan trọng trong quản lý rủi ro của Ngân hàng thương mại.
Các giải pháp phòng ngừa rủi ro lãi suất:
Phải duy trì cân đối các khoản vay nhạy cảm với lãi suất bên tài sản nợ và tài sản có.
Sử dụng một chính sách lãi suất linh hoạt, đặc biệt với những khoản vay lớn, thời hạn dài cần tìm kiếm nguồn vốn tương xứng, hoặc thực hiện cơ chế lãi suất thả nổi.
Sử dụng các công cụ tài chính mới để hạn chế rủi ro ngoại bảng, như sử dụng các nghiệp vụ kỳ hạn về lãi suất, nghiệp vụ kỳ hạn về tiền gửi, nghiệp vụ kỳ hạn về lãi suất tiền vay, thực hiện hợp đồng tương lai do không cân xứng tài sản nợ và tài sản có; thực hiện nghiệp vụ hoán đổi lãi suất, quyền lựa chọn lãi suất.
1.1.2.3 Rủi ro tỷ giá
Rủi ro tỷ giá là khả năng xảy ra những tổn thất mà Ngân hàng phải gánh chịu khi tỷ giá hối đoái thay đổi vượt quá thay đổi dự tính. Trong cơ chế thị trường, tỷ giá thường xuyên dao động. Sự thay đổi này cùng với trạng thái hối đoái của Ngân hàng tạo ra thu nhập thặng dư hoặc thâm hụt tạm thời. Tuy nhiên có những thay đổi tỷ giá ngoài dự kiến dẫn đến tổn thất cho Ngân hàng.
Những nhân tố tác động đến rủi ro tỷ giá:
Lãi suất.
Các chính sách của chính phủ.
Sự đầu cơ trên thị trường.
Tính nhạy cảm của thị trường.
Lạm phát.
Sự ổn định về chính trị.
Loại tiền kinh doanh: một số đồng tiền có sự biến động về tỷ giá rất lớn trong khi đó một số đồng tiền lại có sự biến động ít hơn.
Để hạn chế rủi ro tỷ giá người ta có thể có một số giải pháp sau:
Sử dụng một số công cụ - các nghiệp vụ kinh doanh ngoại tệ để quản lí rủi ro. Việc phòng ngừa rủi ro có thể dùng các nghiệp vụ sẵn có trên thị trường. Việc phòng ngừa rủi ro của giao dịch kỳ hạn bằng một giao dịch Swap, dùng giao dịch quyền chọn để hạn chế rủi ro.
Việc nắm giữ một loại ngoại tệ nào đó quá nhiều là mạo hiểm vì khiến Ngân hàng phải gánh chịu rủi ro tỷ giá phát sinh. Vì vậy Ngân hàng nên thực hiện đa dạng hoá các loại ngoại tệ kinh doanh tránh những phụ thuộc quá nhiều vào Đôla Mỹ, phân tán rủi ro, thích nghi được với những biến động bất thường về tỷ giá.
1.1.2.4 Rủi ro thanh toán
Rủi ro thanh toán là những tác động do sự biến động của Tài sản Nợ và Tài sản Có trong quá trình hoạt động của Ngân hàng, làm cho Ngân hàng không có đủ tiền để thực hiện các cam kết với khách hàng hay nói cách khác Ngân hàng không có khả năng thanh toán các giao dịch của khách hàng theo các cam kết (thiếu hoặc mất khả năng thanh toán).
Rủi ro thanh khoản có thể xảy ra do nhiều nguyên nhân như:
Do Ngân hàng sử dụng vốn để đầu tư, cho vay nhưng chưa thu hồi được vì chưa đến kỳ hạn khách hàng trả nợ, nhưng Ngân hàng phải thanh toán các khoản nợ đến hạn (do sự biến động của tài sản Nợ và Tài sản Có trong quá trình hoạt động).
