Lời nói đầu
Thanh Hoá là một tỉnh rộng lớn, có điều kiện tự nhiên dồi dào, phong phú. Tuy nhiên Thanh Hoá vẫn là một tỉnh nghèo, với hơn 80% dân số sống bằng nông nghiệp.
Thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá trong thời kỳ đổi mới đã đưa nền kinh tế của tỉnh ra khỏi nghèo nàn, lạc hậu, từng bước đi lên. Tuy nhiên cho đến nay nền kinh tế Thanh Hoá vẫn còn nhỏ bé, trình độ công nghệ vẫn còn thấp, kết cấu hạ tầng lạc hậu. Quy mô xuất khẩu hàng công nghiệp còn nhỏ bé so với tiềm năng của mình.
66 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1475 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Phương hướng và giải pháp phát triển công nghiệp trên địa bàn Thanh Hoá từ nay tới 2010, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Trong quá trình thực tập tại Sở Kế hoạch và đầu tư tỉnh Thanh Hoá, qua nghiên cứu tình hình của tỉnh và được sự chỉ bảo, gợi ý của các cô chú trong Sở. Em đã chọn đề tài “Phương hướng và giải pháp phát triển công nghiệp trên địa bàn Thanh Hoá từ nay tới 2010” nhằm đánh giá và đưa ra những giải pháp để phát triển công nghiệp của tỉnh, góp phần công nghiệp hoá, hiện đại hoá quê hương. Đề tài này bao gồm 3 phần:
Phần I: Vai trò của công nghiệp trong nền kinh tế quốc dân.
Phần II: Thực trạng phát triển công nghiệp Thanh Hoá từ 1991 đến nay.
Phần III: Phương hướng và giải pháp phát triển công nghiệp tỉnh Thanh Hoá từ nay tới 2010.
Em xin cảm ơn cô giáo hướng dẫn - Th.S Bùi Thị Lan cùng các thầy cô, các cô chú cán bộ trong Sở kế hoạch đã chỉ bảo, giúp đỡ em hoàn thành đề tài này.
Phần I
Sự cần thiết khách quan phái
phát triển công nghiệp
I. sản xuất công nghiệp và đặc điểm của sản xuất công nghiệp.
1. Nội dung của sản xuất công nghiệp.
Nền kinh tế quốc dân bao gồm tổng thể các ngành sản xuất vật chất và sản xuất phi vật chất. Trong các ngành sản xuất thì công nghiệp là ngành kinh tế thuộc lĩnh vực sản xuất vật chất và giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân của mọi quốc gia. Hoạt động sản xuất công nghiệp có đặc điểm khác hẳn với hoạt động sản xuất khác trong nền kinh tế quốc dân.
Công nghiệp bao gồm ba hoạt động chủ yếu:
- Khai thác tài nguyên thiên nhiên tạo ra nguồn nguyên liệu nguyên thủy.
- Sản xuất và chế biến sản phẩm của công nghiệp khai thác và của nông nghiệp thành nhiều loại sản phẩm nhằm thỏa mãn các nhu cầu khác nhau của xã hội.
- Sản xuất và phân phối điện, nước và khí.
Để thực hiện ba hoạt động cơ bản đó, dưới sự tác động và phân công lao động xã hội trên cơ sở của tiến bộ khoa học và công nghệ, trong nền kinh tế quốc dân đã hình thành hệ thống các ngành công nghiệp.
- Công nghiệp khai thác.
- Các ngành sản xuất và chế biến sản phẩm.
- Công nghiệp sản xuất và phân phối điện, nước và khí.
Hoạt động khai thác là hoạt động mở đầu của toàn bộ quá trình sản xuất công nghiệp. Tính chất của hoạt động này là đưa các đối tượng lao động ra khỏi môi trường tự nhiên, tạo ra cơ sở nguyên liệu nguyên thuỷ cho công nghiệp nhằm phục vụ cho sản xuất và đời sống con người gồm:
- Khai thác nguồn năng lượng như dầu mỏ, khí đốt, than.
- Khai thác các quặng kim loại.
- Khai thác các quặng phi kim loại (chủ yếu là vật liệu xây dựng).
- Khai thác các quặng đặc biệt.
Hoạt động chế biến là hoạt động làm thay đổi hoàn toàn về chất của các nguyên liệu nguyên thuỷ, để tạo ra các sản phẩm trung gian và tiếp tục chế biến thành các sản phẩm cuối cùng đưa vào tiêu dùng trong sản xuất và trong đời sống. Quá trình chế biến từ một loại nguyên liệu có thể tạo ra được một loại sản phẩm tương ứng, và cũng có thể một loại sản phẩm nào đó được tạo ra từ những nguyên liệu khác nhau. Sản phẩm trung gian là các sản phẩm được coi là nguyên liệu cho quá trình sản xuất công nghiệp tiếp theo. Sản phẩm cuối cùng là sản phẩm đã ra khỏi quá trình sản xuất công nghiệp để đưa vào sử dụng trong sản xuất hay tiêu dùng trong đời sống. Theo nguyên tắc phân ngành kinh tế quốc dân, ngành công nghiệp chế biến gồm ba ngành công nghiệp chủ yếu:
- Công nghiệp chế tạo công cụ sản xuất bao gồm ngành cơ khí, chế tạo máy, các ngành kỹ thuật điện và điện tử. Đây là ngành cung cấp toàn bộ tư liệu sản xuất cho nền kinh tế.
- Công nghiệp chế biến trên đối tượng lao động như công nghiệp hóa chất, hóa dầu công nghiệp luyện kim và công nghiệp sản xuất vật liệu xây dựng.
- Công nghiệp chế biến thực phẩm, vật phẩm tiêu dùng như công nghiệp sản xuất gỗ, giấy, công nghiệp thủy tinh, sành, sứ, da và may mặc, công nghiệp chế biến thực phẩm phục vụ cho đời sống con người.
Hoạt động sản xuất và phân phối điện nước là hoạt động tạo ra sản phẩm điện, nước nhằm phục vụ cho sản xuất và sinh hoạt.
Như vậy, có thể hiểu công nghiệp là ngành kinh tế to lớn thuộc lĩnh vực sản xuất vật chất, bao gồm một hệ thống các ngành sản xuất chuyên môn hóa hẹp đó lại bao gồm nhiều đơn vị sản xuất kinh doanh thuộc nhiều loại hình khác nhau.
2. Các phương pháp phân loại:
Trong hoạt động quản lý công nghiệp thường thực hiện một số biện pháp sau đây để phân loại công nghiệp.
2.1. Phân loại công nghiệp theo công dụng kinh tế của sản phẩm:
Căn cứ của phương pháp này là dựa vào công dụng kinh tế của sản phẩm người ta chia công nghiệp ra thành các ngành sản xuất tư liệu sản xuất và các ngành sản xuất tư liệu tiêu dùng. Các sản phẩm có chức năng là tư liệu sản xuất thuộc nhóm A, các sản phẩm là tư liệu tiêu dùng thuộc nhóm B. Vận dụng phương pháp phân loại này để sắp xếp các cơ sở sản xuất công nghiệp vào hai nhóm ngành tương ứng là công nghiệp nặng và công nghiệp nhẹ. Ngành công nghiệp nặng là tổng hợp các đơn vị sản xuất kinh doanh sản xuất ra các sản phẩm là tư liệu tiêu dùng, chủ yếu là trong sinh hoạt. Căn cứ của sự phân loại này dựa vào phương hướng sản xuất kinh doanh là chủ yếu và tỷ trọng sản phẩm được sản xuất là tư liệu sản xuất hay tư liệu tiêu dùng.
2.2. Phân loại công nghiệp thành các ngành chuyên môn hẹp:
Phương pháp phân loại này dựa vào đặc trưng kỹ thuật sản xuất giống nhau hoặc tương tự nhau để sắp xếp các đơn vị sản xuất kinh doanh thành các ngành công nghiệp chuyên môn hóa.
Ngành công nghiệp chuyên môn hóa là tổng hợp các xí nghiệp sản xuất công nghiệp mà hoạt động của chúng có những đặc điểm kỹ thuật sản xuất giống nhau hoặc tương tự nhau:
- Cùng thực hiện một phương pháp công nghệ hoặc công nghệ tương tự.
- Sản phẩm được sản xuất từ một loại nguyên liệu hay nguyên liệu đồng loại.
- Sản phẩm có công dụng cụ thể giống nhau hoặc tương tự nhau.
2.3. Phân loại công nghiệp dựa vào hình thức khác nhau về quan hệ sở hữu, hình thức tổ chức sản xuất xã hội và trình độ kỹ thuật của sản xuất công nghiệp.
Theo phương pháp này hình thành các loại hình công nghiệp như: công nghiệp quốc doanh với công nghiệp ngoài quốc doanh; công nghiệp lớn với công nghiệp vừa và nhỏ.
Các phương pháp này có ý nghĩa lớn trong việc hoạch định các giải pháp xây dựng nền kinh tế nhiều thành phần, trong việc tổ chức sản xuất và đầu tư vào việc ứng dụng vào khoa học và công nghệ trong ngành công nghiệp.
Riêng ba phương pháp phân loại đầu là những cách phân loại theo ngành để hình thành các lĩnh vực và các ngành công nghiệp chuyên môn hóa, chúng được sử dụng phổ biến ở nhiều nước. ở nước ta, trong nghị định của Hội đồng Bộ trưởng về phân ngành kinh tế quốc dân, phân ngành kinh tế thành 16 thành cấp I. Ngành công nghiệp là một trong 16 ngành cấp I lại được phân thành 19 ngành cấp II và trong 19 ngành cấp II lại được phân thành các ngành chuyên môn hóa hẹp hơn. Phương pháp phân ngành này đến nay không còn phù hợp và được thay thế bằng hệ thống mới, theo đó thì ngành công nghiệp được phân thành ba ngành cấp I. Căn cứ vào đặc điểm kỹ thuật của sản xuất, mỗi loại hoạt động sản xuất công nghiệp phân các ngành chế biến thành các ngành công nghiệp cấp II, III và IV.
3. Đặc điểm của hoạt động sản xuất công nghiệp.
Nếu xét trên góc độ tổng hợp của mối quan hệ con người trong hoạt động sản xuất thì quá trình sản xuất là sự tổng hợp của hai mặt: mặt kỹ thuật của sản xuất và mặt kinh tế - xã hội của sản xuất. Trong lĩnh vực sản xuất của xã hội, do sự phân công lao động xã hội, nền kinh tế chia thành nhiều ngành kinh tế: nông - lâm - ngư nghiệp, công nghiệp, xây dựng, dịch vụ... Nhưng xét trên phương diện tính chất tương tự của công nghệ sản xuất có thể coi là tổng thể của hai ngành: công nghiệp và nông nghiệp, còn các ngành khác có thể là dạng đặc thù của hai ngành này. Việc phân tích đặc điểm của sản xuất công nghiệp chính là xem xét sản xuất công nghiệp khác sản xuất nông nghiệp trên hai phương diện: Mặt kỹ thuật của sản xuất và mặt kinh tế - xã hội của sản xuất như thế nào.
3.1. Đặc điểm về mặt kỹ thuật của sản xuất công nghiệp:
Đặc điểm về mặt công nghệ sản xuất: trong công nghiệp chủ yếu là quá trình tác động trực tiếp bằng phương pháp cơ - lý - hóa của con người làm thay đổi các đối tượng lao động thành các sản phẩm thích ứng với nhu cầu con người, trong khi đó sản xuất nông nghiệp lại bằng phương pháp sinh học là chủ yếu. Trong công nghiệp ngày nay, phương pháp công nghệ sinh học cũng được ứng dụng ngày càng rộng rãi, đặc biệt là công nghệ thực phẩm.
Đặc điểm về sự biến đổi của các đối tượng lao động sau mỗi chu kỳ sản xuất, được thay đổi hoàn toàn về chất từ công dụng cụ thể này đã chuyển sang sản phẩm có công dụng kinh tế hoàn toàn khác. Hoặc một loại nguyên liệu sau quá trình sản xuất có thể tạo ra nhiều loại sản phẩm có công dụng khác nhau. Trong khi đó đối tượng lao động của sản xuất nông nghiệp bao gồm các động vật và thực vật sau quá trình sản xuất chỉ có sự thay đổi về mặt lượng là chủ yếu.
Về công dụng kinh tế của sản phẩm: sản phẩm công nghiệp có khả năng đáp ứng nhiều loại nhu cầu ngày càng cao của xã hội.
Sản xuất công nghiệp là hoạt động sản xuất duy nhất tạo ra các sản phẩm thực hiện chức năng là các tư liệu lao động trong các ngành kinh tế quốc dân. Đặc điểm này cho thấy vị trí chủ đạo của ngành công nghiệp trong nền kinh tế quốc dân là một tất yếu khách quan, xuất phát từ bản chất của quá trình sản xuất đó.
3.2. Đặc điểm kinh tế - xã hội của sản xuất công nghiệp:
Do các đặc điểm về mặt kỹ thuật của sản xuất nêu trên. Trong quá trình phát triển, công nghiệp luôn là ngành có điều kiện phát triển về mặt kỹ thuật, tổ chức sản xuất, lực lượng sản xuất phát triển nhanh ở trình độ cao, nhờ đó mà quan hệ sản xuất có tính tiên tiến hơn sản xuất nông nghiệp.
Do đặc điểm kỹ thuật của sản xuất, trong quá trình sản xuất công nghiệp đã tạo ra được một đội ngũ lao động có tính tổ chức, tính kỷ luật cao, có tác phong "công nghiệp". Đội ngũ lao động trong giai cấp công nhân luôn luôn là bộ phận tiên tiến trongcộng đồng dân cư của mỗi quốc gia, mỗi đất nước.
Cũng do đặc điểm về công nghệ và sự biến đổi của đối tượng lao động, trong công nghiệp có điều kiện và cần thiết phải phân công lao động ngày càng sâu, tạo điều kiện, tiền đề để phát triển nền sản xuất hàng hóa ở trình độ và tính chất cao hơn nông nghiệp.
Nghiên cứu các đặc điểm về mặt kỹ thuật và kinh tế - xã hội của sản xuất công nghiệp cho ta thấy được vị trí vai trò chủ đạo của công nghiệp trong nền kinh tế quốc dân là một tất yếu khách quan xuất phát từ bản chất quá trình sản xuất công nghiệp. Đồng thời nó có ý nghĩa trong việc tổ chức sản xuất, trong việc phát huy vai trò chủ đạo của công nghiệp đối với quá trình tăng trưởng và phát triển kinh tế xã hội của mỗi quốc gia.
II. Vai trò của công nghiệp trong nền kinh tế quốc dân.
1. Vai trò chủ đạo của công nghiệp trong nền kinh tế quốc dân.
Công nghiệp trở thành một ngành sản xuất to lớn và độc lập. Đó chính là kết quả của sự phát triển lực lượng sản xuất và phân công lao động xã hội.
Vai trò lịch sử của công nghiệp trong việc phát triển lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất được nghiên cứu bởi học thuyết Mác-Lênin, V.I.Lênin phân tích những luận điểm của Mác-Ănghen và chứng minh phương hướng phát triển của công nghiệp như là ngành chủ đạo của nền kinh tế quốc dân. Vai trò chủ đạo của công nghiệp trong quá trình phát triển nền kinh tế là một tất yếu khách quan. Tính tất yếu đó xuất phát từ bản chất, những đặc điểm vốn có của công nghiệp.
