Phương hướng và giải pháp tăng cường huy động và sử dụng nguồn vốn đầu tư của Nhà nước cho phát triển nông nghiệp và nông thôn

Lời nói đầu Nước Việt Nam của chúng ta đang bước vào thời kỳ Công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước với mục tiêu đến năm 2020 cơ bản đưa nước ta thành một nước công nghiệp. Để đạt được mục tiêu lớn lao đó chúng ta cần phải cố gắng, nỗ lực nhiều bởi xuất phát điểm hiện nay của chúng ta còn thấp : với khoảng 80% tổng dân số đang sống và làm việc ở khu vực nông thôn - Đời sống vật chất, tinh thần còn khó khăn, trình độ lực lượng sản xuất lạc hậu…. Điều đó có nghĩa là để đạt được mục tiêu trên nh

doc91 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1374 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Phương hướng và giải pháp tăng cường huy động và sử dụng nguồn vốn đầu tư của Nhà nước cho phát triển nông nghiệp và nông thôn, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
iệm vụ chủ yếu của chúng ta là phải phát triển sản xuất nông nghiệp và kinh tế nông thôn, cơ bản công nghiệp hoá khu vực nông thôn, nâng cao đời sống cho nông dân. Như vậy, phát triển sản xuất nông nghiệp và kinh tế nông thôn có vai trò quan trọng đối với sự phát triển của nền kinh tế Việt Nam hiện nay; trong thời gian tới chúng ta phải tập trung vào công việc trọng tâm này. Để làm được điều đó, cần phải tiến hành nhiều hoạt động, nhưng hoạt động có tác động mạnh nhất đến sự phát triển sản xuất nông nghiệp và kinh tế nông thôn là hoạt động đầu tư. Trong các nguồn vốn đầu tư cho phát triển nông nghiệp và kinh tế nông thôn ở nước ta hiện nay, nguồn vốn đầu tư của Nhà nước có vai trò quan trọng và quyết định nhất. Sở dĩ như vậy bởi tính chất của đầu tư cho nông nghiệp không khuyến khích các đơn vị kinh tế tư nhân đầu tư; thêm nữa thực trạng về nông nghiệp nước ta cần nguồn vốn đầu tư của Nhà nước hơn các nguồn vốn khác để tăng thêm tính quy hoạch và kế hoạch trong sản xuất nông nghiệp và phát triển kinh tế nông thôn. Vì vậy trong những năm tới cần thiết phải có những phương hướng và giải pháp hợp lý để tăng cường huy động và sử dụng nguồn vốn đầu tư của Nhà nước cho phát triển sản xuất nông nghiệp và kinh tế nông thôn. Với lý do đó em đã chọn đề tài : “ Phương hướng và giải pháp tăng cường huy động và sử dụng nguồn vốn đầu tư của Nhà nước cho phát triển nông nghiệp và nông thôn ”- làm đề tài nghiên cứu của mình. Mục đích nghiên cứu : Chuyên đề được tiến hành với mục đích vận dụng lý thuyết đầu tư vào thực tiễn sau khi đưa ra các khái niệm, một số quan niệm và phân tích hệ thống các số liệu thống kê. Phạm vi nghiên cứu : Chuyên đề sẽ đi vào phân tích những vấn đề cơ bản của đầu tư Nhà nước cho phát triển Nông nghiệp nông thôn; để làm rõ được những vấn đề đó chuyên đề cũng sẽ nghiên cứu những yếu tố, những khía cạnh có ảnh hưởng và tác động tới hoạt động đầu tư Nhà nước cho phát triển nông nghiệp, nông thôn. Quan điểm nghiên cứu : Xuyên suốt toàn bộ chuyên đề là quan điểm hệ thống và quan điểm lịch sử. Chương I : Nông nghiệp . Nông thôn và đầu tư Nhà nước cho phát triển nông nghiệp nông thôn. I. Vai trò của Nông nghiệp nông thôn đối với quá trình công nghiệp hóa đất nước. 1. Những đặc điểm cơ bản của nông nghiệp, nông thôn. 1.1. Nông thôn: a. Khái niệm: Cho đến nay, có thể nói chưa có định nghĩa nào chuẩn xác và được chấp nhận một cách rộng rãi về nông thôn. Khi định nghĩa về nông thôn người ta thường so sánh nông thôn với thành thị. Trong từ điển tiếng Việt của Viện Ngôn ngữ học xuất bản năm 1994, nông thôn được định nghĩa là khu vực dân cư tập trung chủ yếu làm nghề nông. Còn trong từ điển Bách khoa Xô Viết của NXB Bách khoa Liên Xô năm 1986 thì thành thị được định nghĩa là khu vực dân cư làm các ngành nghề ngoài nông nghiệp. Hai định nghĩa trên chỉ mới nói lên một đặc điểm cơ bản khác nhau giữa nông thôn và thành thị. Song thực tế khác nhau giữa nông thôn và thành thị không chỉ ở đặc điểm nghề nghiệp của dân cư mà còn khác nhau cả về mặt tự nhiên, kinh tế và xã hội. Về mặt tự nhiên, nông thôn là vùng đất đai rộng lớn, thường bao quanh các đô thị (thành phố, thị trấn, khu công nghiệp). Những vùng đất đai này khác nhau về địa hình, khí hậu, thủy văn,... Về kinh tế, nông thôn chủ yếu làm nông nghiệp (nông, lâm, ngư nghiệp). Cơ sở hạ tầng ở vùng nông thôn lạc hậu, thấp kém hơn đô thị. Trình độ phát triển cơ sở vật chất và kỹ thuật (điện, thủy lợi, cơ khí, hóa chất...) trình độ sản xuất hàng hoá, kinh tế thị trường cũng thấp kém hơn đô thị. Về mặt xã hội, trình độ văn hóa, khoa học kỹ thuật, y tế, giáo dục và đời sống vật chất, tinh thần của dân cư nông thôn thấp hơn đô thị. Tuy nhiên những di sản văn hóa, phong tục tập quán cổ truyền ở nông thôn lại thường phong phú hơn đô thị. Như vậy, khái niệm vùng nông thôn có thể diễn đạt như sau: Nông thôn là vùng đất đai rộng với một cộng đồng dân cư chủ yếu làm nghề nông (nông, lâm, ngư nghiệp), có mật độ dân cư thấp, cơ sở hạ tầng kém phát triển, có trình độ văn hóa, khoa học kỹ thuật, trình độ sản xuất hàng hoá thấp và thu nhập mức sống của dân cư thấp hơn đô thị. Khái niệm trên chưa phải là đã hoàn chỉnh nếu không đặt nó trong điều kiện thời gian và không gian nhất định của nông thôn mỗi nước (nước phát triển hay nước kém phát triển), mỗi vùng (vùng phát triển hay kém phát triển). b. Những đặc trưng của vùng nông thôn. Với khái niệm nêu trên, có thể đưa ra những đặc trưng chủ yếu của vùng nông thôn như sau: - Nông thôn là vùng sinh sống và làm việc của một cộng đồng dân cư bao gồm chủ yếu là nông dân, là vùng sản xuất nông nghiệp (theo nghĩa rộng là chủ yếu). Các hoạt động sản xuất và dịch vụ phục vụ chủ yếu cho nông nghiệp và cho cộng đồng nông thôn. Mật độ dân cư ở nông thôn thấp hơn ở đô thị. - So với đô thị, nông thôn có cơ sở hạ tầng, có trình độ tiếp cận thị trường, trình độ sản xuất hàng hoá thấp hơn. Nông thôn chịu sức hút của thành thị về nhiều mặt, dân cư nông thôn thường tìm cách di chuyển vào các đô thị. - Nông thôn là vùng có trình độ văn hóa, khoa học và kỹ thuật thấp hơn đô thị và trong chừng mực nào đó trình độ dân chủ, tự do và công bằng xã hội cũng thấp hơn đô thị. Thu nhập và đời sống vật chất và tinh thần của vùng nông thôn thấp hơn độ thị. 1.2. Nông nghiệp. a. Khái niệm: Nông nghiệp là một ngành sản xuất vật chất, là một bộ phận cấu thành của nền kinh tế quốc dân. Trong nền kinh tế quốc dân thống nhất đó, nông nghiệp có mỗi quan hệ biện chứng với các ngành khác, trước hết là công nghiệp, thương mại, dịch vụ trong một chỉnh thể có tính hệ thống. Trong quá trình sản xuất nông nghiệp, con người không chỉ tạo ra sản phẩm vật chất cho xã hội mà còn thực hiện sản xuất và tái sản xuất ra những quan hệ xã hội của chính con người, những quan hệ sản xuất. Trong nền kinh tế thị trường, các quan hệ sản xuất của nông nghiệp không thuần nhất mà nó rất đa dạng do quan hệ sở hữu là đa dạng. Tất cả mọi loại hình sở hữu, mọi kiểu sở hữu đa dạng trong nông nghiệp là cơ sở cho các hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh theo pháp luật đều được coi là một bộ phận cấu thành của nền nông nghiệp vận hành theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Trong quá trình phát triển đó, các loại hình sở hữu vừa có vai trò độc lập tương đối vừa có sự tác động qua lại với nhau, nương tựa vào nhau và liên kết với nhau, tạo thành nền tảng kinh tế - một hệ thống kinh tế thống nhất biện chứng của nông nghiệp. Tính thống nhất biện chứng của toàn bộ hệ thống kinh tế nông nghiệp phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất, là điều kiện cho sự phát triển với tốc độ cao của nông nghiệp trong từng giai đoạn lịch sử khác nhau. Như vậy, hệ thống kinh tế nông nghiệp là tổng thể quan hệ sản xuất trong nông nghiệp, biểu hiện bằng những hình thức sở hữu tư liệu sản xuất, những hình thức tiêu dùng của sản phẩm sản xuất so với những hình thức tổ chức sản xuất, trao đổi, phân phối và cơ chế quản lý tương ứng của Nhà nước đối với toàn bộ nền nông nghiệp. Nói cách khác, hệ thống kinh tế nông nghiệp là tổng thể các quan hệ kinh tế trong nông nghiệp. b. Đặc điểm của sản xuất nông nghiệp. Sản xuất nông nghiệp có những đặc điểm chủ yếu sau: - Sản xuất nông nghiệp gắn với cơ thể sống động vật, thực vật mà sự phát triển của nó tuân theo quy luật sinh học và phụ thuộc nhiều vào yếu tố tự nhiên như đất đai, thời tiết, khí hậu, thủy lợi, thủy văn... Việc bố trí sản xuất cây trồng gì? nuôi con gì? để có năng suất cao, chất lượng tốt là phải phù hợp với điều kiện tự nhiên và các yếu tố sản xuất đầu vào như: giống, phân bón, nước. - Trong nông nghiệp, ruộng đất là tư liệu sản xuất đặc biệt không thể thay thế được. Ruộng đất thường bị giới hạn về diện tích không thể tăng thêm, nhưng độ phì nhiêu của đất có thể tăng, nếu con người biết khai thác sử dụng hợp lý sẽ tạo khả năng tăng năng suất không ngừng. Từ đó một mặt phải bố trí sử dụng hợp lý và tiết kiệm cho phù hợp với điều kiện từng vùng, địa phương. Hạn chế dùng đất sản xuất nông nghiệp đặc biệt ruộng đất tốt để xây dựng cơ bản hoặc sử dụng ruộng đất cho mục đích phi nông nghiệp. - Sản suất nông nghiệp mang tính thời vụ cao do hai yếu tố quan trọng. Yếu tố cơ thể sống của động vật, thực vật theo quy luật sinh học của quy trình sinh trưởng, phát triển và diệt vong làm cho thời gian lao động không trừng khớp với thời gian sản xuất, tạo nên tình hình có khi lao động căng thẳng, có khi nhàn rỗi, lao động thiếu việc làm. Yếu tố thứ hai do diễn biến thời tiết, khí hậu, thủy văn trong năm khác nhau. Ngoài ra, thiên tai thất thường (lũ lụt, khô hạn) làm cho việc sản xuất phải thay đổi cho phù hợp để có hiệu quả. - Nền nông nghiệp của nước ta còn có đặc điểm riêng đó là một nền nông nghiệp lạc hậu còn mang tính chất độc canh, tự túc, tự cấp, sản xuất hàng hoá còn ít; năng suất cây trồng, vật nuôi, lâm nghiệp và thủy sản, năng suất lao động, năng suất đất đai còn thấp, lao động còn chiếm tỷ trọng lớn và đời sống của người nông dân còn thấp so với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới. Những đặc điểm chủ yếu của nông nghiệp trên đây có ảnh hưởng nhiều đến những phương hướng và giải pháp phát triển nông nghiệp nước ta theo hướng tập trung, công nghiệp hóa, thâm canh hóa và sản xuất hàng hoá. c. Đặc trưng cơ bản của hệ thống kinh tế nông nghiệp Việt Nam. Đặc trưng cơ bản của hệ thống kinh tế nông nghiệp theo định hướng xã hội chủ nghĩa mà chúng ta nhằm xây dựng ở Việt Nam là một hệ thống kinh tế mang tính chất hỗn hợp, đa dạng và đan xen của nhiều hình thức sở hữu, nhiều khu vực sản xuất và dịch vụ, nhiều thành phần kinh tế cùng bình đẳng tồn tại và phát triển trong mối quan hệ hiệp tác, liên kết và cạnh tranh phù hợp với pháp luật Nhà nước và được pháp luật bảo vệ, trong đó sở hữu Nhà nước, thành phần kinh tế Nhà nước là lực lượng định hướng xã hội chủ nghĩa chủ yếu của hệ thống. Dưới sự quản lý vĩ mô của Nhà nước, hệ thống kinh tế nông nghiệp nhiều thành phần phát triển trong sự chi phối ngày càng hoàn hảo của cơ chế thị trường. Thị trường và cơ chế thị trường ngày càng đóng vai trò quyết định trong việc phân phối các tài nguyên quốc gia và sản xuất nông - lâm - ngư nghiệp nhằm thúc đẩy sự hài hòa giữa sản xuất và nhu cầu các mặt hàng nông - lâm - thủy sản. Từ đặc trưng tổng quát nêu trên của hệ thống kinh tế nông nghiệp Việt Nam mà ta nhằm hướng tới, có thể xác định những đặc trưng cụ thể sau: C1: Là hệ thống kinh tế nông nghiệp mang tính hỗn hợp với nhiều hình thức sở hữu đa dạng. C2: Tương ứng với các hình thức sở hữu nói trên, sẽ hình thành và phát