Do có nhiều khoản vay kém chất lượng nên Ngân hàng không thu được nợ làm cho Ngân hàng không có đủ tiền để thực hiện các cam kết với khách hàng hay nói cách khác Ngân hàng không có khả năng thanh toán các giao dịch của khách hàng theo các cam kết (thiếu hoặc mất khả năng thanh toán).
Do những người gửi tiền đồng thời có nhu cầu rút tiền gửi ở Ngân hàng ngay lập tức. Hoặc có dòng tiền lớn rút ra đột ngột do yếu tố mất ổn định vĩ mô, do thông tin bất lợi cho Ngân hàng.
Thiếu khả năng thanh toán là thiếu tiền theo dự kiến, điều này đòi hỏi Ngân hàng phải bù đắp lượng tiền thiếu với chi phí cao hơn bình thường dẫn đến làm giảm lợi nhuận. Khi lợi nhuận giảm qua số cân bằng thu chi làm cho NH bị lỗ trong kinh doanh. Nếu số lỗ này không được bù đắp và ngày càng tăng lên do việc huy động vốn đảm bảo khả năng thanh toán sẽ dẫn đến việc NH bị phá sản. Ngược lại khi Ngân hàng thừa khả năng thanh toán (tức là duy trì số tiền không sinh lời hoặc sinh lời thấp quá lớn để đảm bảo khả năng thanh toán) cũng sẽ dẫn đến thu nhập thấp, giảm khả năng sinh lời của Ngân hàng.
Trường hợp mất khả năng thanh toán cũng dẫn đến việc NH bị phá sản vì mọi khách hàng là chủ nợ của NH sẽ cùng rút tiền ồ ạt (kể cả những khoản nợ chưa đến hạn) trong khi những khách nợ của NH không thanh toán vì các khoản nợ chưa đến hạn mà NH không thể huy động được tiền, kể cả việc chi phí cao hơn mức bình thường.
Khi bị phá sản do mất khả năng thanh toán, hậu quả không phải chỉ xảy ra đối với chính Ngân hàng đó mà nó thường kéo theo sự rút tiền ồ ạt của khách hàng tại các Ngân hàng khác. Trường hợp xảy ra đối với NHTM cổ phần Á Châu cuối năm 2003 là một minh chứng cho việc đó. Khi khách hàng rút tiền tại NHTm cổ phần Á Châu, nhiều NH khác trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh đã phải xây dựng kế hoạch ứng phó trong trường hợp sự rút tiền ồ ạt của khách hàng lan truyền. Vì vậy các Ngân hàng phải tính toán nhu cầu khả năng thanh toán đó là việc tính toán nhu cầu phải chi và có thể phải chi của Ngân hàng.
1.1.2.5 Rủi ro trong dịch vụ bảo quản và quản lý chứng từ có giá
Trong điều kiện kinh tế thị trường như hiện nay, việc các Ngân hàng thương mại đa dạng hoá hoạt động của mình được coi là những thay đổi tất yếu. Một trong những hoạt động đó là bảo quản và quản lý chứng từ có giá, một công việc được xem là có nhiều rủi ro. Vậy rủi ro trong quản lý và bảo quản chứng từ có giá là gì? Đó là khả năng xảy ra những tổn thất mà Ngân hàng phải gánh chịu trong việc quản lý và kinh doanh các loại chứng từ có giá. Các loại rủi ro mà Ngân hàng phải chịu khi kinh doanh chứng khoán rất cao; những rủi ro đó bao gồm:
Rủi ro thị trường: các giấy tờ có giá do các Ngân hàng thương mại nắm giữ luôn có khả năng thay đổi giá trị do các tác động từ thị trường, hay từ chính bản thân Ngân hàng thương mại, hoặc từ Chính phủ…Vì vậy các Ngân hàng thương mại sẽ bị giảm giá trị tài sản nếu như dự đoán không đúng về tình hình thị trường, gây ra những thiệt hại nhất định đối với Ngân hàng.
