Phần mở đầu
Công nghệ là sản phẩm của lao động, của tinh hoa trí tuệ con người tạo ra cho xã hội, nó là công cụ, là phương tiện chủ yếu cho con người đạt được những lơị ít cần thiết.
Sự phát triển của nhiều nước cho thấy công nghệ là nhân tố quyết định khả năng của một nước đạt được các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội với tốc độ cao và ổn định. Công nghệ là phương tiện, là động lực có hiệu lực nhất để mỗi quốc gia sử dụng triệt để và hiệu quả cao nhất các nguồn lực hiện có. Chính vì vậy n
30 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1557 | Lượt tải: 1
Tóm tắt tài liệu Phương pháp lựa chọn công nghệ tối ưu trong chuyển giao công nghệ, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
gười ta nói, công nghệ là chìa khoá cho sự phát triển, công nghệ là niềm hy vọng cơ bản để cải thiện đời sống trong mọi xã hội. Do đó, lựa chọn công nghệ là một vấn đề cần thiết và quan trọng khi thực hiện chuyển giao công nghệ.
Vì vậy trong phạm vi nhất định chúng ta cần thống nhất một số vấn đề sau:
- Khái niệm công nghệ và chuyển giao công nghệ
- Sự cần thiết của việc lựa chọn công nghệ trong chuyển giao công nghệ ở Việt Nam.
- Thực trạng công nghệ và chuyển giao công nghệ ở nước ta.
- Những tồn tại và mâu thuẫn trong chuyển giao công nghệ ở nước ta trong thời gian qua.
- Định hướng tính phù hợp của chuyển giao công nghệ được lựa chọn.
- Phương pháp lựa chọn công nghệ có hiệu quả.
- Những quan điểm chỉ đạo lựa chọn công nghệ phù hợp khi chuyển giao công nghệ.
- Một số giải pháp và điều kiện chủ yếu nhằm lựa chọn công nghệ phù hợp khi chuyển giao công nghệ ở nước ta.
I. Phần thứ nhất
Tiêu chuẩn lựa chọn công nghệ phù hợp.
1. Khái niệm công nghệ và chuyển giao công nghệ
a. Công nghệ: Như chúng ta đã biết, ngày nay định nghĩa về công nghệ vẫn còn rất nhiều tranh cãi, mỗi người hiểu công nghệ theo một ý riêng của mình. Tuy nhiên đa số thống nhất rằng công nghệ chỉ là công cụ phục vụ phát triển. Nó được lựa chọn hay thiết kế để đáp ứng chức năng, mục tiêu và nó cần được quản lý một cách đúng đắn.
* Những tổ chức quốc tế về công nghệ đã bỏ nhiều công sức để đưa ra được định nghĩa về công nghệ thể hiện được các khía cạnh cơ bản của công nghệ.
- Theo tổ chức phát triển công nghiệp của Liên Hiệp Quốc (UNIDO) thì: Công nghệ là việc áp dụng khoa học và công nghiệp, bằng cách sử dụng các nghiên cứu và xử lý nó một cách có hệ thống và có phương pháp.
- Tổ chức ESCAP - uỷ ban KTvà XH Châu á và Thái Bình Dương - đưa ra định nghĩa” Công nghệ là hệ thống kiến thức về quy trình và kỹ thuật dùng để chế biến vật liệu và thông tin. Nó bao gồm tất cả các kỹ năng kiến thức, thiết bị và phương pháp sử dụng trong sản xuất , thông tin, dịch vụ công nghiệp và dịch vụ quản lý”.
ở Việt Nam “Công nghệ là kiến thức, kết quả của khoa học ứng dụng nhằm biến đổi các nguồn lực thành các mục tiêu sinh lợi”.
* Có rất nhiều định nghĩa về công nghệ nhưng cuối cùng cúng có một định nghĩa được coi là khai quát nhất về công nghệ:
“Công nghệ” là tất cả những cái gì dùng để biến đổi đầu vào thành đầu ra.
b. Chuyển giao công nghệ:
Theo quy ước của nhiều quốc gia, nhiều tổ chức quốc tế thì “Chuyển giao công nghệ là nhận và chuyển công nghệ qua biên giới”.
2. Sự cung cầu thiết khách quan của việc lựa chọn công nghệ trong chuyển giao công nghệ ở Việt Nam.
- Ngày nay do sự phát triển mạnh mẽ của KHKT, quan hệ giữa các nước ngày càng mở rộng, đặt biệt trong lĩnh vực kinh tế. Quan hệ kinh tế giữa các nước là cần thiết khách quan trên cơ sở tận dụng lợi thế so sánh của mỗi nước để thúc đẩy sự phát triển kinh tế nói chung và của từng nước nói riêng. Một trong những vấn đề quan trọng của quan hệ kinh tế, kinh tế giữa các nước ngày nay, đặc biệt giữa các nước tiên tiến các nước đang phát triển với các nước nông nghiệp lạc hậu là vấn đề chuyển giao công nghệ - Nước ta là một nước nông nghiệp lạc hậu đang trên đường công nghiệp hoá, vì vậy việc nhập công nghệ tiên tiến để thúc đẩy phát triển kinh tế của đất nước là một yêu cầu hết sức bức thiết. Và việc lựa chọn công nghệ phù hợp, có hiệu qủa là một nhiệm vụ rất quan trọng đối với nhà lãnh đạo, các nhà quản lý, và các nhà khoa học.