triển nhiều nhiều hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh đa dạng và năng động: các doanh nghiệp Nhà nước 100% vốn Nhà nước; các công ty cổ phần có tỷ lệ cổ phần Nhà nước cao thấp khác nhau. Các hợp tác xã và các hình thức kinh tế hợp tác đa dạng của nông dân như tổ đoàn kết sản xuất, câu lạc bộ sản xuất, các hội nghê như hội nuôi ong, hội nuôi cá; các doanh nghiệp tư nhân gồm kinh tế hộ, kinh tế trang trại; các hình thức liên kết, liên doanh tự nguyện giữa các tổ chức kinh tế được thực hiện tùy trình độ đạt được của lực lượng sản xuất ở từng thời kỳ, từng địa phương nhất định. C3: Tất cả các chủ thể trong hệ thống đều được tự do kinh doanh theo pháp luật và bình đẳng về nghĩa vụ và quyền lợi trước pháp luật. C4: Việc điều hành các hoạt động kinh tế nông nghiệp sẽ hạn chế tối đa những mệnh lệnh hành chính, đảm bảo vận hành nền nông nghiệp chủ yếu theo cơ chế thị trường, tức là vận hành chủ yếu theo sự hướng dẫn của các quy luật giá trị, quy luật cung cầu, quy luật cạnh tranh,... kết hợp với các kế hoạch định hướng và các chính sách kinh tế vĩ mô của Nhà nước. 2. Vai trò của nông nghiệp, nông thôn đối với quá trình công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước. 2.1. Vai trò kinh tế của vùng nông thôn. Trong quá trình phát triển, một số nước trước đây chú trọng phát triển các đô thị, các khu công nghiệp hiện đại mà ít chú ý phát triển nông thôn; đó là một số nước như Braxin, Mêhico, ấn Độ, Angiêri, Angôla... Tình hình đó đã làm cho khoảng cách về kinh tế và xã hội giữa đô thị và nông thôn ngày càng lớn, ảnh hưởng nhiều đến tăng trưởng kinh tế và phát triển xã hội của đất nước, làm tăng thêm sự mất cân đối giữa công nghiệp và nông nghiệp, giữa sản xuất và tiêu dùng tạo nên mâu thuẫn trong nội tại của cơ cấu kinh tế. Trong lúc đó, một số nước và vùng lãnh thổ khác ở Châu á có tốc độ tăng trưởng khá nhanh như Đài Loan, Thái Lan, Trung Quốc, Hàn Quốc, Malaixia đã quan tâm phát triển nông nghiệp ngay từ đầu thời kỳ công nghiệp hóa, coi nông nghiệp và nông thôn là một bộ phận quan trọng của nền kinh tế quốc dân. Phát triển nông thôn không phải chỉ vì lợi ích riêng của nông thôn mà còn vì lợi ích chung của đất nước. Ngày nay phát triển nông thôn không còn là việc riêng của các nước đang phát triển mà còn là sự quan tâm chung của cộng đồng thế giới. Việt Nam là một nước đang đi lên từ một nền nông nghiệp lạc hậu, nông thôn lại càng có vai trò, vị trí quan trọng trong phát triển đất nước. Vì sao vậy? - Nông thôn là nơi sản xuất lương thực, thực phẩm cho nhu cầu cơ bản của nhân dân, cung cấp nông sản, nguyên liệu cho công nghiệp và xuất khẩu. - Nông thôn là nơi cung cấp các nguồn nhân lực dồi dào cho xã hội, chiếm trên 70% lao động xã hội. - Nông thôn chiếm 80% dân số cả nước. Đó là thị trường rộng lớn tiêu thụ sản phẩm công nghiệp và dịch vụ. Nông thôn phát triển cho phép nâng cao đời sống và thu nhập của dân cư nông thôn, tạo điều kiện mở rộng thị trường để phát triển sản xuất trong cả nước. - ở nông thôn có trên 50 dân tộc khác nhau sinh sống, bao gồm nhiều thành phần, nhiều tầng lớp, có các tôn giáo tín ngưỡng khác nhau, là nền tảng quan trọng để đảm bảo ổn định tình hình kinh tế - xã hội của đất nước, để tăng cường sự đoàn kết của cộng đồng các dân tộc. - Nông thôn nằm trên địa bàn rộng lớn của đất nước, có điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội khác nhau. Đó là tiềm lực to lớn về tài nguyên, đất đai, khoáng sản, thủy sản để phát triển bền vững đất nước. 2.2. Vai trò của nông nghiệp. Nông nghiệp là ngành sản xuất hết sức quan trọng của nền kinh tế nói chung và của kinh tế nông thôn nói riêng. Nông thôn có phát triển được hay không trước tiên phụ thuộc vào sự phát triển của nông nghiệp, dù đó là nông thôn của nước đang phát triển hay nước phát triển. Vì sao vậy? Trước tiên, nông nghiệp cung cấp những nông sản, lương thực, thực phẩm cơ bản và thiết yếu của con người, mà nếu thiếu nó sẽ có ảnh hưởng không nhỏ về mặt phát triển kinh tế mà còn ảnh hưởng về cả mặt chính trị và xã hội. Thứ hai, nông nghiệp sản xuất ra nguyên liệu cho hàng loạt ngành công nghiệp phát triển như công nghiệp chế biến thực phẩm, công nghiệp dệt, may, công nghiệp giấy, đồ gỗ,... Thứ ba, nông nghiệp góp phần vào việc tăng thu nhập và tích lũy của nền kinh tế quốc dân, thông qua cung cấp sản phẩm, thuế, xuất khẩu nông sản phẩm. Thứ tư, nông nghiệp và nông thôn trải ra trên địa bàn rộng lớn ở các vùng trên đất nước, nếu phát triển tốt sẽ góp phần quan trọng để bảo vệ môi trường sinh thái. Ngược lại, nếu phát triển không tốt sẽ ảnh hưởng lớn làm ô nhiễm môi trường. II. Quan niệm về đầu tư Nhà nước cho phát triển nông nghiệp, nông thôn. 1. Mối quan hệ giữa đầu tư và phát triển. Học thuyết kinh tế hiện đại đã nghiên cứu và giải đáp thành công mối quan hệ nhân quả giữa đầu tư và phát triển kinh tế nói chung, kinh tế nông nghiệp và nông thôn nói riêng. Lý thuyết đó bắt nguồn từ quan điểm hệ thống và quan điểm phát triển đã được khảo nghiệm qua thực tiễn ở nhiều nước. Quan điểm cho rằng, đầu tư là chìa khóa trong chiến lược và kế hoạch phát triển đã được cụ thể hóa trong mối tương quan giữa tăng trưởng vốn đầu tư và tăng trưởng GNP và GDP. Điều rõ ràng là một nền kinh tế muốn giữ được tốc độ tăng trưởng vốn đầu tư thỏa đáng. Tỷ lệ “thỏa đáng” đó ít khi thấp hơn 15% GNP và trong một số trường hợp phải đạt 25% GNP. Trong kinh tế nông nghiệp và nông thôn, quan hệ tỷ lệ đó vẫn là chuẩn mực có ý nghĩa là không có tăng trưởng đầu tư thỏa đáng thì sẽ không có tăng trưởng kinh tế. J.M.Keynes trong lý thuyết “Đầu tư và mô hình số nhân” đã chứng minh rằng, tăng đầu tư sẽ bù đắp những thiếu hụt của “cầu tiêu dùng”, từ đó tăng số lượng việc làm, tăng thu nhập, tăng hiệu quả cận “biên” của tư bản và kích thích sản xuất tái phát triển. ở đây có sự tác động dây chuyền theo chu kỳ: tăng đầu tư -> tăng thu nhập -> tăng sức mua -> tăng đầu ra -> tăng đầu tư mới -> tăng thu nhập mới -> sức mua mới ->tăng đầu ra mới -> tăng trưởng nhanh. Bổ sung vào lý thuyết số nhân của J.M. Keynes, các nhà kinh tế Mỹ đưa ra lý thuyết “gia tốc”. Lý thuyết này không những nghiên cứu các quyết định đầu tư mà còn chứng minh mối quan hệ giữa gia tăng sản lượng làm cho đầu tư tăng lên thế nào, và sau đó đầu tư tăng lên sẽ gia tăng sản lượng với nhịp độ nhanh hơn như thế nào. Sự tăng nhanh tốc độ đầu tư so với thay đổi về sản lượng nói lên ý nghĩa của nguyên tắc “gia tốc”. Theo lý thuyết “gia tốc”, để vốn đầu tư tiếp tục tăng lên thì sản lượng bán ra phải tăng lên liên tục. Nhưng logic của vấn đề là ở chỗ số lượng sản phẩm bán ra ngày hôm nay là kết quả đầu tư của thời kỳ trước, năm trước. Thực tế của các nước Châu á đã chứng minh lý thuyết trên. Cách đây vài ba thập kỷ, Châu á được biết đến với tư cách là vùng kinh tế có tăng trưởng. Nhưng sự phát triển của cách mạng khoa học kỹ thuật và mở rộng giao lưu quốc tế đã làm thay đổi dần bộ mặt của các nước và một số lãnh thổ trong vùng. Cơn lốc của sự tăng trưởng kinh tế của các nước phát triển đã lan đến Châu á để tìm thị trường mới và từ đó Châu á mới bắt đầu được biết đến như một vùng kinh tế mới. Khi nền kinh tế thế giới dao động ở tốc độ tăng trưởng 3 - 5% mỗi năm thì các nước và các lãnh thổ đang phát triển như: Hàn Quốc, Đài Loan, Hồng Kông, Singapore, từ điểm xuất phát thấp, tài nguyên ngèo nàn, thị trường nội địa nhỏ, đã trở thành những nước và lãnh thổ công nghiệp mới xuất phát từ nông nghiệp. Đặc trưng của các nơi này là quá trình công nghiệp hóa diễn ra nhanh chóng làm thay đổi cơ cấu kinh tế từ nông nghiệp - công nghiệp sang công nghiệp, dịch vụ, nông nghiệp. Và đến năm 1993, GNP bình quân đầu người của Hồng Kông đã lên tới 16.250 USD, Singapore 15.200 USD, Đài Loan 11.320 USD, Hàn Quốc 6.625 USD. Sở dĩ đạt được sự phát triển thần kỳ đó là vì các nơi này đã khai thác một cách tối đa mọi lợi thế so sánh. Một chiến lược đầu tư cao được thực hiện trong những năm đầu công nghiệp hóa, có nơi đạt 40% GDP như Singapore, các nơi còn lại trên 30% GDP. 2.Vốn đầu tư cho phát triển nông nghiệp, nông thôn. 2.1. Đầu tư và đầu tư Nhà nước cho phát triển nông nghiệp, nông thôn. a. Khái niệm và phân loại đầu tư. Trong các lĩnh vực sản xuất kinh doanh và phát triển kinh tế xã hội nói chung, sản xuất kinh doanh nông nghiệp và phát triển kinh tế nông thôn nói riêng, các hoạt động kinh tế bao giờ cũng gắn liền với việc huy động và sử dụng các nguồn lực nhằm đem lại những lợi ích kinh tế xã hội nhất định. Các nguồn lực được huy động và sử dụng vào các hoạt động kinh tế bao gồm: tài lực (tiền vốn), nhân lực (lao động), vật lực (các yếu tố vật chất đầu vào của sản xuất) và nguồn lực trí tuệ. Các hoạt động kinh tế nói riêng được tiến hành trong một khoảng thời gian và trên một vùng không gian xác định với mục đích đem lại những lợi ích kinh tế xã hội lớn hơn những chi phí về những nguồn lực đã được sử dụng. Hoạt động kinh tế với việc sử dụng các nguồn lực trong một thời gian tương đối dài nhằm đem lại những lợi ích kinh tế xã hội lớn hơn các chi phí về những nguồn lực đã sử dụng được gọi là hoạt động đầu tư. Các hoạt động kinh tế ngắn hạn (từ một năm trở lại) thường không gọi là hoạt động đầu tư. Trong các hoạt động kinh tế, nguồn tài lực (tiền vốn) luôn có vai trò rất quan trọng. Quá trình sử dụng tiền vốn trong đầu tư, nói chung là quá trình chuyển hóa vốn bằng tiền thành vốn hiện vật (máy móc, thiết bị, đất đai, mặt nước, nguyên vật liệu, cây con giống...) hoặc vốn dưới hình thức tài sản vô hình (lao động chuyên môn cao, công nghệ và bí quyết công nghệ, quyền sở hữu công nghiệp...) để tạo ra hoặc duy trì, tăng cường năng lực của các cơ sở vật chất kỹ thuật hay những yếu tố, những điều kiện cơ bản của hoạt động kinh tế. Trong phạm vi nền kinh tế quốc dân, phạm vi một địa phương, một vùng kinh tế, hoạt động đầu tư là một lĩnh vực hoạt động để tạo ra hay đổi mới và duy trì hoạt động của các cơ sở vật chất kỹ thuật trong các ngành kinh tế quốc dân hoặc để tăng cường năng lực của các yếu tố sản xuất nhằm khai thác đầy đủ và có hiệu quả các nguồn tài nguyên của đất nước, của địa phương và của vùng. Trong phạm vi một doanh nghiệp, hoạt động đầu tư là một bộ phận hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp để tạo ra hay tăng cường các yếu tố, các điều kiện sản xuất kinh doanh hoặc đổi mới phương thức kinh doanh nhằm nâng cao kết quả và hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Khái niệm đầu tư cho thấy tính đa dạng phong phú của hoạt động kinh tế này. Hoạt động đầu tư nói chung, đầu tư phát triển nông nghiệp và nông thôn nói riêng, có thể được phân loại theo những tiêu thức khác nhau. Mỗi cách phân loại đều có ý nghĩa riêng trong việc theo dõi, quản lý và thực hiện các hoạt động đầu tư. - ở tầm vĩ mô, theo các lĩnh vực của nền kinh tế, có thể phân thành: + Đầu tư tài sản vật chất: Là hình thức đầu tư nhằm tạo ra cơ sở vật chất kỹ thuật cho nền kinh tế hoặc tăng cường năng lực hoạt động của các cơ sở vật chất kỹ thuật, làm tăng tiềm lực sản xuất kinh doanh và các hoạt động xã hội khác. + Đầu tư tài chính: Là hình thức đầu tư dưới dạng cho vay hoặc mua các chứng chỉ có giá để hưởng lãi suất định trước (gửi tiền vào ngân hàng, mua trái phiếu Chính phủ) hoặc hưởng lãi suất theo kết quả sản xuất kinh doanh của công ty phát hành (cổ phiếu công ty, trái phiếu công ty). Đầu tư tài chính không trực tiếp tạo ra cơ sở vật chất kỹ thuật mới cho nền kinh tế, song đang là một trong những nguồn cung cấp vốn quan trọng cho các hoạt động đầu tư phát triển. Do vậy, đầu tư tài