Mục lục
LỜI MỞ ĐẦU
Trong cơ chế thị trường hiện nay, một doanh nghiệp muốn tồn tại và đứng vững phải có sức cạnh tranh, mà công cụ sắc bén chính là kết quả sản xuất kinh doanh.Trong bối cảnh đó các doanh nghiệp sản xuất đang đứng trước những thử thách gay gắt của quy luật cạnh tranh. Để đạt được mục tiêu, các doanh nghiệp cần phải có một hệ thống quản lý tài chính cung cấp thông tin chính xác để ra quyết định đúng đắn trong quá trình hoạt động kinh doanh. Trong đó, hạch toán kế toán là một bộ
26 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1588 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Phương pháp tính giá thành sản phẩm, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
phận chức năng, một công cụ có tầm quan trọng với vai trò “ Thực hiện kiểm tra và xử lý thông tin cung cấp cho lãnh đạo và các cơ quan quản lý kinh doanh phục vụ cho công tác quản lý. Hạch toán kế toán như một phần thông tin kinh tế quan trọng trong cấu thành hệ thống thông tin kinh tế của đơn vị”. Để tạo chỗ đứng cho sản phẩm và cạnh tranh được với các doanh nghiệp trên thị trường thì doanh nghiệp phải quan tâm đến các khâu của quá trình sản xuất kinh doanh, đặc biệt là chất lượng sản phẩm v.v... Không những thế doanh nghiệp còn phải tổ chức tốt hạch toán chi phí sản phẩm và tính giá sản phẩm nhằm đánh giá được mọi khía cạnh và chi tiết của mọi nhân tố ảnh hưởng đến chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm, từ đó tìm ra nguyên nhân và có những biện pháp thích hợp phát huy các yếu tố tích cực, hạn chế các yếu tố tiêu cực để tiết kiệm chi phí sản xuất, hạ giá thành sản phẩm.
Nội dung của đề tài gồm 3 phần:
+ Phần I: Cơ sở lý luận chung về hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm trong doanh nghiệp sản xuất
+ Phần II: Phương pháp hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm
+ Phần III: Thực trạng và một số ý kiến đề xuất nhằm hoàn thiện công tác hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm
Đề tài: Phương pháp tính giá thành sản phẩm
PHẦN I: NHỮNG VẤN ĐỀ LÍ LUẬN CƠ BẢN VỀ TÍNH GIÁ THÀNH SẢN PHẨM TRONG CÁC DOANH NGHIỆP
* Những vấn đề lý luận chung về chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm.
1.Bản chất và nội dung kinh tế của giá thành sản phẩm.
Giá thành sản phẩm là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ các khoản hao phí về lao động sống và lao động vật hoá có liên quan đến khối lượng công tác, sản phẩm, lao vụ đã hoàn thành.
Giá thành sản phẩm là một phạm trù của sản xuất hàng hoá, phản ánh lượng giá trị của năm sản xuất và tiêu thụ sản phẩm. Trong giá thành sản phẩm chỉ bao gồm những chi phí tham gia trực tiếp hoặc gián tiếp vào quá trình sản xuất, tiêu thụ phải được bồi hoàn để tái sản xuất ở doanh nghiệp mà không bao gồm những chi phí phát sinh trong kỳ kinh doanh của doanh nghiệp. Những chi phí đưa vào giá thành sản phẩm phải phản ánh được giá trị thực tế của các tư liệu sản xuất tiêu dùng cho sản xuất, tiêu thụ và các khoản chi tiêu khác có liên quan tới việc bù đắp giản đơn hao phí lao động sống. Mọi cách tính toán chủ quan, không phản ánh đúng các yếu tố giá trị trong giá thành đều có thể dẫn đến việc phá vỡ các quan hệ hàng hoá- tiền tệ , không xác định được hiệu quả kinh doanh và không thực hiện được tái sản xuất giản đơn và tái sản xuất mở rộng.
2. Phân loại giá thành.
* Phân theo thời điểm tính và nguồn số liệu để tính gía thành gồm 3 loại:
- Giá thành kế hoạch: Là loại giá thành được xác định trước khi tiến hành sản xuất kinh doanh trên cơ sở giá thành thực tế kỳ trước và các định mức, các dự toán chi phí của kỳ kế hoạch.
- Giá thành định mức: Cũng như giá thành kế hoạch, giá thành định mức được xác định trước khi tiến hành sản xuất sản phẩm. Tuy nhiên, khác với giá thành kế hoạch được xây dựng trên cơ sở các định mức chi phí hiện hành tại từng thời điểm nhất định trong kỳ kế hoạch (thường là đầu tháng) nên định mức luôn thay đổi phù hợp với sự thay đổi các định mức chi phí đạt được trong quá trình sản xuất sản phẩm.
- Giá thành thực tế : Là gía thành được xác định sau khi đã kết thúc quá trình sản xuất sản phẩm trên cơ sở các chi phí thực tế phát sinh trong quá trình sản xuất sản phẩm, nó bao gồm cả chi phí kế hoạch, định mức và những chi phí ngoài kế hoạch, như chi phí sản phẩm hỏng, thiệt hại trong sản xuất. Gía thành thực tế là cơ sở để xác định kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, có ảnh hưởng trực tiếp đến lợi nhuận của doanh nghiệp.