- Mặt khác, chúng ta đang mở rộng quan hệ hợp tác với nhiều nước trên thế giới, trong đó có cả những nước đang phát triển. Sự hợp tác kinh tế với các nước cho phép chúng ta có cơ hội tốt để đổi mới công nghệ, áp dụng kỹ thuật hiện đại, xây dựng những ngành công nghiệp tiên tiến, tận dụng những ưu thế vốn có của chúng ta để đẩy nhanh quá trình công nghiệp hoá. Song sự phát triển kinh tế của các nước trên thế giới đa dạng, phong phú. Vì vậy, lựa chọn công nghệ nào, từ nước nào là điều mà chúng ta cần phải nhắc cẩn thận. Do trình độ phát triển các nước mà chúng ta có thể mua công nghệ rất khác nhau, nên kỹ thuật mà chúng ta nhập từ những nước đó cũng không hoàn toàn giống nhau. Mặt khác, mỗi nước đều có thế mạnh riêng nên có thể có công nghệ tiên tiến nhưng lại không phải ở nước có trình độ phát triển cao nhất.
- Về phía chúng ta, tham gia vào phát triển công nghệ với tư cách là người tiêu dùng hàng hoá “công nghệ”, chúng ta mua công nghệ nhằm thoả mãn tốt nhất lợi ích của mình. Tức là sự phát triển kinh tế, là công nghiệp hoá nước nhà. Mục đích chung đó được thể hiện thông qua mục đích của mỗi xí nghiệp cần mua công nghệ. Mục đích của mỗi xí nghiệp khi mua công nghệ là để sản xuất sản phẩm và thu lợi nhuận. Mục đích riêng của mỗi xí nghiệp phù hợp với mục đích chung của đất nước nếu xí nghiệp sử dụng công nghệ tiên tiến để mang lại lợi ích cho xí nghiệp và góp phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế của đất nước. Thêm vào đó, vì là người tiêu dùng, chúng ta không thể tiêu dùng quá khả năng của mình, nghĩa là chúng ta mua công nghệ nhằm phát triển kinh tế đất nước với những ràng buộc về tài chính, trình độ kỹ thuật và quản lý hiện thời của mình. Do vậy, để phát triển kinh tế đất nước, chúng ta cần phải lựa chọn nhưng công nghệ tốt nhất nhưng phải phù hợp với điều kiện của ta. Vậy công nghệ nào là công nghệ thoả mãn những tiêu chuẩn vừa nêu trên - Có rất nhiều ý kiến trái ngược nhau được đưa ra. Chính vì điều đó, chúng ta cần phải có các tiêu thức lựa chọn công nghệ thích hợp.
3. Các tiêu thức lựa chọn công nghệ thích hợp.
Công nghệ thích hợp có mục tiêu cơ bản là đáp ứng nhu cầu cos bản của nhân dân, đặc biệt dân nông thôn.
Công nghệ thích hợp có khả năng thu hút số lượng lớn lao động, trong đó có lao động nữ.
- Công nghệ thích hợp bảo tồn và phát triển công nghệ truyền thống và tạo ra các ngành nghề mới.
- Công nghệ thích hợp đảm bảo chi phí thấp, kỹ năng thấp.
- Công nghệ thích hợp tạo ra khả năng hoạt động cho các cơ sở sản xuất nhỏ vừa lớn kết hợp.
- Công nghệ thích hợp tiết kiệm tài nguyên.
- Công nghệ thích hợp có khả năng thu hút sử dụng dịch dụ và nguyên vật liệu trong nước.
- Công nghệ thích hợp phải sử dụng được phế liệu và không gây ô nhiễm môi trường
- Công nghệ thích hợp tạo cơ hội tăng trưởng kinh tế xã hội và đông đảo quần chúng nhân dân.
- Công nghệ thích hợp tạo ra sự phân phối rộng rãi và giảm sự không bình đẳng trong thu nhập.
- Công nghệ thích hợp không gây xáo trộn đối với VHXH.
- Công nghệ thích hợp tạo tiền đề để tăng cường xuất khẩu, phân công hợp tác quốc tế.
- Tạo tiềm năng nâng cao dần năng lực công nghệ.
- Công nghệ thích hợp được hệ thống chính trị chấp nhận.
Tóm lại, sự thích hợp của công nghệ không phải là bản chất nội tại của bất kỳ một công nghệ nào mà nó xuất phát từ môi trường xung quanh trong đó công nghệ được sử dụng. Chính con người xác định sự thích hợp bằng cách phối hợp tối đa hiệu quả và tối thiểu hậu quả của công nghệ cho hiện tại cũng như tương lai, hơn nữa môi trường xung quanh đòi hỏi được xem xét một cách toàn diện.
