Phương hướng và giải pháp thực hiện chương trình mục tiêu quốc gia về việc làm giai đoạn 2006 – 2010

Lời Mở đầu Đất nước ta đang từng bước tự tin thực hiện công cuộc đổi mới nền kinh tế, cùng với các chính sách phát triển kinh tế trong quá trình toàn cầu hoá và tham gia hội nhập nền kinh tế thế giới. Đảng và Nhà nước ta đã thực hiện có hiệu quả hệ thống các chính sách phát triển kinh tế- xã hội như : chính sách về việc làm, chính sách thu nhập, chính sách phát triển giáo dục-đào tạo nghề, phát triển các ngành nghề, doanh nghiệp, công ty…Nhờ đó đã góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng

doc67 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1400 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Phương hướng và giải pháp thực hiện chương trình mục tiêu quốc gia về việc làm giai đoạn 2006 – 2010, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
công nghiệp hóa, hiện đại hóa , thúc đẩy quá trình phát triển kinh tế xã hội góp phần đưa nước ta tiến kịp các nước trong khu vực và trên thế giới. Tuy nhiên bên cạnh những thành tựu đã đạt được nền kinh tế nước ta còn tồn tại khá nhiều vấn đề xã hội gay gắt như : tình trạng người chưa có việc làm và thiếu việc làm ngày càng gia tăng, phân hoá giàu nghèo giữa hai khu vực thành thị - nông thôn ngày càng sâu sắc, tệ nạn xã hội cũng có chiều hướng tăng lên… Nhưng trong tất cả các vấn đề xã hội đã nêu trên thì vấn đề thất nghiệp và thiếu việc làm là đáng quan tâm nhất trong giai đoạn hiện nay, vì nó là vấn đề mang tính toàn cầu. Nó không phải là vấn đề đáng quan tâm của riêng một ngành, một lĩnh vực mà đối với cả nước ta và các nước khác trên thế giới, không phân biệt các nước đã phát triển hay đang phát triển. Do đó trong công cuộc CNH-HĐH và hội nhập kinh tế của đất nước thì việc nghiên cứu các chương trình phát triển việc làm, nghiên cứu mục tiêu và đề ra các giải pháp giải quyết việc làm cho người lao động có ý nghĩa vô cùng quan trọng và thiết thực đối với sự phát triển kinh tế và ổn định xã hội. Với ý nghĩa đó tôi đã chọn đề tài: “Phương hướng và giải pháp thực hiện chương trình mục tiêu quốc gia về việc làm giai đoạn 2006 – 2010" Nội dung của đề tài gồm ba phần: Phần I: Lý luận chung về lao động và việc làm. Phần II: Đánh giá kết qủa hoạt động của chương trình mục tiêu quốc gia về việc làm giai đoạn 2001 – 2005. Phần III: Phương hướng và giải pháp thực hiện chương trình mục tiêu quốc gia về việc làm giai đoạn 2006 – 2010. Tôi xin chân thành cảm ơn thầy giáo hướng dẫn TS. Lê Huy Đức và cán bộ giúp đỡ TS. Trần Ngọc Diễn cùng toàn thể cán bộ của Vụ Lao động- Việc làm đã tận tình hướng dẫn và giúp đỡ tôi hoàn thành chuyên đề này. Mặc dù đã cố gắng nhưng do thời gian và khả năng còn nhiều hạn chế nên bài viết không tránh khỏi những thiếu sót. Tôi rất mong nhận được sự góp ý của thày giáo, cán bộ giúp đỡ và cán bộ của phòng để chuyên đề này được hoàn chỉnh hơn. Hà Nội ngày 7 tháng 5 năm 2005 Sinh viên: Nguyễn Thị Kim Phượng Phần I Lí Luận Chung Về Lao Động –Việc Làm I. Lí luận về lao động. 1. Khái niệm nguồn nhân lực và nguồn lao động. Khái niệm nguồn nhân lực: Nguồn nhân lực là một bộ phận của dân số trong độ tuổi nhất định theo quy định của pháp luật có khả năng tham gia lao động. Nguồn nhân lực được biểu hiện trên hai mặt : về số lượng đó là tổng số những người trong độ tuổi lao động và thời gian làm việc có thể huy động được của họ. Khái niệm hiệu quả sử dụng nguồn nhân lực: Sử dụng nguồn nhân lực xã hội là quá trình thu hút và phát huy lực lượng lao động xã hội nhằm tạo ra của cải vật chất và tinh thần đáp ứng nhu cầu của xã hội và mọi thành viên trong xã hội. Thước đo chung nhất biểu hiện trình độ sử dụng nguồn nhân lực xã hội là tỷ lệ người có việc làm và ngược lại là tỷ lệ người thất nghiệp trong nguồn nhân lực xã hội. Vì vậy, nói đến vấn đề sử dụng nguồn nhân lực xã hội là đề cập đến tình trạng việc làm và thất nghiệp trong xã hội. Sử dụng có hiệu quả nguồn nhân lực không chỉ là mức độ thu hút lao động vào sản xuất xã hội, mà còn thể hiện ở mức độ phát huy mọi tiềm năng sẵn có của mọi lực lượng lao động trong quá trình hoạt động( tri thức, tiềm năng kỹ năng kỹ xão, sự sáng tạo…). Điều đó có nghĩa là phát huy cao độ mọi tiềm năng của con người vào hoạt động sản xuất xã hội. Chỉ tiêu tổng hợp nói lên hiệu quả sử dụng nguồn nhân lực xã hội là tốc độ tăng năng suất lao động và giảm tỷ lệ thất nghiệp xuống mức tối thiểu. Việc sử dụng và sử dụng có hiệu quả nguồn nhân lực xã hội bao giờ cũng thông qua hệ thống cơ chế chính sách của Nhà nước và phụ thuộc vào quan đỉêm chính trị của Nhà nước. Trong nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung, việc sử dụng nguồn nhân lực xã hội thường theo hướng kế hoạch tập trung thống nhất của Nhà nước thiếu năng động và thiếu hiệu quả. Sau năm 1986 khi nền kinh tế nước ta chuyển sang vận hành theo nền kinh tế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, việc sử dụng nguồn nhân lực xã hội đã thu được hiệu quả cao hơn. Đây chính là nhân tố quyết định sự phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Khái niệm nguồn lao động : Nguồn lao động ( hay lực lượng lao động) là một bộ phận dân số trong độ tuổi qui định thực tế có tham gia lao động và những người không có việc làm nhưng đang tích cực tìm việc làm. 2. Đặc điểm của lao động ở các nước đang phát triển. Số lượng lao động tăng nhanh : Có sự khác biệt chủ yếu giữa sự thách thức phát triển mà các nước đang phát triển gặp phải so với các nước phát triển là sự gia tăng chưa từng thấy của lực lượng lao động, hầu hết ở các nước, trung bình mỗi năm số người tìm việc làm tăng từ 2% trở lên. Sự gia tăng nguồn lao động liên quan chặt chẽ với việc gia tăng dân số. Theo số liệu tổng điều tra dân số 1/4/1999 dân số nước ta là 76,32 triệu người : trong đó khoảng 39 triệu người là lực lượng lao động chiếm 51% dân số . Dự báo ở nước ta mỗi năm bình quân tăng thêm hơn 1 triệu lao động dẫn đến sức ép rất lớn về việc làm. Phần lớn lao động làm việc trong khu vực nông nghiệp: Một trong những đặc điểm nổi bật nhất về lao động ở các nước đang phát triển là đa số lao động làm nông nghiệp.Việt Nam có lao động nông nghiệp chiếm hơn 70% tổng số lao động. Loại hình công việc này mang tính phổ biến ở những nước nghèo. Xu hướng chung là lao động trong nông nghiệp sẽ giảm dần trong khi lao động trong công nghiệp và dịch vụ lại tăng. Mức độ chuyển dịch này tuỳ theo mức độ phát triển của nền kinh tế. Hầu hết người lao động được trả tiền công thấp : Lực lượng lao động ở các nước đang phát triển như đã phân tích ở trên, có số lượng ngày càng tăng làm cho nguồn cung ứng lao động dồi dào. Trong khi đó hầu hết các nguồn lực khác đều thiếu và yếu: trang thiết bị cơ bản, đất đai trồng trọt, ngoại tệ và những nguồn lực khác như khả năng buôn bán, trình độ quản lý. Tiền công thấp còn một nguyên nhân cơ bản nữa là trình độ chuyên môn của người lao động thấp. Trong lực lượng lao động xã hội, số người có trình độ văn hoá phổ thông cơ sở chiếm 25%, phổ thông trung học 13%. Hàng năm chỉ có 7% số thanh niên sau khi học hết phổ thông trung học được đào tạo tiếp trong các trường học nghề, trung học và đại học chuyên nghiệp, chỉ có 9% trong tổng số lao động toàn xã hội là lao động kỹ thuật. Các kỹ sư, chuyên viên kỹ thuật, đội ngũ cán bộ quản lý kinh tế và công nhân kỹ thuật giỏi còn ít. Bên cạnh đó, ở các nước đang phát triển tình trạng chung là những người lao động còn thiếu cả khả năng lao động chân tay ở mức cao vì sức khoẻ và tình trạng dinh dưỡng của họ thấp. Một bộ phận lớn lao động chưa được sử dụng : Như trên đã phân tích, việc đánh giá tình trạng chưa sử dụng hết lao động phải được xem xét qua các hình thức biểu hiện