Lời mở đầu.
Trong sản xuất kinh doanh, việc định giá sản phẩm, hàng hoá và dịch vụ là vấn đề cực kỳ quan trọng, ảnh hưởng trực tiếp đến sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Vì thế không thể thực hiện việc định giá một cách tuỳ tiện, chủ qua, duy ý chí. Một phương sách định giá sản phẩm đúng đắn sẽ làm tăng sức mạnh cho doanh nghiệp, nhưng ngược lại, một phương sách sai lầm, chỉ dẫn doanh nghiệp đến chổ lụn bại, phá sản mà thôi.
Là người kinh doanh trong nền kinh tế thị trường, không một
33 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1260 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Phương pháp định giá trong doanh nghiệp Việt Nam - Lý luận & thực tiễn, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ai tin tưởng và hi vọng rằng có được một công thức bất di bất dịch cho phép áp dụng một cách rập khuôn, máy móc vào việc định giá cho sản phẩm của mình. Việc định giá bây giờ không còn là một môn khoa học, kỷ thuật mà đã trở thành nghệ thuật, kỷ thuật mang tính tiểu xảo. Định giá trong kinh doanh, không chỉ đòi hỏi chúng ta phải nắm vững các quy luật, các nguyên tắc kinh tế mà còn phải có cái nhình tin nhạy và cách ứng xữ khôn ngoan trước những diển biến phức tạp của nền kinh tế thị trường.
Một số doanh nghiệp nước ta hiện nay, thường hay gặp khó khăn trong việc quyết định mức giá cho sản phẩm của mình, một phần do trình độ quản lý chưa được đáp ứng, một phần do chưa có kinh nghiệm định giá trên thị trường đầy biến động. Đó là nguyên nhân cơ bản, đòi hỏi mổi doanh nghiệp cần phải khắc phục trong thời gian tới.
Vì vậy, vấn đề đặt ra hiện nay rằng: các doanh nghiệp cần phải tìm ra cho minh những phương pháp định giá phù hợp nhất với từng điều kiện sản xuất kinh doanh, để thu được lợi nhuận tối đa. Đó cũng chính là phần trọng tâm được đề cập trong đề án này.
Phần I. Định giá sản phẩm trong doanh nghiệp.
A/ Một số vấn đề lý luận về giá.
1. Vai trò và chức năng của giá.
1.1 Vai trò của giá.
Giá cả thể hiện tỷ lệ trao đổi sản phẩm giữa các doanh nghiệp hay cá nhân, là sự dịch chuyển của cải từ người này sang người khác, do đó giá cả không ảnh hưởng đến khả năng sản xuất của toàn xã hội. Tuy nhiên giá cả lại ảnh hưởng lớn đến các nhân tố quan trọng sau có liên quan trực tiếp đến khả năng sản xuất của toàn xã hội này:
+ Giá cả ảnh hưởng lên khối lượng sản xuất của ngành, do đó ảnh hưởng lên cơ cấu kinh tế noi chung. Để xác định khối lượng sản xuất cần nhiều căn cứ khác nhau như kết quả khảo sát thị trường đối với sản phâm trong thời gian tới, số lượng sản phẩm hiện tại đang được cung cấp trên thị trường và khối lượng sản phẩm dự tính sản xuất của các nhà sản xuất khác ...., người sản xuất căn cứ vào giá của sản phẩm. Giá của sản phẩm là một nhân tố tham gia tham gia quyết định mức lợi nhuận của họ, do đó nó sẽ là một nhân tố quan trọng để quyết định đến khối lượng sản xuất. Giá cả thực tại ảnh hưởng lên khối lượng sản xuất của từng doanh nghiệp do đó ảnh hưởng đến khối lượng sản xuất của toàn ngành và đến cơ cấu sản phẩm của toàn nền kinh tế.
+ Giá ảnh hưởng lên mức “cung” và “cầu” thị trường.
Về mặt ngắn hạn, mức giá có thể không ảnh hưởng lên khối lượng sản xuất, nhưng nó ảnh hưởng trực tiếp lên lượng “cung” và lượng “cầu” thị trường có ảnh. Nếu giá cao hoặc tăng, thì mức cung sẽ cao và tăng và ngược lại. Đối với lượng cầu thị trường thì tác động của giá theo chiều ngược lại, giá càng cao thì mức cầu càng giảm, ngược lạigiá càng giảm thì mức cầu càng tăng.
+ Giá ảnh hưởng lên hiệu quả sản xuất. Do giá cả ảnh hưởng lên doanh thu sản phẩm, nên ảnh hưởng đến lợi nhuận và tỷ suất lợi nhuận. Giá cả hợp lý thì tỷ suất lợi nhuận sẽ cao và do đó có tác dụng khuyến khích sản xuất. Ngược lại, nếu giá cả không hợp lý làm cho tỷ suất lợi nhuận thấp hoặc người sản xuất bị lổ do bụ triệt tiêu động lực sản xuất, làm giảm sút của họ. Mặt khác lợi nhuận của doanh nghiệp là nguồn góc cơ bản hình thành quỹ tích luỷ của doanh nghiệp, cơ sở của quá trình tái sản xuất. Vì vậy, nếu giá hợp lý thì doanh nghiệp sẽ có đủ điều kiện thực hiện quá trình tái sản xuất tiếp theo. Giá quá thấp hoặc quá cao cũng đều gây hậu quả xấu cho doanh nghiệp, giá quá thấp thì doanh nghiệp không đủ bù đắp chi phí gây khó khăn cho chu kỳ sản xuất saucòn giá quá cao dễ làm cho doanh nghiệp sử dụng lảng phí nguồn vốn.