Rủi ro do người phát hành giấy tờ có giá không thể thanh toán được: mọi giấy tờ có giá mà một Ngân hàng thương mại nắm giữ đều tiềm ẩn rủi ro này (ngoại trừ trái phiếu Chính phủ). Các Ngân hàng thưong mại có thể chọn loại hình giấy tờ có giá để đầu tư cho phù hợp với mục đích chính của mình, nhưng luôn phải đánh giá đúng mức rủi ro của chứng khoán đó. Việc người phát hành không thể thanh toán được luôn gây ra những thiệt hại đáng kể đối với các Ngân hàng; nó gián tiếp gây ra những thiệt hại đối với toàn bộ hệ thống kinh tế quốc gia. Chính vì thế mà các quốc gia đều đặt ra những quy định chỉ cho phép Ngân hàng thương mại được phép kinh doanh số chứng khoán đã được xếp hạng ở một mức nào đó.
Rủi ro nhân sự: hoạt động kinh doanh giấy tờ có giá của Ngân hàng thương mại rất đa dạng. Nó đòi hỏi sự độc lập của các cá nhân, nhân viên Ngân hàng. Chính vì thế mà những rủi ro phát sinh bởi chính các nhân viên của Ngân hàng là điều không thể tránh khỏi, đặc biệt là trong hoạt động môi giới đầu tư cho khách hàng.
Rủi ro do yêu cầu thanh khoản: các Ngân hàng luôn phải đáp ứng một nhu cầu thanh khoản nhất định và việc đầu tư vào giấy tờ có giá có thể làm giảm khả năng thanh khoản của Ngân hàng, làm tăng rủi ro do yêu cầu thanh khoản.
Rủi ro khác: các rủi ro khác mà một Ngân hàng phải đối mặt trong quản lý và kinh doanh giấy tờ có giá bao gồm những rủi ro như cháy, mất mát, cướp…Và còn nhiều rủi ro tới từ các hoạt động khác của Ngân hàng, chúng luôn có tác động qua lại lẫn nhau.
Rủi ro khác
Ngoài các rủi ro trên Ngân hàng còn phải đối mặt với nhiều loại rủi ro quan trọng khác như:
Rủi ro chính trị: khi xảy ra những thay đổi về pháp luật, những quy định về luật pháp trong và ngoài nước sẽ có ảnh hưởng xấu tới thu nhập của Ngân hàng.
Rủi ro phạm tội: xảy ra khi những người chủ Ngân hàng, nhân viên hay các khách hàng có hành vi phạm pháp như thực hiện các hành động lừa đảo, biển thủ, trộm cắp, hay các hành động bất hợp pháp khác làm Ngân hàng thua lỗ.
Rủi ro do các tình huống bất ngờ: đó là các tình huống mang tính chất bất ngờ như động đất, núi lửa, hoả hoạn….
1.2 Rủi ro tín dụng trong hoạt động của Ngân hàng thương mại
1.2.1 Khái niệm về rủi ro tín dụng
Như đã trình bày ở phần trên: rủi ro tín dụng là khả năng xảy ra những tổn thất mà Ngân hàng phải gánh chịu do khách hàng không trả đầy đủ cả gốc và lãi của khoản vay, hoặc là việc thanh toán nợ gốc và lãi không đúng hạn.
Rủi ro tín dụng là kết quả của việc Ngân hàng cấp tín dụng cho khách hàng và Ngân hàng nhận được các giấy nhận nợ do con nợ phát hành với sự cam kết là sẽ thanh toán cả gốc và lãi đúng hạn cho Ngân hàng. Do đó tại thời điểm cấp tín dụng và chấp nhận giấy nhận nợ nghĩa là Ngân hàng đã thừa nhận khả năng thanh toán đầy đủ và đúng hạn của khách hàng mình với một xác suất cao, còn xác suất mất khả năng thanh toán của khách hàng là thấp hơn nhiều. Trái phiếu coupon có thu nhập cố định và giấy nhận nợ tín dụng đối với Ngân hàng là hai ví dụ điển hình về giấy nhận nợ do công ty phát hành. Trong cả hai trường hợp, Ngân hàng đều đầu tư vào các giấy nhận nợ nhằm nhận được trái tức từ trái phiếu và lãi suất từ khoản tín dụng nếu người vay tiền không bị phá sản. Trường hợp người vay tiền phá sản, Ngân hàng thường không thu được lợi tức cũng như lãi suất và có thể bị mất toàn bộ hoặc một phần vốn gốc là phụ thuộc vào khả năng Ngân hàng tiếp cận đối với tài sản của con nợ trong khi giải quyết phá sản hoặc giải thể.