của thất nghiệp : thất nghiệp hữu hình và thất nghiệp trá hình. Do sức ép về dân số và những khó khăn về kinh tế ở các nước đang phát triển đã tác động lớn tới vấn đề công ăn việc làm ở cả 2 khu vực thành thị và nông thôn. Tình trạng lao động thất nghiệp, thiếu việc làm có xu hướng gia tăng đặc biệt ở khu vực thành thị, ở nước ta năm 1998 chỉ tính riêng khu vực thành thị thì tỷ lệ thất nghiệp là 6,85% tăng hơn 0,84% so với năm 1997. Số lao động thiếu việc làm trong các doanh nghiệp Nhà nước hiện nay là trên 8% thậm chí có nơi lên tới 50 - 60%. Còn ở nông thôn, tỷ lệ thiếu việc làm là khoảng 27,65% tính chung cho cả nước, tỉ lệ thời gian lao động được sử dụng giải quyết việc làm đang là áp lực nặng nề đối với các nước đang phát triển nói chung và Việt nam nói riêng. Vậy vấn đề giải quyết việc làm ở nước ta được xem là vấn đề kinh tế-xã hội rất tổng hợp và phức tạp. Chiến lược ổn định việc làm cho hoạt động kinh tế là 71,13%. Thực tế đó cho thấy, chiến lược phát triển kinh tế – xã hội đến năm 2010 của Việt Nam đã khẳng định : Giải quyết việc làm, sử dụng tối đa tiềm năng lao động xã hội là mục tiêu quan trọng hàng đầu của chiến lược, là một tiêu chuẩn để định hướng cơ cấu kinh tế và lựa chọn công nghệ.Trên phạm vi rộng, giải quyết việc làm bao gồm những vấn đề liên quan đến phát triển nguồn lực và sử dụng có hiệu quả nguồn nhân lực; còn theo phạm vi hẹp, giải quyết việc làm chủ yếu hướng vào đối tượng và mục tiêu giảm tỉ lệ thất nghiệp, khắc phục tình trạng thiếu việc làm, nâng cao hiệu quả việc làm và tăng thu nhập. 3.Vai trò của lao động đối với sự phát triển kinh tế xã hội. Vai trò hai mặt của lao động trong quá trình phát triển kinh tế : Lao động, một mặt là một bộ phận của nguồn lực phát triển, đó là yếu tố đầu vào không thể thiếu được của quá trình sản xuất. Mặt khác lao động là một bộ phận của dân số, những người được hưởng lợi ích của sự phát triển . Sự phát triển kinh tế suy cho đến cùng đó là tăng trưởng kinh tế để nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho con người. Trong quá trình tồn tại và phát triển con người vừa đóng vai trò là người hưởng thụ, vừa đóng vai trò là nguồn cung cấp đầu vào quan trọng cho quá trình sản xuất. Điều đó thể hiện : - Con người trong cuộc sống của mình luôn xuất hiện các nhu cầu về ăn mặc, ở, đi lại… Do đó, con người cần phải sử dụng và tiêu dùng của cải vật chất thông qua quá trình phân phối và tái phân phối. - Mọi của cải mà con người sử dụng không phải tự nhiên có, mà với tư cách là chủ thể sáng tạo ra mọi của cải vật chất, tinh thần, con người đã bằng sức lao động của mình( lực lượng sản xuất cơ bản nhất) tạo ra giá trị hàng hoá và dịch vụ. Mác đã từng khẳng định rằng : “ Thế giới này không ngừng hoạt động lao động sản xuất dù chỉ là một ngày”. Như vậy vấn đề việc làm và tạo việc làm cho người lao động là rất cần thiết và đang là mối quan tâm của hầu hết các quốc gia trên thế giới. Hiện nay, nớc ta có một lực lượng lao động đông đảo với hơn 45 triệu người và sự bổ sung cho nguồn lao động mỗi năm vẫn là mức cao. Như vậy bình quân mỗi năm có trên 1,2 triệu người bước vào độ tuổi lao động. Mặc dù tốc độ tăng trởng kinh tế của nước ta khá cao so với thế giới và khu vực (7,4 % ) năm 2003 nhưng nước ta vẫn còn một lượng lao động dôi dư rất lớn. Mặt khác do tác động của việc chuyển đổi cơ cấu kinh tế và hội nhập kinh tế thế giới đã khiến cho các doanh nghiệp nước ta phải sắp xếp lại sản xuất và bố trí lại lao động. Chính điều này đã làm cho nhiều lao động phải nghỉ việc hoặc thiếu việc làm khiến cho số người thất nghiệp ngày một tăng lên. Mà thất nghiệp và thiếu việc làm thực sự đang là một gánh nặng và là một áp lực trong quá trình phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Do vậy, vấn đề tạo việc làm hiện nay đang là một vấn đề bức xúc, gay cấn và nhạy cảm đối với từng gia đình, đơn vị, ngành kinh tế, khu vực…Nếu việc làm được giải quyết không tốt có thể kéo theo nhiều hậu quả to lớn về mặt kinh tế, chính trị, đời sống xã hội Lao động với tăng trưởng kinh tế : Vai trò của lao động với tăng trưởng kinh tế được xem xét qua các chỉ tiêu về số lượng lao động, trình độ chuyên môn, sức khỏe người lao động và sự kết hợp giữa lao động với các yếu tố đầu vào khác. Khi tiền công của người lao động tăng có nghĩa là chi phí sản xuất tăng phản ánh khả năng sản xuất tăng lên. Đồng thời khi mức tiền công tăng làm cho thu nhập có thể sử dụng của người lao động cũng tăng, do đó tăng khả năng chi tiêu của người tiêu dùng, ở các nước đang phát triển, mức tiền công của người lao động nói chung là thấp, do đó ở những nước này lao động chưa phải là động lực mạnh cho sự phát triển. Để nâng cao vai trò của người lao động trong phát triển kinh tế cần thiết có các chính sách nhằm giảm bớt lượng cung lao động, đồng thời với việc tạo ra các nguồn lực khác một cách đồng bộ. II. Lí luận về việc làm và chương trình mục tiêu quốc gia giải quyết việc làm. 1. Khái niệm việc làm và chương trình mục tiêu quốc gia giải quyết việc làm. 1.1 Khái niệm việc làm: Xét về mặt xã hội, mọi người có sức lao động đều có quyền có việc làm. Đó là một trong những quyền cơ bản nhất của con người đã được khẳng định trong hiến pháp của nước CHXHCN Việt Nam. Nhưng trên thực tế đảm bảo quyền có việc làm cho người lao động là vấn đề thách thức, là bài toán phức tạp và đầy khó khăn không những ở nước ta mà còn ở tất cả các nước trên thế giới trong điều kiện hiện nay.Vì vậy vấn đề việc làm được nhắc đến rất nhiều, nhưng trong mỗi thời gian và không gian khác nhau thì khái niệm về việc làm lại có những thay đổi nhất định. Trước đây trong cơ chế kế hoạch hoá tập trung quan liêu bao cấp người lao động được coi là có việc làm và được xã hội thừa nhận : Là những người làm việc trong thành phần kinh tế quốc doanh, khu vực kinh tế Nhà nước và kinh tế tập thể, ngoài ra không có sự thừa nhận lao động hoạt động ở các lĩnh vực khác. Trong cơ chế đó Nhà nước bố trí việc làm cho người lao động từ A đến Z do đó chưa có khái niệm về thiếu việc làm hay việc làm không đầy đủ. Hiện nay, nền kinh tế nước ta chuyển sang nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, quan niệm về việc làm đã thay đổi một cách căn bản. - Theo tổ chức lao động quốc tế (ILO): Việc làm là những hoạt động lao động được trả công bằng tiền hoặc hiện vật. - Theo điều 33 của Bộ luật lao động Việt Nam : Việc làm là những hoạt động có ích không bị pháp luật ngăn cấm và đem lại thu nhập cho người lao động. Việc làm là nhu cầu, quyền lợi nhưng đồng thời cũng là nghĩa vụ và trách nhiệm đối với mọi người. Theo đại hội Đảng lần thứ VII : “ Mọi việc làm mang lại thu nhập cho người lao động có ích cho xã hội đều được tôn trọng”. - Theo khái niệm này việc làm được thể hiện dưới các dạng sau : + Làm những công việc mà người lao động khi thực hiện nhận đựoc tiền lương, tiền công bằng tiền mặt hoặc bằng hiện vật cho công việc đó. + Làm những công việc khi người lao động thực hiện thu lợi nhuận cho bản thân ( người lao động có quyền sử dụng quản lý hoặc sở hữu tư liệu sản xuất và sức lao động cho bản thân để sản xuất sản phẩm ). + Làm những công việc cho hộ gia đình nhưng không được trả thù lao dưới hình thức tiền công, tiền lương cho công việc đó ( do chủ gia đình làm chủ sản xuất ). - Theo quan niệm của thế giới về việc làm thì : Người có việc làm là những người làm một việc gì đó được trả tiền công, lợi nhuận hoặc được thanh toán bằng hiện vật hoặc những người tham gia vào các hoạt động mang tính chất tự tạo việc làm vì lợi ích hay vì thu nhập gia đình không được nhận tiền công hoặc hiện vật. Khi vận dụng vào điều kiện và hoàn cảnh của nước ta thì khái niệm về việc làm có sự thay đổi và được nhiều người