+ Vai trò phân phối của giá.
Giá cả là quan hệ trao đổi giữa người sản xuất và người tiêu dùng. Và đối tượng của quá trình trao đổi là kết quả của giai đoạn sản xuất. Do đó nếu xét trên toàn bộ hệ thống sản xuất xã hội thì trao đổi cũng là một hình thức phân phối. Từ đó, nếu giá cả thay đổi thì tỷ lệ phân phối cũng thay đổi, do giá cả ảnh hưởng đến sự phân phối nên tất nhiên nó ảnh hưởng lên đời sống cá nhân và thu nhập của họ.
1.2 Chức năng của giá.
+ Chức năng kích thích kinh tế:
+ Chức năng phân phối:
+ Chức năng điều chỉnh cơ cấu kinh tế:
+ Chức năng thước đo của cải:
1.3 Giá tối ưu.
Mức giá nào là mức giá hợp lý? Điều này tuỳ thuộc giác độ lợi ích khác nhau. Với mổi người mức giá này là hợp lý, nhưng đối với người khác lại không hợp lý. Người bán muốn bán được giá cao, còn người mua thì muốnmua được những sản phẩm với mức giá thấp. Tuy nhiên, nếu xét trên giác độ toàn nền kinh tế (lấy tính cân đối và tính hiệu quả chung làm chuẩn) thì mức giá tối ưu là mức giá bằng giá trị kinh tế. Đối với một ngành,nếu khối lượng sản xuất vượt quá khối lượng xã hội yêu cầu thì giá trị kinh tế của sản phẩm giảm. Khi đó nếu giá cả vận động theo giá trị kinh tế thì nó cũng giảm, từ đó tác động đến việc giảm khối lượng sản xuất và lượng tư liệu sản xuất sẽ được di chuyển sang ngành có khối lượng thiếu so với nhu cầu của xã hội. Do đó, nếu giá cả phù hợp với giá trị kinh tế thì có tác dụng cân đối lại cơ cấu sản phẩm. Tương tự như vậy, khi giá cả đạt mức giá trị kinh tế nó cũng có tác dụng kích thích hiệu quả chung đối với cả người mua và người bán.
Tóm lại, mức giá tối ưu là mức giá theo giá trị kinh tế xét trên góc độ toàn bộ nền kinh tế.
2. Những nhân tố ảnh hưởng đến việc định giá.
Giá cả sản phẩm chịu sự tác động của nhiều nhân tố khác nhau, trong đó, mối quan hệ cung cầu và mức độ cạnh tranh trên thị trường là hai nhân tố chủ yếu, đặc biệt quan trọng. Vì vậy, khi đánh giá sản phẩm, phải nghiên cứu kỹ để dự báo được những tác động của chúng tới sự hình thành giá cả của sản phẩm của doanh nghiệp.
Giá cả và khối lượng sản phẩm cung cầu trên thị trường.
Về mặt nguyên lý, giá cả trên thị trường bao giờ củng là giá cân bằng trên cung cầu trên thị trường. Tức là, mức giá mà ở đó lợi ích của người sản xuất và người tiêu dùng gặp nhau. Củng có nghĩa lượng cung cầu cân bằng. Trong trường hợp đó, nếu doanh nghiệp đưa thêm sản phẩm ra thị trường lập tức thị trường sẽ điều tiết làm giảm giá và ngược lại, nếu mức cung cấp sản phẩm ra thị trường ít đi, thì giá sẽ tăng lên. Vì thế để bảo đảm giá bán sản phẩm của mình, doanh nghiệp phải xác định được điểm cân bằng của cung cầu. Có như vậy, mới tạo ra khả năng tối đa hoá lợi nhuận và tối thiểu hoá được thua lổ.
Cung sản phẩm là khối lượng sản phẩm có thể cung ứng trên thị trường. Bao gồm, khối lượng sản phẩm đang lưu thông trên thị trường, khối lượng sản phẩm sẳn sàng tung ra thị trường. Mức cung sản phẩm phụ thuộc vào cơ cấu và khối lượng sản phẩm được sản xuất trong nước, cơ cấu và khối lượng hàng hoá nhập khẩu, quỹ hàng hoá dự phòng và quỹ hàng hoá tiêu dùng ngoài thị trường.
Khi nghiên cứu mức cung sản phẩm, phải đặc biệt chú ý đến sản lượng sản xuất của các nhà cạnh tranh, trong đó phải nghiên cứu kỹ về đặc điểm sản phẩm, bao bì quy cách, cách thức vận chuyển, phân phối sản phẩm của đối thủ. Ngoài ra, phải xem xét cả khả năng sản xuất của các dự án đầu tư mới về loại sản phẩm mà doanh nghiệp sẽ tung ra, cũng như tình hình sản xuất và giá cả của những sản phẩm có thể thay thế hiện đang lưu hành trên thị trường.