* Phân loại theo phạm vi phát sinh chi phí:
Theo cách phân loại này, giá thành sản xuất được phân chia thành giá thành sản xuất (giá thành công xưởng) và giá thành tiêu thụ (giá thành toàn bộ).
- Giá thành sản xuất: Là giá thành bao gồm toàn bộ các khoản chi phí phát sinh liên quan đến quá trình sản xuất chế tạo sản phẩm trong phạm vi phân xướng sản xuất. Đó là chi phí NVL trực tiếp, chi phí NCTT và chi phí SXC.
- Giá thành tiêu thụ: Là giá thành bao gồm toàn bộ các khoản chi phí phát sinh liên quan đến việc sản xuất, tiêu thụ sản phẩm.
3. Phân biệt chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm.
Mặc dù giữa chi phí và giá thành có mối quan hệ với nhau nhưng giữa chúng còn có điểm khác nhau về phạm vi và nội dung.
- Chi phí sản xuất chỉ tính những chi phí phát sinh trong một kỳ nhất định (tháng, quý, năm) không tính đến nó liên quan đến khối lượng sản phẩm sản xuất đã hoàn thành. Còn giá thành liên quan đến cả chi phí của kỳ trước chuyển sang (chi phí dở dang đầu kỳ) và chi phí của kỳ này chuyển sang kỳ sau (chi phí dở dang cuối kỳ).
- Chi phí sản xuất gắn liền với khối lượng chủng loại sản phẩm sản xuất hoàn thành, trong khi đó giá thành lại liên quan mật thiết đến khối lượng và chủng loại sản phẩm đã hoàn thành.
Mặc dù chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm đều tiêu hao các yếu tố về lao động sống và lao động vật hoá. Nhưng chúng vẫn có những điểm khác nhau:
- Về mặt chất: Chi phí kinh doanh là yếu tố đa hao phí trong quá trình kinh doanh nhưng chưa hẳn đã hoàn thành. Còn giá thành sản phẩm là những yếu tố tiêu hao cho quá trình kinh doanh một lượng sản phẩm dịch vụ đã hoàn thành
- Về mặt lượng: Thường về mặt lượng giữa chúng không có sự thống nhất với nhau. Giá thành sản phẩm có thể bao gồm cả chi phí của thời kỳ trước chuyển sang, chi phí đa chi ra trong kỳ và loại trừ chi phí chuyển sang kỳ sau. Nó được biểu hiện qua công thức sau: Z= Ddk + C –Dck
Trong đó:
Z : là tổng giá thành sản phẩm
Dck : Chi phí dở dang đầu kỳ
C : Chi phí phát sinh trong kỳ
Dđk : Chi phí dở dang cuối kỳ
Khi giá trị dở dang đầu kỳ và cuối kỳ bằng nhau thì giá thành sản phẩm
dịch vụ trùng khớp với chi phi sản xuất.
4. Đối tượng tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm.
Hạch toán quá trình sản xuất sản phẩm bao gồm hai giai đoạn liên tục kế tiếp nhau và có mối quan hệ với nhau, giai đoạn đầu hạch toán tập hợp chi phí phát sinh trong kỳ theo từng đối tượng, chịu chi phí như từng hoạt động kinh doanh, từng hợp đồng kinh doanh... và phân tích các chi phí đó theo yêu cầu quản lý cụ thể như theo khoản mục chi phí, theo yếu tố chi phí... Giai đoạn hai là tính giá thành sản phẩm theo từng đối tượng tính giá thành trên cơ sở số liệu của chi phí đã tập hợp được. Xác định đúng đối tượng tập hợp chi phí và đối tượng tính gía thành là một trong những điều kiện chủ chốt để tính giá thành được chính xác.
4.1. Đối tượng tập hợp chi phí sản xuất.
Đối tượng tập hợp chi phí sản xuất chính là phạm vi giới hạn để tập hợp các chi phí sản xuất, có thể là nơi phát sinh chi phí (phân xưởng, bộ phận) hoặc có thể là đối tượng chịu chi phí (sản phẩm, nhóm sản phẩm, đơn đặt hàng).
Việc xác định đối tượng tập hợp chi phí thực chất là việc xác định giới hạn tập hợp chi phí phát sinh và đối tượng chịu chi phí. Khi xác định đối tượng tập hợp chi phí sản xuất, trước hết là phải căn cứ vào mục đích sử dụng, sau đó là căn cứ vào địa điểm phát sinh chi phí.
Z = D dk + C − D ck
Xác định đối tượng tập hợp chi phí phù hợp với yêu cầu quản lý doanh nghiệp, có ý nghĩa rất quan trọng trong việc tổ chức kế toán tập hợp chi phí sản xuất từ việc tổ chức hạch toán ban đầu đến việc tập hợp số liệu ghi chép trên tài khoản, sổ chi tiết.