đồng tình đó là : Người có việc làm là người làm việc trong những lĩnh vực, ngành nghề, dạng hoạt động có ích, không bị pháp luật ngăn cấm, đem lại thu nhập để nuôi sống bản thân và gia đình đồng thời góp một phần cho xã hội (Theo giáo trình : Về chính sách giải quyết việc làm ở Việt Nam của PTS. Nguyễn Hữu Dũng- Trần Hữu Trung) Với khái niệm trên thì nội dung của việc làm đã được mở rộng và tạo ra khả năng to lớn giải phóng tiềm năng lao động, giải quyết việc làm cho nhiều người cụ thể. + Thị trường việc làm đã được mở rộng rất lớn gồm tất cả các thành phần kinh tế ( quốc doanh, tập thể, tư nhân, hợp tác xã…), mọi hình thức và cấp độ sản xuất kinh doanh ( kinh tế hộ gia đình, doanh nghiệp, tổ hợp…) và sự đan xen giữa chúng. Nó không bị hạn chế về mặt không gian. + Người lao động được tự do hành nghề, tự do liên doanh liên kết, tự do thuê mướn lao động theo luật pháp và sự hướng dẫn của nhà nước để tạo việc làm cho mình và thu hút thêm lao động xã hội theo quan hệ cung cầu về lao động trên thị trường lao động. 1.2 Phân loại việc làm. - Theo mức độ sử dụng lao động : + Việc làm chính là công việc mà người thực hiện dành nhiều thời gian nhất hoặc có thu nhập cao hơn các công việc khác. + Việc làm phụ là những công việc mà người thực hiện dành nhiều thời gian nhất sau công việc chính. + Việc làm hợp lý là những công việc tạo ra thu nhập không bị pháp luật ngăn cấm phù hợp với năng lực sở trường của người lao động. + Việc làm hiệu quả là việc làm với năng suất chất lượng cao. Đối với tầm vĩ mô việc làm có hiệu quả còn là vấn đề sử dụng hợp lý nguồn lao động tức là tiết kiệm chi phí lao động, tăng năng suất lao động, đảm bảo chất lượng sản phẩm, tạo ra nhiều chỗ làm việc để sử dụng hết nguồn nhân lực. - Theo thời gian làm việc của người lao động. + Việc làm tạm thời là việc làm được tạo ra trong thời gian người lao động đang tìm một công việc thích hợp với chuyên môn và sở trường của họ. + Việc làm đầy đủ là sự thoả mãn nhu cầu về việc làm cho bất kỳ ai có khả năng lao động trong nền kinh tế quốc dân. Việc làm đầy đủ căn cứ trên hai khía cạnh chủ yếu là mức độ sử dụng thời gian lao động, mức năng suất và thu nhập. Một việc làm đầy đủ đòi hỏi người lao động làm việc theo chế độ luật định ( độ dài thời gian lao động hiện nay ở Việt Nam là 8 giờ/ ngày) và không có nhu cầu làm thêm. + Thiếu việc làm là trạng thái trung gian giữa việc làm đầy đủ và thất nghiệp. Đó là tình trạng có việc làm nhưng do nguyên nhân khách quan ngoài ý muốn của người lao động họ phải làm việc không hết thời gian theo luật định hoặc làm những công việc có thu nhập thấp, không đủ sống muốn tìm thêm việc làm bổ sung. Theo tổ chức lao động quốc tế ILO thiếu việc làm được thể hiện dưới hai dạng: Thiếu việc làm hữu hình: Chỉ hiện tượng lao động làm việc thời gian ít hơn thường lệ, họ không đủ việc làm, đang tìm kiếm việc làm thêm và sẵn sàng làm việc. Cụ thể ở Việt Nam một tuần làm việc dưới 40 giờ, một tháng làm việc dưới 22 ngày là thiếu việc làm. Thước đo thiếu việc làm hữu hình: K1= (Số giờ làm việc thực tế/ Số giờ quy định) * 100%. Thiếu việc làm vô hình là trạng thái là những người có đủ việc làm, làm đủ thời gian thậm chí nhiều thời gian hơn mức bình thường nhưng thu nhập thấp không đảm bảo cuộc sống và có nhu cầu muốn làm việc thêm để có thu nhập. Thước đo thiếu việc làm vô hình: K1= ( Thu nhập thực tế/ Mức lương tối thiểu hiện hành) * 100% 1.3. Chương trình quốc gia giải quyết việc làm. Khái niệm chương trình quốc gia giải quyết việc làm : Chương trình quốc gia giải quyết việc làm là chương trình thực hiện các hoạt động phát triển kinh tế, xã hội nhằm ổn định việc làm cho những người đã có việc làm và tạo thêm chỗ làm việc mới thông qua một số chương trình phát triển kinh tế trọng điểm, tạo nhiều việc làm nhằm mục tiêu phát triển việc làm. Khái niệm người có việc làm: Người có việc làm là người đủ 15 tuổi trở lên đang làm việc trong các ngành kinh tế quốc dân mà trong tuần lễ liền kề trước thời điểm điều tra có thời gian làm việc không ít hơn chuẩn quy định cho người coi là có việc làm. Căn cứ vào thời gian thực tế làm việc, chế độ làm việc và nhu cầu làm thêm của người được xác định là có việc làm trong tuần lễ trước điều tra, người có việc làm lại chia thành 2 nhóm : Người đủ việc làm và người thiếu việc làm. Người đủ việc làm : Là người có số giờ làm việc trong tuần lễ tham khảo hơn hoặc bằng 35 giờ; hoặc những người có số giờ làm việc nhỏ hơn 35 giờ nhưng không có nhu cầu làm thêm, hoặc những người có số giờ làm việc nhỏ hơn 36 nhưng bằng hoặc lớn hơn giờ chế độ quy dịnh đối với người làm các công việc nặng nhọc, độc hại. Người thiếu việc làm : Là người có số giờ làm việc trong tuần lễ tham khảo dưới 36 giờ; hoặc ít hơn giờ chế độ quy định đối với người làm các công việc nặng nhọc, độc hại, có nhu cầu làm thêm giờ và sẵn sàng làm việc khoi có việc. Khái niệm người thất nghiệp : Người thất nghiệp là người từ đủ 15 tuổi trở lên thuộc nhóm dân số hoạt động kinh tế mà trong tuần lễ tham khảo không có việc làm nhưng có nhu cầu làm việc và sẵn sàng làm việc nhưng không tìm được việc. Chương trình quốc gia giải quyết việc làm nhằm mục tiêu : Nâng cao chất lượng việc làm và tạo ra việc làm để thu hút người lao động vào guồng máy sản xuất của nền kinh tế. Giải quyết việc làm không chỉ nhằm tạo thêm việc làm mà còn phải nâng cao chất lượng việc làm. Đây là vấn đề còn ít được chú ý khi đề cập đến vấn đề giải quyết việc làm, người ta chỉ quan tâm đến khía cạnh thứ hai của nó là vấn đề tạo ra việc làm. Vậy tạo việc làm là gì? Tạo việc làm là hoạt động kiến thiết cho người lao động có được một công việc cụ thể mang lại thu nhập cho họ và không bị pháp luật ngăn cấm. Người tạo ra công việc cho người lao động có thể là Chính phủ thông qua các chính sách, có thể là một tổ chức hoạt động kinh tế ( các công ty, doanh nghiệp, các cở sở hoạt động sản xuất kinh doanh…) và các cá nhân, thông qua các hoạt động thuê muớn nhân công. Quá trình tạo việc làm là quá trình tạo ra những của cải vật chất ( số lượng, chất lượng tư liệu sản xuất), sức lao động ( số lượng, chất lượng sức lao động) và điều kiện kinh tế- xã hội khác. Có thể mô hình hoá quy mô tạo việc làm theo phương trình sau: Y= f( C, V, X…) Trong đó: Y: số lượng việc làm được tạo ra C: vốn đâù tư V: sức lao động X: thị trường tiêu thụ sản phẩm vv… Trong đó, quan trọng nhất là các yếu tố vốn đầu tư C và sức lao động V. Hai yếu tố này hợp thành năng lực sản xuất của doanh nghiệp. Mối quan hệ giữa C và V phụ thuộc vào tình trạng công nghệ có thể được biểu hiện trên đồ thị như sau: (Vốn) N I B K A CI CB CA CK VA VI VB NK V Lao động N' Đường N là năng lực sản xuất của doanh nghiệp. Trên đường N tập hợp mọi sự kết hợp giữa C và V. Đường N thể hiện năng lực sản xuất của doanh nghiệp được mở rộng. Đường AO thể hiện trình độ công nghệ nhất định ( C/V không đổi). Khi năng lực sản xuất được mở rộng. Khả năng tạo việc làm phụ thuộc vào trình độ và vốn đầu tư như sau: - Trong điều kiện công nghệ không thay đổi, mở rộng năng lực sản xuất theo quan hệ tỷ lệ C/V như cũ. Trên đồ thị tại điểm B CA/ VA = CB/ VB song năng lực sản xuất được mở rộng thêm vì vốn ba đoạn CA- CB, số việc làm VA đến VB. - Trong điều kiện mở rộng quy mô, song trình độ công nghệ cao hơn trước, biểu hiện tỷ lệ C/V cao hơn tức là vốn đầu tư cao hơn song khả năng thu hút lao động lại bị hạn chế. Trong đồ thị, đường AI biểu hiện trình độ công nghệ tiến bộ hơn tại điểm I có CI > CB, nhưng cơ số việc làm VI > VB, hay nói cách khác lượng việc làm giảm đi một cách tương đối VIVB. - Trong điều kiện mở rộng quy mô doanh nghiệp, song trình độ công nghệ thấp hơn trước, biểu hiện C/V thấp hơn tức là vốn đầu tư