LỜI MỞ ĐẦU
Việt Nam đã và đang thực hiện lộ trình hội nhập kinh tế quốc tế, trong đó một trong những mục tiêu hàng đầu là tăng nhanh kim ngạch xuất khẩu, tiến tới cân bằng xuất nhập khẩu. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng đã khẳng định, phải “ Chủ động và tích cực thâm nhập thị trường quốc tế, chú trọng thị trường các trung tâm kinh tế thế giới, duy trì và mở rộng thị phần trên các thị trường quen thuộc, tranh thủ mọi cơ hội mở cửa thị trường mới”.
Hoạt động xuất khẩu của một quốc
76 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1400 | Lượt tải: 1
Tóm tắt tài liệu Phương hướng và giải pháp phát triển thị trường xuất khẩu của Công ty cổ phần XNK Tạp phẩm, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
gia phải gắn chặt với thị trường quốc tế, chiến lược xuất khẩu phải dựa trên sự lựa chọn khoa học thị trường xuất khẩu, phù hợp với đặc điểm và khả năng của từng nền kinh tế. Tuy nhiên việc có đẩy mạnh xuất khẩu hàng hoá sang bất cứ thị trường nào trên thế giới hay không không phải là việc của Nhà nước mà là việc của từng doanh nghiệp. Sự hỗ trợ của Nhà nước là cần thiết nhưng Nhà nước không thể làm thay các doanh nghiệp được.
Công ty cổ phần Xuất Nhập khẩu Tạp phẩm là một doanh nghiệp chuyên kinh doanh trong lĩnh vực xuất nhập khẩu trực thuộc bộ Thương Mại. Trong lịch sử hơn nửa thế kỷ xây dựng và trưởng thành của mình Công ty đã đạt được nhiều thành tích mà hiếm có doanh nghiệp Việt Nam đạt được. Với chức năng chính là kinh doanh xuất nhập khẩu, Công ty luôn xác định xuất khẩu có vai trò rất quan trọng đối với hoạt động kinh doanh của mình và phát triển thị trường hiện đang là vấn đề được Công ty đang rất chú trọng. Ngay sau khi được tổ chức lại hoạt động, Công ty đã có những cố gắng tìm kiếm các thị trường mới, tổ chức khai thác các mặt hàng mới cũng như vận dụng các mối quen biết cũ để nối lại các quan hệ với các thị trường truyền thống nhằm tăng khả năng tiêu thụ sản phẩm. Phương châm của ban lãnh đạo Công ty là: “ Duy trì, củng cố và phát triển thị trường thị trường ngoài nước, càng nhiều bạn hàng tin cậy, Công ty càng thêm sức mạnh”. Tuy nhiên trong những năm qua kết quả kinh doanh xuất khẩu của Công ty chưa được như mong muốn. Đây chính là lý do em chọn đề tài “ Phương hướng và giải pháp phát triển thị trường xuất khẩu của Công ty cổ phần Xuất nhập khẩu Tạp phẩm” để làm đề tài cho chuyên đề tốt nghiệp của mình.
Chuyên đề được kết cấu gồm ba chương:
Chưong I: Vai trò của hoạt động xuất khẩu đối với phát triển kinh tế.
Chương II: Đánh giá hoạt động kinh doanh và thực trạng thị trường xuất khẩu của Công ty cổ phần xuất nhập khẩu Tạp phẩm.
Chương III: Phương hướng và giả pháp phát triển thị trường xuất khẩu của Công ty cổ phần xuất nhập khẩu Tạp phẩm trong những năm tới.
Em xin chân thành cảm ơn các cô chú phòng xuất nhập khẩu 5 thuộc công ty cổ phần Xuất nhập khẩu Tạp phẩm, cô giáo TS. Phan Thị Nhiệm đã giúp em hoàn thành chuyên đề này.
CHƯƠNG I
VAI TRÒ CỦA HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU
ĐỐI VỚI PHÁT TRIỂN KINH TẾ
I. HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU
1. Khái niệm xuất khẩu
Xuất khẩu là hoạt động đưa các hàng hóa và dịch vụ giữa các chủ thể kinh tế có quốc tịch khác nhau (Trong đó đối tượng trao đổi hàng hóa thường là vượt ra ngoài phạm vi địa lý của 1 quốc gia) thông qua hoạt động mua bán, lấy tiền tệ làm môi giới. Dưới giác độ kinh doanh, xuất khẩu là việc bán các hàng hóa và dịch vụ. Dưới giác độ phi kinh doanh như làm quà tặng hoặc viện trợ không hoàn lại thì hoạt động đó lại là viện trợ lưu chuyển hàng hóa và dịch vụ qua biên giới quốc gia.
Xuất khẩu là một hoạt động cơ bản của hoạt động ngoại thương, xuất hiện từ lâu đời và ngày càng phát triển mạnh mẽ cả chiều rộng và chiều sâu. Hình thức cơ bản ban đầu của nó là trao đổi hàng hóa giữa các quốc gia, cho đến nay thì nó đã phát triển với rất nhiều hình thức, diễn ra với phạm vi toàn cầu, trong tất cả các ngành, các lĩnh vực kinh tế, cả trong hàng hóa hữu hình và vô hình.
2.Vai trò của xuất khẩu hàng hóa đối với phát triển kinh tế
2.1 Xuất khẩu tạo ra nguồn vốn chủ yếu cho nhập khẩu phục vụ Công nghiệp hóa – Hiện đại hóa đất nước.
Công nghiệp hóa đất nước theo những bước đi thích hợp là con đường tất yếu để khắc phục tình trạng nghèo nàn, chậm phát triển của nước ta. Để công nghiệp hóa đất nước trong một thời gian ngắn đòi hỏi phải có một số vốn rất lớn để nhập khẩu máy móc, thiết bị, kỹ thuật, công nghệ tiên tiến.
Nguồn vốn để nhập khẩu có thể được hình thành từ các nguồn như: Đầu tư nước ngoài, vay nợ, viện trợ, thu được từ hoạt động du lịch, dịch vụ, thu từ ngoại tệ…Các nguồn vốn như đầu tư nước ngoài, vay nợ và viện trợ..tuy rất quan trọng nhưng rồi cũng phải trả bằng cách này hay cách khác ở thời kỳ sau. Nguồn vốn quan trọng nhất để nhập khẩu, công nghiệp hóa đất nước là xuất khẩu. Xuất khẩu quyết định đến quy mô và tốc độ tăng của nhập khẩu. Trong tương lai, xuất khẩu chính là nguồn vốn duy nhất để trả các khoản nợ từ nước ngoài.
2.2 Xuất khẩu đóng góp vào việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc đẩy sản xuất phát triển.
Cơ cấu xuất khẩu và tiêu dùng trên thế giới đã và đang biến đổi vô cùng mạnh mẽ. Đó là thành quả của cuộc cách mạng khoa học công nghệ hiện đại. Sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong quá trình công nghiệp hóa phù hợp với xu hướng phát triển của kinh tế thế giới là tất yếu đối với nước ta. Có hai cách nhìn nhận về tác động của xuất khẩu đối với sản xuất và chuyển dịch cơ cấu kinh tế:
Một là, xuất khẩu chỉ việc tiêu thụ sản phẩm vượt quá nhu cầu nội địa Trong trường hợp nền kinh tế còn lạc hậu chậm phát triển như nước ta, sản xuất về cơ bản còn chưa đủ tiêu dùng nếu chỉ thụ động chờ ở sự thừa ra của sản xuất thì xuất khẩu vẫn cứ nhỏ bé và tăng trưởng chậm chạp.
Hai là, coi thị trường đặc biệt là thị trường thế giới là hướng quan trọng để tổ chức sản xuất. Điều đó có tác động tích cực đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế thúc đẩy sản xuất phát triển. Sự tác động này đến sản xuất thể hiện ở chỗ:
- Xuất khẩu tạo điều kiện cho các ngành khác có cơ hội phát triển thuận lợi. Chẳng hạn, khi phát triển ngành dệt xuất khẩu sẽ tạo cơ hội đầy đủ cho việc phát triển ngành sản xuất nguyên liệu như bông hay thuốc nhuộm, sự phát triển ngành công nghiệp chế biến thực phẩm xuất khẩu ( gạo, dầu, chè…) có thể còn kéo theo ngành công nghiệp chế tạp thiết bị phục vụ cho nó.
- Xuất khẩu tạo ra khả năng mở rộng thị trường tiêu thụ góp phần cho sản xuất phát triển và ổn định.
- Xuất khẩu tạo điều kiện mở rộng khả năng cung cấp đầu vào cho sản xuất, nâng cao năng lực sản xuất trong nước.
- Xuất khẩu tạo ra những tiền đề kinh tế kỹ thuật nhằm cải tạo và nâng cao năng lực sản xuất trong nước. Điều này muốn nói đến xuất khẩu là phương tiện quan trọng tạo ra vốn và kỹ thuật, công nghệ từ thế giới bên ngoài vào Việt Nam nhằm hiện đại hóa nền kinh tế đất nước tạo ra một năng lực sản xuất mới.
- Thông qua xuất khẩu, hàng hóa của chúng ta sẽ tham gia vào cuộc cạnh tranh trên thế giới về giá cả, chất lượng ..cuộc cạnh tranh này đồi hỏi chúng ta phải tổ chức lại sản xuất, hình thành cơ cấu sản xuất luôn thích nghi với thị trường.
- Xuất khẩu còn đòi hỏi các doanh nghiệp phải luôn đổi mới và hoàn thiện công việc sản xuất và kinh doanh.
2.3 Xuất khẩu có tác động tích cực đến việc giải quyết công ăn việc làm và cải thiện đời sống của nhân dân
Tác động của xuất khẩu đến đời sống bao gồm rất nhiều mặt. Trước hết, sản xuất hàng xuất khẩu là nơi thu hút hàng triệu lao động vào làm việc và có thu nhập không thấp. Xuất khẩu còn tạo ra nguồn vốn để nhập khẩu vật phẩm tiêu dùng thiết yếu phuc vụ đời sống và đáp ứng ngày một phong phú thêm nhu cầu tiêu dùng của nhân dân.