Sau đây là phân phối xác suất lợi tức đầu tư Ngân hàng vào trái phiếu và các khoản cho vay tín dụng.
Xác suất (p)
Đồ thị 1.1: Phân phối xác suất của lợi tức đầu tư
gốc
tiền hoàn trả
gốc và lãi
0
P=1
Chúng ta thấy rằng đỉnh của đồ thị biểu diễn xác suất hoàn trả đầy đủ cả gốc và lãi của khoản vay là tương đối cao (tuy nhiên luôn nhỏ hơn 1). Đặc điểm luân chuyển vốn của các công ty có thể là nguyên nhân gây nên rủi ro tín dụng ở các mức độ khác nhau. Tỷ lệ không thanh toán được một phần hay toàn bộ tiền lãi là khoảng cách từ điểm “gốc” đến điểm “gốc và lãi”; và tỷ lệ không thanh toán được một phần hay toàn bộ tiền gốc là từ điểm “0” đến điểm “gốc”. Đồ thị 1.1 cũng chỉ ra rằng xác suất mà ngân hàng thu được cả gốc và lãi là cao hơn nhiều so với trường hợp không thu được cả gốc và lãi, điều này nói lên rằng bổn phận của Ngân hàng là phải đánh giá được mức độ rủi ro dự tính của các khoản đầu tư và đặt yêu cầu cho phần thu nhập phụ trội so với rủi ro tương xứng với mức độ rủi ro của các chứng khoán mà Ngân hàng nắm giữ.
Xác suất (p)
Đồ thị 1.2: Phân bổ xác suất rủi ro đối với một danh mục đầu tư
tiền hoàn trả
hoàn trả tối đa
0
P=1
Sự phân bổ lợi tức đối với rủi ro tín dụng đặt ra cho Ngân hàng là phải giám sát và thu thập được những thông tin về công ty mà Ngân hàng đã đầu tư. Nghĩa là chiến lược quản trị rủi ro tín dụng cùng với việc quản trị công ty hiệu quả có ảnh hưởng đến đường cong phân bổ xác suất trong việc thu hồi tín dụng. Ngoài ra, sự phân bổ rủi ro tín dụng trên Đồ thị 1.1 là trường hợp chỉ đầu tư vào một loại tài sản và đo mức độ rủi ro của nó. Một trong những lợi thế của Ngân hàng so với những nhà đầu tư riêng lẻ là khả năng đa dạng hoá danh mục đầu tư của Ngân hàng là rất lớn, và thông qua việc đa dạng hoá danh mục đầu tư thì rủi ro tín dụng giảm đáng kể. Trong phạm vi Đồ thị 1.1 nếu thông qua đa dạng hoá đầu tư thì rủi ro tín dụng sẽ được làm dịu đi. Trong trường hợp, một Ngân hàng thực hiện tốt việc đa dạng hoá danh mục đầu tư của mình, thì hình dáng đồ thị phân bổ xác suất thu hồi gốc và lãi như được chỉ ra ở Đồ thị 1.2.