ít hơn, song khả năng mở rộng việc làm lại lớn hơn. Trên đồ thị, đường AK là đường biểu hiện trình độ công nghệ thấp hơn. tại điểm K có CK VB tức là lượng việc làm tăng tương đối một lượng VBVK. Tuy nhiêm sự tồn tại hai yếu tố C và V dưới dạng là những khả năng. Để chuyển hoá khả năng đó thành hiện thực đòi hỏi những điều kiện nhất định. Đó là những điều kiện kinh tế, xã hội, thông qua hệ thống các chính sách của Nhà nước như chính sách thu hút người lao động, qua việc ký kết hợp đồng lao động tập thể và thoả ước lao động tập thể, quy định điều kiện và an toàn lao động vv… 2. Mục tiêu và nội dung của chương trình quốc gia giải quyết việc làm. Mục tiêu của chương trình : Chương trình mục tiêu quốc gia về việc làm nhằm tạo mở việc làm mới và bảo đảm việc làm cho người lao động có khả năng lao động, có nhu cầu làm việc. Thực hiện các biện pháp để giúp người chưa có việc làm sẽ nhanh chóng có việc làm, người thiếu việc làm hoặc việc làm hiệu quả thấp có được việc làm đầy đủ hơn và việc làm có hiệu quả cao hơn. Tiến tới mục tiêu việc làm đầy đủ, việc làm có hiệu quả và tự do lựa chọn việc làm; thông qua đó giải quyết hợp lý mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với giải quyết việc làm cho người lao động, góp phần thực hiện công bằng và tiến bộ xã hội. Nội dung của chương trình mục tiêu quốc gia giải quyết việc làm : Chương trình mục tiêu quốc gia giải quyết việc làm bao gồm các chương trình dự án, chính sách của nhà nước nhằm thúc đẩy các hoạt động phát triển kinh tế – xã hội nhằm ổn định việc làm cho những người đã có việc làm và tạo thêm chỗ làm việc mới thông qua một số chương trình kinh tế trọng điểm, tạo nhiều việc làm nhằm mục tiêu phát triển việc làm. 3. Vai trò của chương trình mục tiêu quốc gia giải quyết việc làm đối với nền kinh tế xã hội Từ xa xưa, khi con người vẫn chỉ là loài động vật bậc cao chưa hoàn thành quá trình tiến hoá thì cũng nhờ có làm việc mà họ nuôi sống bản thân, chống lại sự khắc nghiệt của thiên nhiên, đồng thời cũng góp phần vào sự tiến hoá thành con người hoàn hảo như ngày nay. Như vậy, ý nghĩa của việc làm đã được thể hiện rất rõ trong đời sống, trong sự phát triển và tồn tại của con người. Việc làm giúp cho con người tạo ra mọi giá trị vật chất, tinh thần và cũng nhờ có việc làm con người tạo ra thu nhập để nuôi sống bản thân và gia đình họ. Ngoài ra, nhờ có việc làm con người mới thực sự trở thành mục tiêu, động lực của sự phát triển kinh tế-xã hội, là yếu tố tạo ra lợi ích kinh tế. Việc làm giúp cho quan hệ giữa người với người trong xã hội được đoàn kết hơn, làm cho xã hội ngày càng tiến bộ hơn. Vì có làm việc thì con người mới sáng tạo, phát minh sáng chế ra các thiết bị máy móc hiện đại, mới tạo ra các bước nhảy vọt về thành tựu kinh tế- xã hội đưa xã hội ngày một tiến lên và hoàn thiện hơn. Chúng ta đã thấy được ý nghĩa rất lớn của giải quyết việc làm nhưng có một khía cạnh khác của nó cũng có tầm quan trong và ý nghĩa không kém đó chính là vấn đề giải quyết việc làm . Giải quyết việc làm tức nâng cao chất lượng việc làm và tạo việc làm cho người lao động, giảm tỷ lệ thất nghiệp đưa nó về một tỷ lệ hợp lý có tác dụng kích thích sự phát triển kinh tê- xã hội. Như vậy giải quyết việc làm đã gián tiếp tạo ra lợi ích không chỉ về mặt kinh tế mà còn cả mặt xã hội. + Về mặt kinh tế : Sự phát triển kinh tế xã hội của mỗi quốc gia phụ thuộc rất lớn vào việc khai thác và sử dụng các nguồn lực hiện có của đất nước như: Tài nguyên thiên nhiên, vốn, khoa học công nghệ và đặc biệt là vốn con người vì con người tạo ra mọi của cải vật chất và giá trị tinh thần. Nước ta là một trong những nước có nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú đa dạng với nhiều danh lam thắng cảnh, di tích lịch sử đã được xếp hạng tạo điều kiện cho sự phát triển của ngành thương mại dịch vụ. Tuy vậy, các nguồn lực trên muốn đem lại hiệu quả thiết thực thì cần phải có sự đầu tư khai thác hợp lý và con người là yếu tố quyết định trong sự khai thác đó. Ngày nay, sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật góp phần quan trọng thúc đẩy sự phát triển kinh tế xã hội của đất nước nhưng đi kèm với nó cần có một đội ngũ lao động có kiến thức, trình độ để vận hành nó do đó phải đào tạo và sử dụng hợp lý nguồn lực về con người. Nước ta theo ước tính có khoảng 10 triệu người trong độ tuổi lao động chưa được sử dụng. Lực lượng này nếu không được sử dụng sẽ là một sự lãng phí rất lớn về nguồn lực, là gánh nặng cho ngân sách của Nhà nước, kìm hãm sự phát triển kinh tế do phải tăng các chi phí bằng tiền cho số người thất nghiệp. Vậy giải quyết việc làm có một ý nghĩa quan trọng về mặt kinh tế, làm giảm chi phí cho ngân sách Nhà nước, thúc đẩy phát triển kinh tế, thu hút nhân tài, tránh hiện tượng chảy máu chất xám… + Về mặt xã hội : Giải quyết việc làm giúp xóa đói giảm nghèo, giảm tình trạng thất học, giảm tệ nạn xã hội góp phần nâng cao đời sống tinh thần của nhân dân… Phần II Đánh giá kết quả thực hiện chương trình mục tiêu quốc gia về việc làm giai đoạn 2001-2005. I. Thành tựu về phát triển kinh tế xã hội giai đoạn 2001- 2005. Tiếp tục thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, trong giai đoạn 2001-2005, nền kinh tế nước ta vẫn duy trì được khả năng tăng trưởng khá và tương đối bền vững, tuy thấp hơn so với chỉ tiêu đề ra, nhưng trong bối cảnh hết sức khó khăn trong và ngoài nước, tốc độ tăng trưởng kinh tế nước ta tục tăng lên qua các năm và duy trì đạt xấp xỉ chỉ tiêu Đại hội IX đề ra, đồng thời cao hơn tốc độ tăng bình quân của kế hoạch 5 năm trước là 0,5%. Bởi sự nỗ lực phấn đấu của toàn Đảng, toàn dân, nhịp độ tăng trưởng tiếp GDP bình quân hàng năm vẫn được duy trì ở mức 7,3-7,4%, cao hơn mức 6,9% của 5 năm trước, trong đó nông, lâm, ngư nghiệp đạt 3,4%/năm, công nghiệp, xây dựng đạt 10,2%; các ngành thương mại, dịch vụ đạt 6,9%. Cơ cấu kinh tế có sự chuyển dịch tích cực và hiệu quả, góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế . Tỷ trọng ngành nông, lâm, ngư nghiệp trong GDP liên tục giảm từ 24.5% năm 2004, ước tính 19% năm 2005; tỷ trọng ngành công nghiệp, xây dựng liên tục tăng từ 36,5% năm 2000 lên 41,0% năm 2004, ước tính 2005 đạt 42%; các ngành thương mại, dịch vụ duy trì ở mức 39%. Tỷ lệ hộ nghèo giảm nhanh trong cả nước và các vùng địa lý, đến năm 2004 chỉ còn 8,3%, dự kiến đến năm 2005 hạ xuống dưới 7%. Các chỉ số xã hội cơ bản như tỷ lệ nhập học ở các lứa tuổi, sức khoẻ, dinh dưỡng tuổi thọ, chỉ số phát triển con người không ngừng được cải thiện (chỉ số HDI xếp thứ 101/174 nước trong năm 2001). II. Đánh giá kết quả hoạt động của chương trình mục tiêu quốc gia giải quyết việc làm giai đoạn 2001-2005. Việc làm là vấn đề bức xúc có tính thời sự không chỉ đối với nước ta mà còn đối với tất cả các nước trên thế giới, sức ép về việc làm đối với sự tăng trưởng kinh tế và phát triển xã hội ngày càng trở nên gay gắt . Hiểu đựơc điều đó đảng và nhà nước ta đã thực hiện chương trình mục tiêu quốc gia về việc làm trong kế hoạch 5 năm 2001-2005 . Sau 5 năm thực hiện chương trình đã đạt được một số kết quả sau. 1. So sánh với mục tiêu đặt ra: Mục tiêu chung : Kế hoạch trong 5 năm cả nước giải quyết việc làm cho khoảng 7-7.5 triệu lao động, mỗi năm tạo việc làm cho 1,4 -1,5 triệu Lao động; giảm tỷ lệ thất nghiệp khu vực đô thị xuống 6% và nâng tỷ lệ sử dụng thời gian lao động ở khu vực nông thôn lên 80% vào năm 2005. Kết quả thực hiện : Kết quả chung : Tính từ năm 2001 đến hết 2004, cả nước đã giải quyết việc làm cho 5,9 triệu lao động, đạt 78,7% so với kế hoạch, bình quân mỗi năm giải quyết việc làm cho 1,475 triệu người. Với tốc độ giải quyết việc làm như hiện nay, năm 2005 chúng ta có thể giải quyết việc làm cho khoảng 1,6 triệu người, nâng tổng số người được giải quyết việc làm trong 5 năm là 7,5 triệu người, đạt kế hoạch 5 năm đề ra. Tỷ lệ thất nghiệp khu vực thành thị giảm rõ rệt, theo số liệu điều tra 1/7/2004, tỷ lệ này đã giảm từ 6,28 năm 2001 xuống còn 5,6% năm 2004, giảm 0.68%, nếu duy trì nhịp tăng trưởng kinh tế như hi._.