2.4 Xuất khẩu là cơ sở để mở rộng và thúc đẩy các quan hệ kinh tế đối ngoại của đất nước.
Xuất khẩu và các quan hệ kinh tế đối ngoại có mối quan hệ tác động qua lại phụ thuộc vào nhau. Xuất khẩu là một hoạt động kinh tế đối ngoại. Có thể hoạt động xuất khẩu có sớm hơn các hoạt động kinh tế đối ngoại khác tạo điều kiện thúc đẩy các quan hệ này phát triển. Chẳng hạn xuất khẩu và công nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu thúc đẩy quan hệ tín dụng, đầu tư, mở rộng vận tải quốc tế…Mặt khác, chính các quan hệ kinh tế đối ngoại cũng tạo điều kiện cho mở rộng xuất khẩu.
Vì vậy, đẩy mạnh xuất khẩu được coi là vấn đề có ý nghĩa chiến lược để phát triển kinh tế và thực hiện công nghiệp hóa đất nước.
3. Các hình thức xuất khẩu hàng hóa
Trên giác độ phân công lao động trong quá trình sản xuất và tiêu thụ sản phẩm hàng hóa có những hình thức xuất khẩu chủ yếu sau:
3.1 Xuất khẩu trực tiếp:
Xuất khẩu trực tiếp là hoạt động bán sản phẩm hàng hóa trực tiếp từ người sản xuất tới người tiêu dùng, từ vùng xuất khẩu sang tận vùng nhập khẩu.
Xuất khẩu trực tiếp là hình thức truyền thống có từ lâu đời và hiện nay còn được sử dụng khá phổ biến. Hình thức này có ưu điểm là tiết kiệm được chi phí trong tất cả các khâu. Tuy vậy, hình thức này có khả năng rủi ro rất cao khi đơn vị sản xuất phải thực hiện tất cả các hoạt động từ sản xuất đến lưu thông thương mại hàng hóa. Đồng thời chi phí bỏ ra rất cao và thời gian thu hồi vốn chậm. Trên phạm vi quốc tế, hình thức này không được sử dụng rộng rãi đối với những quốc gia không đảm nhận tốt khâu lưu thông hàng hóa xuất khẩu.
3.2 Xuất khẩu gián tiếp
Khi các đơn vị sản xuất hàng xuất khẩu không thực hiện tốt khâu lưu thông cần phải sử dụng đến khâu thương mại trung gian để đảm bảo cho việc tiêu thụ sản phẩm của đơn vị. Hàng hóa được sản xuất ra để xuất khẩu thông qua hình thức này được gọi là hình thức xuất khẩu gián tiếp. Thực hiện hình thức xuất khẩu này, các đơn vị sẽ không thu được nhiều lợi nhuận như xuất khẩu trực tiếp vì chi phí cho hệ thống thương mại trung gian là khá cao. Tuy nhiên ưu điểm của hình thức này là hàng hóa được đảm bảo tiêu thụ chắc chắn hơn, khai thác được lợi thế của hệ thống thương mại trong việc tìm kiếm và mở rộng thị trường hàng hóa xuất khẩu.
3.3 Xuất khẩu ủy thác
Theo hình thức này, doanh nghiệp không cần trực tiếp sản xuất mà chỉ đứng ra như một đầu mối thương mại trung gian. Nhận các đơn đặt hàng của các doanh nghiệp khác, doanh nghiệp sẽ làm các thủ tục cần thiết để xuất khẩu và hưởng phần trăm (hoa hồng) theo khối lượng ( hoặc giá trị ) lô hàng xuất khẩu. Đơn vị hoạt động theo hình thức này thường có số vốn không lớn, khả năng thu được lợi nhuận cao đồng thời chịu ít rủi ro hơn nhưng đòi hỏi phải có kinh nghiệm trong việc tìm kiếm thị trường và tiêu thụ sản phẩm.
3.4 Xuất khẩu tại chỗ
Đây là hình thức xuất khẩu đối với các doanh nghiệp có hàng xuất khẩu nhưng việc thực hiện khâu lưu thông hàng hóa không đạt hiệu quả cao. Nhưng hình thức này khác với hình thức xuất khẩu gián tiếp là: Hàng hóa được sản xuất ra giao cho khách hàng ngay tại bản địa mà không phải qua hệ thống thương mại trung gian. Điều này giúp cho đơn vị sản xuất trong vùng giảm rủi ro trong lưu thông và giảm chi phí đầu tư. Hình thức này được áp dụng chủ yếu ở những nước có chi phí vận chuyển cao, thủ tục xuất khẩu phức tạp.
3.5 Xuất khẩu gia công ủy thác
Xuất khẩu theo hình thức này là những đơn vị tự tìm kiếm thị trường tiêu thụ, đứng ra nhập nguyên liệu sau đó giao cho các đơn vị khác tổ chức gia công chế biến. Cuối cùng đơn vị sẽ thu hồi thành phẩm để xuất khẩu, hưởng phí ủy thác theo thỏa thuận với bên chế biến.
II. THỊ TRƯỜNG XUẤT KHẨU HÀNG HÓA
1. Khái niệm thị trường xuất khẩu
Thị trường xuất khẩu là tập hợp người mua và người bán có quốc tịch khác nhau tác động với nhau để xác định giá cả, số lượng hàng hoá mua và bán, chất lượng hàng hoá và các điều kiện mua bán khác theo hợp đồng, thanh toán chủ yếu bằng ngoại tệ và phải làm thủ tục hải quan qua biên giới.
Thị trường xuất khẩu hàng hoá bao gồm cả thị trường xuất khẩu hàng hoá trực tiếp ( nước tiêu thụ cuối cùng) và thị trường xuất khẩu hàng hoá gián tiếp ( xuất khẩu qua trung gian). Chẳng hạn, một nước nào đó tạm nhập tái xuất hàng hoá của Việt Nam hoặc nhập hàng hoá của Việt Nam rồi đem xuất khẩu sang thị trường khác cũng được coi là thị trường xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam. Cần nhấn mạnh rằng thị trường xuất khẩu hàng hoá không chỉ giới hạn ở những thị trường nước ngoài. Thị trường trong nước trong nhiều trường hợp là thị trường xuất khẩu hàng hoá tại chỗ ( nhất là đối với các ngành xuất khẩu dịch vụ : Dịch vụ, tài chính - ngân hàng, bảo hiểm..). Đối với hàng hoá xuất khẩu từ các khu chế xuất của Việt Nam thì khi đó, thị trường nội địa cũng có thể coi là thị trường xuất khẩu hàng hoá đối với hàng hoá của các khu chế xuất.
2. Phân loại thị trường hàng xuất khẩu
Căn cứ vào vị trí địa lý
Theo tiêu thức này thì chúng ta có:
- Thị trường châu lục
- Thị trường khu vực
- Thị trường nước và vùng lãnh thổ
Mỗi nước có những phong tục, tập quán, văn hoá xã hội, vị trí địa lý khác nhau hay nằm trong một liên kết kinh tế thì thường được sắp xếp vào một nhóm. Việc phân chia thị trường theo lãnh thổ, khu vực là rất quan trọng vì nó liên quan đến rất nhiều chính sách mà doanh nghiệp sẽ áp dụng.
Căn cứ lịch sử quan hệ ngoại thương
Theo tiêu thức này phân chia thành:
- Thị trường truyền thống: Đây là thị trường mà doanh nghiệp thường xuyên xuất khẩu hàng hoá của mình sang thị trường này và có mối quan hệ, hợp tác tốt đẹp trong thời gian dài.
- Thị trường hiện có: Là thị trường mà hiện tại doanh nghiệp đang xuất khẩu hàng hoá của mình.
- Thị trường mới: Là thị trường mà doanh nghiệp mới có quan hệ, hợp tác, hàng hoá của doanh nghiệp mới xuất hiện trên thị trường này, những hợp đồng đầu tiên thường mang tính chất thăm dò, sau đó nếu doanh nghiệp tạo được hình ảnh tốt đối với khách hàng thì sẽ có cơ hội để mở rộng quan hệ buôn bán.
- Thị trường tiềm năng: Là thị trường mà doanh nghiệp có dự định xâm nhập và phù hợp với tiềm năng của doanh nghiệp, trong tương lai hàng hoá của doanh nghiệp sẽ có mặt trên thị trường này.
Căn cứ vào mức độ ưu tiên trong chính sách phát triển thị trường của nước xuất khẩu đối với các thị trường xuất khẩu phân chia thành:
Thị trường xuất khẩu trọng điểm hay thị trường chính và thị trường xuất khẩu tương hỗ
Căn cứ vào dung lượng và sức mua của thị trường gồm có:
- Thị trường xuất khẩu có sức mua lớn
- Thị trường xuất khẩu có sức mua trung bình
- Thị trường xuất khẩu có sức mua thấp
Căn cứ mức độ hạn chế xuất khẩu hay không hạn chế xuất khẩu phân chia thành:
- Thị trường xuất khẩu theo hạn ngạch
- Thị trường xuất khẩu không theo hạn ngạch
Căn cứ vào mức độ mở cửa của thị trường gồm có:
- Thị trường khó tính: Là thị trường có mức bảo hộ cao, khả năng xâm nhập vào thị trường này rất khó.
- Thị trường dễ tính : Là thị trường mở cửa, hàng hoá xuất khẩu dễ có khả năng xâm nhập vào thị trường này.
3. Vai trò của thị trường xuất khẩu đối với doanh nghiệp
Thị trường xuất khẩu là một bộ phận trong thị trường nói chung của doanh nghiệp. đặc biệt đối với doanh nghiệp kinh doanh xuất khẩu thì thị trường xuất khẩu được ví như mảnh đất nuôi sống doanh nghiệp. Thị trường xuất khẩu là mục tiêu mà mỗi doanh nghiệp kinh doanh xuất khẩu mong muốn xâm nhập và chiếm lĩnh. Do đó, thị trường xuất khẩu có vai trò sống còn đối với doanh nghiệp kinh doanh xuất khẩu điều đó thể hiện qua:
Thị trường xuất khẩu quyết định mục tiêu của doanh nghiệp: Hầu hết mục tiêu của doanh nghiệp xuất khẩu là tổng kim ngạch xuất khẩu để từ đó thu lợi nhuận đảm bảo cho doanh nghiệp tồn tại và phát triển. Để thực hiện mục tiêu đó, doanh nghiệp phải giải quyết tốt vấn đề tiêu thụ sản phẩm mà thị trường xuất khẩu là yếu tố then chốt. Số lượng sản phẩm tiêu thụ càng nhiều khả năng phát triển của doanh nghiệp càng cao. Do vậy đối với doanh nghiệp xuất khẩu hàng hóa thì việc thâm nhập và mở rộng thị trường xuất khẩu là điều tiên quyết dẫn đến thành công.