chính còn được gọi là đầu tư dịch chuyển. + Đầu tư thương mại: Là hình thức đầu tư dưới dạng bỏ tiền vốn mua hàng hóa để bán với giá cao hơn nhằm thu lợi nhuận do chênh lệch giá bán và giá mua. Đầu tư thương mại nói chung không tạo ra tài sản mới cho nền kinh tế, song lại có vai trò rất quan trọng đối với quá trình lưu thông hàng hoá, thúc đẩy sản xuất kinh doanh, thúc đẩy hoạt động đầu tư phát triển. + Đầu tư phát triển nguồn nhân lực: Là hình thức đầu tư vào các hoạt động bồi dưỡng, đào tạo về học vấn, về chuyên môn và kỹ thuật cho lực lượng lao động để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực phục vụ cho phát triển kinh tế - xã hội. + Đầu tư phát triển khoa học công nghệ: Là hình thức đầu tư dưới dạng phát triển các cơ sở nghiên cứu khoa học, công nghệ và đầu tư cho các hoạt động nghiên cứu, ứng dụng tiến bộ khoa học công nghệ và các lĩnh vực của nền kinh tế. Đầu tư tài sản vật chất, đầu tư phát triển nguồn nhân lực, đầu tư phát triển khoa học công nghệ được gọi chung là đầu tư phát triển. - Theo quan hệ quản lý của chủ đầu tư, có thể phân chia thành: + Đầu tư trực tiếp: Là hình thức đầu tư mà người bỏ vốn đầu tư đồng thời là người trực tiếp quản lý quá trình đầu tư hoặc chủ đầu tư do đóng góp số vốn đủ lớn cho phép họ trực tiếp tham gia quá trình quản lý, diều hành quá trình đầu tư và quản lý quá trình khai thác, sử dụng công trình đầu tư. + Đầu tư gián tiếp: Là hình thức đầu tư mà chủ đầu tư do chỉ góp vốn dưới giới hạn nào đó nên không được quyền tham gia trực tiếp điều hành quá trình đầu tư và khai thác sử dụng công trình đầu tư. Đó là các trường hợp viện trợ hay cho vay với lãi suất ưu đãi của Chính phủ nước ngoài, các trường hợp đầu tư tài chính của các cá nhân, tổ chức dưới hình thức mua cổ phiếu, trái phiếu và cho vay để hưởng lợi tức. - Theo nội dung kinh tế của đầu tư, có thể phân chia thành: + Đầu tư xây dựng cơ bản: Là hình thức đầu tư nhằm tạo ra hay hiện đại hóa các tài sản cố định thông qua xây dựng mới, cải tạo tài sản cố định hay mùa bản quyền sở hữu công nghiệp, bí quyết công nghệ. + Đầu tư vào tài sản lưu động: Là hình thức đầu tư mua sắm tư liệu sản xuất giá trị nhỏ, nguyên vật liệu... nhằm đảm bảo cho các hoạt động sản xuất kinh doanh trong quá trình đầu tư tiến hành liên tục. + Đầu tư vào lực lượng lao động: Nhằm tăng cường số lượng và chất lượng lao động thông qua đào tạo, thuê mướn công nhân, bồi dưỡng chuyên môn cho cán bộ quản lý. b. Đầu tư Nhà nước cho phát triển nông nghiệp nông thôn. b1.Quan niệm về đầu tư Nhà nước cho phát triển nông nghiệp, nông thôn. Từ sự phân tích về vai trò của Nhà nước, có thể cho rằng: + Nhà nước không đứng ngoài các quá trình phát triển kinh tế, đặc biệt trong những thời điểm bước ngoặt cơ cấu lại nền kinh tế. + Nhà nước trực tiếp tham gia vào những lĩnh vực có ảnh hưởng quyết định đến sự phát triển của nền kinh tế. Đó là lĩnh vực công cộng, cơ sở hạ tầng, phát triển nguồn nhân lực. + Nhà nước không đầu tư tràn lan, không can thiệp trực tiếp vào hoạt động sản xuất kinh doanh của tư nhân mà chỉ giúp đỡ hỗ trợ có giới hạn, cho đến khi đối tượng tồn tại và đứng vững trong cơ chế thị trường thì dừng lại chuyển sang đối tượng khác, không bao cấp kéo dài. Đầu tư hỗ trợ Nhà nước không phải là bất biến. Đối với nước ta hiện nay, Nhà nước chỉ tập trung đầu tư và hỗ trợ những lĩnh vực mà các chủ thể khác không làm được hoặc làm không hiệu quả để phát triển năng lực nội tại của khu vực nông thôn, đồng thời có chính sách giải pháp tạo lập môi trường kinh tế xã hội thuận lợi. Thực chất là Nhà nước đầu tư giúp khu vực nông thôn phát triển kinh tế về hai phương diện: Một là: Tạo lập cho các chủ thể kinh tế ở nông thôn môi trường kinh tế - xã hội - pháp luật thuận lợi để phát triển, qua đó Nhà nước hướng sự phát triển của các chủ thể theo mục tiêu đã định. ở đây, Nhà nước phải sử dụng các chính sách giải pháp vĩ mô tác động một cách gián tiếp (chính sách đầu tư vốn để xây dựng cơ sở hạ tầng, chính sách và pháp luật bảo hộ quyền sở hữu, ban hành luật đầu tư, lập hàng rào thuế quan, chính sách tỷ giá...) và được coi như nhân tố bên ngoài đối với sự phát triển. Hai là: Thúc đẩy sự phát triển của nhân tố bên trong của các chủ thể kinh tế ở nông thôn bằng các chính sách, giải pháp đầu tư có kế hoạch và quy họach cụ thể. Sự tác động biện chứng của nhân tố bên trong và nhân tố bên ngoài, giữa tác động trực tiếp và gián tiếp là điều kiện và tiền đề cần thiết để phát triển kinh tế nông nghiệp và nông thôn. Thiếu sự tác động biện chứng ấy, kinh tế nông nghiệp và nông thôn sẽ không phát triển được. Nói một cách khái quát: đầu tư của Nhà nước cho phát triển nông nghiệp nông thôn là sự tác động của hệ thống chủ trương, chính sách, giải pháp vĩ mô trong việc phát triển năng lực nội tại của các chủ thể kinh tế ở nông thôn và tạo lập môi trường kinh tế - xã hội thuận lợi cho các chủ thể kinh tế đó phát triển theo định hướng, mục tiêu, chiến lược đã đề ra. b2. Đặc điểm đầu tư Nhà nước cho phát triển nông nghiệp, nông thôn. Đầu tư phát triển nông nghiệp và kinh tế nông thôn thường đều trực tiếp hay gián tiếp chịu ảnh hưởng của các đặc điểm sản xuất nông nghiệp nên mang một số đặc điểm cần lưu ý sau: - Đầu tư phát triển nông nghiệp và kinh tế nông thôn, đặc biệt là đầu tư trong nông nghiệp, thường có thời gian thu hồi vốn dài hơn đầu tư trong các ngành kinh tế khác. Những nguyên nhân của thời gian thu hồi vốn dài bao gồm: + Tính sinh lời của sản xuất kinh doanh nông nghiệp trong điều kiện hiện nay thường thấp hơn các ngành khác. + Chu kỳ sản xuất kinh doanh trong nông nghiệp thường dài, năng suất lao động trong nông nghiệp lại thấp, do vậy thời gian khấu hao tài sản cố định trong nông nghiệp thường kéo dài hơn so với các ngành kinh tế khác. + Tính rủi ro và kém ổn định của sản xuất kinh doanh nông nghiệp một mặt ảnh hưởng tới thời gian thu hồi vốn đầu tư, mặt khác gián tiếp ảnh hưởng tới thời gian thu hồi vốn đầu tư của các ngành kinh tế nông thôn có sử dụng nguyên liệu nông nghiệp hoặc liên quan tới nông nghiệp. + Tỷ giá giữa hàng công nghiệp và hàng nông sản bất lợi cho nông nghiệp. Điều này ảnh hưởng tới khả năng thu hồi vốn đầu tư trong nông nghiệp, nhất là trong điều kiện năng suất lao động nông nghiệp thấp. - Hoạt động đầu tư trong lĩnh vực nông nghiệp và kinh tế nông thôn, nhất là trong nông nghiệp thường được tiến hành trên một phạm vi không gian rộng lớn; phần lớn các hoạt động đầu tư trong lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn có phạm vi không gian rộng lớn hơn trong các lĩnh vực khác. Điều này làm tăng thêm tính phức tạp của việc điều hành quản lý các công việc của thời kỳ đầu tư xây dựng các công trình cũng như thời kỳ khai thác công trình. 2.2. Cơ cấu đầu tư cho phát triển nông nghiệp nông thôn. a. Cơ cấu nguồn vốn. - Nguồn vốn trong nước: + Vốn ngân sách Nhà nước:Nguồn thu của ngân sách Nhà nước thường bao gồm các khoản: thuế, phí, lệ phí, tiền thu từ thanh lý hoặc bán các tài sản của Nhà nước. Ngoài ra còn các khoản vay, viện trợ của nước ngoài và thu từ phát hành. Thuế là nguồn thu chủ yếu của ngân sách Nhà nước, nó thường chiếm từ 80%-90% tổng thu của ngân sách Nhà nước. Thuế là khoản đóng góp bắt buộc của các tổ chức kinh tế và dân cư để đáp ứng nhu cầu chi tiêu của Nhà nước và các nhu cầu khác của xã hội. Vốn từ ngân sách Nhà nước là nguồn vốn chủ yếu đầu tư cho phát triển nông nghiêp, nông thôn ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay. + Tiết kiệm của các hộ nông dân: là nguồn vốn tiềm ẩn và còn nhiều khả năng khai thác ở nước ta hiện nay. Đó là một phần thu nhập mà các hộ nông dân không chi tiêu đến hoặc họ tiết kiệm, dành dụm nhằm đề phòng những rủi ro trong tương lai hoặc để chuẩn bị cho một công việc lớn nào đó và nhiều khi là do thói quen, tập quán. Đây là phần tài sản rất khó thông kê nhưng nó lại là nguồn vốn rất cơ động và linh hoạt cho phát triển nông nghiêp nông thôn. + Nguồn tín dụng: là nguồn vốn từ các tổ chức tín dụng cho các hộ nông dân vay với lãi suất ưu đãi. Nguồn vốn này đóng vai trò khá quan trọng khi mà nền kinh tế thị trường, sản xuất hàng hoá phát triển ở khu vực nông thôn. - Vốn ngoài nước: là nguồn vốn của nước ngoài, các tổ chức quốc tế, tổ chức phi chính phủ đầu._. tư cho phát triển nông nghiêp, nông thôn ở nước ta. Nguồn vốn này có thể được đầu tư theo hai hình thức là: đầu tư trực tiếp và đầu tư gián tiếp. Vốn đầu tư cho phát triển nông nghiệp, nông thôn chủ yếu là dưới hình thức đầu tư gián tiếp bao gồm: vốn đầu tư của chính phủ, các tổ chức quốc tế, các tổ chức phi chính phủ được thực hiện dưới các hình thức: viện trợ không hoàn lại, viện trợ có hoàn lại, cho vay ưu đãi với thời hạn dài và cho vay thông thường. Tuy vậy, xét về lâu dài, nguồn vốn đầu tư nước ngoài dù quan trọng đến đâu cũng chỉ đóng vai trò là nguồn bổ sung cho nguồn tích lũy từ nội bộ nền kinh tế. Cơ sở để tiếp nhận và phát huy tác dụng của vốn đầu tư nước ngoài chính là nguồn vốn đầu tư trong nước. b. Cơ cấu sử dụng nguồn vốn: - Đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng phục vụ cho phát triển nông nghiêp, nông thôn: là việc sử dụng vốn đầu tư cho việc xây dựng mạng lưới điện, hệ thống giao thông, thủy lợi, trường học, cơ sở y tế, hệ thống thông tin liên lạc.... ở nông thôn. Đây là phần vốn đầu tư thường xuyên chiếm tỉ lệ cao trong cơ cấu vốn đầu tư cho phát triển nông nghiệp nông thôn, đồng thời nó cũng đóng mộ vai trò quan trọng đối với sự phát triển của sản xuất nông nghiệp và khu vực nông thôn. - Đầu tư đào tạo nguồn nhân lực: là nguồn vốn đầu tư được sử dụng để phục vụ cho việc nâng cao dân trí, nâng cao kiến thức, tay nghề, kỹ thuật cho người lao động ở khu vực nông thôn, nâng cao trình độ quản lý của bộ máy quản lý ở nông thôn. - Đầu tư trang bị khoa học công nghệ và nhiên cứu khoa học: là nguồn vốn đầu tư được sử dụng để mua sắm máy móc, thiết bị phục vụ cho sản xuất nông nghiêp; để ứng dụng các thành tựu khoa học tiên tiến vào sản xuất nông nghiệp; để đầu tư cho việc nghiên cứu ra các giống cây trồng vật nuôi mới cho năng suất cao, phẩm chất tốt; tìm tòi các phương pháp sản xuất tiên tiến phù hợp với điều kiện của từng khu vực và cuối cùng là đầu tư cho việc đưa các thành tựu đã đạt được trong nghiên cứu vào thực tiễn. - Đầu tư cho việc tạo môi trường thuận lợi cho phát triển sản xuất nông nghiệp, bao gồm: + Đầu tư mở rộng thị trường: bao gồm có thị trường đầu vào và thị trường đầu ra: thị trường đầu vào là thị trường cung cấp phân bón, giống và các loại vật tư phục vụ cho phát triển sản xuất nông nghiệp. Thị trường đầu ra là thị trường phục vụ cho việc tiêu thụ sản phẩm của sản xuất nông nghiệp. Vậy đầu tư phát triển thị trường là đầu tư cho việc mở rộng cả thị trường đầu vào và thị trường đầu ra của sản xuất nông nghiệp. Nó bao gồm các khoản đầu tư cho việc xây dựng các trạm cung cấp giống, phân bón, vật tư; các khu chợ chuyên mua bán các loại nông sản ở nông thôn. + Đầu tư phát triển công nghệ chế biến: là khoản đầu tư cho việc xây dựng các cơ sở chế biến nông - lâm - thủy sản ở những nơi thích hợp. Nó bao gồm cả đầu tư cho xây dựng nhà may, cả công nghệ chế biến (tức là đầu tư nhập máy móc công nghệ từ nước ngoài). 