ện nay và đảm bảo kế hoạch giải quyết việc làm đến hết năm 2005, tỷ lệ thất nghiệp sẽ giảm xuống còn 5,4% đạt mục tiêu kế hoạch 5 năm (dưới 6%). Tỷ lệ sử dụng thời gian lao động khu vực nông thôn tăng 74,4% năm 2001 lên 79,34% năm 2004, tăng 4,94%. Dự kiến đến hết năm 2005 tỷ lệ này vượt trên 80%, đạt mục tiêu kế hoạch đề ra của chương trình. Kết quả cụ thể : Tạo việc làm trong nước : Dự kiến trong giai đoạn 2001-2005, tạo việc làm trong nước đạt 7,21 triệu người, trong đó : Khu vực nông, lâm, ngư nghiệp trong 5 năm qua đã thu hút thêm 4,320 triệu lao động, góp phần ổn định việc làm cho 24,51 triệu lao động. Khu vực công nghiệp, xây dựng, tiểu thủ công nghiệp thu hút thêm 1,538 triệu lao động, duy trì tạo việc làm ổn định cho 7,35 triệu lao động. Khu vực dịch vụ có bước phát triển mạnh 10,5 triệu lao động, tăng thêm 1,352 triệu lao động. Cơ cấu lao động đã có bước chuyển dịch rõ nét theo hướng tăng lao động trong lĩnh vực công nghiệp, xây dựng từ 16,7% năm 2000 lên 17,4% năm 2004, dự kiến đạt 19% vào năm 2005; lao động trong các ngành dịch vụ tăng từ 22% năm 2000 lên 24,7% năm 2004, dự kiến đạt 24-25% vào năm 2005; lao động khu vực nông, lâm, ngư nghiệp giảm từ 61,3% năm 2000 xuống còn 57,9% năm 2004 và dự kiến giảm xuống còn 56-57% vào năm 2005. Tạo việc làm ngoài nước : Trong 4 năm 2001- 2004 cả nước đã đưa được 22 vạn lao động đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài, dự kiến năm 2005 xuất khẩu lao động cho 7 vạn lao động, đưa tổng số người đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài lên 29 vạn người. Tạo việc làm chia theo các chương trình dự án: Trong 5 năm 2001-2005, dự kiến giải quyết việc làm thông qua các chương trình, dự án phát triển kinh tế xã hội đạt 5,561 triệu người chiếm 74,4% số lao động được giải quyết việc làm, trong đó : các chương trình dự án phát triển nông nghiệp, nông thôn tạo việc làm cho 2,542 triệu, các dự án đầu tư nước ngoài 31,5 vạn và khu vực nhà nước tạo việc làm cho 16,5 vạn lao động. Giải quyết việc làm thông qua Chương trình hỗ trợ trực tiếp giải quyết việc làm đã tạo việc làm cho 1,67 triệu người, trong đó ở khu vực nông thôn tạo việc làm cho 1,3 triệu và khu vực đô thị 0,37 triệu người. 2. Đánh giá việc thực hiện các nội dung của Chương trình mục tiêu quốc gia về việc làm giai đoạn 2001-2005 . (phân tích các mặt được, những mặt tồn tại và nguyên nhân của từng nội dung) Chương trình mục tiêu quốc gia về việc làm giai đoạn 2001-2005 thực hiện các hoạt động phát triển kinh tế – xã hội nhằm ổn định việc làm cho những người đã có việc làm và tạo thêm chỗ làm việc mới thông qua một số chương trình phát triển kinh tế trọng điểm, tạo nhiều việc làm nhằm mục tiêu phát triển việc làm đáp ứng được nhu cầu về việc làm cho lao động trong nước. 2.1. Các chương trình phát triển nông nghiệp và nông thôn. Nước ta là một nước nông nghiệp có hơn 80% dân số sống ở nông thôn, nguồn lao động ở khu vực nông thôn rất dồi dào và đa số là lao động làm việc theo thời vụ cho nên các chương trình phát triển nông nghiệp và nông thôn đã được đảng và nhà nước ta rất chú trọng trong chương trình mục tiêu quốc gia về việc làm giai đoạn 2001-2005. Trong giai đoạn này nhà nước đã chỉ đạo tập trung thâm canh đất nông nghiệp, chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi, tăng năng suất cây trồng vật nuôi đặc biệt là ở những vùng trọng điểm sản xuất nông nghiệp hàng hoá, chú trọng đầu tư phát triển kinh tế trang trại, đảm bảo việc làm cho khoảng 22 triệu lao động. Thực hiện chính sách phân bố lại lao động và dân cư, xây dựng các vùng kinh tế mới, khai thác các vùng đất trống, đồi núi trọc, phát triển trồng rừng, cây công nghiệp, cây ăn quả, chỉ đạo và triển khai tốt chương trình trồng 5 triệu ha rừng và bảo vệ 10 triệu ha rừng tự nhiên để tạo và ổn định việc làm cho 4 - 5 triệu lao động. Nhà nước tăng cường đầu tư, khai thác tiềm năng của các tỉnh đồng bằng để phát triển nuôi trồng thuỷ sản; khai thác tiềm năng biển, mở rộng nghề đánh bắt cá ngoài khơi, tạo việc làm và tăng kim ngạch xuất khẩu. Đảm bảo việc làm cho khoảng 2-3 triệu lao động. Đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng nông thôn như thuỷ lợi, kiên cố hoá kênh mương, giao thông nông thôn, các công trình phúc lợi nhằm tăng thời gian sử dụng lao động. Nhờ kết quả đầu tư nên tốc độ tăng trưởng giá trị sản xuất ngành nông, lâm, ngư nghiệp bình quân hàng năm đạt 5,1%, do vậy: trong cả giai đoạn 2001-2005 đã ổn định việc làm cho khoảng 25 triệu người thu hút thêm 3,2 triệu lao động vào làm việc trong khu vực. 2.2. Các chương trình phát triển công nghiệp và dịch vụ. Chương trình phát triển công nghiệp và dịch vụ đóng vai trò quyết định đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động, nâng cao chất lượng lao động và năng lực cạnh tranh của nền kinh tế. Chương trình xây dựng và phát triển các khu công nghệ cao, chủ yếu ở các vùng kinh tế động lực, các đô thị lớn, thu hút lao động có trình độ cao để tăng sức cạnh tranh; Chương trình xây dựng và phát triển các trung tâm văn hoá, thể thao, các khu du lịch; Các chương trình, công trình trọng điểm kinh tế - xã hội của nhà nước : Đường Hồ Chí Minh , thuỷ điện Sơn La, hoá dầu Dung Quất, sân bay, bến cảng … thu hút nhiều lao động. Giai đoạn 2001-2005, tốc độ tăng trưởng giá trị ngành công nghiệp - xây dựng bình quân hàng năm 15,4%, ngành dịch vụ trên 7,4%. Đến năm 2005, khu vực công nghiệp, xây dựng ổn định việc làm cho khoảng 7 triệu lao động, thu hút thêm 1,2 triệu; khu vực dịch vụ có trên 11 triệu người lao động, thu hút thêm 1,4 triệu lao động. 2.3. Các chương trình mở rộng, phát triển làng nghề, xã nghề, phố nghề, các doanh nghiệp vừa và nhỏ Trong giai đoạn 2001-2005 chương trình nâng cao hoạt động của các doanh nghiệp vừa và nhỏ, các chương trình mở rộng, phát triển làng nghề tạo việc làm mới đã tạo việc làm thêm cho trên 20 vạn lao động; từng bước rút dần lao động nông thôn ra khỏi khu vực nông nghiệp. Để thực hiện tốt các hoạt động hỗ trợ trực tiếp tạo việc làm và phát triển thị trường lao động chương trình đã triển khai và thực hiện một số dự án sau. Dự án tổ chức cho vay vốn theo các dự án nhỏ giải quyết việc làm thông qua quỹ quốc gia về việc làm; Quỹ quốc gia giải quyết việc làm được hình thành từ năm 1992 đến năm 2005 đã được nhà nước cấp khoảng 2.370 tỷ đồng, trong đó 2.200 tỷ đồng từ ngân sách nhà nước. Ước tính cả giai đoạn 2001-2005, Quỹ quốc gia hỗ trợ việc làm cho vay trên 90 nghìn dự án với tổng số vốn 4.800 tỷ đồng, hỗ trợ tạo việc làm cho trên 1,68 triệu người. Cụ thể: trên 20 nghìn dự án sở dụng 3.900 tỷ đồng từ nguồn vốn thu hồi cho vay quay vòng, thu hút tạo việc làm cho trên 1,13 triệu lao động. Tính bình quân, mức cho vay trên một lao động khoảng 2,8 triệu động, người lao động tự đầu tư khoảng 5 triệu đồng, tăng mức đầu tư trên một chỗ làm việc lên 7,8 triệu đồng, cao hơn thời kỳ 1998-2000 khoảng 4 triệu đồng. Tuy nhiên mức đầu tư vẫn còn thấp so với nhu cầu đã ảnh hưởng đến chất lượng việc làm, thu nhập chưa cao; nguyên nhân chủ yếu là nguồn vốn còn hạn hẹp. Số vốn khoanh nợ cho các dự án bị rủi ro bất khả kháng là 50 tỷ đồng, xoá nợ khoảng 4 tỷ đồng; nguồn quỹ dự phòng rủi ro hình thành từ lãi cho vay khoảng trên 100 tỷ đồng, có thể bù đắp cho những rủi ro này. Nguồn vốn cho vay từ Quỹ quốc gia hỗ trợ việc làm đã tạo cú huých kích thích dân đầu