Cầu sản phẩm là nhu cầu có khả năng thanh toán của người tiêu dùng trong thời kỳ nhất định ở từng khu vực. Tuy nhiên trong thực tế, mức cầu về sản phẩm còn phụ thuộc vào rất nhiều nhân tố. Trước hết họ có muốn mua sản phẩm đó hay không? Sau đó là sản phẩm đó có hợp với thị hiếu của họ hay không? Và quan trọng nhất là họ có đủ tiền để mua hay không? Ngoài ra, còn phải tính đến khả năng họ mua được bao nhiêu thì không mua nữa.
Để dự báo mức cầu về một sản phẩm phải nghiên cứu kỷ các vấn đề sau:
Sản phẩm thuộc nhu cầu cứng hay mềm (nhu cầu cứng là nhu cầu không thể thiếu đối với người tiêu dùng, nhu cầu mềm là loại nhu cầu có thì tốt không có thì cũng không sao). Nhu cầu của người tiêu dùng đối với sản phẩm đó tăng hay giảm (mức độ thoả mãn nhu cầu trong quá khứ và hiện tại). Thu nhập của người tiêu dùng tăng hay giảm. Giá hàng thay thế và bổ sung tăng hay giảm. Quy mô thị trường mà doanh nghiệp tham gia. Sở thích và tập quán tiêu dùng của dân cư khu vực thị trường doanh nghiệp bán sản phẩm.
Trong các yếu tố kể trên, phải đặc biệt chú ý đến thu nhập của người tiêu dùng, là nhân tố quyêt định đến nhu cầu có khả năng thanh toán. Bởi vì thực tế cho thấy, với mổi mức thu nhập của dân cư sẽ có một cơ cấu chi mua sắm nhất định. Vì thế, mức thu nhập có vai trò quyết định đối với tổng giá cả, nó chi phối mức giá của từng hàng hoá cụ thể cũng như sự tương quan giữa các mức giá của các loại hàng hoá khác nhau, đặc biệt là đối với những hàng hoá có thể thay thế hoặc bổ sung cho nhau. Đây là nhân tố mà các doanh nghiệp phải quan tâm không chỉ trong định giá mà ngay từ khi xây dựng chiến lược kinh doanh, quyết định phương án sản xuất, với mức chi phí tối đa là bao nhiêu để có giá bán hợp lý, bảo đảm tiêu thụ nhanh và có lải.
2.2 Sức mua của tiền tệ.
Trong nền kinh tế hàng hoá phát triển, hàng hoá được trao đổi không phải trực tiếp với nhau mà thông qua vật ngang giá chung, quan tiền tệ, do đó giá cả hàng hoá còn phụ thuộc trực tiếp vào giá trị hay giá trị kinh tế và sức mua của tiền tệ.
Giá trị thực tế của đồng tiền: là trị kinh tế của đồng tiền với tư cách như một hàng hoá. Vì tiền trước hết phải là một hàng hoá nên nó cũng có giá trị kinh tế như các hàng hoá khác. Đối với tiền giấy thì giá trị thực của đồng tiền chính là giá trị kinh tế của các hàng hoá mà nó là đại diện, đó là giá trị kinh tế mà nó bảo đảm.
Giá trị danh nghĩa của đồng tiền: là giá trị do chủ quan ấn định của người phát hành.
Sức mua của dồng tiền: là lượng giá trị thực tế mà đồng tiền có thể mua được trên thị trường. Sức mua của đồng tiền thông thường không thống nhất với giá trị danh nghĩa vì ấn định của người phát hành có thể không phù hợp với các điều kiện khách quan của thị trường. Sức mua của tiền thể hiện quan hệ trao đổi trực tiếp giữa tiền và hàng hoá. Sức mua của tiền không chỉ phụ thuộc vào giá trị thực tế cơ sở của nó và giá trị danh nghĩa mà còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố như cung cầu tiền tệ và các yếu tố khác.
Trên thị trường giá cả của hàng hoá trực tiếp, phụ thuộc vào sức mua của tiền. Quan hệ giữa giá cả và sức mua của tiền là quan hệ tỷ lệ nghịch, sực mua của tiền giảm thì giá cả tăng, và ngược lại sức mua của tìên tăng thì giá cả giảm. Quan hệ giữa giá cả và giá trị thực tế của tiền là quan hệ gián tiếp, giá trị thực tế của tiền ảnh lên giá cả thông qua sức mua, do đó sự tăng lên, hay giảm xuống của giá trị tiền tệ thực tế và danh nghĩa chỉ tạo ra xu hướng giảm xuống hay tăng lên của giá cả mà thôi. CMác viết “.. tuyệt nhiên không thể kết luận được rằng, giá trị của tiển mà tăng lên thì bao giờ cũng làm cho giá cả hàng hoá giảm xuống theo cùng tỷ lệ và giá trị của tiền mà giảm xuống thì bao giờ cũng làm cho các giá cả hàng hoá tăng lên theo cùng tỷ lệ”.