3. Vai trò của đầu tư Nhà nước cho phát triển nông nghiệp, nông thôn. Đầu tư Nhà nước có vai trò to lớn đối với sự phát triển của nông nghiệp, nông thôn. Các lý thuyết phát triển kinh tế đều coi đầu tư Nhà nước là nhân tố quan trọng cho phát triển nông nghiệp, nông thôn và là chìa khóa của sự tăng trưởng kinh tế ở khu vực nông thôn. Ngoài những vai trò chung của đầu tư với sự phát triển kinh tế, đầu tư Nhà nước còn có những vai trò riêng của mình đối với sự phát triển nông nghiệp, nông thôn: - Đầu tư Nhà nước góp phần làm cho nền kinh tế ở khu vực nông thôn phát triển một cách có tính kế hoạch và quy hoạch hơn. Sở dĩ như vậy bởi vì đây là nguồn đầu tư mang tính vĩ mô, Nhà nước đầu tư vốn dựa trên kế hoạch, các đề án, các bản quy hoạch phát triển kinh tế xã hội ở khu vực nông thôn; thêm nữa để việc sử dụng nguồn vốn có hiệu quả cao thì buộc chúng ta phải sử dụng một cách có hiệu quả và phải quy hoạch trước khi giải ngân nguồn vốn. - Đầu tư Nhà nước là nguồn đầu tư cơ sở để phát triển nông nghiêp, nông thôn: Thứ nhất, đầu tư Nhà nước là nguồn đầu tư duy nhất đầu tư vào các công trình công cộng ở nông thôn, là nguồn đầu tư cơ bản xây dựng cơ sở hạ tầng ở khu vực nông thôn; là nguồn đầu tư quan trọng có khả năng trang bị máy móc, phương tiện, khoa học công nghệ, kỹ thuật cho sản xuất nông nghiêp. Đây chính là cơ sở tạo nên những bước phát triển tiếp theo cho sản xuất nông nghiệp. Thứ hai, đầu tư Nhà nước là nguồn đầu tư cơ sở tạo nên những động lực thúc đẩy đầu tư của các hộ gia đình. Đây là vai trò khá quan trọng của vốn đầu tư Nhà nước bởi hiện nay ở nước ta nguồn vốn nhàn dỗi trong dân còn khá nhiều. III. Kinh nghiệm đầu tư nhà nước cho phát triển nông nghiệp, nông thôn 1.Kinh nghiệm đầu tư cho phát triển nông nghiệp nông thôn ở Trung Quốc 1.1 Chính sách đầu tư : Cũng giống như hầu hết các quốc gia khác, chính phủ Trung Quốc cũng giành một tỷ lệ vốn nhất định để đầu tư cho nông nghiệp dưới nhiều hình thức như đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng, giao thông nông thôn, xây dựng các công trình thuỷ lợi…. , trợ giá xuất khẩu hàng nông sản đầu tư cho nghiên cú khoa học, ứng dụng công nghệ mới vào sản xuất, đặt biệt là cấp vốn cho tín dụng… Ngoài ra việc miễn giảm thuế nông nghiệp, thuỷ lợi phí, trợ giá cước vận tải, phân bón, vật tư nông nghiệp, nhất là việc cho vay tín dụng với lãi suất ưu đãi… cũng là một hình thức đầu tư gián tiếp cho nông dân. Trung Quốc những năm gần đây trong lĩnh vực sản xuất nông nghiệp có nhiều thành công, đã giải quyết vấn đề lương thực, thực phẩm cho số dân khổng lồ chiếm trên 1/3 dân số thế giới. Đây là thành công của đường lối cải cách trong đó có vai trò đầu tư vốn của nhà nước ngày một tăng, cụ thẻ là: Biểu1: Tổng vốn đầu tư của Nhà nước Trung Quốc cho nông nghiệp Năm 1988 1989 1990 1991 1992 1993 1994 1995 1996 Số vốn (tỷ NDT) 13,84 17,4 19,169 24,257 28,324 32,843 36,261 41,524 46,265 ( Nguồn : Nghiên cứu Trung Quốc – Nhà xuất bản QG – Hà Nội) Ngoài nguồn vốn trong nước nhà nước còn dành các khoản vay nước ngoài đầu tư cho nông nghiệp, tính từ năm 1980 đến 1988 số vốn lên tới 164 triệu USD. Từ năm 1989, Trung Quốc đã dành 1/4 số tiền ngân hàng thế giới cho vay để phát triển thuỷ lợi, mở rộng sản xuất lương thực, ngoài ra còn gọi vốn đầu tư nước ngoài vào nông nghiệp. 1.2 Chính sách đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng cho nông thôn. Trung Quốc là nước rất chú ý đến đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng cho phát triển kinh tế nông thôn. Đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng cho các vùng sản xuất hàng hoá thường đi trước một bước ( chủ yếu là đường xá, điện và thông tin liên lạc ) đặc biệt thuỷ lợi được quan tâm hàng đầu. Trong cải cách kinh tế, nhà nước Trung Quốc đã tăng vốn đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng nông thôn nhiều hơn tổng số lượng vốn có đựơc kể từ ngày giải phóng đến năm 1980. Đầu tư xây dựng và phát triển cơ sở hạ tầng cho sản xuất nông nghiệp và kinh tế nông thôn được coi là chính sách lớn trong đường lối phát triển kinh tế và được chính phủ đầu tư một tỷ trọng vốn cao. Nhờ có hệ thống cơ sở hạ tầng thuận lợi đã tạo điều kiện khuyến khích tư nhân bỏ vốn đầu tư phát triển sản xuất ở nông thôn. Chính sách đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng đúng đắn sẽ tạo điều kiện cho quá trình điều chỉnh cơ cấu kinh tế nói chung và nông thôn nói riêng diễn ra thuận lợi, có hiệu quả. 1.3 Khuyến khích khu vực kinh tế tư nhân phát triển Một số lĩnh vực mà khu vực tư nhân đảm nhận có kết quả thì nhà nước có chính sách khuyến khích, đó là những ngành và lĩnh vực phi nông nghiêp ở nông thôn ( bao gồm khối công nghiệp và dịch vụ ). Sự phát triển của khu vực này làm cho lao động nông nghiệp giảm nhanh, tỷ trọng sản xuất nhà nước trong GDP cũng giảm, nhường chỗ cho sự gia tăng của các sản phẩm công nghiệp và dịch vụ. Trung Quốc là một điển hình trong chính sách này, nhờ phát triển mạnh các loại hình xí nghiệp công nghiệp nhỏ ( xí nghiệp Thương Trấn ) trong một thập kỷ vừa qua ở Trung Quốc đã thu hút từ nông nghiệp gần 80 triệu lao động, tạo ra 48,9% tổng thu nhập kinh tế nông thôn. Năm 1983 – 1984 trong khi công nghiệp toàn quốc chỉ tăng 14% thì công nghiệp nông thôn tăng 29%. Năm 1987, lần đầu tiên giá trị tổng sản lượng các ngành phi nông nghiệp và nông thôn vượt tổng giá trị sản lượng nông nghiệp. Chính sách khuyến khích phát triển công nghiệp, dịch vụ nông thôn là một trong các chính sách có mục tiêu nhằm phát triển công nghiẹp nông thôn, tác động gián tiếp nhưng rất quan trọng trong quá trình chuyển nền kinh tế có cơ cấu nông – công nghiệp sang cơ cấu công nông nghiệp. 2. Thái Lan 2.1 Chính sách thuế nông nghiệp và thuỷ lợi phí a. Chính sách thuế nông nghiệp : Để hỗ trợ thêm cho nông dân bằng cách giảm bớt mức đóng góp, nhà nước thực hiện chính sách thu thuế nhẹ hoặc không thu thuế nông nghiệp để giảm gánh nặng đóng góp của dân, kích thích nông nghiệp phát triển. Có thể nói đây cũng là một hình thức đầu tư của nhà nước cho phát triển nông nghiệp, nông thôn. Thái Lan trước kia có đánh thuế nông nghiệp theo diện tích sản xuất, nay đã bỏ đối với tất cả các loại đất, thuế trong nông thôn chỉ còn : thuế thu nhập, thuế VAT, thuế chuyển nhượng tài sản. Nhà nước không coi thuế nông nghiệp là nguồn thu chính của ngân sách mà tạo nguồn thu từ thuế ở các khâu chế biến,xuất khẩu nông sản, và từ các hoạt động kinh tế khác có giá trị gia tăng cao. b.Chính sách phát triển thuỷ lợi và thu thuế lợi tức Cũng như một số nước, Thái Lan thực hiện chính sách đầu tư xây dựng các công trình thuỷ lợi phục vụ sản xuất nông nghiệp ( tư nhân và nông dân ít đầu tư ) đồng thời nhà nước thu thuỷ lợi phí ở mức thấp hoặc không thu để tạo điều kiện thuận lợi cho thâm canh phát triển sản xuất. Họ cho rằng “ nước” là hàng hoá công cộng…. Kinh phí đầu tư của nhà nước dành cho thuỷ lợi thường chiếm trên 50% tổng số vốn đầu tư của nhà nước vào nông nghiệp. Cụ thể ở Thái Lan, nông dân không phải trả tiền nước tưới. 2.2 Chính sách hỗ trợ “ Đầu vào” cho sản xuất - Chính sách tín dụng : Từ nhận thức dân là đối tượng người nghèo, nhiều khó khăn trong xã hội, nói chung là rất thiếu vốn sản xuất nên Chính phủ Thái lan đã tích cực tạo ra hệ thống tín dụng nhà nước để cung ứng một phần vốn vay cho nông dân, đồng thời hỗ trợ để phát triển các tổ chức tín dụng HTX để tạo vốn cho nông dân. nhà nước còn thực hiện tín dụng ưu đãi cho nông dân. - Chính sách nghiên cứu, triển khai kỹ thuật công nghệ vào nông thôn, nông nghiệp nhằm giúp nông dân các kiến thức sản xuất và tiếp cận thị trường trong và ngoài nước. Thái lan là một điển hình tốt về chính sách này : nhà nước chú trọng xây dựng các trạm nghiên cứu nông nghiệp, đã chi cho công tác triển khai nông nghiệp lớn hơn so với công tác nghiên cứu. Sử dụng quỹ nghiên cứu triển khai nông nghiệp tập trung có hiệu quả vào các công trình xuất khẩu có giá trị và vị trí chiến lược đối với nền kinh tế. Cục triển khai nông nghiệp Thái Lan ( DAOE) là cơ quan khuyến nông rất có hiệu quả của nhà nước. Nhà nước tông qua hoạt động triển khai để thực hiện chính sách đa dạng hoá sản xuất nông nghiệp. 2.3 Chính sách hỗ trợ điều tiết sản xuất qua kích thích hoặc hạn chế xuất khẩu Trong nền kinh tế thị trường mở cửa, nhà nước rất quan tâm đến chính sách xuất khẩu hàng nông sản – vì xuất khẩu tác động rất mạnh mẽ đến sản xuất.Nhiều nước đang phát triển trên thế giới, xuất khẩu nông sản thường giữ vị trí chiến lược trong giai đoạn đầu của quá trình công nghiệp hoá và tăng trưởng kinh tế. Thái Lan là nước điển hình trong việc xử lý triệt để chính sách xuất khẩu nông sản. Chính phủ Thái Lan đã nỗ lực cao trọng việc giúp nông dân tìm tòi thị trường xuất khẩu và giữ bằng được thị trường đã tìm ra, đồng thời sử dụng chính sách thuế xuất khẩu để điều tiết thu nhập ngành xuất khẩu lúa gạo tạo nguồn thu cho ngân sách và ổn định giá gạo nội địa. 3. Inđônêxia 3.1 Chính sách đầu tư vốn : Inđônêxia cũng là nước thành công trong việc phát triển nông nghiệp, nhà nước có chính sách tín dụng ưu đãi cho nông dân, hàng năm giành khoảng 8 – 10% tổng ngân sách cho nhân dân vay qua hệ thống tín dụng ngân hàng với lãi suất thấp bằng 1/2 lãi suất của ngân hàng thương mại ( 12% / năm so với 24%/ năm ). Đối với kinh doanh lương thực nhà nước cho vay với lãi suất 6% /năm chỉ bằng 1/4 lãi suất thị trường 3.2 Chính sách hỗ trợ “đầu vào” cho sản xuất - Chính sách tín dụng : Chính phủ Inđônêxia tích cực tạo ra hệ thống tín dụng nhà nước để cung ứng một phần vốn vay cho nông dân. - Chính sách hỗ trợ tạo vật tư nông nghiệp, phân bón, thuốc trừ sâu. Để giúp nông dân thâm canh tăng năng suất cây trồng, Inđônêxia đã áp dụng biện pháp bán phân bón giá rẻ hoặc cho không một phần , trừ một khối lượng nhỏ phân tổng hợp còn tất cả phân hoá học đều được lưu thông qua tổ chức kinh doanh độc quyền của nhà nước ( gọi là pursi – thành lập năm 1979 ). Pusri nhập phân bón từ các nhà máy sản xuất trong nước cũng như nhập khẩu, sau chuyển về tỉnh và bán cho các nhà buôn. Từ tháng 10/1988 Chính phủ nước này đã quyết định giao việc bán phân bón cho các hợp tác xã và thống nhất giá phân bón trong cả nước với mức thấp hơn giá quốc tế, trước đây là 30% nay là 20%. 3.3 Chính sách hỗ trợ “ đầu ra” cho sản xuất Việc điều hoà lương thực ở Inđônêxia được giao cho cơ quan hậu cần lương thực ( được gọi là Bulog ). Bulog đựơc giao nhiệm vụ ổn định giá cả, bảo vệ lợi ích của người nông dân và người tiêu dùng. Bulog quy định giá nền ( giá mua tối thiểu ) và giá trần ( giá bán tối đa) thống nhất trên phạm vi cả nước theo hướng khuyến khích sản xuất lúa gạo để đảm bảo an toàn lương thực quốc gia. Phần lỗ của Bulog do nhà nước bù, trích từ ngân sách đầu tư cho nông nghiệp. 3.4 Một số chính sách khác Đầu tư cho nông nghiệp còn đựơc Inđônêxia thực hiện qua chính sách khai hoang và xây dựng các khu kinh tế mới . ở những khu vực này, nhà nước đầu tư khai phá đất mới, xây dựng cơ sở hạ tầng, sau đó chuyển giao cho nông dân nghèo từ nơi khác đến lập nghiệp. Chính sách đó vừa tạo thêm việc làm, tăng thu nhập cho nông dân nghèo, vừa phân bố lại dân cư và lao động trên các vùng lãnh thổ, rút ngắn khoảng cách về thu nhập, đời sống giữa các vùng, các tầng lớp dân cư ở nông thôn. Kết quả cuối cùng là sản xuất phát triển, độ đồng đều trong nông thôn cao hơn, sản phẩm xã hội được tạo ra nhiều hơn. ở Inđônêxia, từ kế hoạch 5 năm ( 1979 – 1984) việc di dân đã thành công với sự tài trợ của ngân hàng thế giới. ở đó mỗi hộ di cư đều đều trợ cấp của nhà nước như : + Tiền căn cước vận chuyển từ quê cũ đến quê mới + Một căn nhà hai buồng +0,5 ha thổ cư và 2 ha đất canh tác ( 1ha cây lâu năm và 1ha cây hàng năm ). + Một năm lương thực khi mới đến khu định cư mới + Được vay vốn với lãi suất ưu đãi, vay đầu tư cho cây công nghiệp đến khi thu hoạch mới phải trả nợ. Có trườnghợp Nhà nước đã trồng sẵn cây dài ngày, nông dân đến nhận vườn cây, chăm sóc và thu hoạch xong mới phải thanh toán với nhà nước. Hiện nay ở Inđônêxia mỗi năm có 80.000 đến 100.000 hộ đến các vùng kinh tế mới. Chi phí bình quân cho mỗi hộ khoảng từ 5000 đến 7000 USD - Inđônêxia còn đầu tư vào nông thôn và nông nghiêp dưới dạng đầu tư nghiên cứu và triển khi tiến bộ kỹ thuật vào sản xuất, mời chuyên gia đến trao đổi kinh nghiệm, nhập nội các giống tốt và quá trình công nghệ tiên tiến, cử cán bộ đi đào tạo nước ngoài, chi phí tập huấn, chuyển giao công nghệ đến hộ nông dân, đến đồng ruộng, khuyến nông ( bao gồm cả khuyến lâm, khuyến ngư ). Năm 1988, Inđônêxia có 28000 cán bộ khuyến nông và cử 817 hộ có một cán bộ khuyến nông. Các khoản cho công tác khuyến nông chiếm 21% tổng ngân sách chi hàng năm của Bộ Nông nghiệp. 