Thị trường xuất khẩu phản ánh tình hình kinh doanh của doanh nghiệp: Thị trường là nơi diễn ra các hoạt động mua bán hàng hoá và dịch vụ. Vì vậy, khi nhìn vào thị trường xuất khẩu ta có thể thấy tình hình phát triển, mức độ tham gia thị trường quốc tế của doanh nghiệp cũng như quy mô sản xuất kinh doanh và khả năng phát triển trong thời gian tới.
Thị trường xuất khẩu trực tiếp điều tiết, hướng dẫn việc sản xuất kinh doanh các mặt hàng xuất khẩu. Để đạt được mục tiêu cuối cùng là lợi nhuận, doanh nghiệp cần phải giải quyết tốt mục tiêu thoả mãn tốt nhất nhu cầu của khách hàng để từ đó tăng khả năng tiêu thụ sản phẩm. Chính vì vậy, doanh nghiệp cần phải thông qua thị trường để nắm bắt nhu cầu khách hàng, từ đó tìm cách đáp ứng quyết định cung cấp sản phẩm gì, bằng phương thức nào, cho ai. Chính sách khách hàng trên thị trường xuất khẩu sẽ định hướng cho chính sách về sản phẩm xuất khẩu, chính sách giá cả, hoạt động xúc tiến thương mại...Từ đó doanh nghiệp sẽ phải xây dựng kế hoạch sản xuất, thu mua hàng cho phù hợp và đề ra các biện pháp đẩy mạnh xuất khẩu, nâng cao hiệu quả xuất khẩu của doanh nghiệp.
4. Khái quát về thị trường xuất khẩu hàng hóa
4.1 Thị trường Châu Á
Châu Á là một trong những thị trường khá quen thuộc và quan trọng của Việt Nam. Thị trường Châu Á chiếm tới 54,5% tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam. Đặc biệt Việt Nam lại là thành viên của khối ASEAN nên hàng hóa của Việt Nam khi xuất khẩu sang các nước trong khu vực được hường nhiều ưu đãi.
Thị trường Châu Á là nơi có các đối tác lớn của Việt Nam như: Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, Singapore…mà chính phủ hai bên đã ký được những thỏa thuận quan trọng tạo điều kiện cho doanh nghiệp quan hệ kinh tế và xuất khẩu ngày càng khả quan.
Thị trường Châu Á rất rộng lớn đa số các nước có nhu cầu lớn về hàng tiêu dùng, nông thủy sản..là những mặt hàng có thế mạnh của Việt Nam. Các nước Châu Á có điểm chung là nền văn hóa tương đồng nhau nhưng có nền kinh tế chênh lệch nhau rất lớn nên có nhu cầu tiêu dùng hàng hóa cũng khác nhau. Thị trường Châu Á là thị trường gần, Việt Nam không phải tốn chi phí vận chuyển. Đây là thị trường có nhu cầu lớn, thị hiếu về chất lượng, chủng loại giá cả khá tương đồng với hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam. ASEAN cũng là thị trường thuộc loại sớn nhất khi Việt Nam tiến hành mở cửa hội nhập sau khi chuyển đổi cơ chế, đồng thời thực hiện cam kết cắt giảm thuế suất và chẳng còn mấy thời gian mức thuế này chỉ là 0% đến 5%. Tuy nhiên chúng ta cần chú ý khi xuất khẩu hàng hóa sang Châu Á. Đó là hàng hóa của Việt Nam khi xuất sang Châu Á tuy không vấp phải một số rào cản kỹ thuật khắt khe như ở thị trường EU, thị trường Mỹ nhưng các doanh nghiệp lại phải hết sức chú ý về tập quán của người dân như: Phương thức thâm nhập, xúc tiến và quảng cáo riêng có của mỗi quốc gia. Có nắm vững được điều đó thì hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam mới đứng vững được trên thị trường này.
4.2 Thị trường EU
EU là một tổ chức kinh tế hùng mạnh trên thế giới, là một trong ba trung tâm lơn nhất trong nền kinh tế thế giới ( Hoa Kỳ, Nhật Bản, EU) đồng thời EU cũng là trung tâm tài chính khổng lồ với đồng tiền EURO ngang hàng với đồng USD.
EU ngày nay được xem như là một đại quốc gia ở Châu Âu. Chính sách thương mại chung của EU cũng giống như chính sách thương mại của một quốc gia bao gồm chính sách nội thương và chính sách ngoại thương. Tất cả các nước thành viên EU cùng áp dụng một chính sách chung đối với các nước ngoài khối. Ủy ban Châu Âu là người đại diện duy nhất cho cho liên minh trong đàm phán ký kết các hiệp định thương mại và dàn xếp tranh chấp trong lĩnh vực này.
Về tập quán, thị hiếu tiêu dùng: EU là một thị trường rộng lớn. Thị trường EU thống nhất cho phép tự do di chuyển sức lao động, hàng hóa, dịch vụ và vốn giữa các nước thành viên. Mỗi quốc gia thành viên EU lại có những đặc điểm tiêu dùng riêng. Do vậy, có thể thấy rằng thị trường EU có nhu cầu rất đa dạng và phong phú về hàng hóa, dịch vụ. Trên thực tế, có những loại hàng hóa rất được ưa chuộng ở thị trường Pháp, Italy, Bỉ nhưng lại không được người tiêu dùng ở Anh, Ailen, Đan Mạch và Đức đón chào. Giữa EU cũ và các thành viên mới cũng có những sự khác biệt đáng kể về tập quán, thị hiếu tiêu dùng.Tuy nhiên, trình độ phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội của các nước thành viên khá đồng đều cho nên người dân thuộc khối Eu có những điểm chung về sở thích và thói quen tiêu dùng.Ví dụ: Đối với hàng may mặc và giày dép, người dân Áo, Đức, Hà Lan chỉ mua hàng may mặc và giày dép không chứa chất nhuộm có nguồn gốc hữu cơ. Khách hàng EU đặc biệt quan tâm tới chất lượng và thời trang của hai loại sản phẩm này. Nhiều khi yếu tố thời trang lại có tính quyết định cao hơn nhiều so với giá cả. Đặc biệt, người Châu Âu có sở thích tiêu dùng và thói quen sử dụng các loại sản phẩm có nhãn hiệu nổi tiếng trên thế giới. Họ cho rằng, những nhãn hiệu này sẽ gắn với chất lượng sản phẩm và có uy tín lâu đời, cho nên khi dùng sản phẩm mang nhãn hiệu nổi tiếng sẽ rất an tâm về chất lượng và an toàn cho người sử dụng. Vì vậy, trong nhiều trường hợp, mặc dù những sản phẩm rất đắt nhưng họ vẫn mua và không thích chuyển sang tiêu dùng những sản phẩm không nổi tiếng khác cho dù giá rẻ hơn nhiều.
Về kênh phân phối của Liên minh Châu Âu: Hệ thống kênh phân phối của EU về cơ bản cũng giống như hệ thống phân phối của một quốc gia, gồm mạng lưới bán buôn và bán lẻ. Hệ thống này có sự tham gia của rất nhiều thành phần: Công ty xuyên quốc gia, hệ thống các cửa hàng, siêu thị, các công ty bán lẻ độc lập…trong đó nổi bật nên là vai trò của các công ty xuyên quốc gia. Hai hình thức tổ chức phổ biến nhất của các kênh phân phối trên thị trường EU là theo tập đoàn và không theo tập đoàn. Thông thường các siêu thị hoặc các công ty bán lẻ độc lập trên thị trường EU không mua hàng trực tiếp từ các nhà xuất khẩu nước ngoài mà thường thông qua các “ nhà bán buôn” là các trung tâm thu mua lớn của EU. Kiểu liên kết này trong hệ thống kênh phân phối EU đã tạo nên những chuỗi mắt xích chặt chẽ được gắn với nhau bằng các hợp đồng kinh tế, mà việc tiếp cận và trở thành một trong những mắt xích đó không phải là dễ dàng đối với các nhà xuất khẩu Việt Nam vốn chỉ quen làm ăn chộp giật và theo từng hợp đồng riêng biệt.
4.3 Thị trường Mỹ
Thị trường Mỹ là thị trường còn tương đối mới mẻ đối với các doanh nghiệp Việt Nam. Đây là một thị trường rất rộng lớn, người Mỹ là một dân tộc chuộng mua sắm và tiêu dùng. Họ có tâm lý là càng mua sắm và tiêu sài nhiều thì càng kích thích sản xuất và dịch vụ tăng trưởng. Ngày nay, tâm lý này không chỉ ảnh hưởng đến riêng nền kinh tế Mỹ mà còn có tác động sâu rộng đến các nhà xuất khẩu trên toàn thế giới. Hàng hóa dù chất lượng cao hay thấp đều có thể bán trên thị trường Mỹ vì các tầng lớp dân cư ở nước này đều tiêu thụ nhiều hàng hóa. Riêng đối với các nước đang phát triển như Việt Nam, cần phải lấy giá cả làm yếu tố quan trọng hàng đầu. Mẫu mã có thể không quá cầu kỳ nhưng rất cần sự đa dạng, sự đặc thù, hợp thị hiếu và tiện dụng. Xã hội Mỹ là xã hội đa sắc tộc do đó ở Mỹ không có các lệ ước và tiêu chuẩn thẩm mỹ xã hội mạnh và bắt buộc như các nước khác.Những nhóm người khác nhau vẫn sống theo văn hóa, tôn giáo của mình và dần dần theo thời gian hòa trộn, ảnh hưởng lẫn nhau. Chính điều này tạo nên sự khác biệt trong thói quen tiêu dùng ở Mỹ so với người tiêu dùng ở các nước Châu Âu cũng tôn trọng chất lượng nhưng sự thay đổi luôn là yếu tố chính, làm thay đổi thị hiếu tiêu dùng của người Mỹ. Cùng một đồ vật nhưng nhưng thời gian sử dụng của người tiêu dùng ở các nước phát triển khác nhau. Với sự thay đổi luôn như vậy, giá cả trở nên có vai trò rất quan trọng. Điều này giải thích tại sao hàng tiêu dùng từ một số nước đang phát triển có chất lượng kém hơn nhưng vẫn có chỗ đứng ở Mỹ vì giá bán thực sự cạnh tranh ( nhưng điều này khó xảy ra ở Châu Âu). Như vậy, chất lượng, sự tiện lợi, nét độc đáo, hệ thống phân phối, giá cả là những yếu tố ưu tiên trong thứ tự cân nhắc quyết định mua hàng của người Mỹ. Đây là những điểm mà các doanh nghiệp xuất khẩu của Việt Nam cần hết sức chú ý khi xuất khẩu hàng hóa sang thị trường này.