II. Phần thứ hai
Thực trạng chuyển giao công nghệ ở Việt Nam
1. Thực trạng công nghệ nước ta.
Bức tranh về công nghệ có thể được khắc hoạ qua các khía cạnh sau:
- Tuổi trung bình của máy móc thiết bị là cao, khoảng vài chục năm. Mức hao mòn hữu hình của MMTB phổ biến khoảng 10 - 60%, có nơi còn nhiều hơn như thế. Số thiết bị máy móc đạt trình trung bình của thế giới còn ít. Nhìn chung còn lạc hậu và thủ công. Hệ số cơ bản khí hoá chung trong nền kinh tế chỉ vào khoảng 20%. Chính tình trạng lạc hậu của MMTB làm chung không đáp ứng được yêu cầu của sản xuất - kinh doanh. Thêm vào đó, những biến động của nhu cầu và tình thế đòi hỏi các doanh nghiệp phải chuyển hướng kinh doanh.
- Năng lực nghiên cứu, triển khai và tiếp thu phát triển công nghệ ở các doanh nghiệp còn yếu, thiếu. Đặc biệt là ở những dây truyền, công đoạn, quy trình sản xuất đòi hỏi tay nghề và kiến thức về công nghệ cao. Hiện tại trong nền kinh tế mới chỉ có khoảng hơn 10% lực lượng lao động đã qua đào tạo nhưng trong số đó một bộ phận không nhỏ cần phải đào tạo lại và cập nhật kỹ năng mới.
- Cơ cấu nhân lực còn bất hợp lý và mất cân đối nghiêm trọng, không đáp ứng được yêu cầu của CNH - HĐH.
- Kỷ luật và tác phong lao động còn lỏng lẻo, thiếu nghiêm túc đối với công việc, thiếu động lực để sáng tạo và lao động.
- Mức độ và trình độ tin học hoá và xử lý thông tin còn thấp và chậm làm cho các quyết định về quản lý sản xuất, kinh doanh còn kém chính xác, chậm trễ, chắp vá dẫn đến ảnh hưởng lớn tới hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp trong bối cảnh cạnh tranh thị trường.
- Điều kiện lao động nhìn chung còn chưa đáp ứng tiêu chuẩn về vệ sinh, an toàn lao động, cũng như về môi trường lao động.
Ngoài ra thì còn có một số vấn đề vướng mắc:
- Tiêu hao nhiều nguyên vật liệu, năng lượng. Giá thành sản phẩm cao, các chỉ tiêu này so với mức trung bình của thế giới và khu vực thì thua kém từ vài lần cho đến vài chục lần tuỳ theo loại sản phẩm.
- Chất lượng sản phẩm sản xuất ra còn thấp, khó cạnh tranh với các sản phẩm cùng loại của nước ngoài.
- Mẫu mã đơn điệu, kém hấp dẫn và chắp vá.
- Chi phí quản lý trong các ngành sản xuất cao: lắp ráp điện tử: 21 - 37%; thi công bê tông: 14,5%; thủy tinh 11%.
- Năng lực và khả năng cạnh tranh của sản phẩm, dịch vụ Việt Nam yếu.
- Thị trường cho sản phẩm và dịch vụ Việt Nam còn hạn hẹp.
- Sức tiêu thụ sản phẩm, dịch vụ Việt Nam còn chậm, hàng hoá ứ đọng nhiều.
Qua số liệu trên đây đã phần nào khẳng định bức tranh công nghệ khong mấy sáng sủa của các doanh nghiệp Việt Nam.
Sau đây là kết quả nghiên cứu, một vài nhận xét có liên quan đến công nghệ ở các doanh nghiệp chọn lựa ở Việt Nam rút ra từ một dự án do Tổ chức phát triển công nghiệp của Liên hợp quốc (UNIDO) tài trựo và Viện chiến lược phát triển thuộc Bộ kế hoạch và đầu tư thực hiện 1998 như sau:
* Các doanh nghiệp chế biến thực phẩm : Vốn cố định nhỏ, quy mô doanh nghiệp nhỏ (62% các doanh nghiệp này có số lao động ít hơn 10 công nhân). Công nghệ đơn giản cũ kỹ, khả năng cạnh tranh của sản phẩm không chấp nhận được.
Các doanh nghiệp xay sát gạo cho xuất khẩu: Chỉ có một số ít nhà máy này loại lớn là có khả năng, bảo đảm chất lượng cho xuất khẩu. Nhưng hạ tầng, bến cảng nơi xuất khẩu gạo Việt Nam còn kém, chi phí bốc xếp cao gấp đôi ở Băngkoc, Thái Lan, trong khi đó tốc độ bốc dỡ lại rất chậm.
* Các doanh nghiệp chế biến cà phê: Chất lượng (chỉ có 2% số lượng cà phê xuất khẩu ở Việt Nam thoả mãn yêu cầu ngặt nghèo của loại 1). Máy móc chế biến tương đối đơn giản, hệ thống nghiên cứu và triển khai không phù hợp với tầm quan trọng của ngành này.
* Các doanh nghiệp chế biến rau quả: Chất lượng sản phẩm còn là một vấn đề lớn. Công nghệ đóng hộp rất lạc hậu (vẫn sử dụng phương pháp hàn thiếc...)