4.Kết luận rút ra từ khảo sát kinh nghiệm nước ngoài Lý luận và thực tiễn sản xuất nông nghiệp và phát triển kinh tế nông thôn của các nước trong khu vực đã chỉ ra rằng, vốn đầu tư là vấn đề then chốt để phát triển nông nghiệp và kinh tế nông thôn. Vì vậy tăng cường đầu tư cho nông nghiệp là một yêu cầu khách quan. Yêu cầu đó là xây dựng kết cấu hạ tầng nông thôn, các cơ sở nghiên cứu và thực nghiệm khoa học – kỹ thuật, đào tạo cán bộ và công nhân lành nghề, nâng cao đầu tư… Và kinh nghiệm của các nước cho thấy cần phải kết hợp các chính sách đầu tư, phải phối hợp thống nhất các chính sách đầu tư với nhau để nâng cao hiệu quả của đồng vốn đầu tư. Thứ nhất, về chính sách đầu tư vốn: chúng ta cần phải học tập đất nước Trung Quốc, tiếp tục tăng nguồn vốn đầu tư nn cho phát triển nông nghiệp, nông thôn; đồng thời huy động mọi nguồn vốn khác đầu tư cho nông nghiệp, nong thôn. Thứ hai, về chính sách đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng: chúng ta ũng phải học tập từ đất nước Trung Quốc, cần phải tăng vốn đầu tư cho xây dựng cơ sở hạ tầng nông thôn với tốc đọ cao hơn nữa. Thứ ba, về chính sách hỗ trợ đầu vào cho sản xuất: chúng ta cần phải học tập kinh nghiệm từ Inđônễia cả chính sách tín dụng và chính sách hỗ trợ vật tư cho nông nghiệp. Thứ tư, chính sách hỗ trợ đầu ra cho sản xuất: chúng ta cũng cần phải học tập tư Inđônêxia: đó là cần phải thiết lập một cơ quan hoặc giao cho một cơ sở nào đó điều hoà giá cả của các loại nông sản. Thứ tư, chính sách thuế nông nghiệp và thuỷ lợi phí: chúng ta cần phải học tập kinh nghiệm từ Thái lan tăng cường đầu tư cho xây dựng các công trình thuỷ lợi; đồng thời bãi bỏ các loại thuế không mang tính khuyến khích phát triển sản xuất, tăng cường các loại thuế có tính chất kích thích phát triển sản xuất nông nghiệp. Thứ năm, về khuyến khích khu vực kinh tế tư nhân: chúng ta cần phải học tập từ đất nước Trung Quốc, Một số lĩnh vực mà khu vực tư nhân đảm nhận có két quả thì Nhà nước cần có chính sách khuyến khích như các ngành các lĩnh vực phi nong nghiệp ở nong thôn. Tất cả những kinh nghiệm nêu trên chỉ là những kinh nghiệm mà thôi, chúng ta xem xét nghiên cứu chúng để học hỏi, làm theo chứ không phải áp dặt một cách máy móc. Chương II : Thực trạng đầu tư nhà nước cho phát triển nông nghiệp, nông thôn I. Thực trạng phát triển nông nghiệp, nông thôn việt Nam qua quá trình đổi mới 1. Đường lối, chủ trương chính sách của Đảng về phát triển nông nghiệp, nông thôn từ năm 1986 đến nay 1. 1 Đại hội Đảng V và VI - Đại hội Đảng V : trên cơ sở xác định lại bước đi của CNH, Đại hội lần thứ V chủ chương trong 5 năm 1981 –1985 phải vừa phát triển, vừa sắp xếp lại sản xuất, bố trí lại xây dựng cơ bản để nâng cao hiệu quả đầu tư, nhằm ổn định tình hình kinh tế xã hội, ổn định đời sống nhân dân, tạo điều kiện để đẩy mạnh công nghiệp hoá. Nhưng chúng ta đã không thực hiện nghiêm chỉnh nghị quyết của Đại hội Đảng V, nông nghiệp chưa thật sự được coi là mặt trận hàng đầu, không được đảm bảo những điều kiện cần thiết để phát triển, nhất là vật tư, tiền vốn và các chính sách khuyến khích. Công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng,kể cả tiểu thủ công nghiệp, thủ công nghiệp vẫn bị coi nhẹ về tổ chức, đầu tư, chính sách. Công nghiệp nặng không phục vụ kịp thời nông nghiệp và công nghiệp nhẹ. - Đại hội Đảng VI : Trong những năm còn lại của chặng đường đầu tiên, trước mắt là trong kế hoạch 5 năm 1986 – 1990, phải thật sự tập trung sức người, sức của vào việc thực hiện cho được 3 chương trình mục tiêu về lương thực – thực phẩm, hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu. Yêu cầu cấp bách về lương thực, thực phẩm về nguyên liệu sản xuất hàng tiêu dùng, về hàng xuất khẩu quyết định vị trí hàng đầu của nông nghiệp, phải đưa nông nghiệp tiến một bước theo hướng sản xuất lớn, nhằm yêu cầu chủ yếu là tăng nhanh khối lượng và tỷ suất hàng hoá nông sản. Nông nghiệp phải được ưu tiên đáp ứng những nhu cầu về đầu tư xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật, những nguồn vốn đầu tư ấy phải được sử dụng có hiệu quả; Đầu tư cho nông nghiệp phải đồng bộ từ sản xuất đến chế biến, vận chuyển, bảo quản để có nhiều sản phẩm cuối cùng. Mở rộng và hoàn chỉnh các hệ thống thuỷ lợi, ứng dụng rộng rãi những thành tự khoa học và tiến bộ kỹ thuật, đặc biệt là công nghệ sinh học, đưa vào sử dụng phổ biến và ổn định các loại giống mới; đáp ứng đầy đủ và kịp thời nhu cầu về phân bón, thuốc trừ sâu, thuốc thú ý, tăng thêm sức kéo, bảo đảm đủ công cụ thường và công cụ cải tiến thực hiện từng bước và có trọng điểm việc cơ giới hoá, hạ thấp mức hư hao nông sản trong các khâu thu hoạch, bảo quản, vận chuyển, chế biến, chủ động phòng chống bão lụt. Phương châm phát triển nông nghiệp là kết hợp chuyên môn hoá với phát triển toàn diện, cân đối giữa trồng trọt và chăn nuôi hoa màu, cây lượng thực và cây công nghiệp, phát triển mạnh phải chú trọng chất lượng, thâm canh ngay từ đầu, phát triển nông nghiệp phải lấy thâm canh, tăng vụ là chính đồng thời mở rộng diện tích một cách vững chắc và có hiệu quả. Sửa đổi, bổ sung các chính sách về ruộng đất và các loại đất khác để quản lý, sử dụng có hiệu quả và tiết kiệm tài nguyên đất. Phát triển lâm nghiệp : Theo hướng bảo vệ và sử dụng có hiệu quả tài nguyên rừng, tăng thêm vốn rừng, phát triển có trọng điểm việc trồng rừng tập trung, chuyên canh, đẩy nhanh nhịp độ phủ xanh đất trống, đồi núi trọc thep phương thức nông lâm kết hợp, ngăn chặn nạn phá rừng, cháy rừng; phát triển rộng khắp phong trào trồng cây, chú ý cả cây lấy gỗ, cây làm nguyên liệu và làm củi. Tiến hành tích cực việc định canh, định cư, giao đất rừng cho các đơn vị tập thể và nhân dân sử dụng lâu dài để làm chủ đất rừng như làm chủ đất ruộng. Xây dựng các khu kinh tế tổng hợp lâm – nông – công nghiệp, khai thác, bảo quản, chế biến, sử dụng gỗ và các loại lâm sản khác với hiệu quả kinh tế ngày càng cao. Hải sản và thuỷ sản nước ngọt, nước lợ là một nguồn lợi lớn. Coi trọng đánh bắt và nuôi trồng đi đôi với giải quyết tốt việc chế biến,vận chuyển để đáp ứng nhu cầu trong nước và tăng nhanh xuất khẩu. Tăng đầu tư và bổ sung chính sách nhằm tận dụng mọi diện tích mặt nước có thể nuôi trồng thuỷ sản.Những diện tích mặt nước mà các các cơ sở quốc doanh và tập thể quản lý do không sử dụng hết, thì giao cho nhân dân mượn hoặc nhận khoán để mở rộng sản xuất. 1.2 Nghị quyết 10 – NQ/TW ( ngày 5/4/1988 của Bộ Chính Trị ) Có đề cập đến vấn đề đổi mới quản lý kinh tế nông nghiệp phải đạt yêu cầu : - Thực sự giải phóng sức sản xuất, gắn sắp xếp, tổ chức lại sản xuất với cải tạo XHCN, tăng cường cơ sở vật chất kỹ thuật và đưa kỹ thuật tiến bộ vào sản xuất nông nghiệp. Phát huy đựơc mọi tiềm năng của các thành phần kinh tế, các vùng, các ngành trong. Chuyển nền nông nghiệp nước ta còn mang nặng tính tự cấp tự túc ở nhiều vùng sang sản xuất hàng hoá theo hướng chuyên môn hoá kết hợp tổng hợp phù hợp với đặc điểm tự nhiên, kinh tế xã hội của từng vùng từng bước đưa sản xuất nông nghiệp lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa : - Giải quyết đúng đắn các mối quan hệ về lợi ích, nhất là bảo đảm lợi ích chính đáng của người sản xuất, trước hết là đối với người trồng lúa, không ngừng cải thiện đời sống nhân dân lao động góp phần tích luỹ cho sự nghiệp xây dựng CNXH. - Mở rộng dân chủ, đề cao pháp chế, xây dựng nông thôn mới XHCN - Đổi mới về tổ chức cán bộ phù hợp với cơ cấu kinh tế và cơ chế quản lý mới. Làm trong sạch và nâng cao sức chiến đấu của tổ chức Đảng của đội ngũ cán bộ, đảng viên theo yêu cầu và nội dung của cuộc vận động chính trị lớn. 1.3 Đại hội Đảng VII Theo phương hướng phát triển các ngành và các vùng đã được Đại hội VII đề ra, cơ cấu đầu tư trong những năm 1992- 1995 cần coi trọng những mặt sau đây : - Phát triển nông – lâm – ngư nghiệp gắn với công nghiệp chế biến Đẩy mạnh thâm canh, tăng vụ và cải tiến cơ cấu giống, cơ cấu cây trồng trên diện tích đang sử dụng, phát triển chăn nuôi thành ngành chính. Đi đôi với huy động sức dân là chính, nhà nước tăng tỷ trọng và nâng cao hiệu quả đầu tư vào khâu giống và thuỷ lợi; nâng tỉ lệ diện tích được tưới nước chủ động, thu hẹp diện tích bị úng. Tiếp tục đầu tư xây dựng các công trình tạo nguồn nước ngọt và ngăn mặn. Phát triển các hồ chứa nước, các công trình thuỷ lợi nhỏ và vừa ở miền núi. Bảo đảm đủ giống tốt, phân bón, thuốc trừ sâu và công cụ máy móc cho nông nghiệp.Mở rộng các biện pháp bảo vệ thực vật không dùng hoá chất, chuyển giao kỹ thuật tới hộ nông dân bố trí lại cơ cấu giống, cơ cấu mùa vụ phù hợp với sinh thái từng vùng,tránh những bất lợi về thời tiết. Tiến công mạnh vào đất trống,đồi trọc, đất mới bồi và mặt nước chưa sử dụng. Phưong hướng khai thác vùng đất mới là kết hợp nông – lâm – ngư nghiệp, trồng trọt và chăn nuôi, với cơ cấu sản xuất phù hợp với điều kiện sinh thái đi vào thâm cạnh ngay từ đầu gắn ngay với công nghiệp chế biến. Phương châm thực hiện là chỗ dễ, chỗ gần làm trước, kết hợp cây ngắn ngày với cây dài ngày, lấy ngắn nuôi dài, khai thác khả năng đầu tư của tất cả các thành phần kinh tế, kể cả ngoài nước. Nhà nước đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng cần thiết, giao đất sử dụng lâu dài, có chính sách ưu đãi về thuế, tín dụng và hỗ trợ kỹ thuật cho những người đầu tư khai thác vùng đất mới. Hộ nông dân đi lập nghiệp ở vùng đất mới được chuyển quyền sử dụng ruộng đất ở nơi cư trú cũ để có thêm vốn đầu tư. - Tiếp tục đổi mới kinh tế, phát triển các hình thức hợp tác đa dạng trong nông thôn để hộ xã viên là đơn vị tự chủ phát triển kinh tế tư nhân. Để tạo môi trường và điều kiện thuận lợi cho kinh tế tập thể và hộ xã viên, kinh tế hộ cá thể và tư nhân phát triển sản xuất kinh doanh, xây dựng nông thôn mới,cần tập trung giải quyết một số vấn đề dưới đây. + Chính sách tài chính tín dụng phải thật sự khuyến khích và hỗ trợ kinh tế hợp tác và kinh tế hộ gia đình phát triển + Đầu tư nghiên cứu thị trường tiêu thụ nông sản trong và ngoài nước, tìm thêm thị trường mới, thông qua các hợp đồng tiêu thụ nông sản, giúp đỡ và tạo điều kiện để các hộ nông dân tiếp cận với thị trường. Khuyến khích đầu tư chế biến nông sản, mở rộng dịch vụ bán vật tư, hàng hoá và mua sản phẩm trực tiếp đến hộ nông dân, áp dụng hình thức ứng trước vật tư, tiền vốn cho nông dân để mua sản phẩm, loại trừ tình trạng các tổ chức trong khu vực nhà nước và các thành phần kinh tế khác đầu cơ ép giá đối với nông dân. + Xây dựng quỹ bảo hiểm sản xuất nông nghiệp + Đẩy mạnh công tác khuyến nông, phát triển mạng lưới chuyển giao kỹ thuật đến hộ nông dân bằng nhiều hình thức, chú trọng đào tạo kỹ thuật viên, dạy nghề, tổ chức huấn luyện, làm mẫu cho các hộ nông dân. + Làm trong sạch tổ chức