tư vốn tạo việc làm. Theo ước tính từ các dự án vay vốn được phê duyệt, phần vốn đối ứng do dân bỏ ra gấp 2 lần vốn hỗ trợ của Quỹ; như vậy ước tính trong 5 năm qua dân đã đầu tư thêm khoảng 6000 tỷ đồng. Có thể thấy rằng vốn Ngân sách Nhà nước đầu tư cho Quỹ quốc gia hỗ trợ việc làm tuy nhỏ ( 2.370 tỷ bằng 0,55% vốn đầu tư phát triển của toàn xã hội trong 5 năm ) song đã có những tác động đến giải quyết việc làm, ổn định cả một lĩnh vực xã hội bức xúc. Nếu không có các hoạt động hỗ trợ trực tiếp này, số chỗ làm việc có thể chỉ đạt 75-80% mức kế hoạch, tỷ lệ sử dụng thời gian lao động chỉ đạt 60-65%. Dự án nâng cao năng lực và hiện đại hoá các trung tâm dịch vụ việc làm. Tổng nguồn vốn đầu tư cho 140 Trung tâm dịch vụ việc làm từ năm 1992 đến nay là 74 tỷ đồng. Từ năm 1996 đến năm 2000 hệ thống này đã tư vấn nghề và tư vấn đào tạo cho gần 2 triệu lượt người, dạy nghề gắn với việc làm và bổ túc nghề cho 80 vạn người, giới thiệu việc làm và cung ứng lao động cho 120 vạn người. Dự án điều tra, thống kê lao động và xây dựng hệ thống thông tin thị trường lao động. Trong 5 năm, nhà nước đã dành 15 tỷ đồng cho công tác điều tra thống kê tình hình lao động việc làm trong cả nước. Nhờ hoạt động này các thông tin về biến động lao động, việc làm, tỷ lệ thất nghiệp khu vực đô thị và tỷ lệ sử dụng thời gian lao động ở khu vực nông thôn được nắm bắt kịp thời, giúp các nhà hoạch định chính sách điều chỉnh kịp thời các hoạt động nhằm đạt được mục tiêu kế hoạch đặt ra. Các số liệu về tình hình lao động- việc làm trong các năm đã khẳng định vai trò quan trọng của chương trình mục tiêu quốc gia về việc làm trong việc tổ chức, quản lý và điều hành hoạt động giải quyết việc làm trong cả nước, đồng bộ, thống nhất và hiệu quả. Hoạt động hội chợ việc làm bước đầu hoạt động có hiệu quả, trong 5 năm, cả nước tổ chức được trên 100 lượt hội chợ việc làm ở 55 tỉnh, thành phố, bình quân mỗi hội chợ thu hút được từ 80 đơn vị tham gia. Trung bình mỗi hội chợ có khoảng từ 15 ngàn người đăng ký tìm việc làm, số người được phỏng vấn tại chỗ chiếm trên 68%, tuyển trực tiếp từ 1.800-2000 người và đăng kí học nghề 2.400-2.500 người. Thông qua hội chợ việc làm, người lao động được tiếp cận và tìm hiểu thông tin về nhu cầu ngành nghề, thu nhập, điều kiện lao động… các doanh nghiệp có điều kiện tiếp xúc trực tiếp với người lao động, định hướng cho các cơ sở dạy nghề đào tạo nguồn nhân lực phù hợp với nhu cầu tuyển dụng lao động. Dự án đào tạo, bồi dưỡng cán bộ làm công tác quản lý lao động, việc làm. Cả giai đoạn 2001-2005, nhà nước đã giành 11,5 tỷ đồng để tổ chức tập huấn, nâng cao trình độ chuyên môn của cán bộ làm công tác giải quyết việc làm. Tổng số cán bộ được đào tạo trong 5 năm qua từ trung ương đến địa phương cơ sở là 67.300 người, trong đó cấp tỉnh thành phố là 6000 lượt người, cấp quận huyện và xã là 61.300 lượt người. Thông qua các lớp tập huấn, cán bộ được nâng cao nhận thức về pháp luật lao động, các chính sách giải quyết việc làm, đặc biệt là công tác quản lý lao động ở địa phương và công tác tổ chức, triển khai thực hiện các dự án vay vốn giải quyết việc làm. Các hoạt động phát triển thị trường đưa lao động đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài: Thực hiện đa dạng hóa thị trường và các tổ chức kinh tế tham gia xuất khẩu lao động, đa dạng hoá hình thức và ngành nghề đưa lao động đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài. Xúc tiến mạnh về thị trường lao động ngoài nước, có chính sách đối ngoại phù hợp với các nước và vùng lãnh thổ có khả năng tiếp nhận nhiều lao động và chuyên gia Việt Nam. Xây dựng và hoàn thiện chính sách đầu tư cho đào tạo lao động về tay nghề, ngoại ngữ, kiến thức pháp luật phục vụ xuất khẩu lao động và chuyên gia. Đưa lao động và chuyên gia xuất khẩu vào trong chương trình đào tạo nghề của các bộ ngành, địa phương, doanh nghiệp. Nâng cao chất lượng đào tạo ngoại ngữ trong trường phổ thông. Tổ chức cho vay vốn xuất khẩu lao động cho 1.000 người lao động với tổng số vốn trên 100 tỷ đồng. Trong 5 năm xuất khẩu 29 vạn lao động và chuyên gia. 2. Đánh giá cơ chế quản lý điều hành và tổ chức thực hiện chương trình mục tiêu quốc gia giải quyết việc làm giai đoạn 2001-2005. Sau 5 năm thực hiện chương trình mục tiêu quốc gia về việc làm cơ chế quản lý điều hành và tổ chức thực hiện chương trình đã đóng góp một phần rất lớn vào sự thành công của chương trình, sau đây chúng ta đi tìm hiểu một số mặt thành công cũng như những vấn đề còn hạn chế khi thực hiện quá trình điều hành và tổ chức chương trình mục tiêu quốc gia về việc làm giai đoạn 2001-2005. Mặt được : Công tác giải quyết việc làm trong những năm qua đặc biệt là thời kì thực hiện kế hoạch 5 năm 2001-2005, dưới ánh sáng của Nghị quyết Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam khoá IX, đã có nhiều tiến bộ, thu được những kết quả đáng phấn khởi và khích lệ, góp phần ổn định tình hình kinh tế, chính trị xã hội, tạo điều kiện cho việc phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội của đất nước. Giai đoạn vừa qua nhà nước đã có cơ chế quản lý điều hành chương trình thống nhất trong cả nước. Công tác triển khai được các cấp chính quyền, tổ chức chính trị, xã hội hưởng ứng tham gia nhiệt tình, có trách nhiệm cao. Các văn bản hướng dẫn tổ chức thực hiện được ban hành kịp thời, phù hợp với điều kiện thực tế, đã tạo sự thông thoáng trong việc triển khai thực hiện ở tất cả các cấp, các khu vực , các dự án. Nhà nước đã tăng cường nguồn lực cho hoạt động của chương trình, hỗ trợ kịp thời các hoạt động của các dự án, nhất là dự án cho vay vốn hỗ trợ giải quyết việc làm. Chương trình mục tiêu Quốc gia về Việc làm cơ bản đã bám sát mục tiêu các Chương trình phát triển KT-XH và các chương trình phát triển kinh tế vùng trọng điểm quốc gia. Các bộ, ngành và địa phương đã chủ động giải quyết việc làm trong các chương trình mục tiêu đồng thời gắn với chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước. Công tác giải quyết việc làm về cơ bản đã thu hút được lao động có trình độ và tay nghề cao. Chương trình xuất khẩu lao động và mở rộng thêm được thị trường mới, gắn trách nhiệm của các cấp chính quyền với hoạt động của các doanh nghiệp, thị trường lao động ngoài nước được mở rộng, số người xuất khẩu lao động ngày càng tăng, các biểu hiện tiêu cực có xu hướng giảm. Nguyên nhân đạt được các thành tựu trên là do: Nhà nước đã đổi mới cơ bản hệ thống pháp luật, Ban hành Bộ Luật Lao động sửa đổi bổ sung. Các cấp chính quyền đã đưa ra những chính sách giải pháp cụ thể về lao động, việc làm. Hàng năm, các cấp, các nghành, các địa phương đã được giao chỉ tiêu về giải quyết việc làm gắn với các chỉ tiêu về phát triển kinh tế xã hội, hàng năm Quốc hội đã thông qua chỉ tiêu giải quyết việc làm và giao xuống cho Uỷ ban nhân dân các tỉnh, thành phố và được trở thành chỉ tiêu pháp lệnh trong nhiệm vụ kế hoạch hàng năm và 5 năm. Đã tổ chức tốt và thực hiện có hiệu quả Chương trình mục tiêu về giải quyết việc làm thông qua các dự án vay vốn từ Quỹ Quốc gia giải quyết việc làm, hỗ trợ vật chất cho các Trung tâm dịch vụ việc làm, hỗ trợ các hoạt động dạy nghề ngắn hạn gắn với giải quyết việc làm. Hoạt động xuất khẩu lao động có những đột phá mới tạo điều kiện cho xuất khẩu lao động, khuyến khích các doanh nghiệp đưa nhiều người lao động đi nước ngoài, đồng thời tăng trách nhiệm các cấp cơ sở trong việc giám sát kinh tế. Nhà nước hỗ trợ người lao động về vốn và giám sát để giảm dần các chi phí tiêu cực trong tuyển dụng, môi giới người lao động đi nước ngoài. Việc tuyên truyền về giải quyết việc đã trở thành nhiệm vụ thường xuyên trong các cấp các ngành.Việc chỉ đạo các địa phương trong giải quyết