Trong quá trình phát triển nền kinh tế nước ta theo định hướng xã hội chủ nghĩa, công nghiệp luôn luôn giữ vai trò chủ đạo. Vai trò chủ đạo của công nghiệp được hiểu là: công nghiệp là ngành có sự ảnh hưởng quyết định đến sự phát triển lực lượng sản xuất của các ngành kinh tế quốc dân, đồng thời công nghiệp có khả năng tạo ra những động lực và định hướng phát triển của các ngành khác. Vai trò chủ đạo của công nghiệp được thể hiện ở các mặt chủ yếu sau:
- Công nghiệp là một trong ba bộ phận quyết định sự hình thành cơ cấu kinh tế của một nước.
Tổng sản phẩm xã hội của một quốc gia bao gồm các giá trị sản xuất công nghiệp, nông nghiệp và dịch vụ. Do vậy, công nghiệp là một bộ phận cấu thành cơ cấu: công nghiệp - nông nghiệp - dịch vụ của mỗi quốc gia. Xu hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế hiện nay là tăng tỷ trọng công nghiệp, dịch vụ.
- Công nghiệp không chỉ là ngành tác động trực tiếp đến sự phát triển mà còn tác động gián tiếp đến việc nâng cao chất lượng cuộc sống hàng ngày của con người thông qua việc thúc đẩy các ngành kinh tế khác trong nền kinh tế quốc dân phát triển, mà các ngành này có tác động trực tiếp đến đời sống của con người như: nông nghiệp, dịch vụ, v.v...
Mục tiêu cuối cùng của nền sản xuất xã hội là tạo ra sản phẩm để thỏa mãn nhu cầu ngày càng cao của con người. Trong quá trình đó, công nghiệp là ngành không chỉ khai thác tài nguyên, mà còn tiếp tục chế biến các loại nguyên liệu nguyên thủy được khai thác tài nguyên, mà còn tiếp tục chế biến các loại nguyên thủy được khai thác và sản xuất từ các loại tài nguyên khoáng sản, thành các sản phẩm trung gian để sản xuất ra những sản phẩm cuối cùng nhằm thỏa mãn nhu cầu vật chất và tinh thần của con người. Trong khi đặc điểm của sản xuất nông nghiệp chỉ có thể tạo ra những sản phẩm trung gian để sản xuất ra những sản phẩm cuối cùng nhằm thỏa mãn nhu cầu vật chất và tinh thần của con người. Trong khi đặc điểm của sản xuất nông nghiệp chỉ có thể tạo ra những sản phẩm từ các nguồn tài nguyên động thực vật đáp ứng nhu cầu cơ bản về lương thực, thực phẩm của con người. Nhưng muốn thỏa mãn nhu cầu ngày càng cao của con người đối với lương thực, thực phẩm, chỗ ở, ăn mặc, đi lại học hành, sức khỏe... thì cần phải có sản phẩm của công nghiệp.
- Công nghiệp tác động vào quá trình phát triển của các ngành với tư cách là hình mẫu về sử dụng tư liệu sản xuất tiên tiến, hiện đại, về phương pháp quản lý mới, về ý thức tổ chức, kỷ luật lao động...
Do đặc điểm của sản xuất công nghiệp, công nghiệp có những điều kiện tăng nhanh tốc độ phát triển khoa học - công nghệ, ứng dụng vào các thành tựu khoa học công nghệ đó vào sản xuất, có khả năng và tạo điều kiện sản xuất hoàn thiện hơn. Nhờ đó, lực lượng sản xuất trong công nghiệp phát triển nhanh hơn các ngành kinh tế khác. Do qui luật "Quan hệ sản xuất phải phù hợp với trình độ và tính chất phát triển của lực lượng sản xuất", trong công nghiệp có được hình thức quan hệ sản xuất tiên tiến. Tính tiên tiến về các hình thức quan hệ sản xuất, sự hoàn thiện nhanh về các mô hình tổ chức sản xuất làm cho công nghiệp có khả năng định hướng các ngành kinh tế khác tổ chức sản xuất theo mô hình tổ chức sản xuất công nghiệp.
- Công nghiệp là ngành duy nhất có sản phẩm làm chức năng tư liệu lao động trong các ngành kinh tế khác và là cơ sở tái mở rộng cho toàn bộ nền kinh tế quốc dân, thông qua công nghiệp tạo ra và trang bị cơ sở vật chất kỹ thuật cho tất cả các ngành. Mặt khác, công nghiệp là cơ sở củng cố quốc phòng của đất nước, sản xuất ra các loại phương tiện kỹ thuật quân sự hiện đại.
Cũng do đặc điểm của sản xuất công nghiệp, đặc biệt là đặc điểm về công nghệ sản xuất, đặc điểm về công dụng sản phẩm công nghiệp. Nên công nghiệp có vai trò quyết định trong việc cung cấp yếu tố đầu vào cho các ngành kinh tế khác, để xây dựng cơ sở vật chất, quốc phòng cho toàn bộ nền kinh tế quốc dân.
- Công nghiệp có vai trò quan trọng góp phần vào việc giải quyết những nhiệm vụ có tính chiến lược của nền kinh tế xã hội.
Trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, trình độ trang bị cơ sở vật chất kỹ thuật và trình độ hoàn thiện về tổ chức sản xuất, hình thành một đội ngũ lao động có tính tổ chức. Tính kỷ luật và trình độ trí tuệ cao, cộng với tính đa dạng của hoạt động sản xuất, công nghiệp là một trong những ngành đóng góp phần quan trọng tạo ra thu nhập quốc dân, tích lũy để phát triển kinh tế, tăng xuất nhập khẩu, thúc đẩy hợp tác kinh tế với các nước trên thế giới và là cơ sở cho sự phân công lao động quốc tế... Từ đó, công nghiệp có vai trò quan trọng góp phần vào giải quyết những nhiệm vụ có tính chiến lược của nền kinh tế - xã hội: như phân công hợp lý hơn lực lượng sản xuất, phát triển các vùng kinh tế của đất nước, sử dụng có hiệu quả mọi nguồn tài nguyên, lao động và truyền thống nghề nghiệp của các địa phương, vùng lãnh thổ, xóa bỏ dần sự cách biệt giữa thành thị và nông thôn, giữa miền xuôi và miền núi...
Đặc biệt, trong quá trình phát triển nền kinh tế nước ta hiện nay Đảng có chủ trương "Coi nông nghiệp là mặt trận hàng đầu, giải quyết cơ bản những vấn đề lương thực, thực phẩm, cung cấp nguồn nguyên liệu động thực vật để phát triển công nghiệp và đẩy mạnh xuất khẩu nông sản hàng hóa nhằm tạo ra những điều kiện tiên tiến để thực hiện mục tiêu công nghiệp hóa, hiện đại hóa". Để thực hiện những nhiệm vụ cơ bản đó, vai trò của công nghiệp còn thể hiện ở những mặt sau:
Có sự liên doanh liên kết giữa các xí nghiệp công nghiệp đảm bảo việc xây dựng kết cấu hạ tầng, cơ sở vật chất kỹ thuật, nghiên cứu phổ biến tiến bộ khoa học kỹ thuật, chế biến sản phẩm... cho các đơn vị sản xuất nông nghiệp.
Hình thức liên doanh liên kết giữa các ngành công nghiệp với địa phương về hợp đồng trực tiếp phục vụ cho sản xuất nông nghiệp.
Hình thức kết hợp gián tiếp phổ biến nhất là thông qua trao đổi hàng hóa, dịch vụ phục vụ nông nghiệp và thu mua chế biến nông sản thực phẩm để thúc đẩy phát triển nông sản hàng hóa và xây dựng nông thôn mới ở nước ta do các ngành lưu thông phân phối thực hiện.
Với đặc điểm nước ta hiện nay có 80% dân số sống ở nông thôn và tham gia sản xuất nông nghiệp, việc phát triển công nghiệp đặc biệt là công nghiệp sản xuất ra tư liệu lao động phục vụ cho sản xuất nông nghiệp và công nghiệp chế biến có ý nghĩa rất lớn đối với phát triển nông nghiệp và nông thôn, biểu hiện ở việc công nghiệp góp phần tăng năng suất cây trồng - vật nuôi đồng thời tăng giá trị của sản phẩm nông nghiệp.
Qua sự trình bầy ở những phần trên, ta thấy ngành công nghiệp chế biến có vai trò đặc biệt quan trọng đối với phát triển ngành công nghiệp nói riêng và phát triển kinh tế xã hội nói chung. Nên hiện nay, cơ cấu ngành công nghiệp có xu hướng chuyển dịch là tăng tỷ trọng công nghiệp chế biến.
Thực tiễn phát triển kinh tế xã hội ở nước ta chỉ rõ vai trò chủ đạo của công nghiệp bắt nguồn từ bản chất và đặc điểm ưu việt của nó. Tuy nhiên đối với ngành kinh tế khác phải tổ chức lại sản xuất, nâng cao khả năng tiếp thu vai trò chủ đạo của công nghiệp. Về phía Nhà nước, phải điều hòa phối hợp hoạt động của các ngành, các lĩnh vực kinh tế xã hội theo hướng hỗ trợ sản xuất cho công nghiệp phát huy vai trò chủ đạo.
2. Công nghiệp với tăng trưởng và phát triển kinh tế xã hội.
Công nghiệp được coi là chìa khoá để phát triển kinh tế-xã hội. Vì trình độ phát triển công nghiệp là một tiêu chuẩn đánh giá trình độ phát triển của một quốc gia, một vùng, và thu nhập bình quân đầu người do phát triển công nghiệp là tiêu chuẩn chủ đạo đánh giá trình độ phát triển của một quốc gia, một địa phương. Mặt khác năng xuất lao động cao trong công nghiệp là chìa khoá dẫn đến sự gia tăng thu nhập bình quân đầu người, tăng sức mua, mở rộng thị trường hàng tiêu dùng và dịch vụ. Đặc biệt là sự phát triển của công nghiệp chế biến. Vì vậy đây là ngành tạo ra khả năng thay thế nhập khẩu có hiệu quả và cũng là ngành có khả năng tăng xuất khẩu, giải quyết đầu ra cho sản xuất nông nghiệp, làm tăng giá trị nông sản phẩm.
Công nghiệp càng đóng góp nhiều trong tổng sản phẩm quốc dân là điều kiện để thu nhập theo đầu ngươì tăng cao.
3. Công nghiệp với giải quyết viêc làm.
Công nghiệp là ngành duy nhất tạo ra công cụ lao động, phương tiện sản xuất trang bị kỹ thuật cho các ngành, là cơ sở vật chất cho các ngành tạo ra việc làm.
Mặt khác sự phát triển công nghiệp đòi hỏi phải mở rộng qui mô và số lượng các doanh nghiệp, là tiền đề thu hút thêm lao động vào phục vụ sản xuất công nghiệp.
4. Công nghiệp với thúc đẩy đa dạng hoá các mặt hàng xuất khẩu.
Quá trình phát triển công nghiệp đáp ứng nhu cầu thị trường cái gì thị trường cần thì sẽ sản xuất ra. Do vậy công nghiệp hoá sẽ thúc đẩy thay đổi cơ cấu sản xuất, thúc đẩy quá trình đa dạng hoá mặt hàng, sản xuất ra nhiều mặt hàng mới có chất lượng cao, nâng cao khả năng bảo quản lâu dài các sản phẩm nông nghiệp giúp cho việc tiến hành xuất khẩu thuận tiện. Đối với Việt Nam và Thanh Hoá, công nghiệp không chỉ tăng thu nhập, tăng khối lượng sản phẩm mà còn là phương thức để hiện đại hoá cơ cấu sản xuất, thay đổi tập quán kinh tế xã hội, tập quán tiêu dùng. Trước năm 1975 Thanh Hoá mới chỉ sản xuất được 20 mặt hàng tiêu dùng, 2 mặt hàng cơ khí và vài mặt hàng trung gian. Nhưng từ năm 1990 đến nay, sự phát triển mạnh mẽ của công nghiệp, số lượng các mặt hàng công nghiệp của Thanh Hoá đã tăng lên nhanh chóng, không chỉ đáp ứng nhu cầu tiêu dùng đa dạng trong nước mà còn xuất khẩu, sản xuất được nhiều mặt hàng đòi hỏi công nghệ cao.
Từ thực tế đã chứng minh được phát triển công nghiệp có vai trò lớn trong việc tạo ra sự đa dạng sản phẩm và thúc đẩy xuất khẩu.
5. Công nghiệp với việc làm tăng giá trị mặt hàng của mọi lĩnh vực sản xuất.
Sự phát triển công nghiệp làm tăng giá trị mặt hàng của mọi lĩnh vực sản xuất. Khả năng cạnh tranh của hàng hoá trên thị trường được quyết định bởi trình độ công nghệ. Trình độ công nghệ càng cao, chất lượng hàng càng tốt và giá hạ. Chất lượng và giá cả là hai yếu tố cơ bản để thắng trong cạnh tranh, chiếm lĩnh thị trường.
Như đối với Việt Nam nông , lâm, thuỷ sản là những ngành có thế mạnh, nhưng những năm trước đây sản phẩm này không qua chế biến, xuất khẩu nguyên liệu thô nên khó tiêu thụ, giá trị sản phẩm xuất khẩu thấp. Nhờ có công nghiệp phát triển mà ngày nay nông sản phẩm của Việt Nam ngày càng có giá hơn. Tuy vậy nông sản phẩm nước ta xuất khẩu vẫn hạ hơn so với sản phẩm cùng loại của một số nước mà chủ yếu là do công nghệ, trình độ chế biến chưa bằng họ, chưa có công nghiệp chế biến thích hợp với thị trường thế giới. Từ đây thấy được vai trò phát triển công nghiệp quan trọng như thế nào đối với việc làm tăng chất lượng hàng hoá, quyết định đến hiệu quả sản xuất kinh doanh.
6. Công nghiệp với nâng cao chất lượng cuộc sống.
Phát triển công nghiệp dẫn đến sự thay đổi căn bản chất lượng cuộc sống do phát triển công nghiệp dẫn đến thu nhập theo đầu nguời tăng lên, tỷ lệ học sinh, tỷ lệ thầy thuốc trên 1000 người tăng... làm cho chất lượng cuộc sống tăng lên, nhưng hướng này còn tuỳ thuộc vào sự đứng đắn của cuộc sống và sự khôn khéo của chính phủ mỗi nức. Theo qui luật Kuznet ở giai đoạn đầu của quá trình phát triển công nghiệp làm phân hoá giàu nghèo tăng lên. Nhưng khi kinh tế phát triển cao thì sự phân hoá giàu nghèo giảm dần. Vậy phát triển công nghiệp có vai trò làm cho chất lượng của mọi người trong nền kinh tế đều tăng tạo sự phát triển ổn định.