III. NỘI DUNG PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG CỦA DOANH NGHIỆP THƯƠNG MẠI
Mục đích cuối cùng của các doanh nghiệp kinh doanh xuất khẩu là nghiên cứu để phát triển thị trường xuất khẩu của doanh nghiệp. Phát triển thị trường là tổng hợp cách thức biện pháp của doanh nghiệp nhằm đưa khối lượng sản phẩm kinh doanh đạt mức tối đa, mở rộng quy mô kinh doanh, tăng thêm lợi nhuận và nâng cao uy tín của doanh nghiệp trên thị trường.
Hoạt động kinh doanh trong cơ chế thị trường là cuộc chạy đua không có đích cuối cùng. Vì vậy, phát triển thị trường vừa là mục tiêu, vừa là phương thức quan trọng để doanh nghiệp có thể tồn tại và phát triển. Có mở rộng và phát triển thị trường, mới duy trì được mối quan hệ thường xuyên gắn bó với khách hàng, củng cố và tạo dựng uy tín của doanh nghiệp, trước người tiêu dùng để tăng thêm khách hàng. Mới có cơ may đầu tư phát triển kinh doanh, nâng cao hiệu quả kinh doanh, tăng thu nhập cho cán bộ công nhân viên, thực hiện được những mục tiêu đã vạch ra, từ đó có thể tồn tại và phát triển một cách bền vững trong cơ chế thị trường cạnh tranh gay gắt. Một doanh nghiệp muốn tồn tại và phát triển phải không ngừng phát huy các tiềm lực, nâng cao sức sống và khả năng cạnh tranh của mình. Điều này phụ thuộc chủ yếu vào chiến lược củng cố và phát triển thị trường của doanh nghiệp.
1. Các hình thức phát triển thị trường
1.1 Phát triển về mặt hàng
Phát triển về mặt hàng có thẻ thực hiện về lượng và về chất. Thứ nhất, việc đưa ra ngày càng nhiều sản phẩm dựa trên nhu cầu đa dạng, mong muốn thoả mãn và khả năng thanh toán của con người trong một xã hội phát triển. Sự phát triển của khoa học kỹ thuật và công nghệ đã cho phép các doanh nghiệp ứng dụng vào sản xuất những sản phẩm đa dạng trên để đáp ứng nhu cầu con người. Đây là việc phát triển mặt hàng thông qua tăng cường chủng loại hàng hoá trên thị trường để phục vụ nhiều loại nhu cầu của khách hàng. Bất kỳ một doanh nghiệp nào phát hiện, khen ngợi, nắm bắt nhu cầu và thoả mãn nhu cầu đó với chất lượng cao thì sẽ chiến thắng trên thị trường.
Thứ hai, đó là việc phát triển mặt hàng hiện thời. Đó là quá trình không ngừng cải tiến chất lượng, sản phẩm. dịch vụ và tăng cường sức cạnh tranh của các mặt hàng đang được cung cấp trên thị trường. Hình thức phát triển này là hình thức phát triển về chất của hàng hoá nhằm đáp ứng những nhu cầu đòi hỏi ngày càng cao hơn của con người.
1.2 Phát triển thị trường theo chiều rộng
Phát triển thị trường theo chiều rộng là việc thể hiện phát triển về số lượng khách hàng có cùng loại nhu cầu để có thể bán nhiều hơn một loại sản phẩm hay dịch vụ nào đó. Đồng thời, việc phát triển thị trường theo chiều rộng còn bao gồm cả việc phát triển về mặt không gian, địa lý. Đó là việc đòi hỏi không ngừng ghiên cứư xu thế biến động của thê giới, các thị trường nước ngoài để tiến hành thâm nhập vào các thị trường đó.
1.3 Hình thức phát triển theo chiều sâu
Phát triển theo chiều sâu về thực chất là phát triển thị trường về chất bao gồm những việc như nâng cao chất lượng, sản phẩm dịch vụ đưa ra thị trường những sản phẩm, dịch vụ có hàm lượng chất xám cao. Phát triển thị trường theo chiều sâu có thể thực hiện theo cách cắt lớp, phân đoạn thị trường để thoả mãn nhu cầu muôn hình , muôn vẻ của khách hàng.
2. Các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động phát triển thị trường
2.1 Các nhân tố thuộc môi trường vĩ mô
2.1.1 Môi trường chính trị luật pháp
Tình hình chính trị luật pháp của nước nhập khẩu có ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động xuất khẩu của một doanh nghiệp. Các yếu tố thuộc lĩnh vực chính trị và luật pháp chi phối mạnh mẽ sự hình thành cơ hội thương mại và khả năng thực hiện mục tiêu xuất khẩu của bất kỳ doanh nghiệp nào. Sự ổn định chính trị đã được xác định là một trong những tiền đề quan trọng cho hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Hệ thống pháp luật hoàn thiện, không thiên vị là một trong những điều kiện ngoài kinh tế của kinh doanh đặc biệt là đối với các doanh nghiệp xuất nhập khẩu.
2.1.2 Nhân tố chính sách thương mại thuộc về thuế quan và phi thuế quan
Công cụ chính sách thương mại thuộc về thuế quan
Thuế xuất khẩu được dùng làm công cụ để điều tiết và quản lý xuất khẩu. Thuế này được đánh vào giá hàng hóa xuất khẩu nhằm hạn chế hay khuyến khích xuất khẩu. Theo kinh nghiệm của nhiều nước, nếu dùng chính sách thuế quan để làm công cụ cho chính sách khuyến khích sản xuất thay thế hàng xuất khẩu sẽ dẫn tới tình trạng duy trì một ngành sản xuất kém hiệu quả, kém khả năng cạnh tranh và do đó người tiêu dùng sẽ bị thiệt thòi nhất. Tuy nhiên, trong nền kinh tế hội nhập với việc buôn bán tự do giữa các nước có sự cạnh tranh gay gắt về giá cả và chất lượng hàng hóa thì việc sử dụng thuế như một công cụ quản lý xuất khẩu sẽ không còn hiệu quả nữa. Đặc biệt khi Việt Nam đã chính thức trở thành thành viên của WTO, nhiều mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam sẽ được hưởng mức thuế suất bằng không. Đây chính là một cơ hội lớn cho các doanh nghiệp xuất khẩu của Việt Nam.
Công cụ chính sách thương mại phi thuế quan
Để khuyến khích xuất khẩu hay hạn chế nhập khẩu thì các quốc gia đã sử dụng sử dụng một số công cụ chủ yếu sau:
Chính sách mậu dịch tự do: Tự do hàng hóa thương mại gắn liền với việc Nhà nước áp dụng các bộ phận cần thiết để từng bước giảm thiểu những trở ngại đối với hoạt động thương mại. Mục đích của tự do hóa thương mại là thúc đẩy quá trình quốc tế hóa đời sống kinh tế thế giới, hình thành một thị trường toàn cầu và phát huy lợi thế của từng quốc gia, tạo ra những môi trường chính trị lành mạnh giúp quốc gia phân phối nguồn lực một cách hiệu quả nhất.
Chính sách bảo hộ mậu dịch: Chính sách này được nhiều nước áp dụng trong thời kỳ mới phát triển. Khi áp dụng chính sách này Nhà nước thường sử dụng các công cụ, biện pháp thuế quan và phi thuế quan để tránh cho hàng hóa và doanh nghiệp trong nước khỏi cạnh tranh trực tiếp với hàng hóa và doanh nghiệp của nước ngoài. Chính sách mậu dịch thương mại thường mang lại những ưu điểm trong việc giảm cạnh tranh của hàng ngoại ở thị trường trong nước đồng thời giúp các nhà sản xuất kinh doanh trong nước tăng cường tính cạnh trên thị trường nội địa. Tuy nhiêu chính sách này có nhược điểm là nếu sự bảo hộ thị trường nội địa quá chặt chẽ dễ dẫn đến xu hướng đóng cửa nền kinh tế, làm tổn thương đến thương mại quốc tế, dẫn đến sự bảo thủ trì trệ của các nhà sản xuất kinh doanh nội địa.
Hạn ngạch xuất khẩu
Đây là công cụ hạn chế khối lượng xuất khẩu cao nhất của mặt hàng hay một nhóm hàng. Hạn ngạch xuất khẩu được dùng để bảo hộ sản xuất trong nước, bảo vệ tài nguyên thiên nhiên và những mặt hàng quí hiếm.
Tỷ giá hối đoái
Nhà nước có thể điều chỉnh giá trị tiền Việt Nam tăng hoặc giảm so với ngoại tệ để không khuyến khích hoặc khuyến khích xuất khẩu.
Ngoài ra còn có một số công cụ phi thuế quan khác như chế độ bảo vệ thương mại tạm thời, hàng rào kỹ thuật và vệ sinh kiểm dịch động thực vật, hỗ trợ xúc tiến xuất khẩu….
2.1.3 Môi trường văn hóa, xã hội
Yếu tố văn hóa xã hội luôn bao quanh doanh nghiệp và khách hàng. Nền văn hóa tạo nên cách sống của một cộng đồng sẽ quyết định cách thức tiêu dùng, thứ tự ưu tiên các sản phẩm được thỏa mãn v._.à các thỏa mãn của con người sống trong đó. Chính vì văn hóa là yếu tố chi phối lối sống nên các doanh nghiệp kinh doanh nghiệp kinh doanh xuất khẩu cần phải chú ý đến yếu tố văn hóa. Khi viết một lời quảng cáo hay một thông điệp khuyến mại phải dùng những biểu trưng được văn hóa đó chấp nhận. Hoặc khi thiết kế mẫu mã sản phẩm mới cũng phải làm sao cho phù hợp với bản sắc văn hóa mà sản phẩm mình định xâm nhập vào.Trong thực tế thì yếu tố văn hóa tác động tới tất cả các hoạt động của doanh nghiệp như: Định giá, xúc tiến bán hàng, tạo kênh phân phối...Sự thành công hay thất bại của doanh nghiệp thể hiện qua việc thị trường đó chấp nhận hay phản đối sản phẩm đó.