Ngân hàng thu được lượng tiền cực đại khi mà toàn bộ các khoản tín dụng và trái phiếu được đầu tư thu hồi đầy đủ cả gốc và lãi. Trong thực tế, một số khoản tín dụng và trái phiếu không thể thu hồi đủ, thu đúng được một phần hay toàn bộ số lãi và gốc. Vì vậy, mức độ thu hồi trung bình của các danh mục đầu tư có thể nhỏ hơn so với trường hợp thu được đầy đủ cả gốc và lãi. Kết quả của việc đa dạng hoá đầu tư là việc hạn chế được xác suất xảy ra các hậu quả xấu trong danh mục đầu tư. Một danh mục đầu tư được đa dạng hóa đã rút ngắn được phạm vi rủi ro tín dụng. Trong thực tế, đa dạng hoá danh mục đầu tư chỉ có thể giảm được rủi ro tín dụng đặc thù riêng của các ngành kinh tế, tuy nhiên rủi ro có tính chất hệ thống, chung cho cả nền kinh tế có ảnh hưởng đến tất cả các ngành kinh tế thì không thể loại trừ được.
Các hình thức biểu hiện của rủi ro tín dụng
Nợ có vấn đề
Khi thực hiện nghiệp vụ cho vay, các Ngân hàng thương mại đều mong muốn rằng khoản cho vay đó sẽ được hoàn trả đầy đủ, đúng thời hạn như đã thoả thuận. Vì vậy, để đảm bảo an toàn cho hoạt động của mình, sau khi cấp tín dụng cho khách hàng, Ngân hàng phải thường xuyên giám sát khoản tín dụng đã cấp đó, để xem khách hàng có sử dụng vốn đúng mục đích đã thoả thuận không? Và mức độ hiệu quả sử dụng vốn vay của khách hàng như thế nào?
Do đó có thể nói rằng, hoạt động giám sát có vai trò hết sức quan trọng: nó hướng vào những dấu hiệu báo trước các vấn đề kinh doanh nảy sinh, cũng như những biện pháp khắc phục, giúp Ngân hàng nhận biết và phát hiện được các khoản nợ xấu có vấn đề, để có hành động và biện pháp cần thiết, kịp thời để ngăn ngừa hoặc xử lý.
Nợ có vấn đề là những khoản vay, trong đó thoả thuận hoàn trả của khách hàng có khả năng đổ vỡ, dù hiện tại những khoản vay đó chưa đến kỳ hạn trả nợ gốc và lãi.
Muốn tránh được thiệt hại và tổn thất, thì cán bộ tín dụng cần sớm phát hiện ra những khoản nợ có vấn đề, để kịp thời ngăn ngừa hoặc xử lý. Nếu không có thể sẽ không giải quyết được vấn đề trước khi tình hình trở nên xấu hơn. Trong thực tế có nhiều dấu hiệu biểu hiện khoản vay sẽ gặp khó khăn. Một số trường hợp cho thấy khó khăn xuất hiện ngay khi bắt đầu cho vay, một số khác có thể xuất hiện chậm hơn, và một số đột ngột phát sinh mà không hề có dấu hiệu báo trước. Như vậy có nghĩa là không có một mô hình nhất định nào về các biến cố thường xuyên xảy ra để có thể kết luận rằng một khoản cho vay sẽ khó hoàn trả. Tuy nhiên, ta có thể dựa vào một số nhóm dấu hiệu để cảnh báo rủi ro tín dụng trong hoạt động tín dụng của Ngân hàng.
Nợ quá hạn
Nợ quá hạn là một khoản tín dụng được cấp ra nhưng không thể thu hồi được đúng hạn, do những nguyên nhân khác nhau gây ra. Nợ quá hạn sẽ làm tăng các khoản chi phí cho việc đi đòi nợ, làm tăng chi phí cho hoạt động kinh doanh nên có ảnh hưởng xấu tới hoạt động kinh doanh của Ngân hàng. Nợ quá hạn cũng sẽ làm mất cân bằng các cân đối tài chính, ảnh hưởng xấu tới tính chủ động trong kế hoạch nguồn vốn của Ngân hàng. Quy mô nợ quá hạn càng lớn thì tính rủi ro càng cao. Tuy vậy, nó còn phụ thuộc vào cả quy mô cho vay của Ngân hàng.