8. Phát triển công nghiệp là điều kiện cơ bản của công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Có nhiều định nghĩa về công nghiệp hóa, hiện đại hóa do cách tiếp cận khác nhau. Nếu xét về mục tiêu, công nghiệp hóa, hiện đại hóa là quá trình cải biến lao động thủ công lạc hậu thành lao động sử dung kỹ thuật và công nghệ tiên tiến để đạt được năng suất lao động xã hội cao.
Hội nghị giữa nhiệm kỳ Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa VII đã nêu: "Công nghiệp hóa - hiện đại hóa là quá trình chuyển đổi căn bản toàn diện các hoạt động sản xuất kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế xã hội từ sử dụng lao động thủ công là chính sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động, công nghệ, phương tiện và phương pháp tiên tiến, hiện đại dựa trên sự phát triển của công nghiệp và tiến bộ khoa học - công nghệ, tạo ra năng suất lao động xã hội cao".
Như vậy ở nước ta công nghiệp hóa là quá trình chuyển từ một nước sản xuất nhỏ, kỹ thuật lạc hậu và năng suất lao động thấp thành một nước có cơ cấu công nông nghiệp và dịch vụ hiện đại, khoa học và công nghệ tiên tiến, năng suất lao động cao trong các ngành kinh tế quốc dân.
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa là quá trình mang tính tất yếu lịch sử. Tất cả các quốc gia công nghiệp phát triển hiện nay đều trải qua quá trình công nghiệp hóa ở những thời điểm khác nhau với những điều kiện lịch sử kinh tế xã hội khác nhau. Với hầu hết các nước đang phát triển hiện nay, công nghiệp hóa là một chính sách chủ yếu và thách thức lớn.
Đối với Việt Nam thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa là con đường thoát khỏi nguy cơ tụt hậu so với các nước trong khu vực, thoát khỏi cảnh một nước kém phát triển nghèo và đói, đồng thời giữ vững và ổn định chính trị, bảo vệ được độc lập chủ quyền và định hướng xã hội chủ nghĩa.
Chỉ có công nghiệp hóa, hiện đại hóa mới đưa nước ta thoát khỏi nghèo nàn, lạc hậu. Các Mác cho rằng, những thời đại kinh tế khác nhau không phải chúng sản xuất ra cái gì mà ở chỗ chúng sản xuất bằng cách nào. Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa sẽ giúp chúng ta có lực mới đẩy nhanh tốc độ phát triển, đưa Việt Nam lên ngang tầm với các nước trong khu vực và thế giới.
Để thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, trước hết phải có nền công nghiệp hiện đại và việc phát triển công nghiệp phải nhằm tạo ra cơ sở vật chất kỹ thuật cho nền sản xuất xã hội và cho xây dựng cơ cấu kinh tế mới. Do đó, Hội nghị trung ương giữa nhiệm kỳ khóa VII của Đảng Cộng sản Việt Nam đã chỉ ra "Công nghiệp hóa không chỉ đơn giản là tăng tốc đo và tỷ trọng của công nghiệp trong nền kinh tế quốc dân mà là chuyển dịch cơ cấu gắn với đổi mới căn bản về công nghệ, tạo nền tảng cho sự tăng trưởng nhanh, hiệu quả cao và bền vững của toàn bộ nền kinh tế quốc dân.
Điều này được thể hiện, sản xuất công nghiệp phát triển không ngừng thúc đẩy việc hiện đại hóa bản thân nó mà còn góp phần tăng thêm yếu tố vật chất kỹ thuật để thúc đẩy việc cải tạo và phát triển các ngành kinh tế khác theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Theo sự trình bày ở những phần trên cho thấy: phát triển các ngành công nghiệp là nền tảng, là nội dung, là điều kiện cơ bản của công nghiệp hóa, hiện đại hóa, cho nên các biện pháp công nghiệp hóa, hiện đại hóa các ngành công nghiệp phải quán triệt các mục tiêu công nghiệp hóa, hiện đại hóa; phải thực hiện theo yêu cầu của cơ chế thị trường, có sự quản lý vĩ mô của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa; phải đảm bảo tính đồng bộ nhằm thực hiện có hiệu quả các mục tiêu đề ra.
Phát triển công nghiệp phục vụ công nghiệp hóa, hiện đại hóa phải nhằm vào hai mục tiêu:
- Đổi mới công nghệ của phần lớn doanh nghiệp, phát triển nhanh một số ngành có lợi thế, hình thành một số ngành mũi nhọn trong các lĩnh vực chế biến lương thực, thực phẩm, khai thác và chế biến dầu khí, công nghiệp điện tử và công nghệ thông tin, cơ khí chế tạo sản xuất vật liệu.
III. Đánh giá tác động các yếu tố nguồn lực đến phát triển công nghiệp tỉnh Thanh Hóa.
1. Điều kiện tự nhiên.
Tỉnh Thanh Hóa có diện tích tự nhiên 11.106,09 km2, là tỉnh có miền núi, vùng cao biên giới, vùng đồng bằng và biển, xếp thứ 6 về diện tích trong cả nước. Dân số toàn tỉnh 3,52 triệu người, xếp thứ 2 về dân số, có các dân tộc Kinh, Mường, Thái, Tày, Dao, H'Mông... Mật độ dân số vào loại trung bình: 317 người/km2. Về tổ chức hành chính gồm 24 huyện, 1 thành phố cấp 3, 2 thị xã, với tổng số 582 xã, 30 thị trấn, trong đó 220 xã thuộc miền núi. Dân số độ thị chiếm 9,2% dân số toàn tỉnh (1999).
1.1. Vị trí địa lý kinh tế:
Tỉnh Thanh Hóa phía Bắc giáp với ba tỉnh Sơn La, Hòa Bình, Ninh Bình, phía Nam giáp Nghệ An, phía Tây giáp tỉnh Hủa Phăn (nước CHDCND Lào), phía Đông là vịnh Bắc bộ với chiều dài bờ biển 102 km.
Tọa độ địa lý: 19018 - 20000 độ Bắc
104022 - 106004 kinh độ đông.
Chiều rộng từ Tây sang Đông chỗ rộng nhất: 110 km, từ Bắc xuống Nam: 100 km, cách thủ đô Hà Nội 150 km, Đà Nẵng 610 km và thành phố Hồ Chí Minh 1.560 km.
Thanh Hóa nằm ở vị trí cửa ngõ nối liền Bắc bộ với Trung bộ và Nam bộ có một vị trí rất thuận lợi.
- Đường sắt và đường quốc lộ 1A, quốc lộ 10 chạy qua vùng đồng bằng và ven biển của tỉnh, tạo điều kiện thuận lợi cho giao lưu với các tỉnh và thành phố khác trong cả nước.
- Đường chiến lược 15A, đường Hồ Chí Minh xuyên suốt vùng trung du và miền núi của tỉnh và các miền trong cả nước.
- Đường 217 nối liền Thanh Hóa với tỉnh Húa Phăn của nước bạn Lào.
- Hệ thống sông ngòi có 4 hệ thống sông với 5 cửa lạch chính thông ra biển.
- Cảng biển Nghi Sơn cho tàu 10 ngàn tấn ra vào dễ dàng, là cửa ngõ của Thanh Hóa và khu vực thông tin với nước ngoài.
- Sân bay Sao Vàng có khả năng mở rộng kết hợp với dịch vụ dân dụng.
- Do vị trí địa lý, Thanh Hóa là tỉnh nằm trong vùng ảnh hưởng của những tác động từ các khu vực trọng điểm kinh tế phía Bắc, Trung bộ, Nam bộ nên có khả năng tiếp nhận, cung ứng trao đổi hàng hóa và dịch vụ với địa phương khác. Đồng thời có đủ điều kiện để phát triển một nền kinh tế tương đối hoàn chỉnh.
- Đặc biệt, phía Đông tỉnh có dải bờ biển dài 102 km với khu vực Nghị Sơn chứa đựng tiềm năng to lớn về giao lưu quốc tế mà hiện nay tỉnh chưa có điều kiện khai thác nên tác động của phát triển kinh tế thế giới ít có điều kiện trực tiếp đến với Thanh Hóa. Trong thời kỳ tới, khi giao lưu quốc tế được mở ra trực tiếp trên địa bàn Thanh Hóa, đây sẽ là nhân tố mới đột phá làm thay đổi mạnh mẽ cơ cấu kinh tế của tình và của vùng Nam Thanh Bắc Nghệ, trong đó có dịch vụ cảng biển với qui mô lớn.
Đồng bằng sông Mã đứng thứ ba cả nước sau đồng bằng sông Cửu Long và đồng bằng sông Hồng. Nghi Sơn Tĩnh Gia đang hình thành những nhân tố tạo thành lối ra đối với khu vực vừa là một trong những cửa ngõ phía Bắc, Bắc Trung bộ vừa có liên quan đến sự phát triển của hành lang Đông Tây. Đoàn chuyên gia Nhật Bản giúp Việt Nam lập qui hoạch tổng thể phát triển công nghiệp đã nghiên cứu và có đề xuất với Chính phủ Việt Nam nên mở rộng tam giác phía Bắc, lấy Nghi Sơn là một tỉnh phát triển. Khu công nghiệp động lực Nghi Sơn đã được qui hoạch gắn với Quỳnh Lưu (Nghệ An) thành vùng kinh tế động lực Nam Thanh Bắc Nghệ với tính chất khu vực.
1.2. Địa hình:
Thanh Hóa nằm ở độ cao trung bình so với mặt nước biển là 750,5m, nơi cao nhất là đỉnh Phu Pha Phong (Quan Hóa - Bá Thước) dọc dãy Trường Sơn cao 1,587m, nơi thấp nhất là Hà Trung - 1m. Địa hình tương đối phức tạp, thấp dần từ Tây sang Đông và chia làm ba vùng rõ rệt.
Địa hình bị phân cách bởi hệ thống sông Mã, sông Chu, sông Lèn và sông Yên chảy từ Tây sang Đông có độ dốc khá lớn.
1.3. Khí hậu:
Là tỉnh chịu ảnh hưởng của khí hậu nhi._.ệt đới gió mùa. Có hai mùa rõ rệt trong năm. Mùa mưa kéo dài từ tháng 5 đến tháng 10. Mùa khô kéo dài từ tháng 11 đến tháng 4 năm sau. Nhiệt độ trung bình hàng năm từ 200-240C. Lượng mưa phân bố không đều trên lãnh thổ, trung bình hàng năm khoảng 1.500-1.900mm. Gió với tần suất khác nhau xuất hiện theo các hướng phổ biến là gió Đông - Nam, Bắc, Tây Bắc và Tây với tốc độ trung bình 1,8m/s. Tốc độ cực đại có thể đạt 40m/s. Đặc biệt gió Tây khô nóng thường gây bất lợi cho sản xuất và đời sống. Mùa mưa bão thường diễn ra từ tháng 9 đến tháng 10 hàng năm tới tần suất 2-3 cơ bão một năm.
Nhìn chung, khí hậu Thanh Hóa: mưa lớn, nhiệt độ cao, ánh sáng dồi dào là điều kiện thuận lợi phát triển nông, lâm, ngư nghiệp và công nghiệp. Tuy nhiên cần chú ý hiện tượng bão lụt vào mùa mưa và gió nóng vào mùa khô, chủ động điều chỉnh lịch gieo trồng cho thích hợp.
1.4. Tài nguyên đất:
Thanh Hóa có diện tích tự nhiên là 11.160,2 km2 đứng thứ 7 trên 61 tỉnh, thành trong cả nước và chiếm 3,37 tổng diện tích tự nhiên cả nước. Tài nguyên đất có 7 nhóm đất chính và 28 loại đất khác nhau, đủ để phát triển sản xuất nông - lâm - ngư nghiệp và xây dựng cơ bản tương đối toàn diện và phân bổ tương đối đồng đều trên phạm vi toàn tỉnh. Hiện tại mới sử dụng vào sản xuất nông nghiệp được trên 236,740 ha chiếm 21% diện tích tự nhiên. Khả năng mở rộng diện tích đất nông nghiệp còn rất lớn, trong đó đất hoang đồi núi là 65,354 ha, đất hoang đồng bằng 17,657 ha. Diện tích đồi núi trọc cần phủ xanh là 341,610 ha. Mặt nước ngọt và lợ chua được khai thác triệt để là 16,6 ngàn ha.
1.5. Tài nguyên rừng:
Rừng Thanh Hóa chủ yếu là rừng là ruộng, có hệ thực vật phong phú, đa dạng về họ, loài... Gỗ quí hiếm có lạt, pơmu, trầm hương... gỗ nhóm I, II có samu, lim xanh, táu sến... nhóm III, IV có vàng tâm, dổi, de, chò chỉ... Các loại thuộc họ tre, nứa gồm có luồng, nứa, vầu, lùng, giang, bương, tre... Ngoài ra còn có mây, song... dược liệu có quẽ cánh kiến đỏ... Nhìn chung vùng rừng giàu và trung bình còn phân bổ trên các dãy cao ở biên giới Việt - Lào và một số vùng ở Bù Man, Bù Dinh, Bù Kha... nằm ở xa đường giao thông và dân cư, còn lại là các rừng nghèo vì bị khai thác quá mức, cần được cải tạo.
Đáng chú ý là vùng tre, nứa phân bổ ở Như Xuân, Thường Xuân, Lang Chánh, Quan Hóa, là nguồn nguyên liệu giấy, bao bì các tông... cần được khai thác, sử dụng hợp lý. Đây là tài nguyên quí giá của rừng Thanh Hóa mà không nơi nào có được để phát triển công nghiệp giấy trong tương lai.
1.6. Tài nguyên nước:
Thanh hóa có hệ thống sông suối đa dạng, chia ra 4 hệ thống sông chính là sông Mã, sông Bang, sông Yên, sông Hoạt và các hệ thống sông Mã là sông Chu và sông Bưởi có tổng chiều dài 881 km, tổng diện tích lưu vực là 39,756 km2, tổng lượng nước trung bình hàng năm 19,520 tỷ m3. Với trữ lượng nước trên mặt có thể thỏa mãn nhu cầu tưới tiêu cho nông nghiệp và phát triển các vùng công nghiệp, cho sản xuất, cho sản xuất công nghiệp và sinh hoạt của nhân dân.
Hệ thống sông suối Thanh Hóa chảy qua nhiều vùng địa hình phức tạp, chênh lệch về độ cao tạo ra khả năng phát triển thủy điện khá lớn. Riêng sông Mã, trữ năng điện lý thuyết đạt tới 12 tỷ kwh.
Nguồn nước mặt với diện tích mặt sông (gần 4 triệu ha), ao, hồ, dầm lầy (5545 ha) khá lớn có thể khoanh vùng nuôi trồng thuỷ sản nước ngọt.
Tuy nhiên, việc khai thác nguồn nước mặt đang có nhiều khó khăn do nguồn nước phân bố không đều giữa các vùng và mùa trong năm, muốn chế ngự cần đầu tư lớn. Vì vậy việc khai thác đến nay còn hạn chế, đôi khi chính nó lại gây ra nhiều tác hại như lũ lụt, úng...
1.7. Tài nguyên biển:
Thanh Hóa có 102 km bờ biển hình cánh cung, chạy dài từ Cửa Đáy (Ninh Bình) đến Đông Hồi (Tĩnh Gia) và vùng lãnh hải rộng lớn diện tích 1,7 vạn km2 chịu ảnh hưởng chi phối bởi các dòng chảy lưu nóng và lạnh tạo thành các bãi cá, tôm trữ lượng lớn so với các tỉnh phía Bắc.