2.2 Các nhân tố bên trong doanh nghiệp
Tiềm lực tài chính
Đây là một yếu tố tổng hợp phản ánh sức mạnh của doanh nghiệp thông qua khối lượng vốn mà doanh nghiệp có thể huy động vào kinh doanh, khả năng đầu tư có hiệu quả các nguồn vốn. Đối với một doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu thì nguồn vốn lưu động có vai trò rất quan trọng. Nó giúp cho doanh nghiệp có thể chủ động trong việc thu gom hàng hóa để thực hiện được các hợp đồng có giá trị lớn.
Chất lượng của sản phẩm và uy tín của doanh nghiệp trên thị trường
Một hình ảnh “tốt” về doanh nghiệp liên quan đến hàng hóa dịch vụ, chất lượng sản phẩm, thái độ đối với khách hàng, giá cả…Đặc biệt khi buôn bán giao dịch với khách hàng quốc tế thì uy tín, chất lượng sản phẩm có vai trò rất quan trọng. Nó tạo nên sự “cảm tình, tin cậy” của bạn hàng đối với doanh nghiệp. Từ đó nó giúp cho doanh nghiệp có thể ký kết được các hợp đồng có giá trị lớn đối với các bạn hàng quốc tế.
Chính sách quảng cáo và xúc tiến thương mại của doanh nghiệp
Chính sách quảng cáo, xúc tiến của doanh nghiệp có ảnh hưởng rất lớn đến quá trình mở rộng thị trường xuất khẩu. Nó làm cho hoạt động bán hàng của doanh nghiệp được dễ dàng hơn, năng động hơn. Thông qua việc quảng cáo xúc tiến thương mại hình ảnh doanh nghiệp sẽ được bạn hàng ở nhiều nước biết đến, từ đó họ sẽ tìm đến ký kết các hợp đồng mua bán.
Nguồn cung ứng hàng hóa
Nguồn cung ứng hàng hóa có thể mua từ các doanh nghiệp khác trong và ngoài nước, từ các cá nhân, tổ chức, các nhà trung gian…Nguồn hàng tác động mạnh mẽ đến khả năng tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp. Nếu làm tốt việc thu mua tạo nguồn sẽ bảo đảm cho doanh nghiệp chủ động về nguồn cung ứng, an tâm về chất lượng, số lượng cũng như bảo đảm đến tiến độ giao hàng, bảo đảm chữ tín cho doanh nghiệp.
Nguồn nhân lực
Nguồn nhân lực cũng là một yếu tố quan trọng tác động đến thị trường hàng xuất khẩu. Nếu doanh nghiệp có đội ngũ cán bộ giỏi về nghiệp vụ, trình độ ngoại ngữ, có khả năng đàm phán giao dịch, hợp tác với các bạn hàng nước ngoài, năng động sáng tạo, chịu được áp lực trong điều kiện mới doanh nghiệp đó sẽ kinh doanh có hiệu quả.
3. Kinh nghiệm phát triển thị trường của các doanh nghiệp xuất khẩu Đài Loan
Trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay thì phát triển thị trường xuất khẩu hiện đang là vấn đề được các doanh nghiệp Việt Nam rất chú trọng.
Nhưng phát triển thị trường như thế nào? Làm gì để phát triển thị trường là một câu hỏi mà các doanh nghiệp làm xuất khẩu luôn trăn trở, tìm cách trả lời. Và cũng đã có nhiều doanh nghiệp trả lời thành công câu hỏi đó. Sau đây là kinh nghiệm phát triển thị trường EU của các doanh nghiệp xuất khẩu Đài Loan.
Như chúng ta đã biết EU là một thị trường rất khó tính, người tiêu dùng Eu thích và có thói quen sử dụng những sản phẩm có nhãn hiệu nổi tiếng, chất lượng là yếu tố quyết định đối với phần lớn các mặt hàng được tiêu dùng trên thị trường này chứ không phải là giá cả. Nắm bắt được điều đó, các nhà xuất khẩu đã thâm nhập vào thị trường EU bằng cách liên doanh với các công ty nước ngoài nổi tiếng dưới hình thức sử dụng giấy phép, nhãn hiệu hàng hóa. Dưới danh nghĩa các công ty này họ đã thâm nhập thành công vào thị trường EU. Đây là một kinh nghiệp rất đáng chú ý của các doanh nghiệp xuất khẩu Đài Loan mà các doanh nghiệp Việt Nam nên học hỏi. Tại thời điểm này, hàng hóa Việt Nam chưa có danh tiếng nên rất khó thâm nhập vào thị trường EU. Hơn nữa, năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam còn yếu. Do vậy, liên doanh dưới hình thức sử dụng giấy phép, nhãn hiệu hàng hóa, tên thương phẩm nổi tiếng có thể là biện pháp tối ưu để các nhà xuất khẩu Việt Nam thâm nhập được vào thị trường EU.
Một kinh nghiệm khác của các doanh nghiệp sản xuất hàng dệt may và da giày Đài Loan khi xâm nhập vào các kênh phân phối chủ đạo của EU thông qua việc liên doanh trở thành các công ty con của các công ty xuyên quốc gia EU. Các doanh nghiệp Việt Nam nên tham khảo kinh nghiệm của họ. Nhờ đó, kim ngạch xuất khẩu hai mặt hàng này sang EU tăng nhanh và đến năm 1997 – 1998 những doanh nghiệp này đã chuyển phần lớn cơ sở sản xuất của mình sang Việt Nam và các nước khác có lợi thế hơn. Hiện nay, các doanh nghiệp Việt Nam đã mua rất nhiều các mặt hàng này của Việt Nam mang về nước, bỏ nhãn mác Việt Nam và dán nhãn mác của họ, sau đó tái xuất sang thị trường EU. Giá bán của họ cho đối tác EU cao hơn nhiều lần so với giá mua của Việt Nam, thường gấp rưỡi, gấp đôi, thậm chí có những loại hàng bán được giá gấp từ 3 – 5 lần. Sự thành công của những doanh nghiệp này thực sự đã mang lại cho họ nhiều lợi ích kinh tế, thể hiện không chỉ ở chỗ không chỉ đẩy mạnh xuất khẩu hàng hoá do mình làm ra mà còn thu được rất nhiều lợi nhuận. Đây là một kinh nghiệm rất đáng quý mà các doanh nghiệp Việt Nam nên học tập.
CHƯƠNG II
ĐÁNH GIÁ HOẠT ĐỘNG KINH DOANH VÀ THỰC TRẠNG
THỊ TRƯỜNG XUẤT KHẨU CỦA CÔNG TY CỔ PHẦN
XUẤT NHẬP KHẨU TẠP PHẨM
I. QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA CÔNG TY
Sự hình thành và phát triển
Công ty Xuất Nhập Khẩu Tạp phẩm là công ty đầu tiên của Nhà nước Việt Nam độc lập, được thành lập ngày 5/3/1956 với tên khai sinh là “Tổng công ty xuất nhập khẩu Tạp phẩm”.
Công ty hoạt động dưới sự lãnh đạo và quản lí của Bộ Công thương lúc bấy giờ nay đổi tên là Bộ Thương Mại.
Trong nửa thế kỉ xây dựng và phát triển của mình từ những đòi hỏi thực tế khách quan mà cơ cấu tổ chức của công ty đã nhiều lần thay đổi, tách dần một số bộ phận để thành lập các Công ty khác. Cụ thể:
Năm 1964, toàn bộ các mặt hàng thủ công mỹ nghệ của công ty được tách ra để thành lập công ty Artexport.
Năm 1971 tách thành lập Barotex.
Năm 1972 tách các cơ sở sản xuất của công ty giao cho bộ công nghiệp nhẹ quản lý.
Năm 1978 tách thành Textimex.
Năm 1985 tách thành Mecanimex.
Năm 1987 tách thành Leaprodoxim.
Năm 1990: Tách công ty xuất nhập khẩu phía Nam thành Công ty trực thuộc bộ Thương Mại và mang tên Tocontap Sài Gòn.
Đến năm 1993, cả nước sắp xếp lại mô hình doanh nghiệp Nhà nước theo quyết định của Chính phủ, Bộ Thương Mại ra quyết định thành lập lại doanh nghiệp Nhà nước số 333 TM/TCCB ngày 31/3/1993.
Công ty là một doanh nghiệp Nhà Nước nên phải theo đầy đủ các quy đinh trong Luật Doanh Nghiệp nhà nước về thành lập, tổ chức, giải thể cũng như tổ chức quản lý.
Thực hiện chủ trương cổ phần hóa các doanh nghiệp của Nhà nước, công ty đã chuyển đổi thành công ty cổ phần theo quyết định số 2537/QĐ – BTM và số 0206/QĐ – BTM ngày 13/2/2006.
Tên công ty: Công ty Cổ phần Xuất nhập khẩu Tạp phẩm
Tên tiếng Anh: Vietnam national Sundries Import and Export Join stocks company
Tên giao dịch: TOCONTAP HANOI
Trụ sở chính: 36 Bà Triệu, Quận Hoàn Kiếm, Hà Nội.
Tên cơ quan sáng lập: Bộ Thương Mại
Vốn pháp định: 34.000.0000 (đồng).
Các chi nhánh và các Công ty, Xí nghiệp liên doanh, liên kết kinh tế của Công ty gồm :
Chi nhánh tại thành phố Hải Phòng : Địa chỉ số 96A, phố Nguyễn Đức Cảnh, Hải Phòng.
Chi nhánh tại TP. Hồ Chí Mính : Địa chỉ số 129, phố Cô Bắc, Quận 1, thành phố Hồ Chí Minh.
Chi nhánh tại Hưng Yên : Địa chỉ tại xã Trưng Trắc, huyện Văn Lâm, tỉnh Hưng Yên.