Tỷ lệ nợ quá hạn = (Nợ quá hạn / Tổng dư nợ) là một chỉ tiêu mà hầu hết các Ngân hàng đều sử dụng để đánh giá mức độ rủi ro trong hoạt động tín dụng. Nếu tỷ lệ đó cao thì có thể nói rằng hoạt động tín dụng của Ngân hàng là không hiệu quả, nguy cơ rủi ro tín dụng rất có khả năng xảy ra, Ngân hàng cần phải xem xét lại quy trình cho vay của mình nhằm làm giảm bớt nợ quá hạn. Ngược lại, nếu tỷ lệ đó thấp thì rủi ro tín dụng nếu có xảy ra cũng không ảnh hưởng lớn tới hoạt động kinh doanh của Ngân hàng.
Nợ khó đòi
Nợ khó đòi là nợ quá hạn không được thanh toán, mặc dù Ngân hàng đã gia hạn nợ. Chính vì vậy có thể nói đây là chỉ tiêu rõ ràng nhất để phản ánh mức độ tổn thất trong hoạt động tín dụng của Ngân hàng. Hầu hết các Ngân hàng thương mại đều thực hiện lập quỹ dự phòng rủi ro bằng 100% số nợ khó đòi.
Tỷ lệ nợ khó đòi = (Nợ khó đòi / Tổng dư nợ) cho biết Ngân hàng cho vay 100 đơn vị tiền tệ thì tỷ lệ tổn thất bao nhiêu đơn vị tiền tệ. Nợ khó đòi và tỷ lệ nợ khó đòi = (Nợ khó đòi / Tổng dư nợ) phản ánh trực tiếp chất lượng tín dụng nói riêng và hoạt động kinh doanh của Ngân hàng nói chung. Nợ khó đòi cao làm cho Ngân hàng phải trích lập quỹ dự phòng rủi ro nhiều hơn, chi phí hoạt động kinh doanh của Ngân hàng sẽ tăng, qua đó đẩy lãi suất cho vay của Ngân hàng tăng lên, làm giảm tính cạnh tranh của Ngân hàng.
Lãi treo
Lãi treo là số tiền lãi mà khách hàng không trả được cho Ngân hàng khi đến hạn thanh toán. Đây cũng là một dấu hiệu quan trọng để nhận biết rủi ro tín dụng. Bởi vì việc thanh toán lãi thường không gắn liền với việc trả gốc, và có giá trị nhỏ hơn gốc rất nhiều, được trả vào những thời điểm nhất định, tuỳ theo sự thoả thuận của Ngân hàng và khách hàng. Khi khách hàng không thanh toán được tiền lãi của khoản vay thì có thể coi đấy là một dấu hiệu thể hiện rằng doanh nghiệp đang gặp khó khăn về tài chính.
Tỷ lệ (Lãi treo phát sinh / Tổng thu nhập) từ hoạt động tín dụng, cũng là một chỉ tiêu quan trọng trong việc đánh giá mức độ rủi ro của Ngân hàng.
Tuy nhiên việc nhận biết rủi ro tín dụng nếu chỉ thông qua các khoản nợ có vấn đề, nợ quá hạn, nợ khó đòi và lãi treo thì dường như đã khá là muộn đối với các Ngân hàng. Bởi vì chỉ khi tình hình của khách hàng là khó khăn đặc biệt thì những dấu hiệu này mới bộc lộ. Đến lúc đó thì tổn thất mà Ngân hàng có thể gặp phải sẽ là rất lớn. Vậy nên, điều mà các Ngân hàng quan tâm là những dấu hiệu có thể tạo ra rủi ro tín dụng; để từ đó có thể chủ động và kịp thời đưa ra biện pháp phù hợp, nhằm hạn chế những khó khăn tổn thất cho cả Ngân hàng và khách hàng. Do đó, ngoài các dấu hiệu ở trên, các cán bộ tín dụng còn nhận biết rủi ro tín dụng thông qua một số dấu hiệu khác.