Vùng biển nằm trong vùng bể trầm tích chứa dầu khí, đã phát triển và thăm dò một số túi khí ngoài khơi có triển vọng khai thác công nghiệp.
Bên cạnh đó, cảng nước sâu Nghi Sơn có vị trí và đặc điểm rất thuận lợi cho phát triển thành một cảng lớn của nước, vì vậy sẽ mở ra triển vọng to lớn về vận tải biển và khai thác tiềm năng biển Thanh Hóa tương lai.
1.8. Khả năng nuôi trồng thủy sản mặt lợ:
Diện tích bãi triều 8.000 ha là một tiềm năng lớn về nuôi trồng thủy sản nước lợ như tôm sú, tôm he, cua và rong câu, trồng cói, trồng cây chắn sóng và sản xuất muối.
Diện tích nước mặt khoảng 10.000 ha phân bổ chủ yếu ở vùng đảo Mê, Biện Sơn có thể nuôi cá song, cá cam, trai ngọc, tôm hùm, hình thức nuôi lồng bè. Triển vọng nuôi nước mặn là rất lớn.
1.9. Tài nguyên khoáng sản:
Khoáng sản Thanh Hóa rất đa dạng, có tới 42 loại và hơn 162 điểm mỏ đã được phát hiện và đánh giá. Trong đó nhiều loại khoáng sản có trữ lượng lớn so với cả nước như khoáng sản để sản xuất vật liệu xây dựng như: đá vôi, đất sét, phụ gia xi măng các loại, nguyên liệu sản xuất vật liệu gạch, vật liệu chịu lửa và gạch Ceramic, đá, cát, sỏi... Năng lực sản xuất xi măng đến 2000 của tỉnh đã đạt 3,2 triệu tấn/ năm đứng đầu cả nước. Ngoài ra còn một số loại khoáng sản khác như: đáng kể nhất là Cromit, quặng sắt làm phụ gia xi măng...
Tuy nhiên, chi có một số loại có thể khai thác, chế biến có hiệu quả, số còn lại do phân bổ không tập trung, trữ lượng hạn chế, chất lượng thấp khó trở thành hàng hóa hấp dẫn.
2. Điều kiện kinh tế - xã hội.
2.1. Tình hình phát triển kinh tế:
Năm 1995 GDP của tình Thanh Hóa đạt 5406,5 tỷ đồng, năm 2000 7681,5 tỷ đồng và đến năm 2001 tăng lên 8307,5 tỷ đồng (giá cố định 1994). Bình quân thời kỳ 1991-1995 đạt 6,7%/ năm và 1996-2000 đạt 7,3%/năm cao hơn so với mức bình quân chung cả nước (6,94%). Riêng năm 2001 đạt mức tăng trưởng 8,15% (tốc độ của cả nước khoảng 7%), trong đó các ngành đều tăng khá và vượt kế hoạch: nông nghiệp tăng 4,1% (KH: 3,3%), lâm nghiệp tăng 8,6% (KH: 5,7%) thủy sản tăng 9,2% (KH: 3,0%), dịch vụ tăng 7,3% (KH: 7,0%) và công nghiệp tăng 17,3%.
Cơ cấu tổng sản phẩm trong tỉnh đã có sự chuyển biến tích cực. Năm 2001 ngành nông - lâm - thủy sản chiếm 38,5% giảm 1,1%; công nghiệp - xây dựng chiếm 27,9% tăng 1,3% và dịch vụ chiếm 33,6% giảm 0,2% so với năm 2000.
Nền kinh tế tăng nhanh và ổn định đã làm tăng nguồn thu ngân sách và tích luỹ nội bộ nền kinh tế tỉnh làm cho việc huy động nguồn lực cho đầu tư phát triển được chú trọng và tăng đáng kể.
2.2. Tình hình thu chi ngân sách:
Thu ngân sách trên địa bàn Thanh Hóa tăng đều so với các năm: năm 1990 tổng thu được 113 tỷ đồng, năm 1995 đạt 512,8 tỷ đồng, đến năm 2000 tăng lên 570,0 tỷ đồng và đến năm 2001 đạt 590,9 tỷ đồng, chiếm tỷ lệ từ 7,5% GDP (năm 1990) đến 8% GDP (1995), 5,9% GDP (2000) và 7,1% GDP (năm 2001).
Nguồn thu chủ yếu là từ kinh tế quốc doanh và doanh nghiệp có vốn nước ngoài, chiếm tới 65%-75% trong đó doanh nghiệp nhà nước trung ương thu gấp 3 đến 4 lần doanh nghiệp nhà nước địa phương. Nguồn thu từ thuế công thương nghiệp từ 10%-12% còn nguồn thu từ sử dụng đất nông nghiệp khoảng 11%-13%. Các ngành công nghiệp, dịch vụ có tỷ lệ nộp ngân sách và tỷ lệ đông viên tài chính trong GDP lớn, còn các ngành khác thấp.
Tổng chi ngân sách bình quân hàng năm thời kỳ 1999-2001 là trên 1000 tỷ đồng. Thu ngân sách mới chỉ đáp ứng 33%-40% nhu cầu chi (năm 2000 là 37,7% và 2001 là 36,8%). Cũng trong thời gian này do tính đầu tư nhiều cho xây dựng cơ sở hạ tầng, nhiều công trình hoàn thành chậm, các chính sách về thu có những thay đổi... nên thu ngân sách thấp, có năm còn giảm, không tăng cùng chiều với phát triển kinh tế. Trong khi đó nhu cầu chi ngân sách địa phương ngày càng tăng, phải nhờ vào ngân sách địa phương ngày càng lớn. Đây là:
2.3. Dân số - nguồn nhân lực.
2.3.1. Dân số:
Dân số Thanh Hóa năm 2000 là 3.561.865 người, là một trong những tỉnh đông dân nhất cả nước (chỉ sau thành phố Hồ Chí Minh) và chiếm tỷ lệ 4,45% về dân số với mật độ dân số là 310,7 người/ km2. Đây là nguồnlực lớn cho phát triển kinh tế xã hội của tỉnh.
Trình độ dân trí của Thanh Hóa khá cao so với cả nước. Theo thống kê đến 12/1997 thì có 12/24 huyện thị được công nhận phổ cập cấp I. Số người được xóa nạn mù chữ đạt 90,2% cao hơn chung cả nước (cả nước mới đạt 87,6%)/
Tỷ lệ tăng tự nhiên gần đây khoảng 14% -1,8% giảm nhiều so với năm 1993 là 2,28% và năm 1991 là 2,39% tuy nhiên vẫn cao hơn mức trung bình trung cả nước 1,6%.
Nhìn chung, Thanh Hóa có cơ cấu dân số trẻ do đó lực lượng lao động khá dồi dào. Số người ở độ tuổi lao động (từ 15-55 tuổi) chiếm > 50% dân số.
2.3.2. Thu nhập, mức sống, tích luỹ và sức mua:
Về thu nhập, theo GDP/ người của Thanh Hóa qua các năm như sau:
Bảng 1: Thu nhập theo đầu người của Thanh Hóa qua các năm.
Chỉ tiêu
1995
1996
1997
1998
1999
2000
2001
GDP/người USD
212
228,7
260,8
288,9
344,8
299
319
(Nguồn:niên giám thống kê 1996-2000 và2001)
Nếu so với mức trung bình chung cả nước mới chỉ bằng khoảng 2/3, là một khoảng cách lớn của Thanh Hóa so với cả nước.
Về mức sống: Vì phần lớn lao động dựa vào sản xuất nông nghiệp chiếm trên 90% số dân nên Thanh Hoá vẫn là tỉnh nghèo. Mức sông bình quân giữa các khu vực thanh thị và vung núi có khoảng cách chênh lệch khá lớn. Năm 1996 toàn tỉnh có 176 451 hộ đói nghèo, chiếm tỉ lệ 23,77% so với tổng số hộ. Thực hiện chương trình xoá đói giảm nghèo đến cuối năm 2000, tỉ lệ đói nghèo giảm xuống còn14%, tuy nhiên nếu theo chuẩn mới thì số hộ đói nghèo chiếm tới 29,45% số hộ, trong đó 7,56% hộ đói.Về nhà ở thì năm 1993 có 24,89% hộ sống trong các nhà ở tạm. Đến năm 2000 còn 15%, tuy nhiên như vậy vẫn là cao.
Về tích luỹ:theo điều tra thì tỉ lệ tích luỹ trong thu nhập rất thấp.Tích luỹ khác hiện chủ yếu dưới hai dạng:đất đai và tiết kiệm (tiền và các tài sản quý).
Về đât đai:nhà nước đã chủ trương giao đất giao rừng lâu dài cho dân.Trong quá trình sử dụng, một phần đã được trao đổi, mua bán, một phần chuyển đổi mục đích sử dụng tạo nên giá trị tài sản rất lớn trong dân chưa đánh giá hết được.
Về tiết kiệm: số dư tiết kiệm trong toàn tỉnh năm 2001 vào khoảng 1500 tỉ đồng. Các tài sản quý khác như vàng, bạc, đá quý, vật có giá trị khác trong dân hiện chưa có thống kê đầy đủ, sông theo đánh giá của các chuyên gia là rất lớn.
Ngoài ra, tích luỹ từ dân còn nằm dưới dạng các đầu tư vào sản xuất, mua cổ phiếu, cổ phần...tuy không chiến tỉ trọng lớn nhưng cùng với sự tăng trưởng sản xuất thì đây sẽ là một tài sản không nhỏ.
Về sức mua:Là tỉnh có cơ cấu nông nghiệp chiếm tỉ trọng lớn và do giá nông sản thấp nên thu nhập từ nông nghiệp không cao và khó có thể tăng nhanh được. Đồng thời do mẫu mã, chất lượng hàng nội địa kém, giá thành cao. Vì vậy mà sức tiêu thụ các sản phẩmcông nghiệp hàng năm của Thanh Hoá còn ở mức khiêm tốn.
2.3. Cơ sở hạ tầng có thể khai thác phục vụ sản xuất công nghiệp.
2.3.1. Giao thông:
* Về đường bộ hiện Thanh Hóa có 6 con đường quốc lộ qua là đường quốc lộ 1A, 15A, 217, 10, 47 và 45 tổng chiều dài
Mạng lưới đường giao thông nông thôn bao gồm đường ô tô và đường dành cho xe thô sơ với tổng chiều dài là 796 km và 2.146 km đường liên xã. Đường nông thôn phần lớn là đường cấp phối và đường đất, các công trình trên tuyến đều là công trình tạm thời, chất lượng còn xấu, mùa mưa giao thông thường bị gián đoạn ảnh hưởng đến phục vụ sản xuất và phát triển kinh tế.
Về tải trọng, chỉ có quốc lộ 1A, quốc lộ 47 và một số đoạn vừa được nâng cấp như Bỉm Sơn - Phổ Cát - Cầu Hổ - Nghi Sơn, các tuyến đường vùng nguyên liệu mía, đường trong thành phố Thanh Hóa và một số thị trấn như Bỉm Sơn, Sầm Sơn là đạt tiêu chuẩn đường cấp III đồng bằng có tải trọng đạt H30, X80 còn lại đều là đường cấp IV, cấp V với tải trọng hạn chế H13, X60, còn có một số tuyến phải qua phà.
Tuy vậy vận tải đường bộ Thanh Hóa hiện chiếm tới 70% khối lượng vận tải hàng hóa trong tỉnh vì vậy có vai trò hết sức quan trọng. Tuy chất lượng còn nhiều hạn chế nhưng hệ thống đường bộ đã liên kết được các vùng trong tỉnh (hiện nay 100% số xã đã có đường ô tô đến trung tâm xã), với các vùng trong cả nước và với các nước lân cận. Trong thời gian tới hệ thống đường bộ cần phải được cải thiện hơn nữa để đáp ứng với yêu cầu của phát triển.
Đặc biệt một dự án lớn đã chính thức khởi công xây dựng vào tháng 4/2000 là đường Hồ Chí Minh, cắt qua miền Tây Thanh Hóa sẽ tạo cơ hội lớn cho phát triển vùng tiềm năng chưa được khai phá của tỉnh.
* Về đường sông thì toàn tỉnh có 30 con sông lớn nhỏ được phân thành: hệ thống sông Mã, sông Yên, sông Chu với tổng chiều dài 1.768 km. Đã đưa vào khai thác và quản lý được 360 km đạt 20,36% (trong tổng 1.117 km).
Đường sông đóng vai trò hết sức quan trọng trong vận tải nguyên liệu cho sản xuất công nghiệp, đặc biệt cho công nghiệp giấy mà không thể có phương tiện nào có thể thay thế được.
Theo qui hoạch phát triển của ngành gia công vận tải đến 2010, sẽ xây dựng tuyến đường sắt nối cảng Nghi Sơn với tuyến Hà Nội - Lào Cai tại ga Bạch Hạc, khi đó luồng hàng sẽ có sự thay đổi, đặc biệt là tỷ trọng trong vận tải đường sắt và trong hệ thống vận tải nói chung sẽ tăng lên đáng kể.
* Về đường biển, toàn tỉnh Thanh Hóa có 102 km bờ biển và 5 cưa lạch thông ra biển. Một cảng pha sông biển tại Lê Môn, tàu 1.500 tấn có thể ra vào cảng. Do thiếu đầu tư nên hiện nay, nhất là nạo vét luồng lạch trong những năm gần đây đã hạn chế nhiều việc khai thác tiềm năng của cảng Thanh Hóa.
Hiện nay, cảng nước sâu Nghi Sơn hiện đang được xây dựng phục vụ cho nhà máy xi măng Nghi Sơn, đón tàu 10.000 ra vào sẽ được mở rộng thành cảng thương mại tổng hợp, cảng phục vụ dầu khí.
* Về đường không, hiện tại Thanh Hóa chỉ có một sân bay quân sự Sao Vàng. Trong tương lai sân bay trên có thể cải tạo để phục vụ cả mục đích dân sự.
2.3.2. Điện:
Thời kỳ 1996-2000 lưới điện toàn tỉnh được tăng cường gồm: xây dựng mới 42 km đường dây 110 KV, 378 km - 35 KV, 383 km đường dây 6-10 KV và 850 km - 0,4 KV. Bổ sung cho trạm 220 KV Ba Chè thêm một máy 125.000 KVA, nâng cấp bổ sung năng lực cho các trạm 110 KV Núi I: 2 máy (40.000 + 16.000 KVA), trạm 110 KV Hà Trung 1 máy 25.000 KVA, xây dựng thêm 2 trạm 110 KV: trạm kiểu (25000 KVA) và trạm Nghi Sơn (40.000 KVA). Xây dựng thêm 2 trạm trung gian với tổng dung lượng 25.000 KVA, tăng cường thêm 432 trạm phụ tải (tổng dung lượng gần 80.000 KVA).