Công ty liên doanh Đông Hải Phúc : Địa chỉ tại khu công nghiệp Hưng Yên, xã Chỉ Đạo, huyện Văn Lâm, tỉnh Hưng Yên.
Xí nghiệp liên kết kinh tế TOCAN tại Quận Thanh Xuân, Hà Nội.
Trong bất kỳ giai đoạn nào, hoàn cảnh nào, chiến tranh hay hòa bình, thời bao cấp hay mở cửa hội nhập, họat động sản xuất kinh doanh của Tocontap để để lại những dấu ấn đậm nét. Thời kỳ từ năm 1958 đến năm 1975, kim ngạch xuất khẩu của công ty luôn chiếm khoảng 1/3 kim ngạch xuất khẩu của cả nước. Chuyển sang nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, hoạt động sản xuất kinh doanh ban đầu còn gặp khó khăn nhưng công ty đã kịp thời tìm ra hướng đi đúng cho mình và liên tục từ năm 2000 đến nay luôn hoàn thành vượt các chỉ tiêu được giao, bảo toàn vốn, kinh doanh có lãi, đời sống cán bộ công nhiên viên được cải thiện.
Các chỉ tiêu về kim ngạch XNK, doanh thu, nộp lãi, nộp ngân sách của 5 năm trở lại đây đều tăng mạnh, đạt trên dưới 200% so với các năm trước đó.
Hiện công ty có quan hệ bạn hàng với trên 30 nước, là cầu nối tin cậy giữa các nhà sản xuất và các nhà phân phối hàng hóa. Cái tên Tocontap Hanoi đã trở nên thân quen với nhiều bạn hàng trong và ngoài nước, đặc biệt với các đơn vị sản xuất và xuất nhập khẩu. Từ một nguồn vốn được Nhà nước giao ban đầu là 200 triệu đồng qua nhiều thế hệ xây dựng và chắt chiu đóng góp, cho đến nay nguồn vốn Nhà nước tại công ty đã lên đến gần 50 tỷ đồng.
Hai chi nhánh của công ty tại Hải Phòng và TP. Hồ Chí Minh trước đây chỉ làm công tác giao nhận nhưng mấy năm gần đây đã tập trung vào công tác kinh doanh, mọi hoạt động cũng theo cơ chế khoán của công ty và đã thực hiện được kim ngạch xuất nhập khẩu đáng kể. Ngoài xí nghiệp Tocan chuyên sản xuất chổi quét sơn suất khẩu đi Canada, Mỹ, Ôxtrâylia, năm 2006 công ty đã thành lập thêm xí nghiệp liên doanh sản xuất giấy trang trí hoạt động ngay từ những ngày đầu của năm 2006.
Bên cạnh công tác kinh doanh xuất nhập khẩu, các hoạt động khác của Công ty cũng đạt kết quả cao. Đảng bộ công ty nhiều năm liền được tặng danh hiệu “ Trong sạch vững mạnh”. Công ty đã nhiều lần nhận được băng khen của thủ tướng chính phủ, cờ thi đua và bằng khen của Bộ Thương Mại và đã được nhận Huân chương Lao động hạng Ba, hạng Hai.
Đặc biệt năm 2005 với những nỗ lực và thành tích đã đạt, công ty vinh dự được Nhà nước tặng thưởng Huân chương Lao động hạng Nhất.
Điều đặc biệt tuy chỉ là một doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu thuần túy nhưng Tocontap đã đào tạo được đội ngũ cán bộ công chức có kiến thức sâu về kinh tế, nghiệp vụ XNK. Nhiều cán bộ từng công tác tại Tocontap Hanoi hiện đang giữ những trọng trách tại rất nhiều doanh nghiệp, công ty và tổng công ty ở trong và ngoài Bộ Thương Mại hoặc giữ cuơng vị lãnh đạo tại các Cục, Vụ, Viện; Nhiều người đã và đang là Tùy viên, Tham tán thương mại tại các Thương vụ ở nhiều quốc gia trên thế giới.
Năm 2006 là năm mở đầu của thời kì mới là thời điểm có tính bước ngoặt lịch sử khi Tocontap đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ của một doanh nghiệp Nhà nước để chuyển sang mô hình Công ty cổ phần với phương thức quản lý.
Khó khăn thách thức còn nhiều nhưng với truyền thống vẻ vang và bản lĩnh vững vàng của một doanh nghiệp có tuổi đời nửa thế kỷ, cộng thêm một đội ngũ lãnh đạo có năng lực và một tập thể cán bộ công nhiên viên đoàn kết, chắc chắn Công ty sẽ chủ động sáng tạo, vượt qua thử thách nắm lấy những cơ hội phát triển mới trên bước đường hội nhập.
2. Nhiệm vụ, chức năng của Công ty.
Là một doanh nghiệp chuyên môn trong hoạt động xuất nhập khẩu nên công ty có những nhiệm vụ và chức năng chính sau:
Chủ động giao dịch với cơ quan trong và ngoài nước để ký các hợp đồng kinh tế, dịch vụ với các đơn vị vận tải, bảo hiểm về hàng hóa xuất nhập khẩu trên cơ sở chỉ tiêu kế hoạch của nhà nước và của bộ trong danh mục hàng hóa xuất nhập khẩu theo các chế độ, thể lệ của Nhà nước và pháp luật quốc tế.
Kết hợp chặt chẽ với các đơn vị sản xuất kinh doanh trong nước để tập trung nguồn hàng xuất khẩu và cung cấp nguồn hàng nhập khẩu, tìm hiểu nghiên cứu thị trường và sắp xếp, xây dựng hệ thống kho tàng, bến bãi, tổ chức việc tiếp nhận, vận chuyển hàng hóa an toàn, giảm tối đa tỷ lện hao hụt sản phẩm.
Nghiên cứu tình hình sản phẩm và giá cả thị trường thế giới, tình hình lưu thông các mặt hàng thuộc phạm vi kinh doanh để có các biện pháp tranh thủ về giá cả buôn bán có lợi nhất, xuất khẩu những mặt hàng có lợi thế và nhập khẩu những mặt hàng tiêu dùng, vật tư thiết bị, phụ tùng cần thiết cho sinh hoạt, sản xuất, đảm bảo công tác xuất nhập khẩu đạt hiệu quả cao.
Thực hiện cam kết trong hoạt động mua bán ngoại thương và các hoạt động có liên quan đến công tác xuất nhập khẩu của công ty.
Tuân thủ chính sách, chế độ quản lý về kinh tế cũng như quản lý về xuất nhập khẩu, chính sách đối ngoại của Bộ, Nhà nước, đề cập với cấp trên các vấn đề có liên quan đến chất lượng, tiêu chuẩn kỹ thuật.
3. Ngành, nghề kinh doanh của Công ty.
- Kinh doanh hàng nông sản, lâm sản, hải sản, thực phẩm, thủ công mỹ nghệ, tạp phẩm, công nghệ phẩm, sản phẩm dệt, may, da giầy ( Trừ loại lâm sản Nhà nước cấm );
- Kinh doanh vật tư, máy móc thiết bị, nguyên liệu, vật liệu xây dựng, hóa chất ( Trừ hóa chất Nhà nước cấm ), kim khí điện máy, phương tiện vận tải;
- Kinh doanh khách sạn và dịch vụ khách sạn, đại lý bán buôn, bán lẻ hàng hóa ( Không bao gồm kinh doanh quán bar, phòng hát Karaoke, vũ trường );
- Tổ chức gia công chế biến, hợp tác đầu tư, liên doanh liên kết với các tổ chức trong và ngoài nước.
- Kinh doanh đồ uống, rượu, bia, nước giải khát ( Không bao gồm kinh doanh quán bar );
- Kinh doanh máy móc, vật tư, trang, thiết bị ngành in;
- Mua bán sắt thép phế liệu, phá dỡ tàu biển cũ làm phế liệu để tiêu thụ trong nước;
- Kinh doanh phân bón, máy móc, vật tư phục vụ nông nghiệp ( Không bao gồm thuốc bảo vệ thực vật);
- Kinh doanh các dụng cụ. thiết bị và máy móc trong ngành dịch vụ;
- Kinh doanh các thiết bị phòng cháy, chữa cháy, cứu hộ, cứu nạn;
- Kinh doanh gỗ ép định hình.
3. Đặc điểm chủ yếu về hoạt động kinh doanh của Công ty
3.1. Về mặt hàng kinh doanh của công ty
Công ty xuất nhập khẩu tạp phẩm là một công ty hoạt động trong lĩnh vực kinh doanh xuất nhập khẩu tạp phẩm nên mặt hàng của công ty rất đa dạng, bao gồm những mặt hàng mà Nhà nước không cấm xuất, nhập khẩu. Các mặt hàng chủ yếu công ty bao gồm:
Về xuất khẩu : Công ty xuất khẩu các sản phẩm như mây tre đan, thủ công mỹ nghệ, quần áo, cao su, gốm sứ, dụng cụ thể thao, văn hóa phẩm, gạo, chổi quét sơn, con lăn tường…
Về nhập khẩu : Công ty nhập khẩu các mặt hàng điện tử gia dụng như vô tuyến, dụng cụ cầm tay, dây điện và cáp điện, máy quay phim máy ảnh, các sản phẩm bảo vệ sức khỏe, thiết bị y tế, xe ô tô các loại….
Ngoài hoạt động xuất nhập khẩu các mặt hàng công ty còn thực hiện các hoạt động dịch vụ về quá cảnh, gia công sản xuất, tái xuất hàng, chế biến hàng xuất khẩu, giao nhận hàng xuất khẩu tại các cảng biển Việt Nam.
Mặt khác, công ty còn liên doanh với Canada để sản xuất và tiêu thụ những mặt hàng chổi quét sơn, con lăn tường, xây dựng nhà máy bia Kiến An để sản xuất và tiêu thụ bia, nước ngọt, đầu tư xây dựng nhà máy sản xuất mỳ ăn liền tại Lào….
Biểu đồ 1: Những mặt hàng xuất khẩu chủ yếu của công ty.
Mặt hàng
Thị trường
1. Chổi sơn
Canada, Úc, Anh, Ai Cập
2. Quần áo
Canada, Pháp, Slovakia, Đức, Đài Loan, Angola.