* Doanh nghiệp chế biến hải sản: Bảo đảm tiêu chuẩn vệ sinh sản phẩm hải sản chế biến. Tỷ lệ sản phẩm có giá trị giá tăng cao còn thấp. Công nghệ chế biến còn chưa cao và không đồng bộ (rất ít nhà máy có trang thiết bị hợp lý để xử lý nguyên liệu thô trước khi đưa vào chế biến)
* Doanh nghiệp dệt may: máy móc thiết bị lạc hậu, đặc biệt là ngành dệt (trong số các doanh nghiệp quốc doanh, có khoảng 15% máy móc đạt chất lượng sản xuất, 45% cần được sửa chữa, 40% còn lại cần được thay thế). Công nghệ quản lý doanh nghiệp nhà nước xơ cứng, kém năng động.
* Các doanh nghiệp ngành điện tử: chưa có phát triển thiết kế gốc và chế tác mang tính thương mại. ít công nhân đa kỹ năng. Chất lượng sản phẩm chưa hoặc ít có sản phẩm đạt tiêu chuẩn ISO 9000. Chưa có khả năng cạnh tranh quốc tế.
* Các doanh nghiệp công nghiệp ô tô: Đầu tư cơ bản nhỏ so với mức cần thiết để đảm bảo chất lượng sản phẩm. Công nghệ hầu như là lắp ráp (100% ô tô được lắp ráp dưới dạng CKD). Chi phí lắp ráp cao (gấp 5 lần so với chính quốc). Tỷ lệ khai thác năng lực máy móc thiết bị thấp.
* Các doanh nghiệp cơ khí: Máy móc cũ kỹ và hỗn tạp, hệ thống sản xuất lỗi thời. Trình độ công nghệ ở tất cả các giai đoạn của quá trình sản xuất cơ khí không phù hợp để sản xuất các sản pamr có chất lượng và hiệu quả cao...
Từ những số liệu trên cho ta thấy nguyên nhân dẫn đến tình trạng đó là do:
- Công nghệ không đồng bộ, mất cân đối làm cho nhiều loại máy móc thiết bị ít hoặc không được sử dụng.
- Máy móc thiết bị cũ kỹ, lạc hậu, hay hư hỏng, thời gian ngừng việc để sửa chữa lớn.
- Sức ép của đối thủ cạnh tranh nước ngoài, làm doanh nghiệp phải giảm hoặc ngừng sản xuất dẫn đến tình trạng không dùng hết công suất của máy móc thiết bị. Đánh giá một cách khách quan tình hình lạc hậu, yếu kém của công nghệ và thiết bị, sự cạnh tranh gay gắt đã tạo ra sức ép.
2. Thực trạng về chuyển giao công nghệ ở nước ta:
a. Công nghệ được chuyển giao chưa phải thuộc loại tiên tiến, hiện đại như đã nên ở trên theo đánh giá chung, số máy móc, thiết bị trong các doanh nghiệp Nhà nước đạt trình độ hiện đại trung bình của TG nhìn chung còn ít. Số công nghệ nhập đạt trình độ hiện đại, tiến tiến lại càng hiếm. Nguyên nhân của thực trạng này có nhiều, cos trừ giá chuyển giao, cả từ giá nhận chuyển giao công nghệ.
- Về giá chuyển giao công nghệ, các đối tác nước ngoài vì mục tiêu tìm kiếm lợi nhuận cao và nhanh nên ít chịu đầu tư chuyển giao loại công nghệ hiện đại tiên tiến thường là đắt tiền, thời gian hoàn vốn dài hơn,. Thậm chí có nhiều trường hợp lợi dụng sự kém hiểu biết của bên nhận chuyển giao để trục lợi. Theo ý kiến đánh giá của chuyên gia, có tới 25% trong số hàng vạn thiết bị đã nhập về là đã qua sử dụng, được tân trang lại và nâng cấp bằng các cơ cấu điều khiển bán tự động hoặc tự động và trong số các dự án đầu tư nước ngoài đang hoạt động vẫn còn khá nhiều dây chuyền sản xuất sử dụng nhiều lao động thủ công hoặc có trình độ cơ khí hoá thấp.
- Về phía nhận chuyển giao công nghệ thường là các doanh nghiệp nhà nước, cũng có 2 loại nguyên nhân: chủ quan và khách quan.
* Những nguyên nhân chủ quan là:
+ Tâm lý ỷ lạim, trông chờ nhiều vào nhà nước.
+ Trình độ hiểu biết về công nghệ mới còn rất hạn hẹp.
+ Động cơ trục lợi cá nhân.
+ Thiếu đội ngũ cán bộ chuyên môn.
+ Thụ động trong công việc tìm kiếm công nghệ và trong đàm phán, ký kết.
+ Thiếu định hướng chiến lược lâu dài về sản xuất kinh doanh.
* Những nguyên nhân khách quan đối với doanh nghiệp là:
+ Môi trường kinh tế xã hội (luật, chính sách tài chính, tiền tệ, lao động, đất đai, sở hữu công nghiệp...) còn chưa thật phù hợp và hấp dẫn.
+ Bộ máy quản lý nhà nước hoạt động còn nhiều yếu kém, bất cập đối với hoạt động chuyển giao công nghệ.
+ Thiếu hệ thống mạng lưới thông tin về công nghệ và các dịch vụ hỗ trợ cần thiết và hữu hiệu khác cho hoạt động chuyển giao công nghệ của các doanh nghiệp nói chung và doanh nghiệp nhà nước nói riêng.