Như vậy đến hết năm 2000 toàn tỉnh có 3.384 km đường diện cao áp từ 6-220 KV; 7427 km đường dây 0,4 KV. Năng lực các trạm biến áp gồm: 1 trạm 220 KV (250000 KVA); 40 trạm 35 KV/10-6 KV (110.000 KVA); 1523 trạm phụ tải (340.000 KVA). Cung cấp cho toàn tỉnh 770 KW/h điện ổn định cho sản xuất, sinh hoạt của nhân dân với chất lượng ngày càng nâng cao. Bình quân tiêu thụ 189 KWh/người bằng 76% định mức các tỉnh phía Bắc, so với 1996 tăng 34%. Đến cuối năm 2000, toàn tỉnh đã có điện để 27/27 huyện thị; 468/582 xã đạt 80,5% số xã có điện với quốc gia, 78% số hộ dùng điện.
Từ năm 2000 xây dựng thêm các trạm 110 KV Nông Cống, trạm 180 KV Lạch Bang... Đến năm 2010 phấn đấu trên 90% xã có điện lưới quốc gia, sẽ còn lại do không thể đưa điện lưới đến sử dụng nguồn năng lượng khác. Đồng thời chuẩn bị xây dựng thêm 2 nhà máy phát định tại Thanh Hóa là thủy điện cửa Đạt và nhiệt điện Nghi Sơn chắc chắn sẽ đáp ứng đủ nhu cầu điện năng cho phát triển công nghiệp tính trong tương lai.
2.3.3. Bưu chính viễn thông:
Mạng lưới bưu chính viễn thông được hiện đại hóa và mở rộng nhanh chóng. Thanh Hóa hiện có 28 bưu điện trung tâm và 80 bưu điện huyện và 100 km đường cáp quang điện thoại có khả năng phát nhận thông tin nhanh chóng với khối lượng lớn đến các nơi trong nước và quốc tế. Về số lượng, Thanh Hóa hiện có 30715 máy điện thoại, tăng 4,34 lần so với 1995, đạt bình quân 65,5 máy/ 1 vạn dân. Toàn tỉnh có 30 trạm viễn thông thu phát lớn nhỏ đủ thỏa mãn nhu cầu sản xuất và sinh hoạt.
Phần II
Thực trạng phát triển công nghiệp
tỉnh Thanh Hóa
I. Thực trạng phát triển công nghiệp trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa từ năm 1991 đến nay.
1. Tổng quan về vị trí của công nghiệp:
Đầu những năm 1990, sau khi chuyển đổi sang cơ chế mới, sản xuất công nghiệp gặp rất nhiều khó khăn. Cơ sở sản xuất vừa ít vừa nghèo nàn, máy móc thiết bị cũ kỹ, lạc hậu, giá trị tài sản quá ít ỏi, vốn sản xuất thiếu, nguyên liệu không ổn định và thiếu, cơ sở hạ tầng không đủ để giao lưu và tiếp cận với bên ngoài. Sau khi sắp xếp tổ chức lại các doanh nghiệp, tăng cường đầu tư đổi mới lại thiết bị máy móc với công nghệ hiện đại, tiên tiến. Đến nay công nghiệp Thanh Hóa đã đi vào thế ổn định và có những bước phát triển liên tục rõ nét.
Trong 5 năm qua đã xây dựng được một số cơ sở sản xuất công nghiệp quan trọng có qui mô lớn và công nghệ tiên tiến như: Nhà máy xi măng Nghi Sơn công suất 2,3 triệu tấn/ năm, Nhà máy mía đường Việt - Đài công suất 6.000 tấn mía/ ngày, Nhà máy mía đường Nông Cống công suất 2500 tấn mía/ ngày, Nhà máy nước dừa cô đặc công suất 5000 tấn/ ngày nâng cấp một số nhà máy lớn như xi măng Bỉm Sơn, mía đường Lam Sơn; giấy Mục Sơn... và hàng chục nhà máy mới với công nghệ tiên tiến hiện đại.
Tính đến năm 2001 toàn tỉnh có 53.451 cơ sở sản xuất công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp, trong đó:
+ Công nghiệp khai thác mỏ 5219 cơ sở.
+ Công nghiệp chế biến 48231 cơ sở.
+ Công nghiệp điện nước 1 cơ sở.
2.Sự đóng góp của ngành công nghiệp trong cơ cấu tỉnh
Sự phát triển của công nghiệp đã góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế sản xuất ra các mặt hàng đáp ứng đầy đủ nhu cầu trong tỉnh và cả nước góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế trên địa bàn tỉnh theo hướng giảm tỷ trọng nông nghiệp, tăng tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ, đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa và chuyển đổi nền kinh tế sang nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần. Tỉ trọng công nghiệp trong nền kinh tế tăng liên tục qua các năm, tuy nhiên tốc độ tăng còn chậm. Năm 1995 công nghiệp chiếm 13,9% đến 2001 công nghiệp chỉ tăng được thêm 5%, điều này chưa tương xứng với tiềm năng của tỉnh. Mặc dù tỷ trọng công nghiệp chưa cao nhưng tác động của công nghiệp đến nền kinh tế nói chung và các ngành nghề nói riêng ngày càng có vị trí quan trọng trong việc quyết định những bước đi tiếp theo của nền kinh tế.
Bảng 2 : Cơ cấu kinh tế tỉnh Thanh Hóa qua các năm
Đơn vị tính: %/ năm
Năm
Tổng số
Nông- lâm- ngư nghiệp
Công nghiệp-Xây dựng
Dịch vụ
Công nghiệp
Xây dựng
1991
1995
1996
1997
1998
1999
2000
2001
100,0
100,0
100,0
100,0
100,0
100,0
100,0
100,0
49,3
46,0
44,1
43,3
42,0
42,5
39,6
38,5
14,6
13,9
14,3
14,3
13,4
13,6
17,3
18,9
4,9
6,3
7,6
8,2
10,0
9,6
9,3
9,0
31,2
33,8
34,0
34,2
34,6
34,3
33,8
33,6
(Nguồn:niên giám thống kê 1996-2000 và2001)
Nhìn tổng thể ta thấy một số ngành trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa có thể mạnh về nguyên liệu dồi dào như công nghiệp chế biến thực phẩm, đồ uống và công nghiệp vật liệu xây dựng do đó luôn được ưu tiên phát triển. Bên cạnh đó công nghiệp Thanh Hóa còn hạn chế về cơ sở hạ tầng cũng như về vốn, lao động... nên việc phát triển công nghiệp chưa tương xứng hết với tiềm năng của tỉnh.
3. Tốc độ tăng trưởng công nghiệp.
Cho đến nay, công nghiệp Thanh Hóa đã có những bước phát triển ổn định tạo ra những hướng phát triển mới. Tốc độ tăng trưởng bình quân thời kỳ 1991-1995 là 8,1% đến giai đoạn 1996-2000 là 15,8%/ năm. Riêng năm 2000 công nghiệp Thanh Hóa đã đạt mức tăng trưởng đột biến là 60% và năm 2001 là 14,5%. Giá trị sản xuất trên địa bàn năm 2000 đạt 3797,616 tỷ đồng và năm 2001 là 4530,58 tỷ đồng (giá cố định 1999). Tốc độ tăng trưởng bình quân của công nghiệp Thanh Hóa qua các thời kỳ so với cả nước như sau:
Bảng 3: Tăng trưởng công nghiệp bình quân của Thanh Hóa và cả nước.
Đơn vị tính: %/ năm
1991-2000
1991-1995
1995-2000
Tăng trưởng công nghiệp BQ
+ Việt Nam
+ Thanh Hóa
14
11,9
14,65
8,1
13,6
15,8
(Nguồn:Sở kế hoạch đầu tư tỉnh Thanh Hoá)
Sự lớn mạnh không ngừng của công nghiệp đã đưa Thanh Hóa từ một tỉnh chủ yếu là nông nghiệp trở thành một trong một tỉnh, thành phố của cả nước có giá trị sản xuất công nghiệp đạt trên 2000 tỷ đồng (Thanh Hóa đạt 3797,616 tỷ đồng năm 2000 (đứng thứ 8/61 tỉnh thành phố), chiếm trên 60% tổng nộp ngân sách toàn tỉnh, giải quyết công ăn việc làm cho trên 10 vạn lao động).
Trong giai đoạn 1991-1995, công nghiệp Thanh Hóa tăng chậm hơn so với cả nước, do vậy mà bình quân của cả thời kỳ 1991-2000 cũng chậm hơn so với mức bình quân chung cả nước, mặc dù giai đoạn 1996-2000 giá trị sản xuất công nghiệp tăng khá cao, vượt mức tăng trưởng chung của cả nước. Sự tăng trưởng cao của công nghiệp là do sự xuất hiện và phát triển nhanh chóng của khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (tốc độ tăng trưởng của khu vực này là khoảng trên 300%/ năm) và do tỉnh có nhiều công trình lớn sau khi hoàn thành đã đi vào hoạt động góp phần tạo nên một bước nhảy vọt cho công nghiệp Thanh Hóa làm cho xuất phát điểm năm 2000 và 2001 được cải thiện mạnh mẽ.
Bảng4: Giá trị sản xuất công nghiệp trên địa bàn Thanh Hóa qua các năm (giá cố định 1994).
Đơn vị tính: tỷ đồng.
Chỉ tiêu
1996
1997
1998
1999
2000
GTSX
% so 1995
GTSX
% so 1996
GTSX
% so 1997
GTSX
% so 1998
GTSX
% so 1999
GTSXCN
1. CNTƯ
2. CNĐP
- Quốc doanh
- Ngoài QD
3. KVĐTNN
1929,36
1302,84
620,1
253,58
366,5
6,41
6,47
24,3
-18,8
-40
7,9
-
2080,89
1326,0
699,8
292,7
407,1
55,0
7,86
1,8
12,8
15,4
11,2
859,0
2251,6
1375,1
825,1
391,1
434,0
123,4
8,2
3,6
18,0
33,6
6,6
124
2360,2
1382,08
811,34
340,98
470,37
166,75
4,8
0,5
-0,02
-0,13
8,4
0,35
3797,6
1329,26
1715,24
372,65
1342,59
753,102
60,9
-3,8
111,4
9,2
185,43
351,6
(Nguồn:niên giám thống kê 1996-2000 và2001)
4.Tiềm lực phát triển của ngành công nghiệp Thanh Hoá
4.1. Tình hình nguồn nhân lực phục vụ trong công nghiệp.
Đến nay ngành công nghiệp Thanh Hóa đã thu hút lực lượng lao động đáng kể, tới 121761 người tăng 13,1% so 1995 bằng 14190 người chiếm tới 2,5% lao động cả nước, trong đó khối doanh nghiệp nhà nước chiếm 11,8%, khối ngoài quốc doanh chiếm 87,4% còn lại là khu vực có vốn đầu tư nước ngoài. Sự tăng giảm lao động trong các thành phần kinh tế qua các năm tương ứng với sự tăng giảm số lượng doanh nghiệp.
Bảng5: Lao động công nghiệp trên địa bàn Thanh Hóa
(đơn vị: người).
1996
1997
1998
1999
2000
2001
Tổng số:
106199
108788
93955
108065
107344
121761
* Phân theo sở hữu
- Kinh tế trong nước
106068
107791
93600
107665
106316
120892
+ Nhà nước
14453
15411
15305
16211
12983
14403
Trung ương
6298
6870
7049
8024
5836
8483
Địa phương
8155
8541
8256
8187
7147
5920
+ Tập thể
1830
237
414
383
495
708
Tư nhân
353
448
418
510
802
1508
Cá thể
89076
91518
77281
89406
87377
99236
Hỗn hợp
356
177
182
1155
4695
5037
- Kinh tế có vốn NN
131
997
355
400
1028
869
* Phân theo ngành
+ Công nghiệp khai thác
16177
13577
11932
14769
13730
14995
+ Chế biến
89793
94960
81755
93031
93350
106461
+ Điện nước
229
251
258
265
264
305
(Nguồn:niên giám thống kê 1996-2000 và2001)
Xét về cơ cấu trình độ thì:
+ Đại học, cao đẳng chiếm 2,02% tổng số lao động công nghiệp.
+ Trung cấp chiếm 3,06% tổng số lao động công nghiệp.
+ Công nhân có tay nghề chiếm 94,92% tổng số công nhân.
Theo kinh nghiệm của các chuyên gia kinh tế, cơ cấu trình độ tương đối hợp lý cho công nghiệp hóa là 1/4/10 hay 1/5/20 đối với các nước đang phát triển trong khi đó tỷ lệ ĐH-CĐ/ trung cấp/ công nhân của Thanh Hóa là 1/1,5/47. Điều này chứng tỏ cơ cấu trình độ lao động của Thanh Hóa còn bất hợp lý.
Đội ngũ công nhân kỹ thuật của ngành công nghiệp nhìn chung có trình độ văn hóa, sức khoẻ tốt, trẻ tuổi và năng động. Song, thiếu kiến thức, nền nếp và kỷ luật làm việc trong một nền sản xuất công nghiệp hiện đại, chưa được đào tạo để có đủ kiến thức tiếp thu kỹ thuật, công nghệ mới. Trình độ bình quân bậc thợ là 3-3.5, trong đó tỷ lệ đội ngũ công nhân bậc cao (bậc 5 trở lên) còn thấp (chiếm 8,55 tổng số công nhân toàn ngành), song việc đào tạo tại các trường lớp chính quy còn rất ít, chủ yếu là đào tạo tại nơi làm việc và như vậy chất lượng của công nhân kỹ thuật còn thấp. Do vậy với đội ngũ công nhân kỹ thuật hiện nay, nếu không được chú ý đào tạo sẽ khó có thể hội nhập với cơ chế thị trường và khó có khả năng vận hành công nghệ sản xuất tiên tiến, hiện đại. Để đáp ứng nhu cầu lao động cho phát triển kinh tế, tính Thanh Hóa sẽ phải tiếp tục mở rộng qui mô, nâng cao chất lượng đào tạo.
Về đội ngũ cán bộ quản lý, nhìn chung thì có trình độ khá so với mức bình quân chung của các nước. Song để thực hiện sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước thì đội ngũ cán bộ quản lý, cán bộ khoa học kỹ thuật của tỉnh chưa đủ điều kiện cần thiết để thích ứng với thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có sự quản lý của Nhà nước. Cán bộ quản lý, cán bộ nghiệp vụ chưa được đào tạo một cách chính qui và cơ bản, kiến thức về cơ chế thị trường còn yếu, trình độ ngoại ngữ, tin học còn kém. Do vậy thiếu tầm nhìn chiến lược, thiếu năng động trong cơ chế thị trường. Việc sử dụng và bố trí cán bộ quản lý còn nhiều bất cập, do vậy hạn chế việc phát huy năng lực của họ.
Sự phát triển công nghiệp trong những năm tới đòi hỏi tỉnh Thanh hóa phải có một sự chuẩn bị tốt về nguồn lực trong đó sự chuẩn bị nguồn nhân lực hợp lý là rất cần thiết. Nguồn nhân lực đó phải đủ về số lượng tốt về chất lượng và phải có một cơ cấu hợp lý về ngành nghề, trình độ, độ tuổi...
4.2. Trình độ thiết bị và công nghệ sản xuất công nghiệp.
Công nghiệp Thanh Hóa đã có bề dày lịch sử của 40 năm tồn tại và phát triển. Có ngành ra đời rất sớm, lại có ngành mới phát triển. Trong đó có ngành thường xuyên được đầu tư đổi mới thiết bị, máy móc, công nghệ song có ngành thì máy móc, thiết bị quá cũ, chậm được đổi mới, trang bị lại.