3. Hàng thủ công mỹ nghệ
Tây Ban Nha, Úc, Chi Lê, Mỹ, Anh,
Nhật, Đài Loan, Nam Phi..
4. Mũ cát
Pháp
5. Cao su
Đức, Achentina, Bungarie.
6. Thiết bị sản xuất đũa tre
Lào
7. Dây chuyền sản xuất mỳ
Lào
8. Manơcanh
Úc
9. Cót ép
Úc
10. Hàng nông sản thực phẩm
Tây Ban Nha, Tiệp, Lào, Singapo, Campuchia
Nguồn: Phòng tổng hợp
3.2. Thị trường của công ty
Là công ty hoạt động trong lĩnh vực xuất nhập khẩu nên công ty xuất nhập khẩu tạp phẩm có địa bàn hoạt động cả trong và ngoài nước. Các bạn hàng trong nước chủ yếu của công ty là các công ty, xí nghiệp, đơn vị sản xuất mà không được phép xuất khẩu trực tiếp hoặc không đủ kinh nghiệm để xuất nhập khẩu trực tiếp hay không thể tìm kiếm được thị trường.Với 50 năm hoạt động trong lĩnh vực xuất nhập khẩu, công ty có thể nhận làm trung gian, thực hiện các nghiệp vụ như xuất nhập khẩu ủy thác, gia công ủy thác…cho các bạn hàng.
Đối với thị trường ngoài nước, bạn hàng của công ty có nhiều nước khác nhau. Ngoài thị trường truyền thống như Nhật Bản, EU, Trung Quốc, Mỹ, ASEAN…Hiện nay công ty còn mở rộng thêm nhiều thị trường mới giàu tiềm năng như Mỹ La tinh, Hàn Quốc, các nước Bắc Âu.
3.3. Về phương thức kinh doanh.
Từ khi mới thành lập công ty đã áp dụng hầu hết các phương thức kinh doanh trong ngoại thương như hàng viện trợ, hàng mậu dịch, đổi hàng, hợp tác gia công để đảm bảo sự phát triển của mình và các phương thức kinh doanh ngày càng đa dạng để phù hợp với điều kiện thực tế. Phương thức kinh doanh của công ty có bán buôn, bán lẻ, làm đại lý, sản xuất theo đơn đặt hàng nước ngoài, nhận ủy thác xuất nhập khẩu, liên doanh làm hàng xuất khẩu….nhằm cố gắng đạt những mục tiêu của chiến lược kinh tế đã vạch ra và đáp ứng kịp thời các nhu cầu đòi hỏi khác nhau trên thị trường.
II. THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG SẢN XUẤT KINH DOANH CỦA CÔNG TY CỔ PHẦN XUẤT NHẬP KHẨU TẠP PHẨM HÀ NỘI
1. Kết quả kinh doanh xuất nhập khẩu giai đoạn 2003 – 2006
Hằng năm, bộ Thương Mại căn cứ vào thực trạng hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu của công ty năm trước, nhu cầu thị trường trong và ngoài nước, biến động của thị trường, các chính sách của Nhà nước về xuất nhập khẩu…để giao chỉ tiêu kế hoạch cho công ty.
Trong nhiều năm qua, mặc dù tình hình kinh tế thế giới không ổn định , hoạt động kinh doanh gặp nhiều khó khăn nhưng toàn thể cán bộ công nhân viên công ty luôn cố gắng hoàn thành nhiệm vụ được giao kết quả là công ty đã hoàn thành và hoàn thành vượt mức chỉ tiêu kế hoạch được giao, kim ngạch xuất nhập khẩu của công ty năm sau thường cao hơn năm trước, công ty luôn là một trong những doanh nghiệp dẫn đầu bộ Thương Mại. Điều đó thể hiện qua bảng sau:
Bảng2: Kim ngạch xuất nhập khẩu giai đoạn 2003 – 2006
Đơn vị: Nghìn USD
Chỉ tiêu
2003
2004
2005
2006
KH
TH
KH
TH
KH
TH
KH
TH
Kim ngạch XNK
24.000
25.892
28.000
46.768
30.000
40.877
32.000
39.375
Xuất khẩu
7.000
6.751
7.500
17.227
7.500
4.198
7.000
4.134
Nhập khẩu
17.000
19.141
22.500
29.540
22.500
36.679
25.000
35.241
Nguồn: Báo cáo tổng kết năm 2003 - 2006
Biểu đồ 1: Biểu đồ cơ cấu kim ngạch xuất nhập khẩu
qua các năm 2003- 2006
Nhìn vào bảng thống kê và biểu đồ trên ta thấy:
Năm 2003 là năm có kim ngạch xuất nhập khẩu thấp nhất so với các năm 2004, 2005, 2006 đạt 25.892 nghìn USD, tuy nhiên tổng kim ngạch xuất nhập khẩu vẫn đạt 107,9% so với chỉ tiêu được giao. Trong năm này, công ty đã cố gắng tận dụng những điều kiện lợi thế, khắc phục khó khăn, tìm kiếm và khai thác thị trường để kinh doanh có hiệu quả.
Năm 2003 nhìn chung tình hình kinh tế thế thương mại thế giới đã có sự phục hồi nhưng vẫn chậm và chứa đựng nhiều yếu tố khó lường. Giá cả trên thị trường biến động hơn so với năm 2002 và một số đồng tiền không ổn định nên sức mua của nhiều thị trường bị giảm sút đã ít nhiều ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu của công ty. So với năm 2002 thì xuất khẩu năm 2003 tăng tuy nhiên mặt hàng thì chưa được mở rộng và triển vọng duy trì tăng trưởng là không mấy sáng sủa. Về nhập khẩu: Năm 2003 kim ngạch nhập khẩu là 19.141 nghìn USD đạt 112,59% so với kế hoạch cả năm.
Vẫn theo tình hình chung của cả nước và như nhiều năm trước, kim ngạch nhập khẩu của Công ty cao hơn hẳn xuất khẩu. Tuy nhiên cơ cấu hàng nhập khẩu đã có thay đổi. Kim ngạch nhập khẩu tăng chủ yếu là nhập khẩu máy móc thiết bị, nguyên liệu phục vụ sản xuất và xuất khẩu. Kim ngạch nhập khẩu hàng tiêu dùng ngày càng giảm dần. Đây là hướng thuận lợi cho việc phát triển nền kinh tế đất nước nói chung và hoạt động kinh doanh của công ty nói riêng.
Với kim ngạch nhập khẩu 19.141 nghìn USD cho hơn 30 mặt hàng, nhập khẩu từ 37 nước thuộc 905 hợp đồng nội, ngoại có thể nói rằng Công ty là một trong những Công ty có mặt hàng nhập khẩu phong phú.
Năm 2004 tình hình kinh tế thế giới đã có những bước phát triển nhanh chóng hơn so với những năm trước làm tăng nhu cầu nhập khẩu vật tư và hàng hóa đồng thời quan hệ quốc tế mở rộng tạo cơ hội lớn về phát triển thị trường, góp phần thúc đẩy đầu tư và thương mại. Do những điều kiện thuận lợi như vậy đã tạo cơ hội cho hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu của công ty năm 2004. Năm 2004 là năm đỉnh cao thực hiện kế hoạch 5 năm 2001 – 2005 với tổng kim ngạch cao gần gấp đôi năm 2003 đạt 46.768 nghìn USD bằng 175,8 % kế hoạch.
Năm 2005 kim ngạch nhập khẩu của Công ty thực hiện đạt 136,3% so với kế hoạch Bộ giao và thực hiện cao hơn so với năm 2003. Tuy nhiên so với năm 2004 là năm đỉnh cao thì kim ngạch năm 2005 thấp hơn năm 2004 và bằng 87%.
Hoạt động chính của công ty là kinh doanh xuất nhập khẩu, nhìn chung kinh doanh hoạt động tập trung nhiều vào nhập khẩu nên kim ngạch nhập khẩu cao hơn hẳn xuất khẩu. Trong năm 2005 xuất khẩu bằng 11,44% nhập khẩu và chiếm tỷ trọng trên 10% tổng kim ngạch xuất nhập khẩu của cả năm. So với năm 2004 kim ngạch xuất khẩu bằng 24,37%. Năm 2005 cũng là năm thực hiện kim ngạch thấp nhất trong 5 năm 2001- 2005. Mấy năm gần đây kim ngạch xuất khẩu của Công ty tập trung chủ yếu vào hàng xuất khẩu sang Iraq nhưng do ảnh hưởng tình hình chính trị của Iraq nên việc xuất khẩu sang thị trường này găp nhiều khó khăn và rủi ro, năm 2005 không xuất khẩu được. Mặt khác những mặt hàng truyền thống của công ty như gốm sứ, thủ công mỹ nghệ đều giảm sút bởi môi trường cạnh tranh càng trở nên gay gắt cả ở thị trường trong và ngoài nước. TOCONTAP lại thiếu cơ sở sản xuất và không có mặt hàng chủ lực, các mặt hàng đã xuất không có tính ổn định.
Nhưng ngoài nguyên nhân khách quan vừa nêu làm cho kim ngạch xuất khẩu của Công ty thấp hơn hẳn thì nguyên nhân chủ quan là TOCONTAP còn ngại làm hàng xuất khẩu, không tìm kiếm hợp tác với các cơ sở sản xuất và nghiệp vụ xuất khẩu còn yếu, hàng xuất khẩu không giữ được khách hàng. .
Ngược với xuất khẩu, kim ngạch nhập khẩu năm 2005 thực hiện cao nhất so với những năm gần đây. Kinh doanh nhập khẩu của công ty về cơ bản vẫn là nhập các máy móc thiết bị, vật tư nguyên liệu hục vụ cho sản xuất và xuất khẩu. Trong năm 2005 các phòng kinh doanh đã rất cố gắng trong việc tìm kiếm khách hàng cũng như tìm hiểu hàng hoá, đã tìm mọi biện pháp “ thu gom” nhiều mặt hàng kể cả những mặt hàng có giá trị không lớn cũng không ngại làm. Để nhập khẩu hơn 60 mặt hàng, TOCONTAP đã ký 697 hợp đồng với 36 nước, những con số này chứng tỏ TOCONTAP chứng tỏ các cán bộ kinh doanh đã rất cố gắng và chịu khó lặn lội trong kinh doanh.