Đảng và chính quyền xã, nâng cao năng lực của Đảng, năng lực quản lý chính quyền ở xã, tạo môi trường chính trị, xã hội nông thôn ổn định, lành mạnh để nông dân yên tâm phát triển sản xuất kinh ( tr 71 – 74) 1.4 Đại hội VIII Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc là thứ VIII có đưa ra chương trình phát triển nông nghiệp và kinh tế nông thôn như sau : -Mục tiêu : phát triển nông nghiệp toàn diện hướng vào bảo đảm an toàn lương thực quốc gia trong mọi tình huống, tăng nhanh nguồn thực phẩm và rau quả cải thiện chất lượng bữa ăn, giảm suy dinh dưỡng. Chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp và kinh tế nông thôn có hiệu quả. Trên cơ sở bảo đảm vững chắc nhu cầu lương thực, chủ yếu là lúa, mở rộng diện tích trồng cây công nghiệp, cây ăn quả, tăng nhanh đàn gia súc, gia cầm, phát triển kinh tế biển, đảo, kinh tế sinh thái, tăng nhanh sản lượng hàng hoá gắn với công nghiệp chế biến xuất khẩu, mở rộng thị trường nông thôn, tăng thu nhập của nông dân. Đẩy mạnh việc xây dựng, nâng cao kết cấu hạ tầng kinh tế – xã hội. - Nhiệm vụ và giải pháp + Tăng nhanh sản lượng lương thực hàng hoá ở những vùng đồng bằng có năng suất và hiệu quả cao. Bố trí lại mùa vụ để né tránh thiên tai , chuyển sang các vụ có năng suất cao hoặc sang các cây khác có hiệu quả cao hơn. Nhân nhanh những giống mới có năng suất cao, phẩm chất tốt, thích ứng với từng vùng sinh thái, đặc biệt là giống lúa lai, ngô lai. Quy hoạch và phát triển một số vùng sản xuất các loại lúa gạo ngon có giá cao. + Phát triển mạnh các loại cây công nghiệp, cây ăn quả và rau đậu có hiệu quả kinh tế cao, hình thành những vùng sản xuất tập trung gắn với công nghiệp chế biến tại chỗ, trồng cây công nghiệp kết hợp với chương trình phủ xanh đất trống, đồi trọc theo hình thức nông lâm kết hợp. Coi trọng các biện pháp thâm canh tăng năng suất, áp dụng các biện pháp sinh học hiện đại và công nghệ sinh học, không sử dụng hoá chất, sản xuất các loại nông sản sạch. + Hình thành và phát triển các vùng chăn nuôi tập trung gắn với công nghiệp chế biến thực phẩm. Khuyến khích và nhân rộng các hộ chăn nuôi , các nông trại chăn nuôi. Đổi mới hệ thống có năng suất cao, chất lượng tốt… + Phát triển nghề nuôi trồng thuỷ sản cá ở nước ngọt, nước lợ và nước mặn. Bảo vệ và khôi phục rừng ngập mặn. + Phát triển nghề rừng gắn liền việc ổn định và cải thiện đời sống của dân cư ở miền núi, tăng tốc độ phủ xanh đất trống đồi núi trọc, khoanh nuôi, tái sinh, bảo vệ rừng tạo điều kiện cho miền núi phát huy thế mạnh về lâm nghiệp. Hoàn thành việc giao rừng, giao đất đến hộ nông dân. Tăng cường công tác kiểm lâm để bảo vệ vốn rừng, bảo vệ hệ sinh thái bền vững bảo vệ quỹ gen, ngăn chặn tệ đốt phá rừng, săn thú buôn bán. Quản lý chặt chẽ việc khai thác gỗ, tiếp tục xuất khẩu gỗ nguyên liệu. Quy hoạch và phát triển công nghiệp chế biến gỗ có hiệu quả. 1.5.Đại hội IX. Văn kiện Đạ hội IX đã nêu rõ định hướng phát triển kinh tế nông thôn như sau: Chuyển đổi nhanh chóng cơ cấu sản xuất nông nghiệp và kinh tế nông thôn; xây dựng các vùng sản xuất hàng hoá chuyên canh phù hợp với tiềm năng và lợi thế về khí hậu, đất đai và lao động của từng vùng, từng địa phương. ỉng dụng nhanh khoa học công nghệ và sản xuất, nhát là ứng dụng công nghệ sinh học; gắn nông nghiệp với công nghiệpchế biến; gắn sản xuất với thị trường tiêu thụ; hình thành sự liên kết nông - công nghiệp - dịch vụ ngay trên địa bàn nông thôn. Tích cực khai hoang mở rộng diện tích canh tác ở những nơi còn đất hoang hoá chưa sử dụng được, phân bố lại lao đông dân cư, giảm nhẹ tác động thiên tai đối với sản xuất. Phát triển ngành nghề và kết cấu hạ tầng ở nông thôn, tạo thêm việc làm mới để chuyển lao đông nông nghiệp sang làm ngành, nghề phi nông nghiệp, nâng cao đời sống dân cư nông thôn. Tiếp tục đẩy mạnh sản xuất lương thực theo hướng thâm canh, tăng năng xuất và tăng lúa đặc sản, chất lượng cao. Tập trung phát triển cây công nghiệp chủ lực có khả năng cạnh tranh cao như cao su, cà phê, chè, điều.... Phát triên chăn nuôi, hướng chính là tổ chức lại sản xuất, khuyến khích phát triển hộ hoặc nông trại chăn nuôi theo quy mô lớn. Bảo vệ ._.hàng hóa để có thể đủ sức cạnh tranh trên thị trường thế giới, khắc phục tình trạng quá nhiều đầu mối xuất, nhập khẩu, tranh xuất, tranh nhập để người nước ngoài ép giá. Xây dựng các hiệp hội xuất khẩu trước hết là đối với những mặt hàng xuất khẩu chủ yếu, đưa các hiệp hội này tham gia vào các hiệp hội của thế giới. Phấn đấu để trong vòng 3 năm giải quyết cho được thị trường tiêu thụ lớn ổn định lâu dài cho những hàng nông sản quan trọng như gạo, tơ tằm, cao su, cà phê, hải sản, thịt rau quả, thoát dần tình trạng xuất khẩu từng chuyến, từng món qua trung gian. Khuyến khích các đơn vị trực tiếp giao dịch, tiếp xúc với thị trường nước ngoài, để học tập kinh nghiệm kinh doanh, chọn được thiết bị công nghệ tiên tiến để tự đổi mới công nghệ sản xuất làm ra những sản phẩm có giá trị xuất khẩu cao. 2.4. Bảo trợ nông nghiệp và bảo hiểm sản xuất. Nhà nước lập quỹ bảo trợ nông nghiệp khi có biến động lớn về giá cả nhằm bảo đảm cho người sản xuất, kinh doanh nông nghiệp có thêm điều kiẹn để yên tâm đầu tư vào nông nghiệp. Phạm vi bảo trợ tập trung trước hết vào những sản phẩm nằm trong chương trình trọng điểm của nông nghiệp. Quỹ bảo trợ nông nghiệp của Nhà nước được hình thành từ các nguồn do ngân sách cấp một phần, phần còn lại từ nguồn trích lợi nhuận để lại của các ngành hàng, các nguồn tài trợ của quốc tế, các nguồn từ các tổ chức kinh tế - xã hội. Phương thức bảo trợ chủ yếu thông qua hình thức tín dụng. Viện trợ cấp cấp không hoàn lại được thể hiện dưới hình thức miễn giảm lãi suất, xóa một phần hoặc toàn bộ số nợ khi đến kỳ hạn thanh toán do Chính phủ xét duyệt và quyết định. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn chịu trách nhiệm trước Chính phủ, phối hợp với các ngành có liên quan tổ chức thực hiện việc quản lý và sử dụng quỹ. Dưới sự tác động của cơ chế thị trường, để giá cả nông phẩm không xuống quá thấp, người sản xuất không bị lỗ mà có lãi, trong điều kiện nước ta hiện nay Nhà nước nên áp dụng cơ chế bảo hộ thông qua điều tiết cung - cầu hàng nông sản trên thị trường. Bằng cách Nhà nước dành vốn cho các ngành hàng vay với lãi suất hợp lý để thu mua hết nông sản hàng hóa dư thừa trong nông dân. Chỉ khi nào biện pháp cung cầu chưa đủ sức kích thích giá nông sản lên, người sản xuất và kinh doanh bị thua thiệt thì nhà nước dùng biện pháp miễn giảm thuế... Ngân sách nhà nước phải tài trợ cho khoản chênh lệch giữa lãi suất cho vay thấp, so với lãi suất thị trường. Mấu chốt của giải pháp bảo trợ là nhà nước phải điều tiết thị trường giữ cho giá hàng nông sản không bị xuống quá thấp. Sản xuất nông nghiệp thường gặp thiên tai và rủi ro nên cần có chính sách bảo hiểm. Trước mắt, cần khuyến khích và hướng dẫn các hình thức lập quỹ bảo hiểm sản xuất trong các tổ chức kinh tế hoặc trong từng khu vực, nhất là ở những vùng có tỷ trọng hàng hóa cao, sản phẩm gắn liền với chế biến có thể lấy cách xí nghiệp chế biến làm nòng cốt và động viên những người sản xuất kinh doanh đóng bảo hiểm. Thông qua việc thực hiện bảo hiểm sản xuất theo khu vực, rút kinh nghiệm để thực hiện bảo hiểm Nhà nước đối với một số mặt hàng sản xuất trong nông nghiệp. 2.5. Đầu tư cho công tác nghiên cứu và ứng dụng các thành tựu nghiên cứu vào thực tiễn. Để nâng cao năng suất, chất lượng và hiệu quả sản xuất kinh doanh, khoa học kỹ thuật và công nghệ là động lực quan trọng. Trong những năm trước mắt, khoa học kỹ thuật nông nghiệp cần tập trung nghiên cứu lai tạo giống tốt (cây trồng, vật nuôi) kể cả áp dụng những công nghệ mới về sinh học để tạo ra những giống mới, xây dựng hệ thống, biện pháp kỹ thuật tổng hợp về thâm canh trong trồng trọt, chăn nuôi, làm sạch, chuyển giao công nghệ chế biến, bồi dưỡng kiến thức tổ chức quản lý kinh doanh... đến từng hộ gia đình. Để thực hiện được yêu cầu, nhiệm vụ nêu trên cần phải: + Tăng cường và đổi mới đầu tư cho công tác nghiên cứu khoa học và ứng dụng những thành tựu nghiên cứu vào thực tiễn. Ngoài vốn ngân sách, nhà nước cần có chính sách động viên sự đóng góp của mọi thành phần kinh tế, đồng thời mở rộng hợp tác với các tổ chức quốc tế và các nước để có thêm nguồn vốn, trang thiết bị cho các nước để có thêm nguồn vốn, trang thiết bị cho nghiên cứu khoa học, đổi mới kỹ thuật. Thêm nữa, một thực tế ở nước ta hiện nay là chưa thật sự chú ý đến công tác ứng dụng những thành tựu nghiên cứu vào thực tiễn. Do vậy cần tăng thêm vốn đầu tư cho việc ứng dụng những thành tựu nghiên cứu vào thực tiễn theo hướng: đổi mới quản lý khoa học, gắn khoa học kỹ thuật với sản xuất và đời sống nông dân thông qua hình thức ký kết hợp đồng nghiên cứu, ứng dụng, triển khai, thông qua các dự án, các chương trình tổng hợp... + Sắp xếp lại các cơ sở nghiên cứu khoa học kỹ thuật phục vụ sản xuất nông nghiệp, nông thôn, phân công hợp lý chức năng, nhiệm vụ tránh tình trạng phân tán, chồng chéo. + Có chính sách sử dụng và chế độ đãi ngộ thỏa đáng với cán bộ khoa học kỹ thuật trong lĩnh vực nông nghiệp - nông thôn, nhất là đối với những sáng tạo về khoa học, công nghệ và các tiến bộ khoa học - công nghệ được ứng dụng có hiệu quả vào tiễn. 3. Giải pháp cụ thể. 3.1.Cơ sở nguồn lực Theo em, mặc dù hiện nay nền công nghiệp của nước ta tuy chưa lớn đủ để đáp ứng cho nhu cầu của công cuộc công nghiệp hoá - hiện đại hoá nông nghiệp và nông thôn nhưng vấn đề là phải làm gì để đưa những cái đó áp dụng vào phát triển sản xuất nông nghiệp. Nhà nước ta có một hệ thống quản lý hành chính từ Trung Ương đến các xã phường, làng xóm để chăm lo cuộc sống cho nhân dân. Nhưng thực tế hiện nay chức năng phát triển kinh tế của các cơ quan quản lý ở địa phương bị lu mờ đi, làm cho đường lối của Đảng không đến được với người dân lao động nhất là những người ở các vùng nông thôn. Chúng ta chưa sử dụng hệ thống các cơ quan này một cách có hiệu quả nhất để phát triển kinh tế đất nước, nhất là phát triển kinh tế nông thôn. Nhà nước ta cần quan tâm hơn nữa đối với việc phát triển kinh tế nông thôn. Nhưng chỉ có chính phủ không thì chưa đủ mà cần phải có sự liên kết nhất định giữa các cơ quan Trung Ương với các cơ quan ở địa phương; trong đó, các cơ quan ở Trung Ương cần có những cá nhân xuống tận các địa phương nghiên cứu tình hình thực tế sau đó vạch ra các kế hoạch phân bổ nguồn lực một cách cụ thể. Tiếp đó các cơ quan ở địa phương có trách nhiệm sử dụng một cách có hiệu quả nhất các nguồn lực đó. Để có thể thực hiện được phương kế đó, chúng ta cần có những nhà lãnh đạo giỏi, tận tâm, sâu sát với cuộc sống của nhân dân; chúng ta cũng cần những nhà kinh tế giỏi có đức có tài; cần những nhà nghiên cứu tận tụy; các kỹ sư nông nghiệp giỏi nghiệp vụ và cuối cùng là cần một lượng vốn nhất định. Chúnh ta lần lượt xem xét các nguồn lực đó. Thứ nhất, về các nhà lãnh đạo: Với dân số hơn 80 triệu người, nước ta không thiếu những nhà lãnh đạo có đức, giỏi về chuyên môn nghiệp vụ, quan tâm đến cuộc sống của nhân dân. Nhưng vấn đề là làm sao chúng ta có thể lựa chọn một cách chính xác. Công việc này hoàn toàn mang tính chất chủ quan, do đó chúng ta nên phát huy tính dân chủ chính thống trong việc bầu cử và cương quyết sáng suốt trong hành động. Trong công tác bầu cử của chúng ta hiện nay, mặc dù mang tính dân chủ nhưng còn nhiều hạn chế. Chẳng hạn như công bố lý lịch của những người trong danh sách bầu cử đại biểu quốc hội, trong thực tế là có rất nhiều cử tri đi bầu cử mà không hề biết gì về người mà mình