4.2. Đối tượng tính giá thành sản phẩm.
Đối tượng tính giá thành sản phẩm có thể là sản phẩm, bán sản phẩm, lao vụ, dịch vụ hoàn thành, tuỳ theo yêu cầu của hạch toán và tiêu thụ sản phẩm.
4.3. Mối quan hệ giữa đối tượng tập hợp chi phí và đối tượng tính giá thành.
Đối tượng tập hợp chi phí sản xuất và đối tượng tính giá thành sản phẩm giống nhau ở bản chất chung, chúng đều là phạm vi giới hạn để tập hợp chi phí, cùng phục vụ công tác quản lý, phân tích và kiểm tra chi phí và giá thành. Nhưng chúng có nhiều điểm khác nhau sau:
- Xác định đối tượng tập hợp chi phí là xác định phạm vi phát sinh chi phí được tập hợp phát sinh trong kỳ. Còn xác định đối tượng tính gía thành có liên quan đến kết quả sản xuất.
- Một đối tượng tập hợp chi phí sản xuất có thể có nhiều đối tượng tính gía thành. Tuy nhiên, trong nhiều trường hợp đối tượng tính gía thành sản phẩm cũng là đối tượng hạch toán chi phí sản xuất. Do đó để phân biệt đối tượng hạch toán chi phí sản xuất và đối tượng tính giá thành ngay cả khi chúng đồng nhất là một, chúng ta cần căn cứ vào các cơ sở sau :
_ Căn cứ vào đặc điểm quy trình công nghệ sản xuất:
- Với sản xuất giản đơn, đối tượng hạch toán chi phí sản xuất có thể là sản phẩm hay toàn bộ quá trình sản xuất, hoặc có thể là một nhóm sản phẩm, đối tượng tính gía thành sản phẩm là sản phẩm cuối cùng.
- Với sản xuất phức tạp, đối tượng hạch toán chi phí sản xuất có thể là bộ phận, chi tiết sản phẩm, các giai đoạn chế biến. Còn đối tượng tính gía thành sản phẩm là sản phẩm ở bước cuối cùng hay bán thành phẩm ở từng bước chế tạo.
_ Căn cứ vào loại hình sản xuất:
- Với sản xuất đơn chiếc và sản xuất hàng loạt nhỏ, đối tượng chi phí là đơn đặt hàng riêng biệt, còn đối tượng hạch toán giá thành là sản phẩm của từng đơn.
- Đối với sản xuất hàng loạt với khối lượng lớn, tuỳ thuộc vào quy trình công nghệ là đơn giản hay phức tạp mà đối tượng hạch toán chi phí sản xuất có thể là sản phẩm, nhóm sản phẩm, chi tiết, nhóm chi tiết, giai đoạn công nghệ. Còn đối tượng tính gía thành có thể là sản phẩm cuối cùng hay bán thành phẩm.
_ Căn cứ vào yêu cầu và trình độ quản lý, tổ chức sản xuất kinh doanh:
- Với trình độ cao, có thể chi tiết đối tượng hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm ở các góc độ khác nhau, ngược lại nếu trình độ thấp thì đối tượng đó có thể bị hạn chế và thu hẹp lại.
- Việc xác định rõ mối quan hệ và sự khác nhau giữa đối tượng chi phí sản xuất và đối tượng tính gía thành sản phẩm là vấn đề mang tính định lượng cho tổ chức hạch toán chi phí sản xuất và tính gía thành sản phẩm. Đồng thời thể hiện được mục đích và phạm vi tiến hành hai giai đoạn của công tác kế toán nêu trên.
5. Kỳ tính giá thành:
Là thời kỳ mà kế toán tính gía thành cần phải tính được giá thành thực tế cho sản phẩm hoàn thành.
Xác định kỳ tính gía thành thích hợp sẽ giúp cho việc tổ chức, công tác tính giá thành khoa học hợp lý, đảm bảo cung cấp số liệu về giá thành thực tế kịp thời, phát huy được chức năng Giám đốc tình hình thực hiện kế hoạch giá thành của doanh nghiệp.
Phần II: Phương pháp hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm
1. Phương pháp tính giá thành:
Phương pháp tính giá thành là một phương pháp hay hệ thống các phương pháp được sử dụng để tính giá thành của đơn vị sản phẩm, nó mang tính thuần tuý kỹ thuật tính toán cho chi phí từng đối tượng tính gía thành. Có nhiều phương pháp được sử dụng để tính gía thành, tuỳ theo đặc điểm cụ thể của doanh nghiệp như đối tượng tập hợp chi phi và đối tượng tính giá thành đã xác định để áp dụng phương pháp tính giá thành cho phù hợp, hoặc áp dụng kết hợp một số phương pháp khác nhau.