Nếu xét về số lượng thì phần lớn các doanh nghiệp trang bị thiết bị máy móc cũ, lạc hậu, chậm được đầu tư đổi mới, qui mô doanh nghiệp nhỏ. Hiện nay chỉ có 18,8% doanh nghiệp có trình độ tiên tiến, 57,7% trình độ công nghệ trung bình và 23,5% trình độ công nghệ lạc hậu. Một số ngành như công nghiệp cơ khí, công nghiệp giầy, công nghiệp phân bón... là những ngành công nghiệp được hình thành rất sớm, máy móc thiết bị lạc hậu và công nghệ lạc hậu, năng suất lao động thấp. Mức độ tự động hóa ở trình độ thấp, chủ yếu là cơ khí, bán cơ khí và thủ công. Tuổi thọ trung bình của thiết bị thấp (khoảng 18-20 năm) và giá trị hao mòn chiếm khá cao (khoảng 35%-40%), biểu hiện ra là độ chính xác và năng suất thiết bị thấp. Hệ thống thiết bị, công nghệ xử lý môi trường không được đầu tư đúng mức do đó làm ảnh hưởng đến môi trường xung quanh.
Chỉ có một số ngành thuộc ngành chế biến như công nghiệp mía đường công nghiệp bia và nước giải khát; ngành sản xuất vật liệu xây dựng (công nghiệp xi măng); công nghiệp may... là những ngành mới ra đời hay do yêu cầu của thị trường nên thường xuyên đổi mới công nghệ nên công nghệ của chúng so với công nghệ cùng loại của cả nước vào mức độ trung bình. Có ngành công nghệ sản xuất rất tiên tiến như xi măng Nghi Sơn, mía đường Lam Sơn (đã được cấp chứng nhận ISO 9000).
Tóm lại, công nghệ và trang bị sản xuất của các doanh nghiệp nhà nước (đặc biệt là các doanh nghiệp quốc doanh trung ương ở mức độ trung bình và khá cao so với các ngành công nghiệp cùng loại của cả nước). Song trình độ của các doanh nghiệp địa phương còn thấp, lạc hậu và do vậy chưa chú ý đến bảo vệ môi trường sinh thái, ảnh hưởng đến môi trường sống của người dân.
4.3.Thị trường tiêu thụ, khả năng cạnh tranh.
Thanh Hóa là một tỉnh có nhiều sản phẩm công nghiệp rất đặc trưng, những sản phẩm này đã khẳng định được vị trí của mình về chất lượng trên thị trường trong và ngoài nước như: đường, xi măng, giấy các loại, gạch, đá xây dựng, đá ốp lát, phân bón.
Bên cạnh những sản phẩm đó, Thanh Hóa còn có một số loại sản phẩm có khả năng cạnh tranh cao như xecmăngtin, cromit, phu gia xi măng, đất xét, đá vôi có chất lượng cao làm nguyên liệu hóa học, nước mắm, dưa chuột, cà chua, cốt ép. Tuynhiên những sản phẩm này chiếm lĩnh được thị trường trong nước và đã xuất khẩu được ra thị trường nước ngoài chủ yếu là do uy tín từ trước hay do độc quyền về nguyên liệu, sản xuất.
Bên cạnh đấy, các sản phẩm xuất khẩu chủ yếu là của các doanh nghiệp nhà nước trung ương và khu vực có vốn đầu tư nước ngoài do có công nghệ tiên tiến, chất lượng cao, còn các doanh nghiệp của địa phương hầu như chỉ nhằm phục vụ thị trường nội tỉnh và khả năng cạnh tranh với các sản phẩm cùng loại trên thị trường trong tỉnh rất khó khăn do giá trị thấp,
Mặc dù đã có sản phẩm xuất khẩu nhưng thị trường tiêu thụ của Thanh Hóa rất nhỏ bé bởi vì do quan hệ thương mại của Thanh Hóa còn rất hạn chế, trong thời gian tới, đòi hỏi tỉnh phải có những biện pháp nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh sản phẩm và mở rộng thị trường, có như vậy công nghiệp Thanh Hóa mới phát triển được.
4.4.Sản phẩm chủ yếu, sản phẩm chủ lực, sản phẩm xuất khẩu
Công nghiệp Thanh Hoá hiện sản xuất khoảng 42 sản phẩm chủ yếu các loại, trong đó một số loại có sản lượng cao, chất lượng tốt, và đã trở thành sản phẩm đặc trưng của Thanh Hoá và chiếm một vị trí quan trọng trên thị trường trong nước như: xi măng, đường, thuốc lá, phân bón, giấy, vật liệu xây dựng, thực phẩm đông lạnh...có loại mới sản xuất nhưng đã có nhiều khách hàng ưa chuộng như bao bì PP, phụ gia xi măng các loại...
Điểm yếu hiện nay là cơ cấu sản phẩm chưa hoàn chỉnh. Nhiều sản phẩm là vật tư sản xuất, quy trình sản xuất sử dụng nguyên liệu tại chỗ, hàng tiêu dùng trực tiếp...chưa nhiều, nhất là hàng công nghiệp nhẹ; thiếu sản phẩm công nghiệp hiện đại; một số ngành mới sản xuất dưới hình thức gia công, nhất là ngành may, da giầy...
Trong sự phát triển của công nghiệp nói chung, Thanh Hoá đã có được những ngành sản phẩm chủ lực, trên cơ sở đó tạo đà cho sự phát triển của các ngành công nghiệp khác trên địa bàn tỉnh. Những sản phẩm này đã thực sự giữ một vị trí quan trọng, tạo điều kiện cho sự ra đời và phát triển của các ngành công nghiệp sản xuất các sản phẩm phù trợ khác, cho việc ứng dụng các tiến bộ khoa học, kỹ thuật vào sản xuất. Đó chính là những sản phẩm như xi măng, đường, thuốc lá...
Mặc dù Thanh Hoá đã tìm ra cho mình n._.
Xây dựng tại đây 2 liên hiệp.
- Liên hiệp giấy bao bì, bao bì giấy, bao bì gỗ, bao bì cót, chế biến gỗ luồng, ván ép phôi bào...
- Liên hiệp mía, đường, rượu, cồn, thức ăn gia súc và phân bón vi sinh.
- Năm 2000 có GTSX chiếm 13% công nghiệp toàn tỉnh, năm 2005 chiếm 8%, năm 2010 chiếm khoảng 5%
Trong vùng còn có ngành công nghiệp dịch vụ hàng không phục vụ cho sân bay Sao Vàng.
2.4.4. Khu công nghiệp tập trung Nghi Sơn - Tĩnh Gia
o KCN Nghi sơn: Thuộc huyện Tĩnh gia, nằm về phía nam tỉnh, giáp với tỉnh Nghệ An.
- Diện tích: Tổng số 1.400ha, trong đó KCN tập trung 110ha, còn lại dành cho các dự án ngoài KCN và dịch vụ cảng và du lịch, dịch vụ khác. Gắn với đồ thị Nghi Sơn (loại III năm 2010).
- Ngành nghề chủ đạo: Công nghiệp nặng: VLXD, công nghiệp chế tạo, luyện kim, hóa chất, đóng cửa tàu thuyền. Công nghiệp khác cơ chế biến thủy hải sản, may mặc, dệt vải, kéo sợi...
Năm 2000 có GTSX chiếm 13% công nghiệp toàn tỉnh, năm 2005 chiếm 24%, năm 2010 chiếm khoảng 18%. (Chưa tính sản phẩm lọc dầu và hóa dầu).
Đối với các tụ điểm công nghiệp (khu công nghiệp phân tán), sẽ bố trí tương đối tập trung tại các thị trấn, thị tứ và phân tán đều khắp các huyện nhằm thu hút chủ yếu CN NQD, công nghiệp nhỏ, làng nghề, dịch vụ công nghiệp... Mỗi KCN loại này có diện tích khoảng 2-20ha, nhà nước chỉ cần dành quỹ đất và có chính sách khuyến khích, xây dựng cơ sở hạ tầng cơ bản đến khu vực KCN. Việc đầu tư xây dựng cơ sở sản xuất do các chủ doanh nghiệp thực hiện.
Các tụ điểm công nghiệp tuy có GTSX không đáng kể so với công nghiệp toàn tỉnh, nhưng đóng vai trò quan trọng, là các điểm có sản xuất công nghiệp và dịch vụ công nghiệp (chủ yếu là công nghiệp nhỏ, TTCN) tại các địa bàn xa trung tâm công nghiệp, ngoài ra còn bổ sung năng lực sản xuất và làm vệ tinh cho các KCN tập trung, giải quyết khó khăn về đất đai nhà xưởng của các doanh nghiệp nhỏ, doanh nghiệp NQD..., nhất là các tụ điểm công nghiệp tại các huyện miền núi, vùng sâu, vùng xa.
Các "cụm công nghiệp" tạo ra các "Cực tăng trưởng" của công nghiệp Thanh Hóa, mỗi cực bao gồm các KCN làm hạt nhân kèm theo các nhà máy lớn, các tụ điểm công nghiệp trên các địa phương lân cận. Tổng GTSX các cụm công nghiệp này chiếm khoảng 78% công nghiệp toàn tỉnh năm 2000, chiếm 98% năm 2005 và 97% năm 2010. Có 4 "cụm công nghiệp" - (4 "cực tăng trưởng") là:
ơ Cụm trung tâm (gồm KCN Lễ Môn, Đình Hương, Tây Ga, các N/M khác trong TP. ThanhHóa và các huyện ven thành phố). GTSX chiếm khoảng 13% GTSX công nghiệp toàn tỉnh năm 2000, 23% năm 2005, 28% năm 2010.
ơ Cụm phía Bắc (KCN Bỉm Sơn, Vân Du và các N/M, tụ điểm công nghiệp lân cận). GTSX chiếm khoảng 36% GTSX công nghiệp toàn tỉnh năm 2000, 33% năm 2005, 35% năm 2010.
đ Cụm phía Nam (KCN Nghi Sơn và các N/M, tụ điểm công nghiệp xung quanh). GTSX chiếm khoảng 14% GTSX công nghiệp toàn tỉnh năm 2000; 29% năm 2005; 21% năm 2010. (Chưa tính sản phẩm chế biến dầu mỏ).
ư Cụm phía Tây (KCN Mục Sơn và cá N/M, tụ điểm lân cận). GTSX chiếm khoảng 15% GTSX công nghiệp toàn tỉnh năm 2000; 13% năm 2005; 13% năm 2010.
Sự hình thành các "cụm công nghiệp", các tụ điểm công nghiệp nhỏ lẻ khác gắn liền với sự hình thành và phát triển đô thị các loại tại các địa phương trong tỉnh và là nhân tố động lực hàng đầu tác động đến kinh tế - xã hội các vùng xung quanh theo phạm vi bán kính ảnh hưởng tương ứng với quy mô của hoạt động sản xuất công nghiệp; ngoài việc thu hút lao động công nghiệp trực tiếp, các cụm này còn giải quyết việc làm cho lao động nông nghiệp, lao động dịch vụ... thông qua việc hình thành mối liên kết chặt chẽ giữa các nhà máy sản xuất công nghiệp với các vùng cung cấp nguyên liệu nông - lâm - ngư nghiệp.
Đến năm 2010 dự kiến sẽ phát triển tổng số 93 KCN và tụ điểm công nghiệp, trong đó có 7 KCN và 86 tụ điểm công nghiệp . Tổng diện tích đất sản xuất công nghiệp khoảng 3.022 ha, trong đó cho các KCN 2.185 ha, các tụ điểm công nghiệp 837 ha. Trong quá trình lập quy hoạch chi tiết, các huyện có thể bố trí thêm tụ điểm công nghiệp theo đặc điểm và yêu cầu riêng:
Theo quan điểm mới, các tụ điểm công nghiệp không nhất thiết phải cắt riêng quỹ đất và chờ đầu tư mà chỉ cần có quy hoạch đất ở vị trí thích hợp cho các chủ đầu tư tự thực hiện xây dựng. Nhà nước đảm bảo cơ sở hạ tầng (điện, nước, đường sá). Tại các KCN cần dành sẵn đất và xây dựng cơ sở hạ tầng ban đầu tốt để gọi đầu tư dễ dàng hơn.
Đặc biệt có nhiều KCN, tụ điểm công nghiệp tại các điểm biên giới với các tỉnh bạn và nước ngoài là đô thị thương mại - công nghiệp đầu mối quan trọng, là cửa khẩu của Thanh Hóa trong giao lưu hàng hóa trong nước và thương mại quốc tế (gồm: Lễ Môn, Bỉm Sơn, Nghi Sơn, Điền Hộ, Phố Cát, Na Mèo, Bát Mọt, Phú Thanh, Tén Tần, Bãi Trành).
Các chuỗi "cụm công nghiệp" và "Tụ điểm công nghiệp" phân bố dọc các tuyến giao thông tạo nên các "tuyến lực công nghiệp" có vai trò kết nối các cực tăng trưởng, các vùng trong tỉnh và với thị trường trong nước, nước ngoài. Gồm 3 tuyến lực cấp I (tuyến có phạm vi đến ngoài tỉnh, ngoài nước) là:
1. Tuyến dọc quốc lộ 1A nối 3 cụm công nghiệp trung tâm, phía Bắc và phía Nam.
2. Tuyến dọc đường Hồ Chí Minh gồm cụm công nghiệp phía Tây và các tụ điểm công nghiệp phân bố dọc đường Hồ Chí Minh.
3. Tuyến bám theo đường quốc lộ 47 và đường quốc tế 217 nối liền thị trường Lào với Thanh Hóa.
Các tuyến lực cấp II nối các vùng kinh tế trong tỉnh với nhau và với các tuyến cấp I theo các trục tỉnh lộ và sông Mã, sông Chu. Có thể hình thành tiếp các tuyến lực cấp II liên huyện, liên các khu vực nhỏ với nhau.
Chiến lược phát triển theo "cực tăng trưởng" là sự lựa chọn phù hợp với đặc điểm địa lý kinh tế tỉnh Thanh Hóa, tiềm lực kinh tế nói chung và công nghiệp nói riêng tập hợp theo 2 hướng Bắc - Nam và Đông - Tây.
II. Những giải pháp chủ yếu phát triển công nghiệp trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa.
1. Giải pháp huy động và phân phối vốn đầu tư.
Để tạo nên sự chuyển biến về chất trong phát triển công nghiệp Thanh Hóa trong những năm tới. Nhu cầu về đầu tư sẽ gia tăng với tốc độ cao. Hơn nữa, bên cạnh việc tiếp tục phát triển theo chiều rộng, việc phát triển theo chiều sâu sẽ ngày được chú trọng theo yêu cầu của tiến bộ khoa học - công nghệ và nâng cao khả năng cạnh tranh để hội nhập có hiệu quả và đời sống kinh tế của khu vực và thế giới. Vì vậy mà làm cho hệ số ICOR của kinh tế sẽ cao hơn kỳ trước. Xuất phát từ quan điểm đó có thể xác định tổng vốn đầu tư cho công nghiệp trên địa bàn tỉnh là 20.680 tỷ đồng. Và để phát huy công nghiệp theo những mục tiêu đã nêu trên đòi hỏi phải giải quyết đồng thời ba vấn đề: Huy động; phân phối và sử dụng.