2.3 Giá cả và các hình thái thị trường.
Giá cả luôn gắn với những thị trường cụ thể. Vì vậy, khi định giá sản phẩm phải nghiện cứu, tìm hiểu thị trường và cơ chế hoạt động của nó.
Theo nghĩa đen, thị trường là nơi mua, bán hàng hoá. Theo nghĩa rộng, thì thị trường là một quá trình, trong đó người mua và người bán tác động qua lại lẩn nhau để định giá cả và lượng hàng hoá.
Thị trường được hình thành trên cơ sở của sự phối hợp giữa người tiêu dùng với người sản xuất kinh doanh, thông qua hệ thống giá cả. Trên thị trường cái gì cũng có giá. Song mức giá cụ thể của từng sản phẩm hàng hoá là bao nhiêu, lại được quyết định bởi nhiều nhân tố, trong đó mức độ cạnh tranh trên thị trường là một nhân tố hết sức quan trọng. Bởi vậy, khi định giá sản phẩm của mình để tung ra thị trường các doanh nghiệp phải hiểu rỏ bản chất của thịt trường mà doanh nghiệp sẽ bán sản phẩm của mình. Trên thị trường có ba mối quan hệ. Một là, quan hệ giữa người bán và người mua, hai là, quan hệ giữa người bán với nhau và ba là, quan hệ giữa người mua với nhau. Tuỳ từng trạng thái của mối quan hệ, mà có các dạng thị trường khác nhau, và cũng tuỳ từng dạng thị trường mà doanh nghiệp tham gia có đối sách về giá cả khác nhau. Trên thực tế có ba dạng thị trường phổ biến, đó là thị trường cạnh tranh hoàn hảo, thị trường cạnh tranh độc quyền và thị trường độc quyền.
2.3.1 Thị trường cạnh tranh hoàn hảo.
Thị trường cạnh tranh hoàn hảo là thị trường có rất nhiều người bán và người mua, song không ai có ưu thế trong việc cung cấp và mua sản phẩm để có thể làm thay đổi giá. Các sản phẩm bán ra trên thị trường được người mua xem là động nhất, tức là các sản phẩm này không khác nhau lắm về quy cách, phẩm chất, mẩu mả....các tin tức về thị trường giá cả có thể ứng dụng cho cả người mua và người bán. Điều kiện tham gia thị trường cũng như rút ra khỏi thị trường là dể dàng. Trên thị trường này, việc định giá của doanh nghiệp không có các nào khác là phải tự thích ứng với giá cả hiện có trên thị trường. Muốn có lải, doanh nghiệp chỉ có một cách duy nhất là giảm thấp chi phí sản xuất. Bằng không doanh nghiệp khó mà tồn tại trong kinh doanh.
MC AC
P = MR
P*
0 Q* Q
Hình : Doanh nghiệp cạnh tranh hoàn hảo.
2.3.2 Thị trường cạnh tranh độc quyền.
Đây là loại thị trường phổ biến hiện nay. Kiểu thị trường này giống thị trường cạnh tranh hoàn hảo ở chổ nó có nhiều doanh nghiệp nhỏ và có sự gia nhập ngành tự do trong dài hạn. Nhưng trong thị trường này phần lớn các sản phẩm không đồng nhất, mổi doanh nghiệp đều có đường cầu dốc xuống vì các sản phẩm khác nhau. Trong ngắn hạn, các doanh nghiệp rất giống với nhà độc quyền. Mổi doanh nghiệp là một người "đặt giá" cho sản phẩm của mình chứ không phải là người "chấp nhận giá", đặt mức giá tương ứng với mức sản lượng tối đa hoá lợi nhuận. Nhưng trong dài hạn, sự tồn tại của siêu lợi nhuận sẽ quốn hút sự gia nhập mới, điều đó làm giảm cầu về sản LMC LAC
phẩm của mổi doanh nghiệp
và loại trừ lợi nhuận cao
bằng việc buộc mổi
doanh nghiệp phải đặt mức giá D=AR
thấp bằng chi phí sản xuất
trung bình ở tiếp điểm giữa 0 Q1 Q2 Q
đường cầu của doanh nghiệp MR
Hình: Cạnh tranh độc quyền trong dài hạn.
và đường chi phí trung bình của nó. Làm cho siêu lợi nhuận của doanh nghiệp có
biến mất.