Phương pháp tính giá thành bao gồm:
* Phương pháp trực tiếp (phương pháp giản đơn):
Phương pháp này áp dụng đối với doanh nghiệp thuộc loại hình sản xuất giản đơn, số lượng mặt hàng ít nhưng sản xuất với số lượng lớn. Căn cứ vào số liệu chi phí đã tập hợp được trong kỳ, chi phí sản xuất dở dang đầu kỳ và cuối kỳ xác định được, kế toán tính giá thành theo công thức:
Tổng giá thành SP = CPSX dở dang đầu kỳ + CPSX phát sinh trong kỳ - CPSX dở dang cuối kỳ
Tổng giá thành sản phẩm hoàn thành = Giá thành đơn vị *Số lượng SP hoàn thành
* Phương pháp hệ số:
Phương pháp này được áp dụng tại những doanh nghiệp mà trong cùng một quá trình sản xuất cùng sử dụng một thứ nguyên liệu và một lượng lao động nhưng thu được đồng thời nhiều sản phẩm khác nhau và chi phí không tập hợp riêng cho từng loại sản phẩm mà phải tập trung cho cả quá trình sản xuất. Đối tượng hạch toán CPSX là nhóm sản phẩm, đối tượng tính gía thành là những sản phẩm .
Theo phương pháp này, trước hết kế toán căn cứ vào định mức tiêu chuẩn kỹ thuật để xác định hệ số giá thành cho từng loại sản phẩm, dịch vụ. Trong đó, lấy một loại sản phẩm, dịch vụ làm gốc có hệ số giá quy định, từ đó căn cứ vào các tiêu thức khác nhau như số lượng NVL tiêu hao, trọng lượng sản phẩm tính bằng hệ số quy đổi cho loại sản phẩm còn lại. Cuối kỳ, căn cứ vào khối lượng sản phẩm thực tế hoàn thành của từng loại sản phẩm, tổng chi phí liên quan đến các loại sản phẩm đã tập hợp và hệ số quy đổi tương đương kế toán tính giá thành sản phẩm gốc và giá thành từng loại sản phẩm.
Tổng giá thành SP = CPSX dở dang đầu kỳ + CPSX phát sinh trong kỳ - CPSX dở dang cuối kỳ
* Phương pháp tổng cộng chi phí:
Trong các doanh nghiệp sản xuất nhiều loại sản phẩm có quy cách phẩm chất khác nhau như ăn mặc, dệt kim, cơ khí chế tạo, để giảm bớt khối lượng hạch toán, kế toán thường tiến hành tập hợp chi phí sản xuât theo từng nhóm sản phẩm cùng loại. Căn cứ vào tỷ lệ chi phí giữa CPSX thực tế so với CPSX kế hoạch.
Giá thành = Z1 + Z2 +Z3 +….+ Zn
Giá thành thực tế = Giá thành kế hoạch x Tỷ lệ giá thành đơn vị sản phẩm i
Ngoài ra để thích ứng với những điều kiện cụ thể của quá trình sản xuất sản phẩm có thể sử dụng một số phương pháp như: phương pháp loại trừ sản phẩm phụ, phương pháp liên hợp…
2.Trình tự tập hợp chi phí sản xuất :
- Thứ nhất xác định giá trị hàng tồn kho: Hàng tồn kho được tính theo giá gốc. Trường hợp giá trị thuần có thể thực hiện được thấp hơn giá gốc thì phải tính theo giá trị thuần có thể thực hiện được.
Giá gốc hàng tồn kho bao gồm: Chi phí mua, chi phí chế biến và các chi phí liên quan trực tiếp khác phát sinh để có được hàng tồn kho ở địa điểm và trạng thái hiện tại.
Chi phí mua: Chi phí mua của hàng tồn kho bao gồm giá mua, các loại thuế không được hoàn lại, chi phí vận chuyển, bốc xếp, bảo quản trong quá trình mua hàng và các chi phí khác có liên quan trực tiếp đến việc mua hàng tồn kho. Các khoản chiết khấu thương mại và giảm giá hàng mua do hàng mua không đúng quy cách, phẩm chất được trừ (-) khỏi chi phí mua.
Chi phí chế biến: Chi phí chế biến hàng tồn kho bao gồm những chi phí có liên quan trực tiếp đến sản phẩm sản xuất, như chi phí nhân công trực tiếp, chi phí sản xuất chung cố định và chi phí sản xuất chung biến đổi phát sinh trong quá trình chuyển hóa nguyên liệu, vật liệu thành thành phẩm.
a. Chi phí trực tiếp
Chi phí trực tiếp là những chi phí có quan hệ trực tiếp đến từng đối tượng tập hợp chi phí riêng biệt. Theo phương pháp này thì chi phí phát sinh cho đối tượng nào được tập hợp trực tiếp cho đối tượng đó. Để thực hiện tốt phương pháp này đòi hỏi phải tổ chức việc ghi chép ban đầu (chứng từ gôc) phải theo đúng đối tượng đã xác định. Trên cơ sở đó kế toán tổng hợp số liệu từ các chứng từ gốc theo từng đối tượng tập hợp chi phí liên quan và trực tiếp ghi vào sổ kế toán (tài khoản cấp 1, tài khoản cấp 2, sổ chi tiết). Phương pháp này đảm bảo tập hợp chi phí theo đúng đối tượng chịu chi phí với mức độ chính xác cao.