Nhằm tạo điều kiện cho công nghiệp trên địa bàn tỉnh phát triển nhanh có hiệu quả và bền vững, trong việc xác định chủ trương đầu tư không chỉ chú trọng đầu tư trực tiếp vào công nghiệp mà cần chú ý thỏa đáng đến đầu tư vào các mục tiêu phục vụ cho phát triển công nghiệp. Đây là vấn đề mang tính quan điểm chi phối chính sách huy động và phân phối vốn đầu tư. Đồng thời việc huy động vốn đầu tư phải gắn liền với chính sách phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần. Tập trung phát triển các lĩnh vực, các ngành giữ vai trò then chốt, trọng yếu với sự phát triển của toàn bộ nền kinh tế quốc dân, khuyến khích phát triển các thành phần kinh tế trên địa bàn tỉnh và gắn với các mục tiêu của tỉnh trong mỗi thời kỳ phát triển.
- Về nguồn vốn từ ngân sách trung ương và nguồn vốn ODA.
Đây là nguồn vốn giữ vị trí đặc biệt quan trọng trong phát triển công nghiệp trên địa bàn tỉnh. Đối với nguồn vốn này tính trên phân bổ cho các mục tiêu sau đây:
+ Đầu tư phát triển, cải tạo và nâng cấp hệ thống kết cấu hạ tầng từ nay tới 2010, tập trung đầu tư cải tạo và nâng cấp mạng điện cao thế tới các địa bàn phát triển công nghiệp tập trung, xây dựng cảng nước sâu Nghi Sơn, hệ thống đường bộ nên các huyện trung du miền núi, hệ thống thủy lợi cho các vùng trồng cây công nghiệp tập trung.
+ Đầu tư xây dựng hoàn chỉnh hạ tầng cơ sở cho khu công nghiệp Bỉm Sơn, Thạch Thành, TP. Thanh Hóa - Sầm Sơn, Tỉnh Gia - Nghi Sơn làm cơ sở thu hút đầu tư từ bên ngoài vào phát triển công nghiệp.
+ Đầu tư vào các công trình lớn công nghiệp lớn mang tính chất trọng điểm quốc gia (công nghiệp dệt may, da - giầy, giấy - bột giấy, VLXD...).
- Về nguồn vốn từ ngân sách địa phương.
Nguồn vốn này cũng cần được tập trung cho việc nâng cấp, cải tạo và phát triển kết cấu hạ tầng. Một phần khác được giành để hỗ trợ cho doanh nghiệp nhà nước thực hiện đầu tư đổi mới công nghệ thông qua quỹ tín dụng ưu đãi hỗ trợ.
- Về nguồn vốn khác.
+ Thứ nhất nên mạnh dạn thúc đẩy tiến trình cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước không thuộc lĩnh vực then chốt trọng yếu trên địa bàn tỉnh sẽ tạo nên nguồn vốn quan trọng đẻ phát triển công nghiệp. Nhà nước sử dụng vốn từ cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước để tập trung đầu tư vào các doanh nghiệp thuộc lĩnh vực then chốt trọng điểm, tạo điều kiện cho chúng phát huy vai trò kinh tế nhà nước trong việc giải quyết các vấn đề kinh tế - xã hội trên địa bàn tỉnh, đồng thời huy động vốn từ các cá thể nhân và pháp nhân trong và ngoài tỉnh, kể cả nguồn vốn ngoài nước vào phát triển công nghiệp.
+ Bằng các chính sách thông thoáng và nhất quán, các thủ tục hành chính đơn giản, sự tuyên truyền sâu rộng và thiết thực, khuyến khích phát triển mạnh mẽ những người có khả năng kinh doanh mạnh dạn bỏ vốn đầu tư và phát triển công nghiệp dưới những hình thức khác nhau. Đầu tư vào lĩnh vực này sẽ được khuyến khích mạnh mẽ hơn là đầu tư vào các lĩnh vực thương mại và dịch vụ.
+ Chú trọng thêm việc thu hút các nguồn vốn từ địa phương khác vào phát triển công nghiệp trên địa bàn tỉnh. Bởi vì nếu chỉ dựa vào nguồn lực của mình và của ngân sách nhà nước hỗ trợ thì không thể phát triển được công nghiệp để khai thác tiềm năng của mình. Việc tranh thủ các nguồn đầu tư từ các địa phương khác, trước hết từ Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh, cần được coi là tất yếu. Ngoài đảm bảo những điều kiện về cơ chế, chính sách, việc lựa chọn hình thức liên kết kinh tế để thu hút đầu tư có vị trí quan trọng.
+ Tranh thủ đến mức tối đa việc thu hút các nguồn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào phát triển công nghiệp trên địa bàn tỉnh. Theo kinh nghiệm của một số địa phương (như Đồng Nai, Bình Dương) cho thấy rằng nếu có chính sách và điều kiện cụ thể thỏa đáng, có thể thu hút mạnh mẽ đầu tư trực tiếp nước ngoài. Việc xây dựng các dự án có tính khả thi cao, việc cải tạo và phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng, đội ngũ lao động được đào tạo tốt và những thủ tục hành chính giảm, thuận lợi là những điều kiện quan trọng cần làm để thu hút nguồn này.
Tóm lại, để thu hút mạnh mẽ các nguồn đầu tư đa dạng và ngày càng lớn cho phát triển công nghiệp trên địa bàn tỉnh, cần chú trọng một số giải pháp sau:
+ Tiếp tục nghiên cứu tạo môi trường đầu tư thông thoáng và ổn định cho phát triển kinh tế - xã hội, trong đó có phát triển công nghiệp trên địa bàn tỉnh.
+ Coi việc cải tạo, nâng cấp và phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng là một trong những trọng điểm đầu tư từ nguồn vốn của ngân sách nhà nước, địa phương và có sự tham gia tích cực của các thành phần kinh tế.
+ Trên cơ sở khung pháp lý chung của nhà nước, chủ động tạo nên những ưu đãi tạo động lực thu hút các nguồn đầu tư trong và ngoài nước vào phát triển công nghiệp.
+ Cơ quan xúc tiến đầu tư nhằm xúc tiến, kêu gọi và tư vấn đầu tư phát triển kinh tế xã hội trong đó có phát triển công nghiệp.
2. Giải pháp về thị trường.
Để phát triển công nghiệp trên địa bàn tình có thể thực hiện có hiệu quả trong điều kiện cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước, thị trường cho phát triển công nghiệp được coi là một trong những giải pháp quan trọng.
Thị trường cho phát triển công nghiệp được xem xét trên hai mặt: thị trường các yếu tố sản xuất, trước hết là thị trường các loại nguyên vật liệu cần thiết cho sản xuất và thị trường tiêu thụ hàng hóa.
2.1. Thị trường nguyên vật liệu cho sản xuất công nghiệp.
Bảo đảm nguyên liệu cho sản xuất là một trong những điều kiện thiết yếu cho sản xuất công nghiệp có hiệu quả. Vì vậy những giải pháp chủ yếu bảo đảm phát triển thị trường nguyên liệu cho công nghiệp cần thực hiện là:
- Đẩy mạnh phát triển nông - lâm - thủy sản theo hướng tập trung chuyên canh, tăng tỷ trọng nông sản hàng hóa.
Trong việc phát triển các loại nguyên liệu này cần chú ý đồng thời cả ba mặt: đầu tư thỏa đáng cho phát triển vùng nguyên liệu theo yêu cầu sản xuất lớn; phân bố các cơ sở chế biến công nghiệp gần các vùng nguyên liệu tập trung, tổ chức tốt quan hệ liên kết chặt chẽ giữa những người sản xuất nguyên liệu nông, lâm, hải sản và các cơ sở chế biến nguyên liệu này.
- Đẩy mạnh phát triển các ngành khai thác khoáng sản cho các ngành chế biến nguyên liệu tương ứng. Đầu tư phát triển khai thác đá vôi, đất sét cho sản xuất vật liệu xây dựng. Đẩy mạnh khai thác một số loại khoáng sản có trữ lượng lớn và giá trị kinh tế cao như serpentine, cromit, khí đốt, than bùn... vừa phục vụ công nghiệp trong tỉnh vừa phục vụ xuất khẩu và nhu cầu ở địa phương khác.
- Chú trọng đầu tư phát triển các cụm công nghiệp liên hoàn để sử dụng tổng hợp nguyên liệu, như cụm công nghiệp mía đường - giấy - cồn công nghiệp - thức ăn gia súc hoặc chế biến rau quả - thịt - thức ăn gia súc.
2.2. Đẩy mạnh tìm kiếm, khai thác và mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm của các ngành công nghiệp.
Thị trường này sẽ được xem xét ở những phạm vi và góc độ khác nhau.
* Thị trường nội tỉnh.
Với dân số trên 3,5 triệu người và là một tỉnh đang trên đà công nghiệp hóa, hiện đại hóa, Thanh Hóa là một thị trường tiềm năng rộng lớn cho phát triển công nghiệp. Thị trường này lại được chia ra.
+ Thị trường tư liệu sản xuất cho nông, lâm, ngư nghiệp trên địa bàn tỉnh.
+ Thị trường tư liệu sản xuất nội bộ công nghiệp.
+ Thị trường hàng tiêu dùng của dân cư.
* Thị trường nội địa quốc gia; trước hết là các tỉnh Nam Bắc Bộ và Bắc trung Bộ.
* Thị trường xuất khẩu hàng hóa sang các nước trong khu vực và thế giới.
Hai loại thị trường này, về nguyên tắc có dung lượng lớn và yêu cầu ngày càng cao tạo khả năng rộng rãi cho công nghiệp trên địa bàn phát triển.
Điều hết sức quan trọng là phải có giải pháp chính sách có hiệu quả để thâm nhập và mở rộng phần thị trường cho công nghiệp tỉnh. Những giải pháp quan trọng nhất cần chú trọng là:
- Tăng khả năng cạnh tranh của hàng hóa trên các phương diện chất lượng, mẫu mã, giá cả, phương thức phục vụ khách hàng. Đây là giải pháp cơ bản hàng đầu. Để thực hiện được giải pháp này đòi hỏi các doanh nghiệp phải chú trọng việc lựa chọn thị trường để hoạch định chính sách sản phẩm thích hợp, đầu tư đổi mới công nghệ, nâng cao trình độ chuyên môn cho người lao động.
- Khuyến khích các doanh nghiệp mở rộng liên kết trong việc tổ chức tiêu thụ hàng hóa: liên kết giữa các doanh nghiệp công nghiệp với nhau, giữa doanh nghiệp công nghiệp với nông nghiệp, thương mại, liên kết giữa doanh nghiệp công nghiệp địa bàn với các tổ chức kinh tế của các địa phương khác,...
- Đẩy mạnh các hình thức xúc tiến thương mại trên địa bàn tỉnh: thông tin, giới thiệu sản phẩm công nghiệp tỉnh, tổ chức hội chợ - triển lãm hàng công nghiệp trên địa bàn tỉnh, lựa chọn để tham gia có hiệu quả các hội chợ - triển lãm ở các địa phương khác và quốc tế.
- Tổ chức các đoàn doanh nhận trên địa bàn tỉnh khảo sát thị trường và giới thiệu sản phẩm công nghiệp của tỉnh với thị trường nước ngoài.
3. Giải pháp phát triển nguồn nhân lực.
Là một địa phương có lợi thế về nguồn nhân lực: Nhân lực dồi dào, trình độ dân trí cao, có truyền thống lịch sử và văn hóa lâu đời... Song bên cạnh những lợi thế đó, lao động Thanh Hóa về cơ bản chưa đáp ứng được yêu cầu của công nghiệp hóa, hiện đại hóa: Tỷ lệ lao động giản đơn cao, lao động được đào tạo có hệ thống, có kỹ năng lao động sáng tạo còn chiếm tỷ lệ thấp. Hơn nữa, sức ép về lao động và dân số gây nên áp lực mạnh với đời sống kinh tế - xã hội tỉnh.
Để phát triển công nghiệp một cách hiệu quả, thu hút mạnh mẽ các nguồn đầu tư vào phát triển công nghiệp. Đội ngũ lao động cho phát triển công nghiệp của tỉnh trong những năm tới cần phải đáp ứng được các yêu cầu cơ bản sau đây:
Có trình độ chuyên môn thành thạo, có khả năng tiếp thu và làm chủ các loại công nghệ với những trình độ khác nhau trang bị ở các doanh nghiệp; có khả năng sáng tạo trong việc thực hành các công việc được phân công.
Có ý thức, phương pháp và tác phong lao động theo yêu cầu của nền công nghiệp hiện đại.
Có cơ cấu hợp lý trên cả hai phương diện: cơ cấu nghề nghiệp và cơ cấu trình độ.
Bảo đảm sự gắn bó giữa đào tạo nhân lực và thị trường lao động.
Để đáp ứng được những yêu cầu cơ bản đó, cần chú trọng những giải pháp sau đây:
Thứ nhất, điều chỉnh cơ cấu đào tạo theo hướng chú trọng đào tạo đội ngũ công nhân kỹ thuật có trình độ chuyên môn cao, đặc biệt là các ngành nghề mới sẽ phát triển như công nghệ thông tin. Bảo đảm cung ứng đủ đội ngũ công nhân kỹ thuật có chất lượng cao. Để thực hiện được điều này, một mặt phải tạo nên sự thay đổi nhận thức của người lao động về các cấp bậc đào tạo; mặt khác, cần thực hiện đa dạng các hình thức đào tạo công nhân kỹ thuật; củng cố và nâng cao chất lượng các trường dạy nghề hiện có; gửi lao động đi đào tạo tại các trường dạy nghề ở các địa phương khác, kể cả ở nước ngoài; sử dụng hình thức xuất khẩu lao động như một cách đào tạo nghề cho người lao động trong thời gian tới;mở rộng liên kết giữa các doanh nghiệp, các huyện, thị xã , và các trừng trong việc đào tạo nguồn nhân lực, trước mắt là đào tạo công nhân kỹ thuật.
Thứ hai, chú trọng việc đào tạo, đào tạo lại đội ngũ cán bộ khoa học kỹ thuật và cán bộ quản lý. Mục tiêu là cung cấp cho họ những tri thức mới thuộc các lĩnh vực đã được đào tạo trước đây, nâng cao khả năng thích ứng với sự phát triển của khoa học và công nghệ va yêu cầu công việc.
Thứ ba, tổ chức các lớp ngắn hạn về quản trị kinh doanh trong đó đề cập tới các vấn đề về tìm hiểu các cơ hội kinh doanh, khởi sự doanh nghiệp vừa và nhỏ quản trị kinh doanh trong cơ chế thị trường... Thu hút rộng rãi mọi người tham gia, coi đó là cách trang bị kiến thức cơ bản cho những người có khả năng và có ý tưởng thực hiện kinh doanh công nghiệp và dịch vụ.