Cơ cấu dư nợ tín dụng
Giống như mọi hoạt động đầu tư khác: hoạt động tín dụng của Ngân hàng cũng phải tuân thủ nguyên tắc “không bỏ tất cả trứng vào một giỏ”. Bởi vì doanh thu của Ngân hàng chủ yếu từ lãi do hoạt động tín dụng mang lại. Nếu tỷ trọng cho vay đối với một khách hàng trong tổng dư nợ quá lớn thì khi khách hàng này gặp khó khăn trong việc trả nợ cho Ngân hàng, sẽ ảnh hưởng trực tiếp tới doanh thu của Ngân hàng. Cũng như vậy, nếu Ngân hàng chỉ tập trung cho các doanh nghiệp hoạt động trong một lĩnh vực nào đó vay thì rủi ro sẽ là rất lớn nếu như ngành đó hoạt động không hiệu quả.
Một số dấu hiệu khác
Nhóm các dấu hiệu về hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Khả năng sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp giảm sút, thể hiện ở giá trị sản lượng và doanh thu của doanh nghiệp bị giảm.
Thu nhập không thường xuyên và ổn định: cơ cấu doanh thu thay đổi bất thường, như doanh thu các hoạt động phụ chiếm tỷ trọng lớn hơn…
Hệ số quay vòng vốn lưu động thấp, có sự gia tăng bất thường về hàng tồn kho và sự gia ttăng các khoản nợ thương mại, đặc biệt là các khoản nợ với thời gian dài.
Nhóm các dấu hiệu liên quan đến phương pháp quản lý và tổ chức của khách hàng.
- Thay đổi thường xuyên cơ cấu của hệ thống quản lý hoặc ban điều hành
- Có sự mất đoàn kết, bè cánh, tranh giành quyền lực trong nội bộ doanh nghiệp, có hiện tượng nhân tài rời bỏ doanh nghiệp.
- Hệ thống quản trị hoặc ban điều hành luôn bất đồng về mục đích, điều hành độc đoán hoặc quá phân tán.
- Cơ cấu nhân lực của doanh nghiệp không hợp lý, bộ phận quản lý ngày càng phình to, có các hoạt động sát nhập với các doanh nghiệp yếu kém khác.
- Có những khoản chi phí bất hợp lý.
Ngoài ra còn có một số dấu hiệu khác như: nhóm các dấu hiệu thuộc về mặt pháp luật, nhóm các dấu hiệu thuộc về kỹ thuật và thương mại….
Nguyên nhân gây ra rủi ro tín dụng
Có rất nhiều nguyên nhân gây ra rủi ro tín dụng cho Ngân hàng, có thể phân thành các loại nguyên nhân như sau:
Những nguyên nhân bất khả kháng
Những nguyên nhân bất khả kháng tác động tới người vay, làm mất khả năng thanh toán cho Ngân hàng. Ví dụ: Thiên tai, chiến tranh, hoặc những thay đổi tầm vĩ mô (thay đổi của Chính phủ, chính sách kinh tế, hàng rào thuế quan…) vượt quá tầm kiểm soát của người vay lẫn người cho vay.
Những thay đổi này thường xuyên xảy ra, tác động liên tục tới người vay, tạo thuận lợi hoặc khó khăn cho người vay. Nhiều người vay, với bản lĩnh của mình có khả năng dự báo, thích ứng, hoặc khắc phục những khó khăn. Trong những trường hợp khác, người vay có thể sẽ bị tổn thất song vẫn có thể trả nợ cho Ngân hàng đúng hạn, đủ gốc và lãi. Tuy nhiên, khi tác động của những nguyên nhân bất khả kháng đối với người vay là nặng nề thì khả năng trả nợ của họ bị suy giảm.