Năm 2006 hoạt động kinh doanh của TOCONTAP chịu tác động của nhiều yếu tố không thuận lợi như:
Giá cả nguyên vật liệu chủ yếu như xăng dầu, sắt thép đều tăng và biến động liên tục, giá cả các loại ngoại tệ tiếp tục tăng, tỷ giá các loại ngoại tệ biến động thường xuyên, các chính sách của Nhà nước về xuất khẩu vẫn chưa thực sự khuyến khích hoạt động nhập khẩu…
Song với tinh thần cố gắng phấn đấu, TOCONTAP đã từng bước vượt qua những khó khăn, đạt được những thành công nhất định, dù thành tích không ở mức cao như những năm trước nhưng cũng đáng khích lệ.
Năm 2006 kim ngạch xuất nhập khẩu của Công ty thực hiện đạt 123% so với kế hoạch bộ giao nhưng chỉ bằng 96.30% so với năm 2005 và chỉ bằng 84,19% so với năm 2004.
2. Tình hình tài chính của công ty
TOCONTAP là một doanh nghiệp mạnh của bộ thương mại. Trong thời kỳ đổi mới chuyển sang nền kinh tế thị trường, hoạt động sản xuất của công ty ban đầu gặp nhiều khó khăn do chưa quen với cơ chế thị trường cũng như là sự cạnh tranh gay gắt của các doanh nghiệp trong và ngoài nước nhưng công ty đã kịp thời tìm ra hướng đi riêng, đúng đắn cho mình và liên tục từ rất nhiều năm nay công ty luôn hoàn thành và hoàn thành vượt mức chỉ tiêu bộ giao, bảo toàn và phát triển nguồn vốn kinh doanh, đời sống cán bộ công nhân viên không ngừng được chăm lo và cải thiện cả về vật chất và tinh thần. Điều đó thể hiện qua một số chỉ tiêu tài chính sau đây:
Bảng 3: Các chỉ tiêu tài chính từ năm 2003 – 2006
Đơn vị: nghìn USD
Chỉ tiêu
2004
2005
2006
KH
TH
KH
TH
KH
TH
Doanh thu
678.444
678.444
430.000
580.052
500.000
563.402
Nộp NSNN
49.172
61.655
50.172
69.445
53.000
61.545
Lợi nhuận
2.200
2.890
3442
2800
3600
Thu nhập bq/người/tháng
2,1
2,4
2,5
Nguồn: Báo cáo tài chính từ năm 2003 - 2004
Công khai tài chính là việc làm được thực hiện thường xuyên ở công ty trong những năm qua. Mỗi năm công ty đều có hai lần công khai tài chính trước toàn thể các cán bộ công nhân viên vào dịp tổng kết sáu tháng và cả năm. Nhìn vào bảng số liệu trên ta thấy:
Tình hình tài chính của công ty tương đối ổn định và có khả năng tăng lên.
Hàng năm công ty luôn đã nộp vào ngân sách Nhà nước một khoản rất lớn thấp nhất là 61.545 (tỷ đồng) và cao nhất là 69.445 ( tỷ đồng) vào năm 2005.
Lợi nhuận của công ty tương đối ổn định qua các năm. Đây là một dấu hiệu tốt chứng tỏ hoạt động kinh doanh của công ty có hiệu quả.
Tiền lương của công nhân viên cũng tăng qua các năm cho thấy đời sống của các cán bộ công nhân viên không ngừng được cải thiện.
Tuy nhiên công ty cũng gặp phải một số khó khăn như: Sau khi cổ phần hóa vốn pháp định của công ty là 34 tỷ đồng trong vốn pháp định chỉ có 10 tỷ đồng. Đây là một số vốn rất nhỏ dùng cho kinh doanh không đủ dùng cho một phòng kinh doanh chứ chưa nói đến là đủ dùng cho một phương án kinh doanh lớn. Vốn kinh doanh của công ty hiện nay chủ yếu là đi vay ngân hàng, do đó phải tuân thủ tuyệt đối việc vay trả đúng hạn nếu không trả đúng hạn sẽ bị xếp vào danh sách nợ quá hạn và rất khó có thể vay tiếp. Có thể nói đây là một khó khăn lớn mà công ty gặp phải cản trở việc mở rộng hoạt động kinh doanh của công ty.
3. Đánh giá chung về những kết quả đạt được và những tồn tại cần khắc phục.
3.1 Những kết quả đạt được
Trải qua hơn 50 năm hoạt động trong lĩnh vực xuất nhập khẩu, công ty đã có được những kinh nghiệm quí báu và luôn tự hoàn thiện vươn lên phát triển trở thành một trong những doanh nghiệp đứng đầu bộ Thương Mại. Đến nay công ty đã đạt được những thành tích đáng tự hào mà hiếm có một doanh nghiệp Việt Nam nào có thể có được.
Hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu của công ty các năm 2003 – 2006 là tương đối khả quan. Điều đó thể hiện qua những điểm sau:
Thứ nhất kết quả hoạt động kinh doanh công ty luôn hoàn thành và hoàn thành vượt mức chỉ tiêu kế hoạch bộ giao.
Thứ hai, trước xu thế toàn cầu hóa nền kinh tế ngày càng mạnh mẽ và có tác động lớn tới nền kinh tế Việt Nam, Công ty đã tiến hành đa dạng hóa mặt hàng xuất nhập khẩu, thay đổi phương thức kinh doanh cũng như hoạt động thị trường xuất nhập khẩu ngày càng được mở rộng. Điều đó được thể hiện như sau:
Về xuất khẩu: Ngoài các thị trường truyền thống như Nhật Bản, EU, Trung Quốc thì Công ty đã tìm hiểu và mở rộng được sang các thị trường đầy tiềm năng như Mỹ Latinh, Bắc Âu…
Về nhập khẩu: Hiện Công ty đã có quan hệ làm ăn với các bạn hàng ở trên 36 nước. Các mặt hàng nhập khẩu chủ yếu như: Sắt thép, máy móc, thiết bị y tế….Phục vụ cho công cuộc xây dựng và đổi mới đất nước.
Có thể nói đây là một hướng đi hoàn toàn đúng đắn của TOCONTAP. Việc mở rộng thị trường đã và đang sẽ mang lại cho Công ty những thuận lợi, cơ hội kinh doanh khi Việt Nam chính thức trở thành thành viên của WTO.
Thứ ba, các cán bộ kinh doanh đã dám nghĩ, dám làm,dám chịu trách nhiệm và thích ứng với cơ chế thị trường. Từ khi nền kinh tế chuyển sang cơ chế thị trường, công ty đã xúc tiến việc đào tạo đội ngũ cán bộ công nhân viên để đáp ứng những yêu cầu mới, những thay đổi mới.
3.2 Những khó khăn chủ yếu
Nhìn vào biểu đồ trên ta thấy:
Trong cơ cấu kim ngạch xuất nhập khẩu thì xuất khẩu chỉ chiếm một tỷ trọng nhỏ, phần lớn là nhập khẩu và tỷ lệ này có xu hướng ngày càng giảm. Điều này cũng là tình trạng chung của các doanh nghiệp xuất nhập khẩu ở Việt Nam khi mà hàng hóa của chúng ta vẫn chưa có chỗ đứng trên thị trường thế giới trong khi chúng ta đang cần nhập khẩu một khối lượng máy móc thiết bị để phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước.
Các mặt hàng truyền thống như gốm sứ mây tre đan, thủ công mỹ nghệ ngày càng có kim ngạch xuất khẩu thấp chưa xứng đáng với tiềm năng của Công ty.
Việc giành và giữ thị trường còn hạn chế những thị trường truyền thống như Nhật Bản, Hàn Quốc, Pháp.. mất dần trong khi đó các thị trường mới khai thác được như Mỹ, Chi Lê, Brazil.. thì có kim ngạch xuất khẩu thấp, hàng hóa xuất sang mới chỉ mang tính chất thăm do, công tác nghiên cứu tìm kiếm thị trường không được chú trọng.
TOCONTAP đứng trước sự cạnh tranh gay gắt của các doanh nghiệp trong nước và nước ngoài. Nếu như trước đây, TOCONTAP là đầu mối xuất khẩu của cả nước làm trung gian xuất khẩu cho các doanh nghiệp trong nước vốn không được phép xuất khẩu hay không có kinh nghiệm xuất khẩu trực tiếp nên không có sự cạnh tranh thì hiện nay thị trường mở cửa các doanh nghiệp đó đã tự tìm kiếm khách hàng đứng lên trực tiếp xuất khẩu làm cho kim ngạch xuất khẩu của công ty ngày càng giảm.
Khách hàng đến với công ty nhiều nhưng cũng có nhiều khách hàng không có khả năng về tài chính không cao nên hàng không tránh khỏi tình trạng tồn kho vòng quay chậm, và khó khăn về vốn.
II. THỰC TRẠNG THỊ TRƯỜNG XUẤT KHẨU CỦA TOCONTAP HÀ NỘI
1.Thực trạng thị trường xuất khẩu của TOCONTAP HÀ NỘI
Đối với bất kỳ một doanh nghiệp nào hoạt động trong lĩnh vực xuất nhập khẩu thì thị trường xuất khẩu có vai trò rất quan trọng nó quyết địn tới sự sống còn của doanh nghiệp. TOCONTAP HÀ NỘI là một doanh nghiệp hoạt động lâu năm trong lĩnh vực xuất nhập khẩu, cái tên TOCONTAP đã trở nên quen thuộc với các bạn hàng trong nước và nước ngoài. Khách hàng trong nước của TOCONTAP là các công ty, xí nghiệp, đơn vị sản xuất không được phép xuất khẩu trực tiếp hoặc không có đủ kinh nghiệm xuất khẩu hay không thể tìm kiếm thị trường Công ty có thể đứng ra làm trung gian thực hiện các nghiệp vụ xuất khẩu ủy thác hay gia công ủy thác…Đối với thị trường ngoài nước, bạn hàng của Công ty có nhiều nước khác nhau. Ngoài các thị trường truyền thống như Iraq, Nhật Bản, EU…thì hiện nay Công ty đang tìm kiếm và mở rộng thêm các thị trường mới giàu tiềm năng như Mỹ Latinh, Hàn Quốc, B._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 36595.doc