b. Chi phí chung
Chi phí chung là những chi phí có liên quan đến những đối tượng tập hợp chi phí mà không phân biệt riêng rẽ ngay từ khi hạch toán ban đầu như chi phí điện nước, chi phí khấu hao TSCĐ, chi phí trực tiếp khác. Các chi phí này phát sinh không thể tổ chức ghi chép ban đầu riêng theo từng đối tượng chịu chi phí được mà kế toán phải sử dụng phương pháp gián tiếp hay còn gọi là phương pháp phân bổ gián tiếp. Sử dụng phương pháp này kế toán vẫn tập hợp được chi phí cho từng đối tượng tập hợp chi phí đáp ứng yêu cầu quản lý.
Chi phí sản xuất chung cố định là những chi phí sản xuất gián tiếp, thường không thay đổi theo số lượng sản phẩm sản xuất, như chi phí khấu hao, chi phí bảo dưỡng máy móc thiết bị, nhà xưởng,... và chi phí quản lý hành chính ở các phân xưởng sản xuất.
Chi phí sản xuất chung biến đổi là những chi phí sản xuất gián tiếp, thường thay đổi trực tiếp hoặc gần như trực tiếp theo số lượng sản phẩm sản xuất, như chi phí nguyên liệu, vật liệu gián tiếp, chi phí nhân công gián tiếp.
Chi phí sản xuất chung cố định phân bổ vào chi phí chế biến cho mỗi đơn vị sản phẩm được dựa trên công suất bình thường của máy móc sản xuất. Công suất bình thường là số lượng sản phẩm đạt được ở mức trung bình trong các điều kiện sản xuất bình thường.
- Trường hợp mức sản phẩm thực tế sản xuất ra cao hơn công suất bình thường thì chi phí sản xuất chung cố định được phân bổ cho mỗi đơn vị sản phẩm theo chi phí thực tế phát sinh.
- Trường hợp mức sản phẩm thực tế sản xuất ra thấp hơn công suất bình thường thì chi phí sản xuất chung cố định chỉ được phân bổ vào chi phí chế biến cho mỗi đơn vị sản phẩm theo mức công suất bình thường. Khoản chi phí sản xuất chung không phân bổ được ghi nhận là chi phí sản xuất, kinh doanh trong kỳ.
Chi phí sản xuất chung biến đổi được phân bổ hết vào chi phí chế biến cho mỗi đơn vị sản phẩm theo chi phí thực tế phát sinh.
Các bước phân bổ như sau:
- Bước 1: Trước hết tính hệ số phân bổ chi phí theo công thức:
Tổng chi phí NVL tập hợp cần phân bổ
Hệ số phân bổ = Tổng tiêu thức phân bổ
- Bước 2: Tính chi phí phân bổ cho từng đối tượng liên quan theo công thức:
Chi phí phân bổ Hệ số Tiêu thức phân bổ cho từng đối tượng phân bổ cho từng đối tượng
* Chi phí không tính vào giá gốc hàng tồn kho
- Chi phí không được tính vào giá gốc hàng tồn kho, gồm:
- Chi phí nguyên liệu, vật liệu, chi phí nhân công và các chi phí sản xuất, kinh doanh khác phát sinh trên mức bình thường;
- Chi phí bảo quản hàng tồn kho trừ các khoản chi phí bảo quản hàng tồn kho cần thiết cho quá trình sản xuất tiếp theo và chi phí bảo quản quy định ở đoạn 06
- Chi phí bán hàng;
- Chi phí quản lý doanh nghiệp.
Việc tính giá trị hàng tồn kho được áp dụng theo một trong các phương pháp sau:
- Phương pháp tính theo giá đích danh
- Phương pháp bình quân gia quyền
- Phương pháp nhập trước, xuất trước
- Phương pháp nhập sau, xuất trước.
** Khi bán hàng tồn kho: giá gốc của hàng tồn kho đã bán được ghi nhận là chi phí sản xuất, kinh doanh trong kỳ phù hợp với doanh thu liên quan đến chúng được ghi nhận. Tất cả các khoản chênh lệch giữa khoản dự phòng giảm giá hàng tồn kho phải lập ở cuối niên độ kế toán năm nay lớn hơn khoản dự phòng giảm giá hàng tồn kho đã lập ở cuối niên độ kế toán năm trước, các khoản hao hụt, mất mát của hàng tồn kho, sau khi trừ (-) phần bồi thường do trách nhiệm cá nhân gây ra, và chi phí sản xuất chung không phân bổ, được ghi nhận là chi phí sản xuất, kinh doanh trong kỳ. Trường hợp khoản dự phòng giảm giá hàng tồn kho được lập ở cuối niên độ kế toán năm nay nhỏ hơn khoản dự phòng giảm giá hàng tồn kho đã lập ở cuối niên độ kế toán năm trước, thì số chênh lệch lớn hơn phải được hoàn nhập ghi giảm chi phí sản xuất, kinh doanh.