việc làm, hội chợ việc làm đã có bước phát triển tích cực. Một số mặt còn tồn tại và nguyên nhân. Nhu cầu về việc làm vẫn là vấn đề bức xúc đối với từng gia đình và xã hội nhất là đối với tầng lớp trẻ, phần đông đều có mong muốn việc làm nhưng khả năng giải quyết việc làm vẫn chưa đáp ứng được đầy đủ yêu cầu. Tỉ lệ thất nghiệp trong những năm gần đây có xu hướng giảm nhưng rất chậm, nhất là những thành phố Hà Nội, Hải Phòng, TP.HCM và các khu công nghiệp tập trung. Tỉ lệ sử dụng thời gian lao động ở khu vực nông thôn có tăng xong cũng rất chậm, đặc biệt ở những địa bàn thực hiện sự chuyển đổi đất nông nghiệp sang đất phi nông nghiệp, thì tình trạng thiếu việc làm diễn ra rất gay gắt. Việc triển khai, điều hành Chương trình quốc gia về việc làm ở trung ương và địa phương còn lúng túng, thiếu kinh ngiệm. Bộ máy cán bộ quản lý lao động và giải quyết việc làm chưa được tăng cường về số lượng và chất lượng. Sự phối kết hợp giữa các bộ, ngành, cơ quan hữu quan trong công tác kiểm tra, giám sát thực hiện chương trình chưa thường xuyên, kịp thời để đề xuất các giải pháp hữu hiệu. Chưa có các cơ chế giám sát chỉ tiêu lao động, việc làm với các chỉ tiêu vốn qua các dự án đầu tư phát triển kinh tế xã hội, nhất là đối với các dự án đầu tư phát triển quốc gia, xây dựng cơ sở hạ tầng. Thiếu những chính sách đủ mạnh để khuyến khích đầu tư, huy động mọi nguồn lực, phát triển các thị trường, trong đó có thị trường lao động để tăng trưởng kinh tế, tạo mở việc làm. Nguồn lực cho hoạt động của chương trình còn yếu, mới chỉ đáp ứng được trên 50% nhu cầu hoạt động của các chương trình dự án, Quỹ quốc gia về việc làm mới chỉ đáp ứng được 35% nhu cầu vay vốn của nhân dân. Hoạt động của hệ thống Trung tâm dịch vụ việc làm còn nhiều bất cập, năng lực cán bộ còn hạn chế , trang thiết bị dịch vụ việc làm và bổ túc nghề cho người lao động tuy đã được chú trọng đầu tư song chưa đáp ứng được nhu cầu của người lao động và người sử dụng lao động. Hệ thống thông tin thị trường lao động, thông tin quản lý lao động, việc làm còn yếu kém, chưa đảm bảo cung cấp thông tin đầy đủ, chính xác, kịp thời phục vụ cho công tác chỉ đạo, tổ chức thực hiện và nghiên cứu đề xuất chính sách . Công tác kiểm tra, giám sát hoạt động của chương trình còn chưa sâu sát, lúng túng, bị động khi có các dự án hoạt động không phù hợp với mục tiêu, thiếu khả thi, hiệu quả thấp. Thực hiện việc giải ngân trong các chương trình vốn vay hỗ trợ việc làm ở một số tỉnh, thành phố còn chậm. Xuất khẩu lao động đang gặp khó khăn ở một số thị trường như ở Malaysia, một số người lao động ở một số nước vẫn còn bỏ trốn, một số hiện tượng tiêu cực vẫn còn xảy ra, dư luận báo chí gay gắt đồi hỏi Nhà nước phải có các biện pháp sử lý kịp thời. 4. Kết luận và các bài học kinh nghiệm Nhà nước có chủ trương, đường lối đúng đắn trong việc hoạch định chính sách về việc làm, tạo ra những nhân tố mới làm thay đổi cơ bản nhận thức về giải quyết việc làm. Người lao động đã có sự năng động và chủ động tự tạo việc làm cho mình và cho người khác, không trông chờ vào Nhà nước, người sử dụng lao động được khuyến khích tạo mở việc làm. Hoạt động hỗ trợ giải quyết việc làm và phát triển thị trường lao động phải được đặt trong tổng thể chương trình mục tiêu quốc gia về việc làm, được Nhà nước hỗ trợ Ngân sách để thực hiện các mục tiêu cụ thể. Gắn các mục tiêu phát triển kinh tế- xã hội với mục tiêu giải quyết việc làm. Coi giải quyết việc làm là công cụ phát triển kinh tế – xã hội và là biện pháp thực hiện các chính sách xã hội. Cùng với việc ban hành Luật khuyến khích đầu tư trong nước, luật đầu tư nước ngoài, luật đất đai, luật doanh nghiệp, Bộ luật Lao động được bổ sung sửa đổi phù hợp với tình hình mới đã xác lập khung pháp luật về quan hệ lao động trong cơ chế thị trường tương đối hoàn chỉnh, tạo điều kiện cho việc thuê mướn, sử dụng lao động, thúc đẩy quan hệ lao động và thị trường lao động phát triển; mở ra khả năng mới giải phóng tiềm năng lao động và tạo mở việc làm. Nhà nước đã có các chính sách huy động nguồn vốn đầu tư phát triển, nhất là nguồn vốn trong nước. Tổng nguồn vốn đầu tư xã hội thực hiện trong 5 năm khoảng 600 nghìn tỷ đồng, tương đương 40 tỷ USD. Nguồn vốn đầu tư này đã góp phần quan trọng thực hiện thành công chương trình mục tiêu quốc gia về việc làm. Cùng với việc huy động các nguồn vốn đầu tư trong nước và ngoài nước để phát triển kinh tế xã hội tạo mở việc làm, Ngân sách nhà nước dành cho Quỹ Quốc gia hỗ trợ việc làm ngày một tăng, đáp ứng nhu cầu vay vốn của các dự án nhỏ tạo việc làm, hỗ trợ các đối tượng chính sách và những người yếu thế có việc làm, hình thành và phát triển hệ thống các trung tâm dịch vụ việc làm và các cơ sở đào tạo nghề. Nhà nước đã tập trung chỉ đạo đồng bộ các chương trình, dự án phát triển kinh tế xã hội gắn với tạo mở việc làm. Đã phát triển nhiều hình thức, mô hình tổ chức giải quyết việc làm phong phú, đa dạng ở các địa phương, các ngành, các cấp, đơn vị cơ sở với sự tham gia tích cực, chủ động của các tổ chức đoàn thể xã hội. Đã xuất hiện những nhân tố quan trọng góp phần tạo ra nhiều việc làm và chuyển dịch cơ cấu lao động như doanh nghiệp vừa và nhỏ, kinh tế gia đình, kinh tế trang trại, chương trình sản xuất hàng xuất khẩu, sản xuất hàng tiêu dùng, nuôi trồng, đánh bắt, chế biến và xuất khẩu hải sản. Đã có chủ trương đúng đắn và chính sách và cơ chế phù hợp nhờ đó đã mở rộng được thị trường và tăng qui mô xuất khẩu lao động. Các quan hệ quốc tế trong lĩnh vực lao động, việc làm được củng cố và mở rộng nhằm thu hút và sử dụng có hiệu quả sự giúp đỡ về vốn, kỹ thuật, kinh nghiệm của nước ngoài và của các tổ chức quốc tế. Phần III Phương Hướng Và Giải Pháp Thực Hiện Chương Trình Mục Tiêu Quốc Gia Về Việc Làm Giai Đoạn 2006-2010. I. Những căn cứ thực tiễn và sự cần thiết để xây dựng chương trình . 1.Bối cảnh kinh tế , xã hội giai đoạn 2006-2010. Bước vào kế hoạch 5 năm 2006-2010, kế hoạch 5 năm cuối cùng thực hiện Chiến lược phát triển kinh tế , xã hội 10 năm 2001-2010, nhiệm vụ đặt ra khá nặng nề trong khi chiến lược đã dự báo và thực tiễn 5 năm qua đã cho thấy những khó khăn và thuận lợi lớn sẽ tiếp tục có xu hướng đan xen nhau do đó, cần phân tích sâu sắc và nhận diện đúng những khó khăn để chủ động đối phó, hạn chế. 1.1. Bối cảnh quốc tế: Mặc dù xu hướng chung của thế giới ngày nay vẫn là hoà bình, ổn định và hợp tác để phát triển, nhưng dự kiến tình hình chính trị thế giới và khu vực trong 5 năm 2006-2010 sẽ tiếp tục diễn biến phức tạp, khó lường, những khó khăn lớn có thể vẫn còn kéo dài.Các thế lực phản động quốc tế tiếp tục tìm cách chống phá hòng gây mất ổn định chính trị, xã hội nước ta. Dự báo xu hướng chung là kinh tế thế giới sẽ tiếp tục phục hồi và phát triển. Tốc độ tăng trưởng kinh tế toàn cầu và của các đối tác chính của nước ta trong 5 năm 2006-2010 sẽ tăng nhẹ so với 5 năm 2001-2005. Thị trường quốc tế sẽ sôi động hơn, các luồng vốn đầu tư ODA, FDI và gián tiếp sẽ được phục hồi dần. Những tiến triển trên cục diện thế giới sẽ tạo ra những cơ hội tốt để nước ta có thể tận dụng. Tuy vậy, bối cảnh quốc tế trên cũng đòi hỏi chúng ta phải nhanh chóng nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế, chủ động tránh được những khó khăn gây ra từ quá trình phân công lại lao động quốc tế và tổ chức lại nền kinh tế thế giới 1.2. Bối cảnh trong nước : Năng lực và trình độ sản xuất của nhiều ngành kinh tế đã tăng lên đáng kể, cơ cấu kinh tế đã có sự chuyển dịch tích cực, chất lượng tăng trưởng trong nhiều ngành, lĩnh vực đã có những cải thiện, các doanh nghiệp và toàn nền kinh tế nước ta đang thích nghi ngày càng tốt hơn với thị trường quốc tế. Nước ta được thế giới đánh giá có sự ổn định