Thứ tư, thu hút đội ngũ lao động có trình độ cao, gồm cả cán bộ khoa học kỹ thuật, cán bộ quản lý và công nhân kỹ thuật, quê hương Thanh Hóa và từ nơi khác, kể cả Việt kiều ở nước ngoài, về ThanhHóa góp phần cùng nhân dân Thanh Hóa xây dựng và phát triển kinh tế - xã hội tỉnh. Sự đóng góp này có thể được thực hiện bằng nhiều cách khác nhau:trực tiếp làm việc tại các cơ quan nguiên cức,cơ quan quản lí hoặc các doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh Thanh Hoá; tham mưu, tư vấn cho các cơ quan lãnh đạo và quản lí của tỉnh, cho các doanh nghiệp công nghiệp trên địa bànvề xây dựng vàphát triển cong nghiệp, về giải quyết các vấn đề kinh tế và kỹ thuật liên quan đến sản xuất- kinh doanh cong nghiệp; giới thiệu cô hội đầu tư phát triển công nghiệp Thanh Hoá; trực tiếp đầu tư hoặc góp phần đầu tư phát triển công nghiệp bằng tiền vốn, tài sản, sáng chế phát minh, quyền sở hữu công nghiệp...
Để thu hút được chất xám từ các nơi vào phát triển công nghiệp Thanh Hóa, cần thực hiện tốt 3 giải pháp quan trọng hàng đầu là:
1). Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giới thiệu tiềm năng và cơ hội đầu tư vào phát triển công nghiệp Thanh Hóa.
2).Có chế độ đãi ngộ thỏa đáng, tạo động lực thu hút lao động có trình độ cao với Thanh Hóa, thậm chí có thể có những biệt đãi với một số chuyên gia hàng đầu.
3). Hằng năm tổ chức các buổi gặp gỡ với tri thức, các nhà kinh doanh và các chuyên gia người Thanh Hóa đang làm việc tại địa phương khác và ở nước ngoài để tranh thủ ý kiến của họ về định hướng phát triển và cá giải pháp phát triển công nghiệp tên địa bàn tỉnh Thanh Hóa.
Thứ năm, cùng với việc đẩy mạnh công tác đào tạo và đào tạo lại lực lượng lao động, cần tiếp tục đổi mới mạnh mẽ và cơ bản hơn việc tuyển dụng, bố trí, sử dụng và đánh giá lao động thích ứng với từng đơn vị theo hướng tiêu chuẩn hóa lao động.
Cần phải lưu ý rằng:
Trong nền kinh tếthị trường mở cửa và hội nhập người ta quan tâm chủ yếu đếnchất lượng lao động chú không phải là khai thác số lượng lao động. Nếu người lao động không biết nghề thì bản thâ họ rất khó tìm việc làm, nhương toàn bộ nền kinh tếcũng khó phát triển được. Mhững thiếu hụt trong nhân tố con người sẽ là trở ngại lớn nhất trên con đừng đi tới mục tiêu đề ra. Nhân tố con người càng quan trọng bao nhiêu thì sự yếu kém trong nhân tố con người lại càng gây hâụ quả tiêu cực bấy nhiêu. Đặc biệt coc người ấy lại là cán bộ lãnh đạo, cán bộ quản lý. Nếu không sớm khắc phục được sự yếu kém đó thì nền kinh tế nói chung và công nghiệp Thanh Hoá nói riêng chỉ phát triển rầm rộ lúc ban đầu, còn sau đó mọi nguồn lực sẽ tuột khỏi tai và nền kinh tế của tỉnhkhông tránh khỏi rơi vào tình trạng trì trệ và khủng hoảng. Nhung việc bù dắp những thiếu hụt về nhân tố con người không thể ngày nột ngày hai là làm được. Xây dựng một doanh nghiêp, một nhà máy có thể chỉ một vài năm, thậm chí chỉ mấy tháng, nhưng có được những con người lãnh đạo, quản lí, điều hành và lao động giỏi trong doanh nghiệp và nhà máy đó thì phải mất hàng chục năm và nhũng ddiều này chỉ có thể thực hiện được thông qua đào tạo, đào tạo lại và bồi dưỡng thừng xuyên cho cán bộ lãnh đạo, cán bộ quản lý. Và việc này đã được nhiều nước coi là công tác trọng tâm hàng đầu. Viêt Nam cũng đang được coi trọng.
4. Giải pháp về khoa học và công nghệ, bảo vệ môi trường.
Trong điều kiện ngày nay, khoa học - công nghệ và môi trường là những vấn đề hàng đầu của phát triển công nghiệp theo hướng hiện đại hóa. Với việc phát triển công nghiệp trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa, những vấn đề này cần được quán triệt nghiêm túc nhưng phải phù hợp với điều kiện cụ thể của tỉnh, nơi mà trình độ phát triển công nghiệp chưa cao. Đây là vấn đề phức tạp, cần có cách nhìn nhận và giải quyết vấn đề hợp lý và thực tế, kết hợp giữa điều kiện và khả năng trong ngắn hạn với yêu cầu phát triển bền vững và có hiệu quả trong dài hạn.
Những vấn đề cơ bản cần phải giải quyết trong quá trình xây dựng và phát triển công nghiệp của Thanh Hóa là:
Thứ nhất: Xác định định hướng lựa chọn công nghệ thích hợp. Công nghệ được lựa chọn phải đảm bảo:
- Tạo khả năng cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường mục tiêu của từng doanh nghiệp.
- Phù hợp với khả năng quản lý và sử dụng để đem lại hiệu quả cao nhất.
- Phù hợp với khả năng bảo đảm vốn của mỗi chủ đầu tư.
Thứ hai: Chú trọng các giải pháp về khoa học và công nghệ nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường nội địa và thị trường quốc tế. Theo đó những việc quan trọng nhất cần làm là:
- Đổi mới từng bước và có trọng điểm trang bị công nghệ của các doanh nghiệp, thay dần thiết bị công nghệ lạc hậu bằng những thiết bị công nghệ có trình độ và năng suất cao hơn.
- Đổi mới công tác quản lý chất lượng ở các doanh nghiệp công nghiệp.
- Chú trọng việc nghiên cứu đổi mới và phát triển sản phẩm, bảo đảm các doanh nghiệp bám sát nhu cầu thị trường và đưa ra thị trường những sản phẩm thích ứng nhất với thị hiếu của khách hàng.
- Tăng cường công tác đào tạo và bồi dưỡng lao động, bảo đảm các doanh nghiệp có đội ngũ lao động có năng lực làm chủ công nghệ được trang bị có ý thức lao động tốt và có khả năng sáng tạo, hoàn thiện và cải tiến công nghệ hiện có.
Thứ ba là đẩy mạnh công tác thông tin và phổ biến khoa học - công nghệ trong quá trình phát triển công nghiệp và quá trình sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp công nghiệp trên địa bàn tỉnh. Coi đây là giải pháp quan trọng tiết kiệm chi phí cho khoa học - công nghệ và ứng dụng nhanh những thành tựu khoa học - công nghệ mới vào sản xuất công nghiệp tỉnh.
Thứ tư là chú trọng kết hợp việc phát triển công nghiệp với việc bảo đảm môi trường sinh thái. Đây là yêu cầu của phát triển công nghiệp theo quan niệm hiện đại hóa mà việc phát triển công nghiệp Thanh Hóa phải tuân thủ. Sự kết hợp này được đảm bảo bằng các giải pháp chủ yếu sau:
- Khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư trang bị các công nghệ sạch và các thiết bị xử lý chất thải công nghiệp. Giành tính dụng ưu đãi cho mục tiêu này.
- Chú trọng việc xây dựng và phát triển các khu và tiểu khu công nghiệp trong đó bố trí các doanh nghiệp phối hợp với nhau đầu tư xử lý các chất thải khí, rắn, lỏng và có khả năng sử dụng phế liệu, phế phẩm của nhau như liên hiệp chế biến mía đường - giấy - thức ăn gia súc và phân bón vi sinh.
- Trong mỗi doanh nghiệp bố trí lại mặt bằng sản xuất, tạo không gian xanh bằng cách đầu tư cho việc xây dựng vườn hoa, trồng cây xanh.
- Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra và xử lý tình trạng doanh nghiệp gây ô nhiễm môi trường ảnh hưởng đến sức khỏe dân cư và sản xuất kinh doanh của các ngành khác.
5. Các chính sách lớn để phát triển công nghiệp Thanh Hóa.
5.1. Chính sách phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần trong công nghiệp Thanh Hóa.
Cơ cấu công nghiệp của tỉnh là một cơ cấu đa thành phần kinh tế, trong đó mỗi thành phần có vai trò và vị trí riêng và giữa các thành phần kinh tế có quan hệ tương hỗ với nhau. Các chính sách khuyến khích cần thực hiện để hình thành cơ cấu công nghiệp nhiều thành phần và nâng cao hiệu quả đó là:
1. Phát huy vai trò của doanh nghiệp nhà nước trong công nghiệp thuộc lĩnh vực then chốt, trọng yếu bằng thúc đẩy quá trình đổi mới công nghệ, quản lý, nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh.
2. Đẩy nhanh quá trình sắp xếp lại các doanh nghiệp nhà nước còn lại, đa dạng hóa sở hữu của chúng bằng các hình thức cổ phần hóa, bán, khoán, cho thuê. Qua đó thực hiện việc tham gia đầu tư của các thể nhân và pháp nhân vào các doanh nghiệp nhà nước này.
3. Xây dựng các dự án đầu tư, kêu gọi sự đóng góp vốn của nhiều thành phần kinh tế, hình thành một cách phổ biến loại hình công ty cổ phần.
4. Khuyến khích các chủ đầu tư tư nhân đầu tư mạnh mẽ vào công nghiệp bằng những chính sách ưu đãi về sử dụng mặt bằng, tín dụng, thuế và cam kết về mặt pháp lý việc bảo hộ quyền sở hữu hợp pháp của các chủ đầu tư tư nhân.
5. Hỗ trợ các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế về thông tin, về đào tạo nhân lực và vè thị trường xí nghiệp hàng hóa.
6. Thực hiện ưu đãi đầu tư để thu hút rộng rãi các nhà đầu tư nước ngoài vào phát triển công nghiệp tỉnh. Cho phép họ quyền lựa chọn hình thức đầu tư thích hợp.
7. Thực hiện các chính sách ưu đãi theo mục tiêu và lĩnh vực kinh doanh, xóa bỏ sự phân biệt đối xử giữa các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế. Đảm bảo bình đẳng, giữa các doanh nghiệp.
5.2. Chính sách đất đai cho phát triển công nghiệp.
- Công bố công khai quy hoạch sử dụng đất đai tạo cơ sở cho các nhà đầu tư yên tâm đầu tư phát triển công nghiệp lâu dài.
- Có chính sách đền bù và giải tỏa mặt bằng hợp lý cho phát triển công nghiệp ở địa điểm có liên quan đến dân cư địa phương.
- Thực hiện chính sách giá cho thuê đất ưu đãi với các nhà đầu tư trong và ngoài nước đầu tư vào công nghiệp, đặc biệt là các dự án đầu tư vào các ngành khuyến khích phát triển.
- Ưu tiên đầu tư phát triển các khu công nghiệp động lực và có các chính sách khuyến khích đầu tư vào các khu công nghiệp động lực của tỉnh.
- Kiến nghị với nhà nước cho phép hình thành thị trường chính thức về chuyển nhượng quyền sử dụng đất đai và bất động sản cho phát triển công nghiệp.
5.3. Chính sách khuyến khích phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong công nghiệp.
Phát triển loại hình doanh nghiệp này tạo điều kiện huy động các nguồn lực nhỏ và phân tán trong dân cư, tạo thêm nhiều việc làm, phù hợp với khả năng quản lý. Cần coi đây là hướng quan trọng phát triển công nghiệp tỉnh. Tuy nhiên loại hình này có những yếu thế trong cạnh tranh nên cần có chính sách khuyến khích và hỗ trợ chúng trong sản xuất kinh doanh: các vấn đề cần quan tâm là:
- Cung cấp kiến thức kinh doanh cơ bản cho các chủ đầu tư vừa và nhỏ, đơn giản hóa các thủ tục đăng ký kinh doanh.
- Cung cấp thông tin kinh tế - xã hội cho các chủ doanh nghiệp vừa và nhỏ để họ lựa chọn cơ hội kinh doanh phù hợp và đưa ra các quyết sách kinh doanh đúng đắn, giảm rủi ro.
- Bảo đảm chính sách tín dụng và chính sách thuế ưu đãi về thuế thu nhập doanh nghiệp trong suốt thời gian hoạt động.
- Khuyến khích và trợ giúp mở rộng quan hệ liên kết giữa các doanh nghiệp vừa và nhỏ, tăng cường sự trợ giúp của doanh nghiệp lớn.
5.4. Chính sách phục hồi và phát triển các làng nghề truyền thống.
- Để bảo tồn và phát triển các làng nghề truyền thống, cần chú ý tới một số giải pháp sau:
- Định hướng phát triển các ngành nghề thể hiện tính độc đáo, bản sắc riêng của vùng, các ngành nghề gắn bó chặt chẽ với các vùng nguyên liệu tại chỗ.
- Định hướng và trợ giúp từng bước đưa công nghệ tiên tiến vào sử dụng xen kẽ với công nghệ truyền thống ở những khâu sản xuất nặng nhọc, hao phí nhiều lao động nhưng không làm ảnh hưởng đến tính độc đáo của sản phẩm.
- Khuyến khích phát triển các hình thức liên kết thích hợp giữa các hộ, các cơ sở sản xuất trong các làng nghề nhằm hỗ trợ nhau trong sản xuất kinh doanh.
- Dành các chính sách ưu đãi về vốn, hỗ trợ đầu tư mặt bằng sản xuất, thuế, tín dụng và các chính sách ưu đãi khác cho phục hồi và phát triển các làng nghề và ngành nghề mới.
Tạo điều kiện để truyền nghề cho các thế hệ trẻ.
Kết luận
Trong thời gian qua, thực hiện chủ trương công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và thực hiện nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh. Trong những năm qua, công nghiệp Thanh Hoá đã có bước phát triển vượt bậc, từng bước đưa nền kinh tế của tỉnh đi lên.
Tuy nhiên trong quá trình phát triển của nền kinh tế tỉnh và của ngành công nghiệp tỉnh vẫn còn nhiều hạn chế, bất cập đòi hỏi tỉnh phải có những giải pháp nhằm tháo gỡ khó khăn để đưa công nghiệp tỉnh nhà tiến chắc, tiến mạnh vào thế kỷ 21.
Trong thời gian thực tập tại Sở Kế hoạch và đầu tư tỉnh em đã được tạo điều kiện nghiên cứu ngành công nghiệp của tỉnh từ đó thấy được những thuận lợi cũng như khó khăn cuả công ngiệp Thanh Hoá. Với những kiến thức đã học được ở trường và những hiểu biết trong thời kỳ thực tập tại cơ quan, em đã xin đề xuất một số giải pháp nhằm phát triển công nghiệp trên địa bàn tỉnh nhà. Hy vọng rằng sẽ thúc đẩy phát triển công nghiệp trên địa bàn, góp phần phát triển kinh tế xã hội tỉnh.
Mục lục
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 29155.doc