+ Năng lực nghiên cứu và triển khai về khoa học công nghệ của đất nước còn nhiều yếu kém và bất cập, chưa đủ “nội lực” cần thiết để làm cơ sở cho việc tiếp thụ và phát triển các công nghệ nhập trong điều kiện cụ thể của Việt Nam.
* Theo thống kê những vấn đề chủ yếu đang cản trở hoạt động đổi mới công nghệ ở các doanh nghiệp nhà nước cũng như các doanh nghiệp không phải nhà nước là:
- Thiếu nguồn lực cần thiết (vốn, nhân lực...)
- Thiếu thông tin về công nghệ
- Nhiều vướng mắc và cản trở trong môi trường sản xuất, kinh doanh còn chưa được tháo gỡ.
- Thiếu các dịch vụ hỗ trợ cần thiết (tài chính, tín dụng, ngân hàng, thị trường...)
- Thiếu phối hợp giữa các nguồn lực cũng như các tổ chức quản lý và sản xuất kinh doanh.
b. Chưa có thiết kế tổng thể về vấn đề lựa chọn công nghệ.
+ Sự thiếu hụt này bao gồm từ định hướng chiến lược với những ưu tiên công nghệ cho tới việc xây dựng khung chính sách, tạo môi trường thuận lợi cho các doanh nghiệp.
+ Về phía nhà nước, còn thiếu một chiến lược phát triển khoa học công nghệ dài hạn ở tầm quốc gia những quan điểm, định hướng, phối hợp hành động ở cấp bộ, ngành và các doanh nghiệp. Do vậy mà sự trùng lắp, thừa thiếu đồng bộ, sự thiệt hại lớn về kinh tế trong các hợp đồng mua bán công nghệ, là hệ quả tất yếu của sự thiếu hụt này.
+ Chưa có sự hỗ trợ cần thiết về chính sách, cơ chế cũng như các hỗ trợ khác (những ưu đãi hoặc bảo hộ, hệ thống thông tin về công nghệ) sự lúng túng trong quản lý công nghệ ở các bộ, ngành có nguyên nhân quan trọng bắt nguồn từ thiếu hụt này.
+ Tình trạng thiếu đồng bộ, chắp vá, chồng chéo thậm chí còn mâu thuẫn nhau là những biểu hiện của thiếu hụt này.
- Còn chưa xây dựng được một năng lực nội sinh của quốc gia về khoa học công nghệ, trước hết là về nghiên cứu, triển khai, đủ sức hỗ trợ cho việc tiếp thu công nghệ trong nền kinh tế nói chung và trong doanh nghiệp nói riêng.
- Về phía các doanh nghiệp nhà nước:
+ Còn thiếu một chiến lược sản phẩm làm cơ sở định hướng. Nhìn chung, những khó khăn chung, hiện tại vẫn làm cho các doanh nghiệp nhà nước chủ yếu loay hoay và xoay sở để tồn tại chứ chưa phải là để phát triển.
+ Còn thiếu đội ngũ cán bộ KHCN và công nhân kỹ thuật lành nghề đủ sức và đủ trình độ nắm bắt, lựa chọn, tiếp thụ và vận hành công nghệ mới, tiên tiến.
c. Những công nghệ được chuyển giao đổi mới trong thời gian qua chưa tạo được lực đẩy cần thiết cho việc tiếp tục nâng cao năng lực công nghệ và tự đổi mới công nghệ thể hiện như sau:
- Những chuyển giao về công nghệ cho đến nay được thực hiện chủ yếu trong lĩnh vực lắp ráp, gia công, chế biến (sản xuất hàng tiêu dùng). Trong lĩnh vực công nghiệp chế biến máy, đặc biệt là máy công cụ, việc chuyển giao công nghệ được thực hiện chưa được bao nhiêu. Nhà máy công cụ số 1 - một doanh nghiệp nhà nước đứng hàng đầu của cả nước với 527 thiết bị gia công cơ khí chủ yếu nhưng lại không có thiết bị nào mới được chế tạo cách đây 10 năm.
- Những chuyển giao công nghệ trong thời gian qua còn dừng lại ở khâu tiếp nhận, vận hành, chứ chưa tạo ra được mối quan hệ chặt chẽ với các cơ quan nghiên cứu, và triển khai công nghệ để nghiên cứu thích nghi, cải tiến công nghệ.
- Những công nghệ được chuyển giao cho đến nay phần lớn do phía nước ngoài giới thiệu. Nhiều hợp đồng về chuyển giao công nghệ được ký kết với sự soạn thảo sẵn của bên nước ngoài, kèm theo những điều khoản có lợi cho bên chuyển giao công nghệ. Có thể nói rằng ở lĩnh vực này, doanh nghiệp nhà nước đa phần bị động và thụ động.
d. Năng lực nội sinh của các doanh nghiệp nhà nước còn yếu, chưa đủ khả năng tự ra quyết định trong vấn đề công nghệ được thể hiện:
- Năng lực nắm bắt và cập nhật cũng như xử lý thông tin có liên quan đến công nghệ còn rất hạn hẹp, do đó sự thiếu hụt này có ảnh hưởng tiêu cực và lâu dài không chỉ tới hướng phát triển của doanh nghiệp mà trong nhiều trường hợp còn cả tới hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
- Năng lực lựa chọn và quyết định về công nghệ còn rất hạn chế. Sự thiếu hụt này một phần bắt nguồn từ những thiếu hụt về thông tin, về đội ngũ cán bộ... một phần khác cũng rất quan trọng, đó là ý thức, phẩm chất những cán bộ có trách nhiệm và liên quan tới việc lựa chọn và quyết định công nghệ.