3. Kế toán tính giá thành.
Theo chế độ kế toán hiện hành việc sử dụng các tài khoản kế toán để tổng hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản xuất sản phẩm phụ thuộc vào doanh nghiệp sử dụng phương pháp KKTX hay KKĐK hàng tồn kho.Sự khác nhau về sử dụng tài khoản kế toán và trình tự ghi chép kế toán như sau:
PP_KKTX
PP_KKĐK
-Sử dụng TK 621,622,627 để tập hợp chi phí phát sinh trong kỳ
-Sử dụng TK 621,622,627 để tập hợp chi phí phát sinh trong kỳ
-Sử dụng TK 154 vừa phản ánh vốn sản phẩm dở dang vừa để tính giá thành sản xuất của sản phẩm
-TK 154 phản ánh vốn sản phẩm dở dang cuối kỳ này, đầu kỳ sau, còn sử dụng TK 631 để tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm
-TK 155 sử dụng phản ánh thành phẩm tồn kho cuối kỳ này, đầu kỳ sau, còn thành phẩm luân chuyển trong kỳ phản ánh ở TK 632.
- Kết cấu TK 154:
+ Dư nợ đầu kỳ: phản ánh vốn sp dở dang đầu kỳ
+ Phát sinh bên Nợ:tập hợp các chi phí sx thực tế phát sinh trong kỳ (chi phí nguyên, vật liệu trực tiếp; chi phí nhân công trực tiếp, chi phí sản xuất chung).
+ Phát sinh bên Có:
Các khoản ghi giảm chi phí sản phẩm.
Tổng giá thành sx thực tế hay chi phí thực tế của sp, lao vụ, dịch vụ đã hoàn thành.
+ Dư Nợ: chi phí thực tế của sp, lao vụ ,dịch vụ dở dang chưa hoàn thành
- Kết cấu TK 631:
+ Bên Nợ: Phát sinh chi phí sxkd đầu kỳ, kết chuyển từ TK 154 sang tổng chi phí sx phát sinh trong kỳ từ các TK 621,622,627.
+ Bên Có: Phản ánh tổng giá thành thực tế của sản phẩm sx.
Cuối kỳ trên TK 631 không có số dư.
3.1. Sơ đồ tài khoản kế toán .
3.1.1. Phương pháp kê khai thường xuyên.
TK 154
TK 155,156
TK 155, 152.
TK 157
TK 627
TK 622
TK 621
TK 632
Dxxx
Chi phí nhân công trực tiếp
Chi phí sản xuất chung
Vật tư,hàng hóa gia công
nhập kho
Giá thành
thực tế
Nhập kho
Tiêu thụ
Chi phí NVL trực tiếp
Gửi bán
TK 155
3.1.2. Phương pháp kiểm kê định kỳ
TK 632
TK 154
TK 631
TK 622
TK 621
TK 627
Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp
Chi phí nhân công
trực tiếp
Chi phí sản xuất chung kết chuyển hoặc phân bổ cho các đối tượng tính giá
Tổng giá thành sản xuất sản phẩm
Giá trị sản phẩm dở dang đầu kỳ
Giá trị sản phẩm dở dang cuối kỳ
Cuối kỳ
3.2.Hạch toán thiệt hại trong sản xuất
♦Hạch toán thiệt hại về sản phẩm hỏng.
* Phân loại sản phẩm hỏng theo tiêu chuẩn định mức
- Sản phẩm hỏng trong định mức: Thiệt hại về sản phẩm hỏng trong định mức sẽ được tính vào chi phí sản xuất chính phẩm
- Sản phẩm hỏng ngoài định mức: Thiệt hại của những sản phẩm này không được tính vào giá thành của chính phẩm.
* Phương pháp hạch tóan sản phẩm hỏng ngoài định mức
- Phản ánh giá trị của sản phẩm hỏng ngoài định mức
Nợ TK 1381 -Chi tiết sản phẩm hỏng ngoài định mức
Có TK 154, 155, 157, 632 - Hàng bán rồi, hỏng, trả lại
- Các chi phí về sản phẩm hỏng có thể sửa chữa được
Nợ TK 1381 - Giá trị sản phẩm hỏng
Có TK 111, 112, 152, 334,...Chi phí sửa chữa sản phẩm hỏng có thể sửa chữa được
- Phản ánh các khoản thu hồi
Nợ TK 152 - Thu hồi phế liệu
Nợ TK 334, 1388 - Cá nhân bồi thường
Có TK 1381 - Giá trị sản phẩm hỏng
- Kết chuyển sản phẩm hỏng ngoài định mức.
Nợ TK 811 - Sản phẩm hỏng tính vào chi phí khác
Có TK 1381 - Giá trị sản phẩm hỏng ngoài định mức
♦ Hạch toán thiệt hại về ngừng sản xuất
- Trường hợp 1: Ngừng sản xuất trong kế hoạch hay đã dự kiến trước thì chi phí thiệt hại ngừng sản xuất sẽ được theo dõi trên TK 335
- Trường hợp 2: Ngừng sản xuất ngoài kế hoạch kế toán theo dõi tương tự sản phẩm hỏng ngoài định mức
Phần III: Thực trạng và một số ý kiến đề xuất nhằm hoàn thiện công tác hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm.