2.3.3 Thị trường độc quyền.
Là thị trường mà ở đó chỉ có một người bán độc nhất. Họ hoàn toàn kiểm soát số lượng và giá cả sản phẩm bản ra trên thị trường. Trên thị trường không có sự cạnh tranh về giá cả nên doanh nghiệp được toàn quyền quyết định. Tuy nhiên, như thế không có nghĩa là doanh nghiệp có thể định giá bao nhiêu cũng được. Tuỳ theo đặc điểm tiêu dùng của sản phẩm (thuộc nhu cầu sản phẩm cứng hay sản phẩm mềm) và cơ chế quản lý của nhà nước mà doanh nghiệp ấn định giá cao hay thấp để cuối cùng thu được lợi nhuận tối đa. Nói chung được độc quyền trong sản xuất kinh doanh là có lợi, song về mặt xã hội, thì đây là điều tồi tệ vì nó kìm hãm sự phát triển của sản xuất, làm hại người tiêu dùng. Trong thực tế, trường hợp nhà độc quyền khống chế một lượng sản phẩm sản xuất thì nhất định thi hành chính sách giá cao nhằm thu lợi nhuận cực đại. Nhưng ở nước ta, tình trạng độc quyền rất phổ biến trong thời bao cấp và đến nay, cũng vẩn còn một số doanh nghiệp được nhà nước cho phép độc quyền như ngành điện, nước, bưu chính viển thông, đường sắt, hàng không... tuy nhằm mục đích khác nhau nhưng đều mang tính chất của nhà độc quyền. P
MC
P
P*
D
0 Q Q* MR Q
Hình: Nhà độc quyền tối đa hoá lợi nhuận.
2.4 Vai trò quản lý giá cả của nhà nước.
Các doanh nghiệp ngày nay có thể tự do định giá nhằm đạt mục tiêu nhất định cho doanh nghiệp nhưng việc tự do đó được đặt dưới sự quản lý về giá của nhà nước như các pháp lệnh chống bán phá giá, giá sàn, giá trần, giá độc quyền, đánh thuế với một số mặt hàng...
Sự điều tiết giá cả của nhà nước là sự cần thiết khách quan và có rất nhiều tác dụng, vai trò khác nhau. Đáng chú ý nhất là vai trò trong việc thực hiện các mục tiêu kinh tế vỉ mô. Để tác động vào nền kinh tế có hiệu quả, các chính phủ phải đề ra các hệ thống mục tiêu về sản lượng, giá cả, công ăn việc làm, lạm phát, phúc lợi xã hội ..., mà trên cơ sở đó xây dựng các chiến lược và chính sách cụ thể. Ngoài ra, sự điều tiết giá cả của nhà nước không chỉ có vai trò quan trọng trong việc thực hiện các mục tiêu kinh tế, mà còn có tác dụng to lớn đối với việc thực hiện các mục tiêu xã hội, cụ thể là sự tiến bộ và công bằng xã hội...
B/ Định giá trong doanh nghiệp.
1. Định giá, sự sống còn của doan nghiệp.
Định giá sản phẩm là vấn đề cực kỳ quan trọng có ảnh hưởng trực tiếp đến khả năng tiêu thụ sản phẩm, đến lợi nhuận do đó ảnh hưởng đến sự tồn tại và phát triển nói chung và sự sống còn của doanh nghiệp nói riêng. Vì thế, trong quá trình sản xuất kinh doanh, không thể định giá một cách chủ quan, tuỳ tiện và càng không được xuất phát từ lòng mong muốn. Giá cả là một phạm trù kinh tế tổng hợp, tồn tại một cách khách quan cùng với sự ra đời và phát triển của sản xuất hàng hoá. Đồng thời giá cả củng phản ánh mối quan hệ kinh tế giữa người bán và người mua, nhà sản xuất với thị trường và xã hội.
Trong thực tế cuộc sống cho thấy, mổi người chúng ta đã có lúc là người bán và có lúc là người mua, xuất phát từ lợi ích kinh tế của mình khi là người bán ta luôn muốn bán với giá cao, nhưng ở vị trí của người mua ta chỉ muốn mua rẻ. Đó là sự mâu thuẩn muôn thủa giữa người bán và người mua, xét về mặt lợi ích kinh tế, trong quan hệ thị trường, mâu thuẩn này chỉ được giải quyết khi, sản phẩm đã được định giá đúng, thoả mản được lòng mong muốn trong giới hạn có thể chấp nhận được giữa người bán và người mua.
Cho nên, trong sản xuất kinh doanh, định giá là công việc hết sức khó khăn, phức tạp, nó thực sự là khoa học, nghệ thuật đòi hỏi phải không khéo, linh hoạt và mềm dẻo, sao cho phù hợp với thị trường, đảm bảo trang trải được các chi phí và có lãi. Nừu định giá không chính xác, giá quá cao hoặc quá thấp, đều có thể dẩn đến không thể tiêu thụ được sản phẩm, không bù đắp được chi phí và do đó, sẽ đẩy doanh nghiệp vào tình trạng thua lổ, phá sản.
2. Các loại giá trong doanh nghiệp.
Xác định các loại giá trong kinh doanh, để đưa ra các mức giá dự kiến, lựa chọn các phương thức ứng xử về giá đối với từng sản phẩm hàng hoá nhằm thoả mản nhu cầu của doanh nghiệp, cũng như các yêu cầu có tính chất bắt buộc của nhà nước trong lỉnh vực giá cả, là công việc cực kỳ quan trọng đối với bất cứ một doanh nghiệp nào khi tham gia vào thị trường. Trong thực tế kinh doanh, khi nói đến định giá sản phẩm, tức là nói đến việc xác định các loại giá cả, bao gồm: mức giá, chênh lệch giá, tỷ giá, giá chuẩn, khung giá và giá giới hạn. Trong đó, mức giá, chênh lệch giá và tỷ giá là các căn cứ quan trọng nhất để doanh nghiệp xây dựng mức giá dự kiến và làm giá phân biệt theo đinh hướng kinh doanh của mình trên cơ sở yêu cầu của thị trường và những thể chế của nhà nước trong lỉnh vực giá.