- Năng lực đàm phán trong hoạt động công nghệ còn yếu, điều này thể hiện ở sự bị động, thụ động trong đàm phán ký kết các hợp đồng về chuyển giao công nghệ.
Một báo cáo gần đân của Bộ khoa học công nghệ và môi trường cho thấy: Trong số hơn 2000 dự án đầu tư nước ngoài được cấp phép mới chỉ có 94 hợp đồng chuyển giao công nghệ (chiếm 0,047%) được trình lên Bộ khoa học công nghệ và môi trường.
e. Sự thiếu đồng bộ, thiếu hoàn chỉnh của cơ sở hạ tầng kinh tế cho hoạt động chuyển giao công nghệ thể hiện:
- Hệ thống giao thông vận tải yếu kém không chỉ làm nản lòng các nhà đầu tư chuyển giao công nghệ mà làm cho hoạt động đổi mới công nghệ bị hạn chế phát huy tác dụng vừa được phân bổ không đều giưã các vùng, khu vực và lãnh thổ của đất nước,.
- Hệ thống dịch vụ hỗ trợ (tài chính ngân hàng, xúc tiến đầu tư) còn yếu kém.
3. Những tồn tại và mâu thuẫn chủ yếu trong chuyển giao công nghệ ở nước ta trong thời gian qua.
a. Chuyển giao công nghệ trong điều kiện đổi mới công nghệ lẻ tẻ.
Thiếu quy hoạch và chiến lược, thiếu sự gắn bó giữa phương hướng đổi mới, chuyển giao công nghệ với chiến lược phát triển cũng như chiến lược kinh doanh. Điều này thể hiện qua các mặt sau:
- Các doanh nghiệp thực hiện chuyển giao công nghệ do sức ép của thị trường chứ không phải do chủ động theo kế hoạch.
- Các công nghệ được chuyển giao phần lớn do phía nước ngoài giới thiệu chứ không phải tự các doanh nghiệp tìm kiếm hoặc tự nghiên cứu thiết kế.
- Công nghệ được chuyển giao trong lúc còn nhiều điều kiện, tiền đề cần thiết (về cơ sở hạ tầng, thị trường, lao động, tièn vốn...)
- Tình trạng nhập máy móc, thiết bị lẻ nhiều và phổ biến hơn là các dây chuyền đồng bộ và khép kín.
- Các phương hướng, chủ trương và chiến lược của các cơ quan quản lý ngành chưa gắn bó với phương hướng, dự án đổi mới công nghệ và kỹ thuật của các doanh nghiệp.
- Các doanh nghiệp đang gặp nhiều lúng túng trong việc xác định hướng doanh nghiệp và chiến lược kinh doanh. Nhiều doanh nghiệp thực hiện chọn công nghệ mới cũng chính làthực hiện sự chuyển hướng kinh doanh.
ịTình trạng này không chỉ hạn chế hiệu quả sản xuất kinh doanh, mà còn hạn chế trình độ kỹ thuật của sản xuất (trong mỗi dây chuyền luôn có những thiết bị lạc hậu so với những loại khác) và làm giảm tính đồng bộ cần thiết của công nghệ.
b. Trình độ công nghệ và trình độ thiết bị, máy móc sau khi chuyển giao vẫn thấp; chưa phải là hiện đại. Một cuộc khảo sát với hơn 700 thiết bị, 3 dây chuyền tại 42 nhà máy cho thấy kết quả sau:
- 76% số máy mới nhập thuộc thế hệ máy 1950 - 1960.
- Hơn 50% máy móc thiết bị là đồ cũ tân trang lại.
Kết quả điều tra, đánh giá trình độ công nghệ trong ngành công nghiệp nhẹ cũng cho thấy:
- 46% doanh nghiệp có trình độ công nghệ ở mức trung bình khá.
- 40% doanh nghiệp có trình độ công nghệ trung bình cần được cải tiến.
- 14% doanh nghiệp có trình độ công nghệ thấp cần được đổi mới.
Kết quả này phản ánh trình độ công nghệ của các doanh nghiệp đã có sự đầu tư, đổi mới công nghệ (cũng bằng con đường chuyển giao là chính) ở các doanh nghiệp khác, trình độ công nghệ còn thấp hơn, nghĩa là mục tiêu đổi mới công nghệ nâng cao trình độ kỹ thuật về cơ bản là chưa đạt hoặc đạt mức thấp, ngay sau khi chuyển giao công nghệ đã nảy sinh nhu cầu đổi mới hoặc tìm kiếm công nghệ khác để thay thế.