I. Thực trạng về phương pháp hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm trong các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay.
1. Ưu điểm: Những năm gần đây,Bộ trưởng Bộ Tài Chính đã ban hành và công bố nhiều chuẩn mực kế toán cùng thông tư hướng dẫn kế toán thực hiện các chuẩn mực kế toán ban hành, áp dụng chung cho tất cả các doanh nghiệp thuộc các ngành, các thành phần kinh tế trong cả nước nhằm đạt được sự đánh giá trung thực hợp lý, khách quan về thực trạng tài chính và kết quả kinh doanh của doanh nghiệp. Hệ thống tài khoản và phương pháp hạch toán được áp dụng thống nhất trong cả nước hiện nay là Quyết định số 15/2006/QĐ-BTC ngày 26/03/2006 của Bộ trưởng Bộ Tài Chính.
2. Nhược điểm:
Bên cạnh việc vận dụng sáng tạo các chuẩn mực chế độ trong việc hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm, thì hệ thống kế toán chi phí sản xuất còn có một số nhược điểm sau:
hệ thống kế toán chi phí sản xuất còn thiếu linh hoạt:
Hệ thống chi phí sản xuất ở nước ta hiện nay là hệ thống kế toán chi phí thực tế. Trong kỳ kế toán luôn ghi nhận chi phí thực tế phát sinh để tập hợp chi phí sản xuất. Việc làm này là chính xác nhưng đôi lúc cũng không được thuận tiện lắm vì đến cuối kỳ kế toán mới tính được giá thành sản phẩm. Đối với chi phí nguyên vật liệu và chi phí nhân công trực tiếp thì có thể tính ngay được dựa trên các chứng từ nội bộ cung cấp. Còn với chi phí sản xuất chung thì cuối kỳ mới xác định được do phụ thuộc vào các chứng từ bên ngoài như hoá đơn tiền điện, tiền nước, chất đốt… Các hoá đơn này cuối kỳ các nhà cung cấp mới tính toán và báo cho doanh nghiệp. Nhưng sản phẩm của doanh nghiệp sản xuất hoàn thành nhập kho, tiêu thụ xen kẽ liên tục, nên doanh nghiệp rất cần thông tin về chi phí sản xuất để tính giá thành sản phẩm, làm cơ sở để xác định đúng giá bán, thông tin này rất quan trọng, nó giúp doanh nghiệp có khả năng định giá, xác định chiến lược cạnh tranh trên thị trường.
- Hệ thống tài khoản kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm chưa có tính thống nhất cao và toàn diện. Nguyên nhân chủ yếu là chưa có sự thống nhất giữa các doanh nghiệp, những hướng dẫn về nội dung và phương pháp vận dụng chưa thật cụ thể, chưa gắn liền với hoạt động sản xuất kinh doanh của từng doanh nghiệp.
- Hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm theo phương pháp kiểm kê định kỳ chưa được áp dụng nhiều trong thực tế. Phương pháp kiểm kê định kỳ có những ưu điểm như đơn giản, dễ làm, giảm nhẹ khối lượng việc hạch toán hàng tồn kho. Tuy nhiên, trong thực tế thì có khá ít doanh nghiệp áp dụng phương pháp này để hạch toán hàng tồn kho. Nguyên nhân là do đặc điểm của phương pháp này không phản ánh tình hình xuất nguyên vật liệu trong kỳ mà chỉ dựa vào tình hình nhập kho và kiểm kê cuối kỳ để xác định hàng xuất trong kỳ.
II. So sánh kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm ở một số nước trên thế giới.
1. Hệ thống kế toán Mỹ.
- Chi phí trong kế toán Mỹ được coi là các giá hàng hoá và dịch vụ đã sử dụng trong quá trình tạo ra doanh thu. Đôi khi chi phí được coi là cái giá phải trả cho việc tiến hành kinh doanh. Do đó chi phí là giá hàng hoá dịch vụ đã sử dụng nên còn gọi là giá tiêu hao. Trong xí nghiệp sản xuất thì các chi phí liên quan đến quá trình sản xuất sản phẩm thì được gọi là chi phí sản xuất.
- Giá thành trong kế toán Mỹ được chia làm 2 loại:
+ Giá thành sản phẩm: là các giá phí liên quan đến quá trình sản xuất sản phẩm.
+ Giá thành chung cho kỳ: là các giá phí có liên quan đến các hoạt động bán hàng và các hoạt động chung của kỳ kế toán. Như vậy giá thành chung bao gồm chi phí bán hàng và chi phí quản lý doanh nghiệp.
Với những doanh nghiệp áp dụng phương pháp kiểm kê định kỳ thì việc tính giá thành hạch toán qua tài khoản tổng hợp sản xuất và hệ thống kế toán giá thành. Tài khoản này được sử dụng vào cuối kỳ nhằm tập hợp các yếu tố khác nhau và để tính giá thành sản xuất.