2.1 Mức gia.
Mức giá là biểu hiện bằng tiền giá trị, của hàng hoá có lượng giá trị sử dụng nhất định, thực hiện ở một khâu lưu thông một quan hệ trao đổi nhất định. Mức giá của sản phẩm phụ thuộc vào quy cách chất lượng sản phẩm, kiểu kênh phân phối, thời gian, địa điểm tiêu thụ sản phẩm, phương thức thanh toán, số lượng mua và một số các tiêu thức khác trong từng doanh nghiệp cụ thể.
Đối với các doanh nghiệp, mức giá được xác định cho một đơn vị sản phẩm cụ thể. Nó có thể là mức giá dự kiến hoặc là mức giá thực hiện trong mua bán. Tuy nhiên, mức giá cụ thể của từng sản phẩm là bao nhiêu, về cơ bản được quyết định trực tiếp bởi quan hệ cung cầu trên thị trường, sự can thiệp của doanh nghiệp và của nhà nước là không đáng kể, muốn can thiệp vào mức giá, phải tác động thông qua việc làm thay đổi quan hệ cung cầu trên thị trường (trong thị trường độc quyền). Trong trường hợp là mức giá dự kiến, chỉ tiêu mức giá sẽ là tham số quan trọng để phân tích điểm hoà vốn, dự đoán các chỉ tiêu khối lượng sản phẩm bán ra, tổng chi phí, tổng thu nhập và tổng lợi nhuận của doanh nghiệp. Mức độ đạt được của các chỉ tiêu dự kiến này sẽ là căn cứ để doanh nghiệp quyết định chiến lược kinh doanh, phương án sản phẩm và lựa chọn phương án giá tối ưu.
Mức giá tối ưu mà doanh nghiệp lựa chọn phải là mức giá nằm trong vùng giá dự kiến mà tại đó, có thể thoả thuận được những yêu cầu bắt buộc của chính sách giá cả và đáp ứng được mục tiêu kinh doanh của doanh nghiệp. Mức giá thực hiện là mức giá doanh nghiệp sử dụng trong mua bán. Mức giá này sẽ quyết định tổng thu nhập thực tế và tổng lợi nhuận thực tế doanh nghiệp đạt được. Vì vậy, nó có ý nghĩa quyết định khả năng thu hồi các chi phí đã bỏ ra, củng như khả năng tích luỹ để mở rộng sản xuất của doanh nghiệp. Trong nền kinh tế thị trường, mức giá của một đơn vị sản phẩm nói chung đều do các doanh nghiệp tự định đoạt. Tuy nhiên hiện nay cũng có một số sản phẩm do nhà nước định gía - chủ yếu là những sản phẩm có tính chiến lược, điều tiết các hoạt động kinh tế ở tầm vĩ mô do nhà nước quy định.
2.2 Chênh lệch giá (giá phân biệt).
Là những khoảng cách về mức giá của cùng một loại sản phẩm, hàng hoá nhưng khác nhau về chất lượng, thời gian và địa điểm tiêu thụ, phân phối, phương thức thanh toánvà số lượng mua áp dụng cho các đối tượng tiêu dùng khác nhau.
Khi phân biệt giá doanh nghiệp cần căn cứ vào các yếu tố sau:
+ Thị trường và khu vực tiêu thụ: Căn cứ vào đặc điểm của từng thị trường và khu vực cụ thể mà doanh nghiệp cần áp dụng giá phân biệt cho từng loại sản phẩm khi đem ra tiêu thụ ở từng thì trường. Chẳng hạn như thị trường truyền thống hay thị trường doanh nghiệp mới gia nhập, thị trường thành phố, hay thị trường nông thôn miền núi.
+ Chất lượng sản phẩm: Căn cứ vào chất lượng để tiến hành phân loại sản phẩm theo cấp, loại chất lượng khác nhau từ đó ra quyết định các mức giá khác nhau cho các sản phẩm khác nhau đó.
+ Khối lượng mua của người tiêu dùng: Để khuyến khích khách hàng mua một số lượng lớn, cần áp dụng các tỉ lệ chiết khấu. Tức là trên cơ sở giá bán lẻ, quy định một số tỷ lệ chiết khấu giảm giá cho người mua tương ứng với từng khối lượng hàng cụ thể, chẳng hạn giá bán 1 loại sản phẩm là 10000đ nếu mua 100sp có thể giảm 5%, 300sp có thể giảm 10%, 500sp có thể giảm 15%, 1000sp giảm 20%....Mặc dù trong trường hợp này lợi nhuận trên một đơn vị sản phẩm của doanh nghiệp thu được có giảm đi, song việc tiêu thụ nhanh sản phẩm với khối lượng lớn nên tổng lợi nhuận của doanh nghiệp có thể đạt được nhiều hơn và có thể quay vòng vốn nhanh hơn.
Ngoài ra, doanh nghiệp có thể áp dụng một số hình thức khác: như giảm giá cho những đối tượng có thu nhập thấp, giá khai trương, giá khuyến mại...hay là giá phân biệt cho việc thanh toán nhanh nhằm kích thích khách hàng trả tiền mặt.....