bầu... Chúng ta đi bầu cử là để bầu ra những người có đức, có tài; rồi những người này lại đại diện cho dân chúng bầu ra những người lãnh đạo của đất nước. Nhưng dựa vào đâu để nhận biết một người có năng lực hay không. Người lãnh đạo cũng là một người sản xuất nhưng là một người sản xuất đặc biệt và sản phẩm của họ là những quyết định. Vậy muốn biết năng lực và phẩm chất của người lãnh đạo như thế nào chúng ta chỉ cần căn cứ vào chất lượng sản phẩm của hộ là được. Biểu hiện của chất lượng các quyết định đó là thành tích của tập thể mà người đó quản lý và như vậy biểu hiện cuối cùng của người lãnh đạo chính là cuộc sống, là thu nhập của người dân trong phạm vi mà họ quản lý. Đó là tiêu chuẩn tốt nhất để đánh giá phẩm chất và năng lực của người lãnh đạo. Hệ thống hành chính của nước ta được phân cấp theo chiều dọc từ Trung Ương đến địa phương đồng thời nó cũng được phân chia theo chiều ngang; do vậy mà mỗi người, mỗi cơ quan sẽ có nhiệm vụ và quyền hạn khác nhau nhưng lại liên kết với nhau như một thể thống nhất. Đối với nước ta hiện nay, chúng ta không thể không mở rộng quan hệ ngoại giao với các quốc gia khác, không thể không phát triển công nghiệp... Nhưng chúng ta cũng không nên coi trọng thái quá đến nó, mà chúng ta cần làm sao cho nền kinh tế của đất nước phát triển một cách cân đối, mọi người dân đều được hưởng những lợi ích của mình. Chúng ta cần phải có sự quy hoạch trong việc phát triển kinh tế đất nước, cần kết hợp sự phát triển của công nghiệp với nông nghiệp để từ đó tiến hành công nghiệp hóa nông nghiệp và nông thôn thì sự nghiệp công nghiệp hóa mới có thể hoành thành được. Điều đó có nghĩa là mọi nơi mọi lúc, chúng ta đều rất cần những nhà lãnh đạo có đức, có tài và có nỗi lo lắng đến cuộc sống của nhân dân. Vì vậy, Đảng và Nhà nước ta luôn phải coi trọng vấn đề thanh lọc và chỉnh đốn bộ máy quản lý đất nước từ Trung Ương đến các địa phương; cần nghiêm khắc trừng trị những cán bộ không có đạo đức, làm hại đến cuộc sống của nhân dân; cần phát hiện và loại bỏ những người thiếu năng lực ra khỏi bộ máy. Về vấn đề này, có thể chúng ta cần phải học tập Trung Quốc, học cách giải quyết và xử lý những cán bộ kém về phẩm chất đạo đức. Có như vậy thì bộ máy quản lý của chúng ta mới dần đi đến sự hoàn thiện được. Thứ hai, về các cán bộ kinh tế: nước ta với hai trường đại học kinh tế lớn cùng nhiều khoa kinh tế ở các trường đại học khác, mỗi năm đào tạo ra hàng nghìn cử nhân kinh tế với các chuyên nghành khác nhau. Hiện nay chúng ta đang chưa sử dụng hết đội ngũ này, bởi hầu hết các sinh viên mới ra trường đều phải tự đi kiếm việc làm và phần lớn trong số họ đều làm trái ngành trái nghề. Từ trước đến nay gần như chúng ta sử dụng đội ngũ cán bộ kinh tế này trong công nghiệp và dịch vụ, các cử nhân kinh tế sau khi ra trường được thả nổi trong xã hội và như vậy, theo dòng chảy họ lại chảy về các thành phố thị xã để tìm việc. Tại sao như vậy? Bởi thực tế bắt họ phải như vậy; thực tế tại các địa phương cho thấy rằng những kiến thức mà các cử nhân kinh tế tích lũy được trong quá trình học tập nếu về địa phương sẽ không có cơ hội sử dụng và thậm chí còn bị vùi dập đi. Và giả sử nếu Chính phủ ta có ưu đãi đối với những cán bộ lên vùng sâu vùng xa làm việc thì kết quả cũng chỉ là con số không mà thôi. Bởi lẽ làm một việc gì chúng ta cũng cần có những kế hoạch cụ thể từ trên xuống và cần có sự kết hợp giữa các ban ngành địa phương cùng thực hiện thì mới có thể thành công được. Một vài cử nhân kinh tế mới ra trường, cho dù họ có tài giỏi đến đâu, nếu không được sự hợp tác giúp đỡ của các ban ngành địa phương, không nằm trong những kế hoạch phát triển kinh tế xã hội cụ thể thì làm sao họ có thể gây ra những ảnh hưởng lớn được, làm sao họ có đủ nguồn lực để thực hiện ý tưởng của mình. Như vậy, số lượng và chất lượng của đội ngũ cán bộ chúng ta không thiếu và nếu thiếu chúng ta có thể đào tạo thêm nhưng điều quan trọng là chúng ta dùng họ như thế nào để có thể phát triển kinh tế nông nghiệp và nông thôn? Thứ ba, về các kỹ sư nông nghiệp: Có thể nói đội ngũ các trường đại học đào tạo kỹ sư nông nghiệp ở nước ta không ít. Mỗi năm hàng nghìn kỹ sư nông nghiệp ra trường với đủ các chuyên ngành khác nhau. Với số lượng như vậy họ sẽ đi đâu? làm gì và làm như thế nào? Đáng lẽ ra với kiến thức của mình họ phải trở về những miền quê để phát triển sản xuất nông nghiệp nhưng phần nhiều trong số họ lại ra các thành phố tìm việc làm, thậm chí làm việc trong các ngành nghề không liên quan gì đến kiến thức mà họ được học. Vấn đề sinh viên Việt Nam ra trường làm trái ngành trái nghề đang là một vấn đề bức xúc hiện nay. Chúng ta sẵn sàng đầu tư tiền của để dào tạo ra những kỹ sư, những cử nhân; vậy mà sau khi ra trường họ lại không được sử dụng những kiến thức mà họ đã bao năm nhọc nhằn mới có được. Quay lại vấn đề sinh viên mới ra trường, cũng giống như các tân cử nhân kinh tế thì các tân kỹ sư nông nghiệp cũng vì hoàn cảnh tương tự nên cũng phải rời bỏ miền quê thân yêu của mình để lên thành thị kiếm tìm đất dụng võ. Điều đó cũng nói lên sự quan trọng của các kế hoạch, các dự án phát triển kinh tế xã hội. Các tân kỹ sư nông nghiệp muốn được sử dụng, muốn phát huy được vốn kiến thức của mình, muốn có việc làm thì phải là các thành phần mà nói đúng hơn thì họ phải là các bộ phận trong nguồn lực của một dự án nào đó, và điều này cũng đúng với một số cử nhân kinh tế. Thứ tư, về các nhà nghiên cứu: Hầu như ở mỗi trường đại học ở miền Bắc nước ta đều có một viện nghiên cứu riêng, ngoài ra còn có các viện nghiên cứu chung của cả nước. Chính phủ ta cũng đã đầu tư rất nhiều cho các viện nghiên cứu và các nhà nghiên cứu của chúng ta cũng đã hoàn thành tốt nhiệm vụ của mình, chẳng hạn như các nhà nghiên cứu về vấn đề nông nghiệp và nông thôn. Trong thời gian gần đây với sự phát triển của khoa học - công nghệ, nhất là công nghệ sinh học, họ đã tìm ra nhiều loại cây trồng vật nuôi có năng suất cao, phẩm chất tốt. Nhưng tại sao ở mỗi gia đình, trên mỗi cách đồng của miền quê Việt Nam vẫn tồn tại những giống cây trồng vật nuôi gần như đã bị thoái hóa. Đó cũng là sự khác biệt của Việt Nam với các nước công nghiệp phát triển. ở những nước này, họ rất đề cao việc nghiên cứu khoa học đồng thời họ càng coi trọng kết quả của việc nghiên cứu hơn; với họ những phát minh mới sẽ được áp dụng vào những mô hình cụ thể ngay và nếu thành công thì người chủ của những phát minh đó sẽ được thưởng rất nhiều và còn được hưởng nhiều ưu đãi khác. Nhưng với nước ta lại khác, chúng ta có quan tâm thậm chí còn quan tâm rất nhiều đến công việc nghiên cứu khoa học nhưng chúng ta lại không coi trọng việc áp dụng những thành tựu của việc nghiên cứu đó vào thực tiễn sản xuất. Nhà nước ta đã đầu tư và đầu tư nhiều cho các viện nghiên cứu, các nhà nghiên cứu của chúng ta với những phương tiện hiện đại, với tinh thần làm việc hết mình đã đạt được những kết quả đáng nể. Nhưng những thành quả đó gần như chỉ tồn tại ở trong các phòng thí nghiệm mà thôi. Điều đó không phải là do những giống mới không thể đưa ra sản xuất đại trà được, mà là do công tác ứng dụng những thành tựu khoa học vào sản xuất ở nước ta còn yếu. Để đẩy mạnh sự phát triển của nền kinh tế chúng ta cần nhanh chóng khắc phục nhược điểm này. Cuối cùng về nguồn vốn đầu tư: từ trước đến nay, Đảng và Nhà nước ta đã nhiều lần cho rằng: cần phải phát triển kinh tế nông nghiệp và nông thôn. Nhưng nguồn vốn cung cấp cho công việc này lại quá ít, tỷ lệ vốn đầu tư cho phát triển nông nghiệp trong tổng thu nhập quốc dân nhỏ hơn so với công nghiệp và xây dựng rất nhiều. Điều đó có phải là do chính phủ ta cho rằng việc phát triển kinh tế nông nghiệp và nông thôn là không quan trọng? Nguồn vốn đầu tư đã quá ít thì việc sử dụng vốn lại không hiệu quả bởi vì chúng ta đã quá dàn trải số vốn ít ỏi của mình đồng thời lại không có những mô hình, những dự án cụ thể trong việc sử dụng vốn. Với thực tế của nước ta hiện nay, để phát triển nông nghiệp và nông thôn cũng không cần một lượng vốn quá lớn đến độ không thể có được, mà lượng vốn cần cho việc đó chúng ta hoàn toàn có thể giải quyết được một cách hợp lý và chỉ cần chúng ta quan tâm hơn đến 80% dân số đang sinh sống ở khu vực nông thôn. Bởi lẽ cơ sở ban đầu cho cho việc phát triển sản xuất nông nghiệp là không lớn, mỗi hộ nông dân có thể tự lo được, chỉ cần cung cấp giống cây trồng, vật nuôi thích hợp cho họ, cung cấp thức ăn phân bón thích hợp, cung cấ dịch vụ thú y, giải quyết khâu đầu ra cho họ là được. Mọi kế hoạch đầu tư cho phát triển nông nghiệp và nông thôn cần phải kế hoạch thành các nguồn vốn đầu tư cho các dự án và tất nhiên là các dự án đó phải khả thi. Nguồn vốn ít hay nhiều, điều đó không quan trọng, mà điều quan trọng là cần phải đầu tư một cách có hệ thống, có kế hoạch và cần thiết phải xây dựng các mô hình cụ thể để hiệu quả vốn đầu tư là cao nhất. Việc sử dụng nguồn vốn ngân sách có hệ thống và có kế hoạch thông qua các dự án và các mô hình cụ thể cũng sẽ có tác động rất lớn đến việc huy động các nguồn vốn còn tồn đọng trong các hộ dân cư vào phát triển sản xuất nông nghiệp. Bởi chính những dự án đó, những mô hình đó sẽ là nguồn chỉ dẫn cho ngừơi dân sử dụng nguồn vốn ứ đọng nhiều năm của họ một cách có hiệu quả. Như vậy mọi điều kiện cho phát triển kinh tế nông nghiêp và nông thôn chúng ta đều đã có, thậm chí có một cách rất đầy đủ. Vậy chúng ta cần làm gì bây giờ? Với tư cách là một người con của đồng ruộng - đã phần nào thấm được nỗi khổ cực của một người nông dân, phần nào hiểu được nỗi khổ của họ - đồng thời với tư cách là sinh viên năm cuối của khoa kế hoạch và phát triển trường Đại học Kinh tế Quốc dân Hà nội, em xin đưa ra ý kiến của mình về đầu tư Nhà nước cho phát triển kinh tế nông nghiệp và nông thôn. Qua đó, em mong sao có thể đóng góp được phần nào sức lực nhỏ bé của mình vào sự nghiệp công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước, phần nào làm giảm được nỗi khổ của của những người nông dân. 3.2 Các bước tiến hành cụ thể Đầu tư Nhà nước cho phát triển nông nghiệp, nông thôn được tiến hành theo các bước sau: Bước 1: ở bước này theo em thì cần thực hiện đồng thời hai công việc sau: Thứ nhất: là nghiên cứu điều kiện tự nhiên của mỗi vùng, gồm có: khí hậu và đất đai. Nói về điều kiện tự nhiên của mỗi vùng thì có rất nhiều yếu tố cần bàn đến, nhưng trong phạm vi bài nghiên cứu này chỉ cần đề cập đến hai yếu tố có ảnh hưởng trực tiếp và quyết định đến sản xuất nông nghiệp đó là khí hậu và đất đai. *Về khí hậu: Đặc điểm chung của khí hậu nước ta là mang tính chất nhiệt đới gió mùa ẩm. Tuy nhiên tính chất gió mùa đó lại có những biểu hiện khác nhau ở mỗi vùng khác nhau và nó thích hợp đối với những loại vật nuôi cây trồng khác nhau. Do vậy, chúng ta cần phải nghiên cứu kỹ xem khí hậu ở mỗi vùng là có những đặc điểm gì và với đặc điểm đó thì thích hợp với loại cây trồng vật nuôi nào. Chúng ta cần làm tốt công việc này bởi nó có ảnh hưởng trực tiếp tới kết quả của toàn bộ các dự án sau này. Làm tốt công việc này có nghĩa là tìm ra đúng đặc điểm khí hậu của vùng và từ đó tìm ra được loại cây trồng, vật nuôi thích hợp; khi đó chúng sẽ cho ra sản phẩm có năng suất cao, phẩm chất tốt. Còn chúng ta làm không tốt công việc này tức là không tìm ra đúng đặc điểm khí hậu của vùng từ đó dẫn đến việc đưa những giống cây trồng vật nuôi không thích hợp vào sản xuất và khi đó hậu quả là rất lớn: nó không những làm thiệt hại về mặt kinh tế mà còn làm mất lòng tin của nhân dân đối với người lãnh đạo và nếu như chúng ta muốn tiếp tục tiến