Thực tế này không những gây lãng phí mà còn làm tăng thêm sự lạc hậu về công nghệ của nền kinh tế. ở đây có hai nguyên nhân chủ yếu là phía Việt Nam thiếu thông tin về các loại công nghệ cần thiết có thể chuyển giao và những tiêu cực nảy sinh trong quá trình chuẩn bị và thực hành chuyển giao công nghệ.
c. Những nhân tố tạo ra sức cản nhất định đối với chuyển giao công nghệ. Những nhân tố chủ yếu, quan trọng nhất là:
- Cơ sở vật chất phục vụ việc sử dụng công nghệ chưa được nâng câp tới mức độ cần thiết. Khâu yếu nhất cần cải tiến là hệ thống giao thông vận tải phục vụ việc cung ứng NVL và tiêu thụ sản phẩm. Bản thân từng doanh nghiệp không thể tự mình giải quyết vấn đề này, vì đây không phải là một vài km đường nội bộ hoặc đường nhánh nối với các quốc lộ, mà là toàn bộ hệ thống đường xá, bến bãi, cầu phà... của toàn vùng của cả nước.
- Các hoạt động hỗ trợ chuyển giao công nghệ, đào tạo bồi dưỡng lao động (cả lao động kỹ thuật lẫn lao động quản lý), dịch vụ đời sống xã hội cho lực lượng lao động và dân cư có liên quan tới việc sử dụng công nghệ mới được chuyển giao (kể cả văn hoá, y tế, giáo dục...) cũng chưa được tăng cường. Vấn đề cần lưu ý là khi tiến hành chuyển giao công nghệ, dù muốn hay không cũng sẽ dẫn tới sự hình thành các cụm công nghiệp, các trung tâm công nghiệp và gắn với chúng là các khu dân cư có quan hệ chặt chẽ với bộ phận công nghiệp này.
- Sức ép về giải quyết việc làm, tạo thu nhập cho người lao động. Vì việc chuyển giao công nghệ không chỉ là vấn đề kỹ thuật đơn thuần, mà có liên quan tới công ăn việc làm, thu nhập và đời sống của công nhân viên nên thông thường các doanh nghiệp ít dám đổi mới triệt để mà lựa chọn những công nghệ và thiết bị tiên tiến nhất.
- Sự hạn chế về vốn (kể cả vốn tự có và vốn vay) cũng làm chậm tốc độ, giảm quy mô và hiệu quả của chuyển giao công nghệ. Thông thường sức ép và nhu cầu đổi mới công nghệ lớn nhất là ở các doanh nghiệp có khó khăn trong sản xuất kinh doanh, nhưng ở đó, một là các khoản nợ chưa trả cho ngân hàng lớn, hai là tài sản thế chấp để vay vốn mới hạn chế, ba là phương án kinh doanh dùng để vay vốn thường có độ rủi ro cao nên khó vay vốn của ngân hàng hoặc thu hút vốn liên doanh với nước ngoài và vay vốn của chính đối tác liên doanh nhằm chuyển giao công nghệ. Trong trường hợp này, Việt Nam thường chấp nhận những công nghệ có trình độ kỹ thuật không cao do chính đối tác chuyển giao giới thiệu. Hơn thế nữa, giá chuyển giao thường bị tính cao hơn thực tế 15 - 20% chưa kể các tỷ lệ hoa hồng kèm theo (thường khoảng 5%). Chỉ tính riêng trong khoảng 300 dự án đầu tư mà phía nước ngoài góp vốn bằng thiết bị, các bên Việt Nam đã thua thiệt 50 triệu USD.
- Quy mô và sự báo động của thời gian cũng có những ảnh hưởng tới chuyển giao công nghệ. Một trong những nguyên nhân quan trọng dẫn tới tình trạng các doanh nghiệp Việt Nam thường liên doanh với nước ngoài để nhập công nghệ - ngoài chuyện huy động vốn - là các doanh nghiệp nước ta không thâm nhập vào thị trường thế quốc tế. Thị trường trong nước có sức mua thấp, chưa phát triển làm cho định hướng các doanh nghiệp có xu hướng muốn vươn ra thị trường nước ngoài (đặc biệt là ngành may, giầy). Trong khi đó thị trường trong nước lại chưa được nghiên cứu chu đáo để có những sản phẩm phù hợp, trên cơ sở đó lựa chọn công nghệ thích hợp. Thực tiễn chuyển giao, đổi mới công nghệ định hướng vào thị trường trong nước của các ngành chế biến lương thực thực phẩm,tình hình thị trường nội địa của ngành dệt, may, sành sứ và các mặt hàng tiêu dùng cũng như một số tư liệu sản xuất khác cho thấy rằng,d tuy thị trường nội địa còn kém phát triển nhưng cũng có tiềm năng nhất định mà nền kinh tế có thể và cần phải khai thác. Một mặt các doanh nghiệp cần chủ động, nhưng mặt khác các cơ quan quản lý và tổ chức nghiên cứu ứng dụng tiến bộ kỹ thuật và công nghệ cần nghiên cứu, thiết kế, tìm kiếm và chuyển giao, triển khai những công nghệ phù hợp với thị trường này.