áp dụng chênh lệch giá trong kinh doanh là việc làm phổ biến hiện nay, nhằm đảm bảo tính linh hoạt trong việc xác định giá trong điều kiện giữ nguyên mức giá cơ sở, làm tăng tốc độ, sản lượng bán sản phẩm, kích thích người mua, làm thoả mản các nhu cầu mua sản phẩm khác nhau của người tiêu dùng.
2.3 Giá chuẩn.
Giá chuẩn không phải là giá hiện thực áp dụng trong mua bán trên thị trường, mà chủ yếu là do nhà nước xây dựng cho các sản phẩm chuẩn. Giá chuẩn là sự thể hiện quan điểm chính sách của nhà nước về việc quản lý chỉ đạo giá. Hiện nay nhà nước vẩn quản lý giá của một số mặt hàng, sản phẩm như điện, cước phí bưu chính viển thông, thuỷ lợi phí, các loại kim khí nhập khẩu .... nên các doanh nghiệp sản xuất và kinh doanh các loại sản phẩm thuộc doanh mục nhà nước định giá chuẩn, khi xác định các mức giá dự kiến bắt buộc phải căn cứ vào giá chuẩn của nhà nước để ấn định mức giá của mình.
2.4 Khung giá.
Khung giá là chỉ tiêu quan trọng trong hệ thống giá cả, nó là độ lệch giữa mức giá tối đa và mức giá tối thiểu của một loại sản phẩm lưu thông trên thị trường nằm trong doanh mục nhà nước định khung giá, thì các doanh nghiệp phải định giá sản phẩm của mình trong khung giá đó. Doanh nghiệp không được quy định mức giá cao hơn mức tối đa, ngược lại cũng không được định giá thấp hơn mức tối thiểu. Trong từng doanh nghiệp dù là sản xuất kinh doanh các mặt hàng không thuộc diện nhà nước quy định khung giá thì các doanh nghiệp cung nên ấn định khung giá sản phẩm của mình, các mức giá cụ thể nên giao động trong khung giá tuỳ theo tình hình và đặc điểm thị trường.
Khi quy định khung giá phải hết sức thận trọng trong việc xác định độ lệch giữa giá tối thiểu và giá tối đa, độ lệch này phải được tính toán cho từng loại sản phẩm cụ thể, từng khu vực thị trường.. tuỳ từng địa điểm, thời gian tiêu thụ mà có khung giá khác nhau.
2.5 Tỷ giá.
Tỷ giá là một trong những căn cứ quan trọng để doanh nghiệp xem xét và quyết định giá bán sản phẩm của mình. Thực chất, tỷ giá là mối quan hệ so sánh giữa hai mức giá của hai loại sản phẩm khác nhau, không đồng nhất về giá trị sử dụng ... Tỷ giá có thể được tính qua 3 thời kỳ quá khứ, hiện tại và tương lai nên nó là chỉ tiêu quan trọng, phục vụ cho công tác quản lý và chỉ đạo giá của nhà nước nói chung và của doanh nghiệp nói riêng. Tỷ giá là kết quả so sánh giữa hai mức giá cụ thể, với những sản phẩm đem so sánh để xác định tỷ giá phải có mối quan hệ với nhau, sản phẩm này có thể thay thế cho nhau trong sản xuất và tiêu dùng.. ngoài ra khi xác định tỷ giá phải đảm bảo sự đồng nhất về khâu giá, chất lượng sản phẩm, thời gian và thị trường tiêu thụ...Nếu không việc xác định tỷ giá sẽ là vô nghĩa và không thể làm cơ sở cho việc ấn định giá của doanh nghiệp.
3. Các yếu tố cấu thành giá sản phẩm.
Trong cơ chế thị trường, hoạt động kinh doanh dù thuộc thành phần nào đi nữa cũng đều có chung một mục tiêu là thu lợi nhuận. Nhưng lợi nhuận lại được hình thành từ sự chênh lệch giữa giá bán sản phẩm hàng hoá với tổng chi phí đã bỏ ra gồm (chi phí sản xuất và tiêu thụ sản phẩm và các khoản nộp nhà nước theo luật định). Vì thế, nếu giá bán càng cao, chi phí càng thấp thì lợi nhuận thu được càng nhiều và ngược lại. Tuy nhiên, như đã nói trên, mặc dầu giá bán đối với từng sản phẩm hàng hoá cụ thể thuộc quyền quyết định của doanh nghiệp, nhưng không phải vì thế mà ấn định mức giá bán một cách tuỳ ý. Muốn có cơ sở định giá đúng phải xác định đầy đủ các yếu tố cấu thành nên giá bán sản phẩm:
3.1 Các yếu tố cấu thành tổng chi phí.
Tổng chi phí sản xuất và tiêu thụ sản phẩm bao gồm:
+ Chi phí sử dụng máy móc thiết bị .
+ Chi phí nguyên nhiên vật liệu.
+ Chi phí tiền lương.
+ Chi phí quản lý.
+ Chi phí tiêu thụ sản phẩm.