Đồng thời các hệ thống kế toán tính giá thành đòi hỏi phải có sổ sách kê khai thường xuyên, vì nó cho thấy giá thành của hàng lưu kho hiện có là bao nhiêu. Về cơ bản thì nội dung kế toán chi phí và tính giá thành sản phẩm là giống nhau ở hai nước, trình tự tập hợp chi phí và tính giá thành sản phẩm đều sử dụng hai phương pháp là kê khai thường xuyên và kiểm kê định kỳ. Tuy nhiên về quan niệm và phạm vi khác nhau nên chi tiêu giá thành được xác định là khác nhau.
2. Hệ thống kế toán Pháp
- Tại Pháp chi phí đựơc hiểu là số tiền bỏ ra để mua các yếu tố cần thiết nhằm tạo ra sản phẩm mang lại lợi nhuận cho doanh nghiệp.
Chi phí gồm:
+ Chi phí mua hàng hoá vật tư, các loại dự trữ cho sản xuất.
+ Các chi phí phát sinh trong quá trình sản xuất kinh doanh.
- Giá thành bao gồm:
+ Giá phí tiếp liệu: bao gồm chi phí nguyên vật liệu mua vào ghi trên hoá đơn và phí mua như phí chuyên chở, bảo quản.
+ Giá phí sản xuất: bao gồm giá trị vật liệu sử dụng trong sản xuất và chi phí về sản xuất như chi phí nhân công, chi phí khấu hao.
+ Giá phí phân phối: bao gồm các chi phí về tiêu thụ sản phẩm, chi phí vận chuyển. bao bì đóng gói.
Giá thành sản xuất bao gồm giá phí sản xuất và giá phí phân phối.
Cơ bản thì nội dung chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm trong kế toán Pháp là giống với Việt Nam. Tuy nhiên về phương pháp hạch toán thì kế toán Pháp chi sử dụng phương pháp kiểm kê định kỳ, còn phương pháp kê khai thường xuyên được sử dụng trong kế toán quản trị.
III. Một số ý kiến đề xuất nhằm hoàn thiện công tác tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm.
Để kinh doanh có hiệu quả nhà quản lý phải làm chủ được các khâu chi phí để hạ giá thành sản phẩm bởi vì liên quan đến chi phí là liên quan đến lợi nhuận của doanh nghiệp.
Để cung cấp kịp thời, nhanh chóng các thông tin về chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm, thì ngoài hệ thống kế toán đang áp dụng, cần bổ sung thêm hệ thống kế toán chi phí định mức và hệ thống kế toán chi phí thông dụng.
Hệ thống kế toán chi phí thực tế luôn chính xác phù hợp cho doanh nghiệp nào muốn tập hơpự chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm vào cuối kỳ.
Hệ thống kế toán chi phí thông dụng giúp doanh nghiệp luôn có thông tin nhanh chóng về giá thành sản phẩm ở bất kỳ thời điểm nào nhờ việc dùng phương pháp ước tính để tính chi phí sản xuất, cuối kỳ kế toán tập hợp chi phí và điều chỉnh giá thành lại cho đúng.
Hệ thống kế toán chi phí định mức phù hợp cho các doanh nghiệp có quy trình công nghệ sản xuất ổn định, có định mức kỹ thuật chính xác và nguồn cung cấp nguyên vật liệu ổn định. Thông tin giá thành định mức giúp doanh nghiệp phát hiện nhanh sự thay đổi về định mức, đánh giá năng lực sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, giúp các nhà quản trị có cơ sở xác định đúng nguyên nhân và có cách giải quyết kịp thời.
Để phương pháp kiểm kê định kỳ được sử dụng phổ biến trong các doanh nghiệp, trước hết phải cải tiến công việc thủ kho, cũng như có những phương pháp kế toán phù hợp với đặc điểm của phương pháp kiểm kê định kỳ.
Hạch toán trực tiếp các chi phí sản xuất sản phẩm vào bên Nợ TK 631 “Giá thành sản xuất” mà không cần hạch toán qua các TK 621, TK 622, TK 627. Việc làm này sẽ đơn giản hơn so với phương pháp kê khai thường xuyên nhưng vẫn đảm bảo được nhu cầu quản lý chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm của doanh nghiệp.
Quán triệt yêu cầu này sẽ tạo điều kiện cho công tác kế toán nói chung và kế toán tính giá thành nói riêng đi vào nề nếp, tôn trọng các chính sách kế toán tài chính.
_Người ta không thể áp dụng một phương án nào đó vi phạm chế độ chính sách kế toán tài chính. Mặt khác, quán triệt yêu cầu này sẽ đảm bảo cho việc kiểm tra, kiểm soát của Nhà nước và của ngành đối với công tác kế toán của doanh nghiệp. Tạo điều kiện thống nhất trong công tác chỉ đạo, lãnh đạo hoạt động kế toán tài chính.
_ Phải quán triệt tinh ._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 26386.doc