d. Kết quả của chuyển giao công nghệ chưa phát huy được tác dụng tích cực của nó đối với việc tiếp tục nâng cao năng lực công nghệ, tiếp tục đổi mới và tự đổi mới công nghệ trong nước. Biểu hiện của mâu thuẫn này là:
- Sự chuyển giao công nghệ được thực hiện chủ yếu trong lĩnh vực sản xuất hàng tiêu dùng, thí dụ dệt, may, giày dép, chế biến lương thực - thực phẩm... Ngành công nghiệp chế tạo máy, đặc biệt là máy công cụ thực hiện đổi mới và chuyển giao công nghệ mới chưa đáng kể, trong khi đó trình độ kỹ thuật và công nghệ của ngành thấp (tuổi trung bình của thiết bị cao, hao phí năng lượng cao hơn mức bình quân thế giới khoảng 1,5 lần, khả năng chịu nhiệt, chịu va đập, và các điều kiện khắc nghiệt của môi trường... rất hạn chế).
- Lực lượng thực hiện đổi mới thường xuyên đối với công nghệ và thiết bị ở các doanh nghiệp giảm sút. Hiện có không ít doanh nghiệp thuê ngoài 100% trong các dịch vụ sửa chữa thiết bị từ mức trung tu trở lên. Gắn với hiện tượng này là sự giảm sút số lượng sáng kiến cải tiến kỹ thuật trong các doanh nghiệp.
- Các công nghệ và thiết bị chuyên dùng, có thiết kế cứng chiếm tỷ trọng lớn tuyệt đối trong các dự án chuyển giao công nghệ. Do đó, khi có những biến động hoặc khi doanh nghiệp muốn tổ chức lại sản xuất, đổi mới sản phẩm hoặc chuyển hướng kinh doanh thì thường khó tận dụng công nghệ, thiết bị chuyên dùng đó. Thêm vào đó, sau quá trình chuyển giao công nghệ sản xuất ở các doanh nghiệp có xu hướng khép kín khá rõ rệt. Sự hiệp tác, liên kết trong sản xuất bị thu hẹp thì tác động dây chuyền của việc đổi mới công nghệ khó xảy ra.
- Sau khi chuyển giao công nghệ, chưa tạo ra được những mối quan hệ mới chặt chẽ hơn nữa giữa các doanh nghiệp với nhau, giữa các doanh nghiệp với các cơ quan nghiên cứu và triển khai tiến bộ kỹ thuật và công nghệ. Thậm chí có những Viện nghiên cứu không nắm được hết các loại công nghệ được sử dụng trong ngành mình. Tình trạng không nắm được những thông tin mới về công nghệ quốc tế, không đủ năng lực tư vấn và tham gia giám định công nghệ trong ngành hẹp của mình là phổ biến.
4. Định hướng lựa chọn công nghệ phù hợp.
Đã có sự thống nhất trong các nước đang phát triển về sự thích hợp của công nghệ: các công nghệ thích ứng với tiềm lực và mục tiêu phát triển quốc gia.
* Định hướng lựa chọn công nghệ: Có một loại công nghệ sẵn có để thoả mãn một nhu cầu nhất định. Các công nghệ này sắp xếp theo trình tự thô sơ thủ công đến tinh vi hiện đại. Vấn đề là lựa chọn cho đúng. Có một khái niệm về “Công nghệ trung gian”: đó là các công nghệ nằm giữa hai thái cực trên, được coi là thích hợp với các nước đang phát triển: các công nghệ có khả năng với sự tinh vi nhất định, đòi hỏi các đầu vào và các phương pháp tiến bộ hơn các hình thức truyền thống nhưng kém hơn các phương pháp hiện đại. Vẫn còn khuynh hướng thiên về các công nghệ Tây Âu mới nhất và tập trung vốn lớn ở các nước đang phát triển. Còn cò nhiều lặp luận tranh cãi về sự lựa chọn này.
* Định hướng theo nhóm mục tiêu: Cơ sở để định hướng khác là các nhu cầu cơ bản của các nhóm mục tiêu nhất định. ở các nước đang phát triển, đại đa số dân nghèo là mục tiêu chính, theo định hướng đó các ngành công nghiệp quy mô nhỏ là thích hợp.
* Định hướng theo sự hạn chế về tài nguyên.
Cơ sở thứ ba của công nghệ thích hợp là xem xét nó thích ứng với taìa nguyên vốn có, phù hợp với điều kiện chung của các nước đang phát triển (vốn nhấn mạnh tài nguyên là một cơ sở phát triển quốc gia).
Một số trong số các điều kiện về tài nguyên là đội ngũ lao động, vốn đầu tư nội địa, năng lượng, trong đó hai yếu tố chủ chốt cần quan tâm, mà chúng mâu thuẫn nhau khi tiếp cận một công nghệm, đó là vốn và lao động. Theo dõi lịch sử phát triển công nghệ, người ta thấy có sự chuyển dịch các yếu tố lựa chọn công nghệ theo sự tăng trưởng kinh tế.
* Định hướng theo sự thay đổi không gây đột biến: Cơ sở thứ 4 của công nghệ thích hợp đó là mong muốn có được tiến bộ công nghệ thông qua “phát triển” chứ không phải “cách mạng”. Nó đòi hỏi: ._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- E0081.doc