Khi tính tổng chi phí sản xuất và tiêu thụ sản phẩm không tính các khoản: chi phí hao hụt về vật tư hàng hoá quá mức cần thiết, chi phí phát sinh do vi phạm hợp đồng kinh tế, lải trả ngân hàng về tiền vay do dự trữ vật tư, hàng hoá quá mức cần thiết, các loại thiệt hại quá mức quy định cho phép của quy trình sản xuất cũng như các khoản thuộc chi phí khen thưởng, phúc lợi và lập quỹ xí nghiệp.
3.2 Các yếu tố cấu thành lợi nhuận mục tiêu.
Trong thời kỳ bao cấp, lợi nhuận để hình thành giá ván sản phẩm hàng hoá là lợi nhuận hợp lý, thường tính bằng tỷ lệ % nhất định so với chi phí sản xuất hợp lý, được xác định trên cơ sở định mức về vồng quau của vốnm ứng với từng lỉnh vực sản xuất và từng ngành hàng, nhóm hàng. Song trong nền kinh tế thị trường và đặc biệt là với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh, việc xác định lợi nhuận để hình thành giá thành, giá bán sản phẩm hàng hoá không thể là lợi nhuận hợp lý kiểu như củ, mà nó phải là lợi nhuận mục tiêu.
Sở dĩ như vậy vì, với mục đích kinh doanh để kiếm lời, thì hoạt động kinh doanh phải được coi như một chiếc máy in tiề. Bỏ vào kinh doanh một số tiền nhất định thì phải thu về được một số tiền lớn lơn. Trên quan điểm ấy mà xét, lợi nhuận mục tiêu của doanh nghiệp phải là số lải đủ đảm bảo trang trải tất cả các khoản chi phí thực tế đả bỏ ra và có lải thoả đáng.
Như vậy, cơ cấu lợi nhuận mục tiêu phải bao gồm lợi nhuận hợp lý cộng với các khoản chi phí thực tế đã bỏ ra mà theo quy định không được tính vào chi phí sản xuất và tiêu thụ sản phẩm như đã nói trên và các khoản chi phí khác như chi phí ngầm chi phí phòng ngừa rủi ro, chi phí cơ hội...
4. Phương pháp định giá sản phẩm trong doanh nghiệp.
Thực tiển sản xuất kinh doanh trong cơ chế thị trường cho thấy, giá cả sản phẩn được quyết định chủ yếu bởi các quan hệ thị trường. Song không phải vì thế mà các doanh nghiệp đem bán sản phẩm của mình theo mức giá có sẳn trên thị trường. Dù cho bất cứ trường hợp nào, trước khi sản xuất và đặc biệt là trước khi tung sản phẩm ra bán, doanh nghiệp đều phải tính toán giá cả sao cho hợp lý trên cơ sở bảo đảm mục tiêu kinh doanh, để làm căn cứ cho việc ấn định mức giá cụ thể sản phẩm của mình. Trên thực tế, nếu như doanh nghiệp ấn định một mức giá khác với giá thị trường sẳn có, nó sẽ là cơ cở hết sức quan trọng để doanh nghiệp thăm dò khai thác thị trường, xác định khả năng cạnh tranh. Cho nên việc tính toán giá cả chẳng những là vấn đề cực kỳ quan trọng đối với việc định mức giá cụ thể của sản phẩm mà nó còn giúp doanh nghiệp dự báo được giá cả thị trường, chủ động điều tiết số lượng sản phẩm sản xuất và tung ra thị trường, cũng như chủ động trong việc điều tiết giá cả một cách linh hoạt trong điều kiện cạnh tranh.
4.1 Định giá cộng chi phí.
Phương pháp định giá phổ biển nhất được sử dụng trong thực tế là tính chi phí trung bình trực tiếp của việc sản xuất ra sản phẩm rồi cộng thêm các chi phí gián tiếp và cộng thêm một phần để có lãi. Phương pháp định giá cộng chi phí bao gồm hai bước: Thứ nhất là xác định chi phí đơn vị để lấy nó làm cơ sở định giá. Thứ hai là xác định phần gia tăng sẽ được cộng vào chi phí để định giá. Khi xác định chi phí để định giá các doanh nghiệp thường dựa vào việc tính toán chi phí chuẩn, bao gồm việc giả định một mức sản lượng hợp lý rồi lấy chi phí lao động và nguyên vật liệu dự kiến cho một đơn vị sản phẩm cộng thêm phần chi phí gián tiếp phân bổ cho mỗi sản phẩm. Trong thực tế về định giá cho thấy rằng các doanh nghiệp tạo ra một phần lải là 10% để tính giá. Thế nhưng đó không phải là con số chuẩn của tất cả các ngành mà các danh nghiệp thường điều chỉnh phần cộng thêm đó theo điều kiện cầu và cạnh tranh.
4.2 Tỷ suất lợi nhuận chỉ tiêu.
Là gắn với việc theo đuổi một tỷ suất lợi nhuận chỉ tiêu thu được từ vốn. Theo công thức:
lợi nhuận đòi hỏi = a*K
Trong đó: a là tỷ suất chỉ tiêu, K là lượ._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- M0792.doc