Nguyên nhân thuộc về chủ quan người vay
Trình độ yếu kém của người vay trong dự đoán các vấn đề kinh tế, yếu kém trong quản lý, chủ định lừa đảo cán bộ Ngân hàng, chây ì…. là nguyên nhân gây ra rủi ro tín dụng. Rất nhiều người vay sẵn sàng mạo hiểm với kì vọng thu được lợi nhuận cao. Để đạt được mục đích của mình, họ sẵn sàng tìm mọi thủ đoạn ứng phó với Ngân hàng như cung cấp thông tin sai, mua chuộc….. Nhiều người vay đã không tính toán kĩ lưỡng hoặc không có khả năng tính toán kĩ lưỡng những bất trắc có thể xảy ra, không có khả năng thích ứng và khắc phục khó khăn trong kinh doanh. Trong trường hợp còn lại, người vay kinh doanh có lãi song vẫn không trả nợ cho Ngân hàng đúng hẹn, chây ì với hy vọng có thể quỵt nợ hoặc sử dụng vốn vay càng lâu càng tốt.
Nguyên nhân thuộc về Ngân hàng
Chất lượng cán bộ kém, không đủ trình độ đánh giá khách hàng hoặc đánh giá không tốt, cố tình làm sai…. Là một trong những nguyên nhân của rủi ro tín dụng. Nhân viên Ngân hàng phải tiếp cận với nhiều ngành nghề, nhiều vùng, thậm chí nhiều quốc gia. Để cho vay tốt, họ phải am hiểu khách hàng, lĩnh vực mà khách hàng kinh doanh, môi trường mà khách hàng sống. Họ phải có khả năng dự báo các vấn đề liên quan người vay…. Như vậy họ cần phải được đào tạo và tự đào tạo kĩ lưỡng, liên tục và toàn diện. Khi nhân viên tín dụng cho vay đối với khách hàng mà họ chưa đủ trình độ để hiểu kĩ lưỡng, rủi ro tín dụng luôn rình rập họ. Sống trong môi trường “tiền bạc”, nhiều nhân viên Ngân hàng đã không tránh khỏi cám dỗ của đồng tiền. Họ tiếp tay cho khách hàng rút ruột Ngân hàng. Như vậy, chất lượng nhân viên Ngân hàng bao gồm trình độ và đạo đức nghề nghiệp không đảm bảo là nguyên nhân gây ra rủi ro tín dụng.
Thực trạng rủi ro tín dụng tại các Ngân hàng thương mại Việt Nam
1.3.1 Các loại rủi ro tín dụng
Quyết định số 493/2005/QĐ-NHNN ngày 22/4/2005 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước về việc phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro tín dụng trong hoạt động Ngân hàng của tổ chức tín dụng.
Theo Quyết định này khái niệm nợ được định nghĩa rất rộng. Nợ không chỉ bao gồm các khoản cho vay, cho thuê tài chính, chiết khấu, tái chiết khấu thương phiếu và các giấy tờ có giá khác, tiền trả thay cho người được bảo lãnh, mà còn bao gồm các khoản ứng trước, thấu chi và các khoản bao thanh toán (một hình thức cấp tín dụng mới được phép theo Quy chế bao thanh toán của các TCTD ban hành kèm theo Quyết định số 1096/2004/QĐ-NHNN ngày 6/9/2004 của NHNN) và các hình thức tín dụng khác.
Việc phân loại nợ cũng được xác định hết sức rõ ràng. Theo phương pháp “định lượng” Quyết định 493 đã phân loại nợ thành 5 nhóm, bao gồm:
Nhóm 1: nợ đủ tiêu chuẩn, bao gồm nợ trong hạn được đánh giá có khả năng thu hồi đủ gốc và lãi đúng hạn và các khoản nợ có thể phát sinh trong tương lai như các khoản bảo lãnh, cam kết cho vay, chấp nhận thanh toán.
Nhóm 2: nợ cần chú ý, bao gồm nợ quá hạn dưới 90 ngày và cơ cấu lại thời hạn trả nợ.
Nhóm 3: nợ dưới tiêu chuẩn, bao gồm nợ quá hạn từ 90 ngày đến 180 ngày và nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ quá hạn 90 ngày.
Nhóm 4: nợ nghi ngờ, bao gồm nợ quá hạn từ 181 ngày đến 360 ngày và nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ từ 90 ngày đến 180 ngày.
Nhóm 5: nợ có khả năng mất vốn, bao gồm nợ quá hạn trên 360 ngày, nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 28990.doc