hành sẽ gặp rất nhiều khó khăn. *Về đất đai: Cần phải nghiên cứu xem chất đất ở mỗi vùng gồm những thành phần nào và với những thành phần đó thì thích hợp với loại cây trồng gì. Việc làm này cũng rất quan trọng bởi nó cũng trực tiếp ảnh hưởng đến kết quả của toàn bộ các dự án sau này. Hai công việc này tưởng chừng đơn giản nhưng thực ra lại rất phức tạp và khó khăn trong khi tiến hành. Nó đòi hỏi những loại máy móc hiện đại, có độ chính xác cao, đồng thời cũng rất cần sự liên kết trong công việc giữa các nhà khí tượng, các nhà địa chất với các nhà sinh học và chỉ khi có sự liên kết đó mới có thể đưa ra đựơc kết quả với độ chính xác cao.Tuy đây là công việc phức tạp, đòi hỏi công nghệ cao nhưng với điều kiện khoa học của nước ta hiện nay, em nghĩ việc này hoàn toàn khả thi nếu có được sự quan tâm của chính phủ. Với công việc này chúng ta không cần nhiều vốn bởi vì cũng không cần có nhiều máy móc và công nhân làm việc. Do điều kiện tự nhiên là ít thay đổi trong phạm vi tương đối rộng nên cả nước chỉ cần khoảng tám tổ nghiên cứu là có thể đảm nhiệm được toàn bộ công việc. Họ sẽ lần lượt đi đến từng vùng, cho ra những dữ liệu cụ thể rồi đưa về trung tâm điều khiển và tiếp tục đi đến những vùng khác để nghiên cứu. Cuối cùng sẽ có một bảng tổng hợp kết quả của tất cả các vùng, lúc này cần có sự kết hợp với các nhà sinh học để cho ra những loại vật nuôi, cây trồng thích hợp với điều kiện của mỗi vùng. Thứ hai: Công việc thứ hai cần làm đồng thời với công việc trên là nâng cao vai trò phát triển kinh tế của chính quyền các địa phương. Thực tế cho thấy rằng, chính quyền địa phương ở các tỉnh chưa thực sự chú ý đến vai trò phát triển kinh tế của mình, nhất là ở cấp huyện và cấp xã. Những cơ quan này mới chỉ chú ý giải quyết các vấn đề về hành chính, về trật tự an ninh xã hội và các vấn đề về chính trị xã hội khác. Các vấn đề về chính trị, về trật tự an ninh xã hội quả thật rất quan trọng nhưng trong thời buổi hiện nay, phát triển kinh tế là vấn đề trọng tâm nhất, chúng ta cần làm sao cho thu nhập của người dân tăng cao và chỉ khi nhân dân ta có thu nhập cao thì mới dễ dàng cho việc xây dựng một xã hội văn minh được.Vậy, vai trò của bộ máy chính quyền địa phương là gì? Đó là điều mà chúng ta cần làm rõ. Đất nước ta đã độc lập, nhân dân ta đã được tự do nhưng nhân dân ta vẫn chưa sung sướng. Xây dựng đất nước là nhiệm vụ hàng đầu của đất nước ta hiện nay, do vậy phát triển kinh tế là nhiệm vụ hàng đầu của các nhà lãnh đạo, là nhiệm vụ hàng đầu của bộ máy chính quyền các địa phương. Để phát triển kinh tế ở một vùng nông thôn không phải là một vấn đề đơn giản, nó đòi hỏi người lãnh đạo phải có lòng thương đối với nhân dân, quan tâm sát sao đến việc sản xuất và đời sống của nhân dân. Phát triển kinh tế nông thôn cán bộ huyện, cán bộ xã có vai trò rất lớn. Họ là những người trực tiếp điều hành hoạt đông sản xuất của người dân đồng thời là cầu nối giữa nhân dân với cán bộ lãnh đạo cấp trên và với những tiến bộ khoa học kỹ thuật. Họ là người trực tiếp cung cấp đầu vào cho hoạt động sản xuất của nhân dân, đồng thời cũng là người giải quyết đầu ra cho nhân dân. Đó chính là phương thức hoạt động của các hợp tác xã kiểu mới. Tuy nhiên, chúng ta cũng không cần cho hình thành các hợp tác xã kiểu mới như vậy mà chỉ cần nâng cao trách nhiệm của các nhà lãnh đạo đối với hoạt động sản xuất của người nông dân mà thôi. Nói tóm lại, công việc mà chúng ta cần làm là chỉnh đốn thanh lọc đội ngũ cán bộ địa phương ; tìm ra những người có đức có tài, có lòng yêu nước thương dân đứng lên chăm lo cuộc sống cho nhân dân; đồng thời nâng cao vai trò phát triển kinh tế của chính quyền các địa phương. Đây là một công việc tế nhị, muốn làm tốt được đòi hỏi phải có lòng quyết tâm và cương quyết xử lý những người sai phạm. Bước hai: ở bước này cần làm hai việc sau: Thứ nhất: đưa các giống cây trồng vật nuôi vào sản xuất. Cần lưu ý một điều rằng chúng ta không thể cùng một lúc cung cấp giống mới cho tất cả các hộ nông dân bởi vì làm như vậychúng ta sẽ cần rất nhiều vốn, đồng thời trong mỗi vùng cũng sẽ có rất nhiều những hộ nông dân chưa thật sự tin tưởng nên không dám làm; thêm nữa, người dân lúc đầu chưa có kiến thức trong việc sản xuất kiểu này nên dễ dẫn đến sự đổ vỡ lớn. Như đã nói, trong mỗi làng mỗi xã luôn luôn có những hộ tiên tiến, có ý chí muốn làm giàu nên khi tiến hành chúng ta cần quan tâm tới những hộ này, đưa mô hình sản xuất áp dụng vào việc sản xuất của họ. Sau khi nghiên cứu kỹ điều kiện tự nhiên, tìm ra được giống cây trồng vật nuôi thích hợp, tiến hành cung cấp cây giống, con giống cho một số hộ có tư tưởng tiến bộ trong các khu vực, đồng thời phổ biến phương pháp tiến hành sản xuất cho các hộ này bằng cách mở các lớp bồi dưỡng cấp tốc tại các địa phương; rồi cung cấp phân bón, thức ăn thích hợp cho họ. Thứ hai: Tiến hành phân bổ các kỹ sư nông nghiệp đến từng địa bàn để giúp đỡ nhân dân trong việc sản xuất. Ban đầu, mỗi xã mới chỉ có một số hộ tham gia mô hình sản xuất kiểu mới này. Do đó số kỹ sư nông nghiệp là không cần nhiều, mỗi xã có thể chỉ cần một kỹ sư về trồng trọt và một kỹ sư về chăn nuôi là đủ. Họ sẽ là những người trực tiếp hướng dẫn nhân dân trong việc sản xuất: từ việc gieo trồng, làm chuồng trại đến việc chăm sóc, chữa bệnh.... Theo xu hướng hiện nay thì công việc này sẽ gặp nhiều khó khăn bởi vì để có thể đưa các cán bộ về làm việc ở vùng nông thôn là rất khó. Nhưng nếu chúng ta có những mô hình cụ thể, có những dự án cụ thể và cho họ thấy được cái lợi họ sẽ đạt được thì có thể họ sẽ tự nguyện chấp nhận một cách dễ dàng. Sau khi hoàn thành bước hai này, một số hộ nông dân đã bắt tay vào công việc sản xuất của mình, dưới sự hướng dẫn của các kỹ sư nông nghiệp, cùng với giống tốt, phân bón hợp lý thì cuối vụ sẽ cho ra mức sản lượng cao và chất lượng tốt. Lúc này cần phải nhanh chóng hướng dẫn các hộ trong việc bảo quản sản phẩm của họ và tiêu thụ hết số sản phẩm mà họ đã làm ra. Bước ba: Tiến hành sản xuất đại trà và tiêu thụ sản phẩm. Kết thúc bước hai, một số hộ nông dân sau khi tiêu thụ sản phẩm sẽ có một khoản thu nhập cao hơn trước rất nhiều. Một phần thu nhập đó họ sử dụng để trang trải cho cuộc sống, một phần sẽ tiếp tục đầu tư cho sản xuất. Những người nông dân khác thấy vậy dần dần cũng sẽ bẳt chước làm theo; và cứ như thế, dưới sự giúp đỡ của số lượng các kỹ sư nông nghiệp ngày càng tăng thì việc sản xuất sẽ được tiến hành rộng khắp. Khi sản xuất được mở rộng, sẽ có nhiều vấn đề đặt ra cần giải quyết như: cần nhiều kỹ sư hơn, cần nhiều bác sĩ thú y hơn. Do vậy, cần phải tiến hành lập các trạm thú y, các viện nghiên cứu nông nghiệp ở tại các huyện. Cho đến lúc này thì những công việc đó hoàn toàn có thể làm được, bởi vì cầu đối với những sản phẩm đó là rất lớn và đúng theo lý thuyết kinh tế thì khi mà cầu đã lớn cung tất nhiên sẽ xuất hiện. Sau khi được thành lập, những cơ quan này sẽ trực tiếp tác động đến tiến trình sản xuất ở mỗi địa phương, sẽ là những người sát sao nhất đôi với công việc sản xuất của nhân dân. Mọi thắc mắc của người nông dân đều do những cơ quan này giải quyết và đây là cầu nối giữa người dân với những tiến bộ khoa học. Lúc này các kỹ sư nông nghiệp sẽ vừa đóng vai trò là người tư vấn trong hoạt động sản xuất của nhân dân, vừa là các bác sĩ chữa trị bệnh tật cho vật nuôi cây trồng, lại vừa là người cung cấp giống mới, cung cấp phân bón cho nhân dân. Một vấn đề nữa là việc tiêu thụ sản phẩm cho nhân dân: Đây là vấn đề nan giải ở nước ta hiện nay, chỉ vì công nghệ chế biến sau thu hoạch của chúng ta lạc hậu nên giá trị nông sản của nước ta thấp hơn các nước phát triển rất nhiều. Do đó, để phát triển nền kinh tế nước nhà, bắt buộc chúng ta phải nhập những công nghệ chế biến nông sản hiện đại hơn và cần hình thành các nhà máy chế biến nông sản tại nơi có nguyên liệu đầu vào tức là tại nơi có các hộ nông dân đang tiến hành sản xuất. Có như vậy thì quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá nông thôn mới có thể thực hiện được và quá trình đô thị hóa mới diễn ra nhanh chóng, đời sống của nhân dân ở nông thôn mới được nâng cao. Quá trình được tiến hành theo ba bước, với đặc điểm chung là phát triển kinh tế hộ gia đình. Nhưng ba bước trên được áp dụng chung cho cả trồng trọt và chăn nuôi, vấn đề là cần làm việc nào trước? Một thực tế hiện nay đó là số lao động ở nông thôn dư thừa rất nhiều và hầu như số lao động chính đã ra các thành phố lớn làm thuê với mong muốn tăng thu nhập cho gia đình mình. Như vậy có thể thấy rõ công việc đồng áng (mà hiện nay chủ yếu là trồng lúa) là không đủ, mặc dù là rất vất vả; điều đó đồng nghĩa với tình trạng thu nhập không đáp ứng đủ nhu cầu của người dân hiện nay và họ luôn muốn nâng cao thu nhập của mình. Để giải quyết việc làm cho số lao động dư thừa này đồng thời để nâng cao thu nhập cho các hộ nông dân, chúng ta cần phát triển chăn nuôi trước và cần theo ba bước như đã nêu trên. Khi tiến hành cần lưu ý hướng dẫn các hộ nông dân quy hoạch khu vườn nhà mình sao cho hợp lý nhất. Đối với mỗi khu vực nhất định, chúng ta nên chọn một loại vật nuôi nhất định để thuận lợi cho việc quản lý và tiêu thụ sản phẩm sau này.Vấn đề đặt ra là hiện nay hầu hết các hộ nông dân đều chăn nuôi với quy mô nhỏ và theo kiểu thủ công, mà muốn có thu nhập cao thì cần phải làm với quy mô lớn hơn. Để chuyển từ sản xuất với quy mô nhỏ sang sản xuất với quy mô lớn cần có một bước chuyển tiếp, bước này được bắt đầu ở phía những người lãnh đạo - những người hướng dẫn : Ban đầu cung cấp giống tốt cho một vài hộ nông dân, hướng dẫn họ cách tiến hành sản xuất; sau đó hướng dẫn họ nhân ra những con giống mới để tăng quy mô sản xuất của gia đình họ rồi trên cơ sở đó đi vào sản xuất với quy mô lớn thực sự. Để đi vào sản xuất với quy mô lớn, chúng ta cần hướng dẫn người dân quy hoạch lại khu vườn của họ sao cho hợp lý nhất.Về mặt này, mô hình VAC vẫn được coi là rất hợp lý và có thể hướng dẫn các hộ nông dân xây dựng thêm bình bioga để đảm bảo vệ sinh và cải thiện đời sống cho nhân dân. Kết luận Trên đây là toàn bộ những gì mà em cảm thấy tâm đắc nhất về vấn đề đầu tư nhà nước cho phát triển nông nghiệp, nông thôn. Đối với một vấn đề quá lớn như vậy, thêm nữa nhận thức và thời gian nghiên cứu còn hạn chế chuyên đề này chắc chắn không tránh khỏi những thiếu sót. Em rất mong nhận được sự góp ý của các thầy cô giáo, các bác, các anh chị trong Vụ Kế hoạch và Quy hoạch – Bộ Nông nghiệp & Phát triển nông thôn cùng toàn thể bạn đọc để chuyên đề được hoàn thiện hơn nữa. Em xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành đến thầy giáo – TS. Lê Huy Đức, Th. S Nông nghiệp Đào Quốc Luân và các thầy cô giáo khoa Kế hoạch và phát triển cùng các bác, các anh chị đang công tác tại Vụ Kế hoạch và Quy hoạch – Bộ Nông nghiệp & Phát triển Nông thôn đã giúp đỡ em trong suốt quá trình nghiên cứu chuyên đề này. Em xin chân thành cảm ơn! Tài liệu tham khảo 1. Văn Kiện Đại hội Đảng V, VI, VII, VIII, IX 2. Giáo trình Kinh tế Nông nghiệp – Trường Đại học Kinh tế Quốc dân - 3. Giáo trình Kinh tế phát triển Nông thôn – Trường Đại học Kinh tế Quốc dân – 4. Giáo trình Kinh tế Đầu tư - Trường Đại học Kinh tế Quốc dân - 5. Đầu tư trong Nông nghiệp – Thực trạng và triển vọng - NXB Chính trị – Quốc gia – 6. Đầu tư hỗ trợ của Nhà nước cho phát triển kinh tế hộ gia đình - NXB Chính trị – Quốc gia – 7. Tạp chí Kinh tế Đầu tư các số năm 2002 8. Tạp chí Nghiên cứu Trung Quốc các số năm 2002 Mục lục ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc33620.doc
Tài liệu liên quan