cao về chính trị và xã hội, đây là nền tảng vững chắc và là nhân tố thuận lớn lớn nhất cho phát triển kinh tế xã hội của đất nước và đó cũng là thế mạnh cần khai thác của nước ta hiện nay. Thể chế kinh tế thị trường đã bước đầu hình thành và vận hành có hiệu quả. Những cơ chế chính sách ban hành đã đi vào cuộc sống và phát huy tích cực. 2. Kế hoạch phát triển kinh tế xã hội giai đoạn 2006-2010. Tổng GDP năm 2010 theo giá so sánh gấp 2,1 lần so với năm 2000. Tốc độ tăng trưởng GDP bình quân hàng năm thời kì 5 năm 2006-2010 đạt 7,5-8%, trong đó nông, lâm, ngư nghiệp tăng 3-3,2%, công nghiệp và xây dựng tăng 10-10,5%, dịch vụ tăng 7,2-7,5%. Cơ cấu các ngành kinh tế trong GDP đến năm 2010 dự kiến : nông, lâm, ngư nghiệp khoảng 13,5-14%; công nghiệp và xây dựng khoảng 45%; các ngành dịch vụ khoảng 41-41,5%. Tổng đầu tư toàn xã hội 114 tỉ USD, chiếm 37,6% GDP. Quy mô dân số khoảng 88 triệu người ; tốc độ phát triển dân số vào năm 2010 khoảng 1,16%. Tạo việc làm cho khoảng 7,5-8 triệu lao động, bình quân 1,5-1,6 triệu lao động/năm. Đến năm 2010, thu nhập bình quân đầu người khoảng 940-970 USD ; quy mô nền kinh tế khoảng 82-85 tỷ USD. 3. Nguồn nhân lực và vấn đề giải quyết việc làm giai đoạn 2006-2010. 3.1 Mục tiêu kế hoạch lao động,việc làm giai đoạn 2006- 2010. Với tốc độ tăng trưởng GDP là 8%, hệ số ICOR về tăng trưởng lao động,việc làm là 0,35 thì tốc độ tăng trưởng việc làm trong kế hoạch 2006-2010 là 14%, ước tính số lượng lao động làm việc trong nền kinh tế quốc dân là 44 triệu người thì : Số lao động được giải quyết việc làm trong 5 năm 2006-2010 là 6,2 triệu người, cộng với các giải pháp khác giải quyết việc làm cho 1,8 triệu người, tổng số lao động được giải quyết việc làm trong 5 năm 2006-2010 là 8 triệu người. Nâng quỹ thời gian sử dụng lao động ở khu vực nông thôn lên 82% vào cuối năm 2010. Thực hiện việc chuyển dịch cơ cấu lao động ngành nông, lâm nghiệp xuống 50% các ngành phi nông nghiệp là 50%. Dự báo đến năm 2010, dân số nước ta sẽ đạt mức 88,3 triệu người. Dân số đô thị tăng từ 23,84% năm 2001 lên 28,25% năm 2010 với khoảng gần 640 ngàn người/năm, hay 3,4%/năm. Khu vực nông thôn, có mức tăng khoảng 473 ngàn người/năm, hay 0,9%/năm. Dân số trong tuổi lao động năm 2010 đạt 59,3 triệu người, chiếm 67,2% dân số; Mức và tốc độ tăng dân số trong độ tuổi lao động khá cao, khoảng 1,5 triệu người/năm, hay 2,8%/năm. Khu vực thành thị tăng nhanh hơn nông thôn, bình quân mỗi năm khu vực thành thị tăng trên 460 ngàn người, hay 3,3%/năm. Khu vực nông thôn tăng trên 1 triệu người, tuy nhiên tốc độ tăng chỉ khoảng 2,6%/năm. Số thanh niên bước vào tuổi lao động tuy có xu hướng giảm dần, song vẫn khá cao. Bình quân mỗi năm có khoảng 1,77 triệu người, trong đó có khoảng 376 ngàn ở thành thị và khoảng 1,39 triệu ở nông thôn. Do tỷ lệ tham gia lao động có xu hướng giảm nên tốc độ tăng lực lượng lao động sẽ có xu hướng chậm hơn so với tốc độ tăng dân số trong độ tuổi, đạt khoảng 2,42%/năm; Đến năm 2010 lực lượng lao động đạt 45,8 triệu người. Tốc độ tăng lực lượng lao động nông thôn thấp hơn so với thành thị, tương ứng là 2,2%/năm và 3,1%/năm. Dự báo khả năng tạo việc làm thông qua các chương trình phát triển kinh tế xã hội : Kế hoạch 5 năm 2006-2010 xác định mục tiêu tốc độ tăng trưởng GDP bình quân khoảng 7,5-8%; Do mức tăng đầu tư lớn ở các khu công nghiệp và chế xuất, giảm tỷ trọng lao động khu vực nông thôn, việc làm được tăng lên trong các doanh nghiệp vì vậy hệ số co giãn lao động của thời kì 2006 -2010 là 0,3-0,28%; Nếu giữ được tăng trưởng GDP bình quân 8%/năm sẽ thu hút thêm được 12-15% số lao động hiện nay, tương đương với 5,5-6 triệu lao động. Tuy nhiên, do quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, hệ số co dãn việc làm giảm xuống 0,28%, thì số lao động thu hút tối đa chỉ là 5,5 triệu. Như vậy trong 5 năm tới, nền kinh tế quốc dân có thể thu hút thêm từ 5,2 – 5,5 triệu lao động; vẫn còn 1,5-1,7 triệu lao động cần được hỗ trợ trực tiếp thông qua chương trình mục tiêu quốc gia về việc làm. Khả năng giải quyết việc làm 2006-2010 chia theo ngành kinh tế: 7,5 triệu lao động, trong đó : Ngành nông, lâm, ngư nghiệp tạo việc làm cho khoảng 4,38 triệu lao động chiếm 58,47% tổng số; Ngành công nghiệp, xây dựng giải quyết việc làm cho khoảng 1,62 triệu lao động; Ngành thương mại, dịch vụ 1,5 triệu lao động; Giải quyết việc làm thông qua các chương trình : Các chương trình phát triển kinh tế xã hội giải quyết việc làm cho khoảng 5,4 triệu lao động thông qua các hoạt động đầu tư phát triển kinh tế xã hội, chiếm 71% tổng số lao động được giải quyết việc làm trong 5 năm. Cụ thể : các chương trình phát triển kinh tế nông nghiệp, nông thôn, tạo việc làm cho khoảng 2,5 triệu người; chương trình đầu tư phát triển trong nước tạo việc làm cho khoảng 32 vạn lao động; khu vực hành chính, sự nghiệp nhà nước tạo việc làm cho khoảng 12,5 vạn lao động. Dự kiến kế hoạch tạo việc làm thông qua các hoạt động hỗ trợ trực tiếp, chương trình cho vay vốn giải quyết việc làm cho khoảng 1,7 triệu lao động, tương đương 22,67% tổng số. Chương trình xuất khẩu lao động giải quyết việc làm cho khoảng 40 vạn lao động, chiếm 5,33%. Khả năng giải quyết việc làm cao nhất trong năm 2008 với tổng số 1,52 triệu người, sau năm 2008, số lượng lao động giải quyết việc làm giảm dần nhằm tăng chất lượng lao động và tăng mức đầu tư trên 1 chỗ làm việc gấp 2,5 lần so với năm 2005. 3.2 Sự cần thiết tiếp tục thực hiện chương trình mục tiêu quốc gia về việc làm giai đoạn 2006-2010. Căn cứ định hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế; tốc độ phát triển dân số và quy mô dân số vào năm 2010; nhu cầu tạo việc làm cho khoảng 8 triệu lao động mới, bình quân 1,6 triệu lao động/ năm ; vấn đề giải quyết việc làm cần được nghiên cứu và tiếp tục triển khai thực hiện theo cơ chế. Chương trình mục tiêu quốc gia giai đoạn 2001-2005 nhằm giải quyết những vấn đề có tính cấp bách, liên ngành, liên vùng và có tầm quan trọng đối với sự phát triển kinh tế- xã hội chung của đất nước, cần phải được tập trung nguồn lực và sự chỉ đạo của Chính phủ để thực hiện một số mục tiêu cụ thể sau: - Mỗi năm giải quyết việc làm cho 1,5-1,6 triệu người trong đó giải quyết việc làm thông qua cho vay từ nguồn quỹ quốc gia về việc làm là 350.000 người, xuất khẩu lao động 65.00 đến 70.000 người. Giảm tỷ lệ thất nghiệp ở khu vực thành thị xuống 5% tăng tỷ lệ sử dụng thời gian lao động ở khu vực nông thôn lên 85% vào năm 2010. II. Quan điểm và định hướng xây dựng chương trình 1. Quan điểm của Đảng và Nhà nước về giải quyết việc làm. Giải quyết việc làm cho người lao động là chính sách xã hội cơ bản cho mục tiêu phát triển bền vững, là hướng ưu tiên trong toàn bộ các chính sách kinh tế và xã hội. Giải quyết việc làm là yếu tố quyết định phát huy nhân tố con người, ổn định và phát triển kinh tế, lành mạnh xã hội, đáp ứng yêu cầu bức xúc của nhân dân. Giải quyết việc làm, đảm bảo cho người lao động có khả năng lao động, có nhu cầu làm việc, đặc biệt là thanh niên, lao động nữ, các đối tượng chính sách xã hội, lao động là người tàn tật, là trách nhiệm của mọi người, mọi ngành, mọi cấp và toàn xã hội. Mục tiêu tạo việc làm phải được cụ thể hoá thành chỉ tiêu tạo việc làm mới trong kế hoạch nhà nước hàng năm và năm năm, trong các chương trình, dự án của các cấp, các ngành, các tổ chức xã hội và đơn vị cơ sở ; trong đó phải khai thác và huy động mọi tiềm năng, nguồn lực để đảm bảo những điều kiện tương xứng nhằm đạt được các mục tiêu dã đề ra. 2. Định hướng của chương trình. Tăng chỗ làm việc mới, tăng thời gian sử dụng lao động; Ban hành, hoàn thiện._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc3062.doc
Tài liệu liên quan